LUẬN VĂN:
Cơ sở khoa học để phát triển nông
nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị
sinh thái và hđh nông thôn Hà Nội giai
đoạn 2006-2010
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
“Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm
lớn về văn hoá, khoa học, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước". Với vị trí quan
trọng như vậy, Hà Nội có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có nhiều thách thức trong phát
triển kinh tế, văn hoá xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng. Một trong những nhiệm vụ luôn
được Đảng và Nhà nước quan tâm đó là “Phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành
theo hướng nông nghiệp đô thị - sinh thái, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp - nông thôn; ưu tiên phát triển nông nghiệp sạch, các nghề, làng nghề truyền
thống, làng nông nghiệp du lịch sinh thái”. Trong giai đoạn 2001 - 2005, nhiệm vụ này
đã được quán triệt trong Đại hội lần thứ 13 của Đảng bộ thành phố, và đã được cụ thể
hoá trong chương trình 12 của Thành uỷ Hà Nội. Nhiều nội dung của nhiệm vụ đã đi
vào cuộc sống. Dù sao đây cũng là vấn đề mới cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, vì điểm
xuất phát của nó từ một quốc gia đang phát triển, còn có nhiều khó khăn khi thực hiện
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Vấn đề đặt ra là xác
định mục tiêu, chặng đường, bước đi, các giải pháp, làm thế nào đạt được mục tiêu
trong thời gian ngắn và hiệu quả cao. Để phục vụ cho chủ trương phát triển nông nghiệp
đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006 - 2010, việc nghiên
cứu đề tài “Cơ sở khoa học để phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại
hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006-2010” có ý nghĩa thực tiễn. Trên cơ sở đó, giúp
cho các cơ quan hoạch định đường lối, chính sách làm luận cứ xây dựng chiến lược,
mục tiêu, phương hướng phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông
thôn Hà Nội.
2. Mục tiêu
2.1. Đánh giá thực trạng và quá trình đổi mới nông nghiệp nông thôn Hà Nội 20
năm qua. Đặc biệt là từ năm 2001 - 2005 một cách khách quan toàn diện và khoa học, từ
đó xác định những mặt được, chưa được, làm rõ nguyên nhân và rút ra những bài học
kinh nghiệm.
2.2. Đề xuất được những định hướng, giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn
Hà Nội theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn giai đoạn
2006 - 2010.
3. Nội dung chủ yếu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được chia làm 3 phần.
Phần I: Cơ sở lý luận của phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá
nông thôn
Phần II: Đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại
hoá nông thôn giai đoạn 1986-2005.
Phần III. Phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và
hiện đại hoá nông thôn giai đoạn 2006-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để quán triệt sự logic hóa
từ lý luận đến thực tiễn và dự báo sự phát triển trong tương lai.
- Phương pháp kế thừa: toàn bộ nghiên cứu, số liệu thông tin, tư liệu, các bài
viết chuyên đề về các lĩnh vực có liên quan đến đề tài đều được kế thừa trong quá trình
nghiên cứu của các chuyên đề và đề tài một cách có khoa học.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo để thu nhập thêm các thông tin cần
thiết từ các ngành, các cơ quan chức năng và người sản xuất.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu nhằm
đánh giá một cách khoa học vấn đề thực tiễn phát triển kinh tế xã hội và xây dựng hệ
thống chỉ tiêu, tiêu chí cần thiết.
- Phương pháp dự tính, dự báo phát triển kinh tế xã hội nhằm giúp cho đề tài dự
báo các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội nông nghiệp – nông thôn Hà Nội trong giai
đoạn 2006-2010 và các giải pháp thực hiện.
5. Những đóng góp của đề tài.
5.1. Hoàn thiện cơ sở khoa học của phát triển nông nghiệp đô thị - sinh thái và
hiện đại hoá nông thôn.
5.2. Đánh giá được hiện trạng, rút ra được ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân
của phát triển nông nghiệp đô thị - sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn
1986 - 2005
5.3. Xây dựng được phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp đô thị -
sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006 - 2010 có luận cứ khoa học.
Phần thứ nhất
Cơ sở lý luận của nông nghiệp đô thị sinh thái
và hiện đại hoá nông thôn
1.1. Nông nghiệp đô thị sinh thái
1.1.1. Khái niệm nông nghiệp sinh thái
- Sản xuất nông nghiệp vốn đã mang trong nó bản chất sinh thái, sản xuất nông
nghiệp muốn phát triển có hiệu quả và ổn định đương nhiên phải phù hợp với điều kiện
đất đai, khí hậu, thời tiết, thuỷ văn, môi trường và quần thể sinh vật tạo nên hệ sinh thái
nông nghiệp. Chính sự phù hợp đó làm cho cây trồng vật nuôi phát huy mọi ưu thế và
tác động lẫn nhau để tồn tại và phát triển, đó là một nền nông nghiệp sinh thái. Nhiều
học giả cũng cho rằng nông nghiệp sinh thái cũng chính là nông nghiệp bền vững, một
nền nông nghiệp sinh thái, hay bền vững đều mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã
hội. Nhưng ngược lại, một nền sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao,
chưa chắc đã là một nền nông nghiệp sinh thái và bền vững nếu như nó không có tác
động đến bảo vệ môi trường sinh thái.
“Nông nghiệp đô thị: nông nghiệp đô thị là một ngành công nghiệp mà sản xuất,
chế biến và buôn bán thực phẩm và chất đốt thực hiện trên các vùng đất và mặt nước
xen kẽ, rải rác trong các đô thị và vùng ngoại ô” (UNDP). Nông nghiệp đô thị nói một
cách đơn giản bao gồm toàn bộ hoạt động sản xuất nông nghiệp từ sản xuất nguyên liệu,
chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nằm xen kẽ trong đô thị và các vùng ven đô.
Khái niệm này có thể gói gọn trong phạm vi lãnh thổ và phi lãnh thổ của một đô thị.
Sản xuất nông nghiệp (theo nghĩa rộng bao gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ
sản) diễn ra trong các quận gọi là nông nghiệp nội đô, diễn ra ở ngoại thành thì gọi là
nông nghiệp ngoại đô. Điều này dẫn đến đặc điểm sự khác biệt giữa nông nghiệp nội đô,
nông nghiệp giáp ranh, nông nghiệp ngoại đô hay ngoại thành.
Nông nghiệp đô thị sẽ được phân chia theo các vành đai khác nhau do tính chất
và đặc thù của nó. Có thể phân chia theo các khu vực dưới đây:
- Nông nghiệp nội đô
- Nông nghiệp vùng vành đai nhạy cảm
- Nông nghiệp ngoại đô (ngoại thành)
Do đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội và môi trường của mỗi vùng khác nhau,
cho nên sản xuất nông nghiệp ở mỗi vùng cũng khác nhau, chính điều đó hình thành
tính đa dạng của nông nghiệp đô thị. Kế thừa các công trình nghiên cứu của các học giả
có thể nêu khái niệm nông nghiệp đô thị sinh thái.
Khái niệm nông nghiệp đô thị sinh thái: nông nghiệp đô thị sinh thái là một
quá trình sản xuất được bố trí phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng đô thị
nhằm khai thác triệt để các tiềm năng với công nghệ sản xuất sạch tạo ra sản phẩm
chất lượng cao, an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng môi trường, cảnh quan
tạo ra hệ sinh thái bền vững.
Khái niệm này chỉ ra các nội dung chủ yếu:
- Sản xuất nông nghiệp được bố trí và sản xuất phù hợp với điều kiện của mỗi
vùng, tạo ra sự tác động hữu cơ, đảm bảo cân bằng sinh thái, đạt hiệu quả sản xuất cao.
- Quá trình sản xuất nông nghiệp trên diễn ra ở vùng xen kẽ, hay tập trung các
vùng đô thị bao gồm nội đô, giáp ranh và ngoại ô.
- Sản xuất nông nghiệp trên tạo ra mối quan hệ hữu cơ trong ngành và đảm bảo
sự cân bằng sinh thái, tính hiệu quả và bền vững. Đồng thời tác động tích cực đến cải
tạo môi trường sinh thái của vùng đô thị.
- Sản xuất nông nghiệp tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo an toàn tthực
phẩm, giữ gìn sức khoẻ và nhu cầu cho người tiêu dùng.
1.1.2. Những đặc điểm của nông nghiệp đô thị sinh thái
Phát triển nông nghiệp ven đô với mục đích đầu tiên đó là phát triển nông thôn
ven đô chứ không phải là để thoả mãn nhu cầu của đô thị. Bởi thế, cần phải hiểu đặc
trưng của nông thôn ven đô, trước khi hiểu nông nghiệp đô thị sinh thái. Nông thôn ven
đô thường có các đặc điểm sau:
1.1.2.1- Có sự gia tăng mạnh về dân số, đặc biệt là sự gia tăng cơ học. Dân số
ven đô luôn được bổ xung bởi sự di cư từ nội thành ra và từ các nơi khác đến. Kết quả là
tồn tại một xã hội nông thôn ven đô đa dạng cả về dân số và nghề nghiệp… Rất nhiều
người sống ở nông thôn ven đô bị tách biệt giữa nơi ở và nơi làm việc, các hoạt động
phi nông nghiệp cạnh tranh về lao động khá lớn với nông nghiệp và nó thu hút đặc biệt
là lực lượng lao động trẻ. Cơ sở hạ tầng nông thôn khá tốt, nhưng đôi khi không gian
nông thôn bị chia cắt, gây khó khăn cho sinh hoạt và lao động của người dân.
1.1.2.2- Tình trạng sản xuất nông nghiệp không ổn định do ngày càng có sự mở
rộng các vành đai đô thị ra bên ngoài. Tốc độ đô thị hoá, khả năng quy hoạch đô thị,
chính sách và khả năng kiểm soát sự phát triển đô thị ảnh hưởng mạnh đến tính ổn định
của nông nghiệp ven đô. Đất đai nông nghiệp có xu thế giảm mạnh. Nông nghiệp ảnh
hưởng nhiều của sự ô nhiễm đô thị. Các thành phố càng phát triển càng tồn tại nhiều các
hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ, do đất đai ngày một đắt và bị mất đất vì đô thị hoá.
1.1.2.3- Nông nghiệp ven đô có nhiều lợi thế về thị trường. Tận dụng lợi thế gần
thành phố, nông nghiệp ven đô thường phát triển sản xuất các sản phẩm tươi sống, rau,
sữa, quả… tạo ra nền nông nghiệp khác biệt với đặc điểm thông thường của nó. Đó là
nông nghiệp không (hoặc ít) mang tính mùa vụ. Tuy nhiên, sản phẩm đặc sản của một
số vùng nhỏ ven đô vẫn có thể tồn tại và phát triển nhờ thị trường tiêu thụ luôn mở rộng.
Các sản phẩm đặc biệt khác như hoa, cây cảnh cũng có cơ hội phát triển.
1.1.2.4- Nông nghiệp sinh thái làm cho năng suất thấp hơn: Ngô 10%, đậu 5%…,
so với nông nghiệp thường. Trong điều kiện thuận lợi nông nghiệp sinh thái cho năng
suất thấp hơn nông nghiệp thường; Nhưng trong điều kiện không thuận lợi nông nghiệp
sinh thái cho năng suất cao hơn. Khoảng sau 3-4 năm luân canh, nông nghiệp sinh thái
có năng suất tăng lên rõ rệt.
1.1.2.5- Nông nghiệp sinh thái dùng ít năng lượng hơn nông nghiệp nhưng vì
năng suất của nông nghiệp sinh thái thấp hơn nên thu nhập thuần giữa hai phương thức
gần như nhau.
1.1.2.6- Nhu cầu lao động trong nông nghiệp sinh thái có phần cao hơn so với
nông nghiệp thường. Nông nghiệp sinh thái đi đôi với việc giữ gìn đa dạng sinh học.ở
các cửa hàng ta thấy có các loài và giống cây trồng hiện nay đã biến mất trên thị trường
như các loại ngũ cốc: Kê, ý dĩ; các loại củ như: Từ, môn, củ mài và các loại rau, quả tự
nhiên, các loại thịt lợn rừng, gà rừng v.v…
Bởi vậy do yêu cầu của thị trường về chất lượng sản phẩm nông nghiệp sinh học,
nông nghiệp sinh thái và nông nghiệp công nghệ cao có nhiều cơ hội phát triển.
1.1.3 Nông nghiệp sinh học, hữu cơ, sinh thái
1.1.3.1 Khái niệm: ở các nước nói tiếng pháp thường gọi là nông nghiệp sinh học,
ở các nước nói tiếng Anh thường được gọi là nông nghiệp hữu cơ và ở các nước Bắc Âu
thường được gọi là nông nghiệp sinh thái.
Nông nghiệp sinh học là một nền nông nghiệp dựa trên các nguyên tắc sau: Tôn
trọng tuyệt đối các quan hệ và cân bằng tự nhiên giữa đất (môi trường), thực vật (cây
trồng) và động vật (chăn nuôi). Cấm sử dụng các hóa chất tổng hợp. Tôn trọng sinh
trưởng và phát triển tự nhiên của động vật. Nông nghiệp sinh học là hình thức nông
nghiệp sinh thái có quy định nhất, có các tiêu chuẩn xác định một cách pháp lý về sản
xuất, chế biến, nhãn hiệu. Trong hệ thống nông nghiệp sinh học, các yếu tố sản xuất
sinh vật lý quan hệ với các yếu tố kinh tế xã hội và thể chế. Nông nghiệp sinh học là
một chuỗi từ nông trại đến bàn ăn. Các thông số sản xuất và sau sản xuất bao gồm: Đất
và nước trong hệ thống cây trồng và vật nuôi bao gồm sử dụng đất, làm đất, đồng cỏ,
nông lâm kết hợp, sử dụng nước.
Quản lý độ màu mỡ của đất bao gồm sinh lý, sinh thái, quay vòng dinh dưỡng,
luân canh, trồng xen, tạo ra và sử dụng lại chất hữu cơ. Sản xuất trồng trọt bao gồm
chọn giống, nhân giống, phòng trừ sâu bệnh và cỏ dại. Chăn nuôi bao gồm chiến lược
nuôi dưỡng, thú y, bảo quản. Nguồn lợi nông trại bao gồm nguồn năng lượng tái tạo
được, lao động và cơ khí. Hệ thống sau thu hoạch bao gồm cất giữ, chế biến, vận
chuyển để giảm mất mát và giữ chất lượng.
Các cơ sở kinh tế xã hội và thể chế bao gồm: Các khung điều tiết và chính sách
hỗ trợ và công cụ trả cho người sản xuất, các cơ sở tiếp thị, phát triển vùng, cung cấp
thông tin và khung pháp lý. Tiêu chuẩn và định mức chỉ đạo việc kiểm tra, cấp chứng
chỉ, nhãn hiệu và bảo đảm tín nhiệm. Chương trình nghiên cứu, bảo đảm liên hệ với các
cơ quan nghiên cứu, thúc đẩy việc tham gia của người sản xuất vào nghiên cứu tại chỗ.
Phát triển cộng đồng tổ chức nông dân với các cơ chế tự điều tiết và mạng lưới quốc
gia. Cơ cấu thị trường bao gồm đầu ra, cơ hội, lợi thế so sánh, giá cả, nhu cầu, tổ chức,
hợp tác xã và hiệp hội, các tổ chức sản xuất - tiêu dùng, mạng lưới buôn bán. Hướng
dẫn thị hiếu tiêu dùng liên quan đến quá trình sản xuất và chất lượng sản phẩm.
Khả năng chi tiêu của người tiêu dùng để hỗ trợ sản xuất sinh học. Việc chuyển
đổi sang nông nghiệp sinh học đòi hỏi thay đổi thành phần của đầu vào. Để thay thế chi
phí về phân hóa học và thuốc trừ sâu bệnh cần các chi phí về các đầu vào khác như chất
hữu cơ, làm đất, máy móc … Việc thay đổi luân canh làm giảm năng suất, sản lượng và
thu nhập, ảnh hưởng an ninh thực phẩm và môi trường tự nhiên.
Các thay đổi ấy ảnh hưởng đến các thay đổi về xã hội trong cộng đồng. Các
nguyên tắc mà các nông gia sinh học cần nhớ: Độ màu mỡ của đất do chất hữu cơ và
chất dinh dưỡng phân hữu cơ cung cấp. Chăn nuôi phải gắn liền với trồng trọt, với luân
canh, với thức ăn sản xuất trong nông trại. Phải chuyển đổi tất cả đất hoang hóa thành
nơi sản xuất thức ăn để chăn nuôi. Phải bảo vệ đa dạng sinh học bằng cách chọn các loài
và giống cây trồng và vật nuôi địa phương để trồng, nuôi và tìm đầu ra cho chúng
(VS.GS Đào Thế Tuấn).
1.1.3.2 Việc phổ biến nông nghiệp sinh học trong sản xuất
Hiện nay diện tích nông nghiệp sinh học trong sản xuất nông nghiệp còn rất ít. ở
các nước cộng đồng châu Âu chỉ chiếm có 2%, ở Hoa Kỳ là 0,1%, Canada là 1,34%. ở
một số nước đang phát triển như Trung Quốc, Ai Cập, ấn Độ, … cũng có phát triển.
Năm 1991 và 1992 cộng đồng châu Âu có chính sách hỗ trợ nông nghiệp sinh học. Từ
năm 1991 nông nghiệp sinh học theo quy trình sản xuất trồng trọt của Cộng đồng châu
Âu số 209/91. Về chăn nuôi chưa có quy trình châu Âu nhưng có 11 quy trình quốc gia.
Trong 13 năm diện tích nông nghiệp sinh học ở cộng đồng châu Âu tăng 30 lần, từ
100.000 ha năm 1985 lên 2,8 triệu ha năm 1998.Trong 10 năm gần đây tốc độ tăng là
25% năm. Nếu cứ tiếp tục theo tốc độ 15-25% năm thì đến 2005 đạt 5-10%, năm 2020
đạt 10-30%.
Năm 1998 thị trường nông nghiệp sinh học ở Mỹ đạt 4 tỷ USD, tăng 20% hàng
năm, ở Cộng đồng châu Âu đạt 5-7 tỷ Euro. Có 113.000 doanh nghiệp và 2,8 triệu ha
hay 2,1% diện tích nông nghiệp. ở Trung và Đông Âu trong các năm 90 cũng tăng
nhanh, năm 2000 đã đạt 192.000 ha. Những cản trở của việc áp dụng nông nghiệp sinh
học là: Năng suất lao động thấp hơn, nông nghiệp thường 22-25%, mà ở các nước tiên
tiến thường dùng vốn thay lao động. Thiếu phân hữu cơ, các nông trại ngày càng có xu
hướng độc canh nên không phát triển chăn nuôi. Khó khăn trong việc phòng trừ cỏ dại,
làm cỏ bằng tay tốn công. Thị trường của nông nghiệp hữu cơ nhỏ, việc trả tiền lương
chậm, thiếu tín dụng …
Để khắc phục các khó khăn các Chính phủ thường có chính sách hỗ trợ việc
chuyển đổi từ nông nghiệp sang nông nghiệp sinh học.
1.1.3.3 Việc kiểm tra và buôn bán sản phẩm nông nghiệp sinh học
Các sản phẩm nông nghiệp sinh học có bán ở cửa hàng đặc biệt hay siêu thị
thường mang nhãn hiệu có ghi nhãn AB (nông nghiệp sinh học). Có nhiều tổ chức kiểm
tra độc lập với người sản xuất được Bộ nông nghiệp uỷ quyền. Các tổ chức này thường
xuyên đến kiểm tra các nông trại và phân tích sản phẩm trong phòng thí nghiệm. Đồng
thời các tổ chức này dán nhãn hiệu của mình trên hàng hóa.
Trên thị trường rau quả nông nghiệp sinh học xuất hiện sớm nhất. Sau đấy đến
thịt, hạt cốc, sản phẩm chế biến. Hiện nay đã có hơn 20 quy trình kỹ thuật quy định việc
sản xuất thịt, sữa, phomát, trứng, giò chả, bún bánh, bánh ngọt, rượu vang, cà phê, chè,
chứa các thức ăn chế biến. Hiện nay cũng đã có hạt giống và cây con để trồng cho nông
nghiệp sinh học.
Giá của các sản phẩm sinh học thường đắt hơn sản phẩm thường 20-50%, tuỳ loại
sản phẩm. Thường sữa, khoai tây, hạt cốc, gạo ít khi đắt hơn 20%, thịt 20-40%, quả
50% vì phải bảo quản.
1.1.4. Chỉ tiêu đánh giá
- Tổng giá trị sản xuất/1ha đất nông nghiệp.
- Tổng giá trị sản xuất/1ha đất canh tác.
- Tốc độ tăng của giá trị sản xuất, thu nhập/1ha canh tác, người lao động
- Chất lượng sản phẩm, độ an toàn thực phẩm đối với con người.
- Chỉ tiêu chất lượng môi trường nước đất, không khí vùng sản xuất.
1.2. Hiện đại hoá nông thôn
1.2.1. Khái niệm
Hiện đại hoá nông thôn là quá trình ứng dụng và đổi mới các công nghệ hiện
đại và phương pháp tiên tiến vào các ngành sản xuất, cơ sở hạ tầng và văn hóa xã
hội, nhằm tạo ra năng xuất lao động và xây dựng xã hội văn minh. Các ngành kinh
tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ ở nông thôn được thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trong sản xuất, tạo ra sản phẩm chất lượng cao, năng suất cao. Đặc biệt
trong nông nghiệp từ sản xuất nguyên liệu đến bảo quản chế biến đều tiến hành công
nghiệp để tạo ra sản phẩm sạch, an toàn thực phẩm chất lượng cao là mục tiêu phấn đấu
ở vùng nông thôn. Từ sản xuất phát triển, đi đôi với nó là cơ sở hạ tầng như hệ thống
giao thông, điện, cấp nước, thông tin cũng được hiện đai từng bước để đáp ứng yêu cầu
sản xuất và đời sống.
Khi sản xuất đã được công nghiệp, các vấn đề xã hội cũng nhất thiết phải phát
triển, có như vậy tạo nên sự cân bằng phát triển, đặc biệt là trí tuệ, trình độ, tác phong
làm việc, đầu óc tổ chức để đáp ứng được yêu cầu của quá trình hiện đại hoá. Điều đặc
biệt quan tâm là ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và đời
sống của con người.
Như vậy, công nghiệp hoá là cầu nối đưa một đất nước, hay một vùng kinh tế,
nông thôn v.v… đến hiện đại hoá cho nên hai phạm trù này khó tách khỏi nhau công
nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiểu theo bản chất của nó, là quá trình chuyển
đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sức phát
triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Theo cách hiểu này, chúng ta thấy rõ mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hóa là
nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, giữ nhịp độ tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn là một nội dung quan trọng không
thể bỏ qua trong quá trình công nghiệp hoá đối với tất cả các nước. Nếu chỉ phát triển
công nghiệp ở đô thị mà không công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, thì chính
công nghiệp hóa đô thị cũng gặp khó khăn vì thiếu nông sản hàng hóa và thiếu lao động;
nông nghiệp và nông thôn chưa công nghiệp hóa thì sẽ không đủ năng lực đáp ứng các
nhu cầu trên của đô thị vì sản lượng hàng hóa ít và năng suất lao động thấp.
Nhưng nội dung và bước đi của công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn ở các
nước và các khu vực trên thế giới không giống nhau.
ở các nước Âu, Mỹ, trong quá trình công nghiệp hóa, mô hình phổ biến là ưu tiên
phát triển công nghiệp đô thị đi trước. Khi công nghiệp đô thị đủ mạnh mới thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn và đến nay trở thành những
nước công, nông nghiệp phát triển phương Tây.
Một số nước đang phát triển ở Châu Phi và Châu á, vừa qua đã rập khuôn mô
hình của các nước Âu, Mỹ nhưng không thành công.
Những nước và lãnh thổ ở khu vực Đông Bắc á bắt đầu là Nhật Bản rồi đến Đài
Loan, Hàn Quốc, đi lên công nghiệp hóa bằng con đường khác: Phát triển mạnh công
nghiệp đô thị đi đôi với công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn với phạm vi và mức
độ thích hợp, ở từng vùng trong thời kỳ công nghiệp hóa và đã đạt được những thành
tựu đáng khích lệ.
Xuất phát từ những điều kiện thực tế của nước ta và vận dụng có chọn lọc kinh
nghiệm của nước ngoài, Đảng ta có chủ trương trong thời kỳ đầu đi lên công nghiệp
hóa: “đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn”, nghĩa là đồng thời
vừa công nghiệp hóa đô thị vừa công nghiệp hóa nông thôn.
Cơ sở khoa học và thực tiễn của chủ trương này là ở chỗ nước ta đi lên công
nghiệp hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp với trình độ sản xuất thấp kém, sản xuất tự
cấp tự túc, khối lượng và tỷ suất nông sản hàng hóa ít, không đủ khả năng đáp ứng nhu
cầu bức thiết của công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn.
Mặt khác, nông nghiệp và nông thôn nước ta là khu vực kinh tế có tiềm năng lớn
về tài nguyên mà ta có thế mạnh về đất đai và lao động. Công nghiệp hóa tác động vào
đất đai thông qua các giải pháp ứng dụng các thành tựu công nghệ sinh học, hóa học, cơ
điện, sẽ tạo ra năng suất cao về cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất,
nước, khí hậu nhiệt đới tạo ra sản lượng cao về nông, lâm, ngư nghiệp. Công nghiệp hóa
tác động vào đội ngũ lao động đông đảo gần 30 triệu người ở nông thôn, chiếm khoản
70% lao động xã hội, thông qua các giải pháp tổ chức quản lý, cơ chế và chính sách
khoa học, công nghệ thích hợp sẽ đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, phát triển sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp, mở mang các ngành nghề, nâng cao năng suất lao động nông
nghiệp. Công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn cuối cùng tạo ra sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn từ thuần nông sang cơ cấu kinh tế nông, công nghiệp và dịch vụ,
góp phần tích cực vào việc phân bổ lại lực lượng lao động nông nghiệp và nông thôn,
giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn, cải
thiện mức sống ở nông thôn và thúc đẩy việc cải tạo và xây dựng nông thôn mới. Công
nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn tạo ra điều kiện tăng trưởng khối lượng và chất
lượng nông – lâm – thuỷ, hải sản xuất khẩu, thu ngoại tệ phục vụ nhu cầu nhập thiết bị
công nghệ cho công nghiệp hóa.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn nước ta có vị
trí hết sức quan trọng vì nó tạo ra tiền đề và cơ sở vững chắc thúc đẩy toàn bộ qúa trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức
lao động dồi dào và nguồn đất đai rộng lớn ở nông thôn.
1.2.2. Nội dung của hiện đại hoá nông thôn
1.2. 2.1 . Hiện đại hoá các ngành kinh tế
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là kết quả của quá trình phát triển từ một nền
sản xuất thủ công trở thành một nền sản xuất với công cụ cơ khí, điện khí, áp dụng các
công nghệ tiên tiến, thể hiện sự hiện đại trong sản xuất và tạo ra năng suất cao, giá
thành hạ, chất lượng tốt. Đây là sự thay đổi từ lượng sang chất, thay đổi cơ bản của lực
lượng sản xuất. Để đạt kết quả đó, loài người trải qua nhiều cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật. Song song phát triển khoa học kỹ thuật, trình độ trí tuệ của con người cũng
phát triển, quan hệ sản xuất cũng thay đổi để phù hợp với sự tiến bộ đó.
Thực chất nội dung của CNH - HĐH là như vậy, ở đây cần làm rõ thêm trong
lĩnh vực nông thôn. Kinh tế nông thôn dù nông thôn đó ở nơi nào thì sự hoạt động kinh
tế cũng thể hiện trên ba lĩnh vực cơ bản công nghiệp - nông nghiệp và dịch vụ. CNH -
HĐH các ngành kinh tế đóng vai trò quyết định sự thành bại của sự phát triển. CNH -
HĐH tạo ra năng suất lao động cao, sản xuất ra nhiều của cải cho xã hội, làm thay đổi
xã hội. Muốn phát triển các ngành kinh tế, công nghiệp phải là ngành có tính quyết
định, từ đó thúc đẩy ngành nông nghiệp và dịch vụ phát triển. Bởi vậy, trong khi đánh
giá mức độ CNH - HĐH thì không nhất thiết các ngành phải giống nhau, do đặc điểm
của từng ngành mà mức độ CNH - HĐH có khác nhau. ở đây đang bàn đến CNH- HĐH
nông thôn cho nên vấn đề công nghiệp hoá trong sản xuất nông nghiệp, đây là một trong
lĩnh vực công nghiệp hoá gặp nhiều khó khăn. Điểm xuất phát là do đặc thù của sản
xuất nông nghiệp, đối tượng là sinh vật, diễn ra trong môi trường lớn, rất khác nhau
v.v… cho nên công nghiệp hoá diễn ra thường chậm chạp hơn các ngành công nghiệp
và dịch vụ.
Phát triển công nghệ cao: Nhờ có phát triển của công nghiệp và các tiến hộ khoa
học, ngày nay trong lĩnh vực nông nghiệp trên thế giới đã tiến hành công nghiệp hoá
trong tất cả các ngành sản xuất nông nghiệp, từ khâu sản xuất nguyên liệu, đến khâu bảo
quản, chế biến và tiêu thụ. Nhiều nước còn ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông
nghiệp. Nhưng điều khẳng định chắn chắn CNH - HĐH nông thôn là quá trình khá dài
và đòi hỏi phải đầu tư lớn.
1.2.2.2 Hiện đại hoá các cơ sở hạ tầng
Các ngành kinh tế muốn phát triển thì cơ sở hạ tầng cũng phải phát triển tương ứng,
thậm chí có cơ sở hạ tầng còn phải đi trước một bước để thúc đẩy các ngành kinh tế
phát triển :
+ Đường giao thông
+ Hệ thống điện
+ Hệ thống bưu chính, viễn thông
+ Hệ thống nước
+ Hệ thống y tế
+ Hệ thống trường học
+ Hệ thống công trình văn hoá, phúc lợi
1.2.2.3 - Hiện đại hoá các vấn đề xã hội
+ Nâng cao trình độ dân trí của người lao động và dân cư
+ Xây dưng và tổ chức nếp sống văn hoá công nghiệp cho cộng đồng
+ Hiện đại cuộc sống văn hoá, xây dựng xã hội văn minh
1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá hiện đại hoá
Trên thế giới không có chỉ tiêu đánh giá cho một quốc gia hiện đại, nông thôn
hiện đại, mà họ có chỉ tiêu phân chia ra các nước công nghiệp (các nước phát triển) , các
nước đang phát triển, trong các nước đang phát triển còn có một số nước chậm phát
triển.
Đây là sự đánh giá thông qua trình độ phát triển kinh tế, trong đó chỉ tiêu quan
trọng là phát triển công nghiệp, dịch vụ, họ còn gọi là các nước công nghiệp. Với logic,
khi kinh tế phát triển thì kéo theo nhiều vấn đề khác phải phát triển và ngược lại kinh tế
phát triển hỗ trợ cho các lĩnh vực khác phát triển.
Cho nên có thể sử dụng tiêu thức: GDP bình quân đầu người; tỷ lệ CN -DV trong
cơ cấu GDP; trình độ phát triển cơ sở hạ tầng.
Các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn
- Mức độ thuỷ lợi hóa.
- Mức độ sử dụng động lực máy móc nông nghiệp.
- Mức độ điện khí hóa.
- Năng suất tổng hợp ruộng đất.
- Năng suất lao động nông thôn.
- Trình độ thương phẩm hóa trong nông thôn.
- Trình độ chuyên môn hóa, xã hội hóa sản xuất.
- Tỷ trọng giá trị gia tăng nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trong GDP thuộc
phạm vi nông thôn.
- Trình độ văn hóa của nông dân.
- Trình độ đô thị hóa.
- Trình độ thu nhập thuần bình quân của 1 người lao động nông thôn.
- Mức độ nâng cao về đời sống văn hóa - xã hội ở nông thôn.
1.2.4 Một số vấn đề về công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông thôn nước ta
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện tất cả
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý, theo hướng chuyển từ lao động
thủ công là chính sang lao động có văn hóa, có kỹ năng, sử dụng các phương tiện hiện
đại và phương pháp lao động tiên tiến nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đứng trước thời cơ, vận hội lớn cho sự phát
triển mạnh mẽ, đồng thời cũng đứng trước những thách thức, nguy cơ không thể xem
thường. Để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, Đảng ta đã chỉ ra nhiệm vụ trung tâm từ
nay đến năm 2020 là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mà nhiệm vụ trung tâm
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn bao gồm những nội
dung chủ yếu sau:
- Điện khí hóa nông thôn.
- Phát triển giao thông nông thôn.
- Thuỷ lợi hóa nông nghiệp.
- Cơ khí hóa, đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông sản.
- Tiến hành cuộc cách mạng sinh học thay đổi giống cây, con có năng suất, chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và thế giới.
- Phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế nông thôn.
Để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, Nghị quyết Trung ương bốn đã nêu ra hệ thống giải pháp lớn, cụ thể:
1.2.4.1. Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lại
lao động ở nông thôn
Nông thôn nước ta đất chật, người đông, ruộng đất vốn đã ít lại đang bị giảm
nhanh (do xây dựng phát triển công nghiệp, kết cấu hạ tầng, đô thị hóa …), đến nay đất canh tác bình quân một nhân khẩu nông nghiệp chỉ còn hơn 800m2, riêng miền Bắc chỉ còn hơn 500m2, thấp hơn nhiều mức “xiềng 3 sào” của những năm 60. Hơn nữa, do hầu
hết lao động làm nông nghiệp tập trung chủ yếu vào trồng trọt, trồng cây lương thực,
nên lao động nông thôn còn dư thừa lớn (theo điều tra năm 1996, tỷ lệ thiếu việc làm ở
nông thôn là 27,6% tương ứng 2,2 tỷ ngày công chưa được sử dụng. ở một số tỉnh tỷ lệ
thiếu việc làm ở nông thôn tới 30%-32% lực lượng lao động). Trong những năm tới cần
chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, vừa nâng cao giá trị trên một
đơn vị diện tích đất canh tác, tăng nhanh tỷ trọng các sản phẩm ngoài lương thực (rau
màu, cây công nghiệp, chăn nuôi ... Nếu trồng lúa năng suất 10 tấn trên 1 ha một năm
thì giá trị thu được trên 1 ha một năm chỉ đạt 15 - 20 triệu đồng. Nhờ thay đổi cơ cấu
cây trồng , áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, nhiều địa phương đã tạo ra 40
- 50 triệu đồng trên 1 ha một năm), vừa phát triển tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ trong khu vực nông thôn, để đến năm 2000 sử dụng được trên 75% thời gian lao
động ở nông thôn. Để thực hiện được điều đó cần phải:
1.2.4.2 Thực hiện tốt các chủ trương về phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo
đường lối của Đại hội Đảng đã vạch ra
- Trong nông nghiệp, tiếp tục thực hiện các chương trình thuỷ lợi hóa, cơ giới
hóa, điện khí hóa, ứng dụng công nghệ sinh học. Đẩy nhanh việc thực hiện chương trình
thoát lũ và ngọt hóa ở đồng bằng sông Cửu Long, củng cố hệ thống đê điều cả nước.
Hướng phát triển nông nghiệp là đầu tư thâm canh, tăng vụ là chính, mở thêm diện tích
ở nơi còn có điều kiện như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, vùng Tây
Nguyên. Xác định diện tích trồng lúa bảo đảm an toàn lương thực quốc gia. Việc
chuyển đất lúa ở những nơi sản xuất lúa bấp bênh, hiệu quả thấp sang trồng cây khác,
chuyển sang sử dụng cho các mục đích phi nông nghiệp phải có quy hoạch và được xét
duyệt chặt chẽ.
Quy hoạch và phát triển các vùng chuyên canh, phát huy ưu thế của từng vùng
(vùng trọng điểm lúa đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, vùng cây công
nghiệp Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, vùng cây ăn quả …). Đẩy mạnh việc áp dụng công
nghệ sinh học, ưu tiên phát triển các cây trồng, vật nuôi có quy mô xuất khẩu lớn và thị
trường ổn định, những sản phẩm quý hiếm, đặc sản của nông nghiệp Việt Nam. Trước
mắt, tập trung sức phát triển các vùng chuyên canh lúa xuất khẩu (sản xuất những loại
gạo có giá trị xuất khẩu cao), ngô, cao su, cà phê, chè, hạt điều, mía đường, cây ăn quả,
rau đậu, chăn nuôi bò, lợn và các cây con đặc sản khác.
Hết sức chú trọng phát triển các cơ sở vật chất, công nghệ bảo quản sản phẩm
sau thu hoạch (nhà kho, phương tiện vận tải, công nghệ phơi sấy, bảo quản …) và công
nghiệp chế biến để giảm tỷ lệ hao hụt, bảo đảm chất lượng sản phẩm, tăng giá trị sản
phẩm xuất khẩu, điều hoà lưu thông, bảo vệ cho cả lợi ích của nông dân và lợi ích của
Nhà nước, lợi ích của người sản xuất và tiêu dùng.
- Trong lâm nghiệp, quản lý và sử dụng có hiệu quả tiềm năng to lớn của rừng
và đất rừng có ý nghĩa to lớn về kinh tế, xã hội, sinh thái, an ninh, quốc phòng của đất
nước, đời sống của hàng chục triệu đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi, ven biển
và hải đảo. Trước tình hình đốt rừng làm nương rẫy, chặt phá, khai thác rừng bừa bãi
hiện nay đã và đang làm suy kiệt tài nguyên rừng, suy thoái môi trường, vì lợi ích trước
mắt và lâu dài của đất nước cũng như với tư cách một quốc gia đã tham gia Hội nghị về
bảo vệ môi trường thế giới, cần phải có những biện pháp kiên quyết ngăn chặn tình
trạng này.
Trước hết, phải bảo vệ cho được diện tích rừng hiện có, đặc biệt bảo vệ nghiêm
ngặt rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, khoanh nuôi rừng tái sinh, quản lý chặt chẽ việc
khai thác vốn rừng kinh tế. Xây dựng quy hoạch cụ thể và tích cực triển khai thực hiện
dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đã được Quốc hội thông qua. Bảo đảm phủ xanh 40%
diện tích cả nước.
Để ngăn chặn tình trạng du canh du cư, đốt phá rừng bừa bãi, chuyển đồng bào
miền núi sang định canh, định cư, ổn định cuộc sống, cần phải thực hiện nhất quán và
tích cực chủ trương giao đất, giao rừng cho hộ gia đình làm chủ, bảo đảm lợi ích của hộ
nhận đất, nhận rừng, giúp đỡ cho các hộ có điều kiện sinh sống để trồng rừng, chăm sóc,
bảo vệ rừng, để đồng bào sống được bằng nghề rừng ngay cả khi có chủ trương đóng
cửa rừng. Cần xem xét cụ thể điều kiện sinh sống trước mắt và lâu dài của nhân dân
từng xã, từng huyện miền núi để có biện pháp phát triển kinh tế - xã hội tại chỗ, hoặc
chính sách tạo việc làm, đảm bảo đời sống cho những hộ cần chuyển cư. Hạn chế thấp
nhất tình trạng di dân tự do, cần phối hợp giữa các tỉnh, các huyện có dân đi và dân đến
để tổ chức việc di dân có tổ chức, có kế hoạch, có hiệu quả.
- Trong ngư nghiệp và phát triển kinh tế biển: Nước ta là quốc gia có biển; phát
triển kinh tế biển, đánh bắt và nuôi trồng hải sản là thế mạnh của nền kinh tế nước ta.
Trong những năm qua, ngành thuỷ sản đã tạo ra lượng hàng xuất khẩu có giá trị lớn
(năm 1996: 651 triệu USD; năm 1997:750 triệu USD, năm 2004 kế hoạch xuất khẩu 2
tỷ USD ).
Tiềm năng đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản còn rất lớn. Trước mắt phải khôi
phục lại đội tàu thuyền đánh bắt và diện tích nuôi trồng thuỷ sản bị thiệt hại lớn do cơn
bão số 5 gây ra. Đầu tư cho các vùng không bị thiên tai phát triển để bù lại và nâng cao
sản lượng bảo vệ nguồn lợi hải sản và khôi phục môi trường sinh thái biển vùng gần bờ,
cần hạn chế việc đánh bắt cá ven bờ, chuyển mạnh sang đánh bắt xa bờ, nuôi trồng thuỷ
sản với mức thâm canh cao, công nghệ nuôi trồng bền vững. Tích cực triển khai thực
hiện chương trình của Chính phủ về vay vốn (cả cho các doanh nghiệp và các hộ gia
đình) đóng tàu thuyền đánh bắt xa bờ. áp dụng công nghệ mới vào nuôi trồng thuỷ sản
với mức độ thâm canh cao, bảo vệ môi trường. Tổ chức lại công nghiệp chế biến và
dịch vụ trên bờ phục vụ các đội tàu đánh bắt xa bờ bám biển dài ngày và bảo đảm chất
lượng, nâng cao giá trị sản phẩm. Cải tạo và nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở nghề cá,
các cảng cá, hệ thống kho bãi, giao thông vận tải, các cơ sở sửa chữa tàu biển … Tạo
điều kiện và khuyến khích mọi thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các hộ và nhóm
hộ ngư dân tự đầu tư, mua sắm tàu thuyền đánh bắt, chế biến hải sản, làm dịch vụ và
tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài phát triển đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, biển còn rất nhiều tiềm năng
chưa được khai thác. Cần xây dựng quy hoạch, chiến lược khai thác tổng hợp tiềm năng
của biển, phát triển kinh tế biển. Tăng đầu tư từ nhiều nguồn (trong và ngoài nước) cho
nghiên cứu khoa học biển, nghiên cứu khí tượng thuỷ văn, đẩy mạnh tìm kiếm thăm dò
dầu khí, khoáng sản biển, nghiên cứu các nguồn năng lượng biển, nghiên cứu và bảo vệ
môi trường.
1.2.4.3 Thực hiện chính sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển nông nghiệp
hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm và thu nhập cao cho
nông dân nghèo.
Ruộng đất là tư liệu sản xuất hàng đầu của nông nghiệp. Chính sách ruộng đất
đúng đắn, phù hợp sẽ là một động lực mạnh mẽ cho nông nghiệp phát triển. Chính sách
giao đất, giao rừng cho hộ quản lý và sử dụng lâu dài từ sau Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị (5-4-1988) đã là một trong những yếu tố cơ bản tạo ra sự phát triển của nông
nghiệp những năm đổi mới vừa qua.
Nhưng đến nay việc giao đất cho nông dân quản lý, sử dụng, chưa hoàn thành,
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho nông dân làm còn chậm, cần phải đẩy
mạnh và sớm hoàn thành. Tình trạng phân chia ruộng đất quá manh mún ảnh hưởng tới
áp dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất. Có khoảng 10 triệu hộ nông dân
nhận 100 triệu mảnh đất, trung bình mỗi hộ tới 10 mảnh (diện tích trung bình một hộ là
800m2, ở đồng bằng Bắc bộ là 500m2, tức là mỗi mảnh chỉ khoảng 50-80m2). Bởi vậy
cần khuyến khích và giúp đỡ các hộ nông dân đổi đất cho nhau để liền thửa, liền
khoảnh, tạo điều kiện cho thâm canh và nâng cao năng suất lao động. Hiện nay việc này
đang được các hộ nông dân ở một số tỉnh thành thực hiện tích cực.
Trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay đang diễn ra hiện tượng sang nhượng
ruộng đất, tích tụ, tập trung ruộng đất. Những người sang nhượng, chuyển quyền sử
dụng đất cho người khác có nhiều loại, có nhiều lý do: Người chuyển sang làm việc
khác, nghề khác, người thiếu vốn, thiếu lao động, ốm đau bệnh tật hoặc rủi ro tai hoạ,
người không có kinh nghiệm sản xuất … Điều này một mặt dẫn đến tích tụ và tập trung
ruộng đất, hình thành nên những hộ sản xuất hàng hóa lớn và tạo điều kiện thúc đẩy sự
phân công lao động xã hội trong nông nghiệp, nông thôn. Nhưng mặt khác lại đưa tới
hàng vạn hộ nông dân (hiện nay tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long)
không còn ruộng đất phải trở thành người làm thuê, làm mướn, phân hóa giàu nghèo ở
nông thôn ngày càng mở rộng.Xử lý vấn đề này có ý kiến cho rằng việc tích tụ và tập
trung ruộng đất là tất yếu phải diễn ra trong quá trình phát triển nông nghiệp và là xu
hướng tiến bộ. Để tích tụ và tập trung ruộng đất thì nhất định có một bộ phận nông dân
không có ruộng đất, nhưng đó là điều kiện để phân công lại lao động nông nghiệp, để
chuyển một bộ phận nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đó là điều bình
thường.Cần phải có sự tích tụ và tập trung ruộng đất trong quá trình phát triển của nông
nghiệp. Nhưng vấn đề là tích tụ đến mức nào, như thế nào? Tất nhiên là phải phân công
lại lao động nông nghiệp, rút bớt lực lượng lao động khỏi nông nghiệp cùng với quá
trình phát triển kinh tế đất nước. Nhưng điều đó lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của
công nghiệp và dịch vụ, vào khả năng thu hút lực lượng lao động của các khu vực này.
Khi công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển mà nông dân mất đất phải đi làm thuê, làm
mướn là điều không thể chấp nhận. Vì vậy Nghị quyết trung ương bốn khóa VIII cũng
đã chỉ ra là cần quản lý chặt chẽ việc nhượng quyền sử dụng đất theo đúng pháp luật,
không để nông dân nghèo sống bằng nghề nông phải bán đất (những người chuyển đi
làm nghề khác hay di cư lập nghiệp ở nơi khác … thì có thể nhượng quyền sử dụng đất).
Đặc biệt phải ngăn chặn và xử lý các thủ đoạn chèn ép, cưỡng đoạt ruộng đất của người
nông dân nghèo. Đồng thời trong điều kiện hiện nay chưa đặt vấn đề mở ruộng mức hạn
điền đối với đất canh tác. Kiểm tra việc thực hiện chính sách hạn điền đối với đất canh
tác phù hợp với điều kiện đất đai ở các vùng khác nhau. Đối với đất vượt mức hạn điền
cần có biện pháp xử lý hợp lý với từng loại đất (đất canh tác cũ, đất khai hoang, đất
chưa sử dụng …) theo nguyên tắc khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả, đồng thời
nghiêm cấm việc mua bán đất để kiếm lời, bảo đảm công bằng xã hội
Kinh tế trang trại với các hình thức sở hữu khác nhau (Nhà nước, tập thể, tư
nhân) đang phát triển ở những nơi có nhiều ruộng đất (trung du, miền núi) để trồng cây
dài ngày, chăn nuôi đại gia súc. Khuyến khích việc khai phá đất hoang, nhận đất đồi
rừng chưa có người sử dụng để phát triển kinh tế trang trại (hiện nay kinh tế trang trại
đang phát triển, tiêu biểu như ở tỉnh Yên Bái, Bình Dương, mỗi tỉnh có 500 - 600 trang
trại quy mô từ 3 đến 300 ha, chủ yếu là đất đồi rừng, trồng cây dài ngày).
Đối với các hộ nông dân thiếu đất hoặc không còn đất canh tác cần đánh giá,
phân loại để có chính sách, giải pháp xử lý phù hợp với từng trường hợp theo hướng
vừa không để nông dân bị bần cùng hóa, phải đi làm thuê do không có đất sản xuất, vừa
tạo điều kiện cho tích tụ và tập trung ruộng đất hợp lý theo tiến trình công nghiệp hóa
(như tạo điều kiện cho họ lập nghiệp mới, làm nghề mới, giúp họ khai thác đất chưa sử
dụng hoặc cho vay vốn để chuộc lại đất …).
Đồng thời bổ sung thể chế để ngăn ngừa tình trạng lãng phí đất đai. Quy định cụ
thể điều kiện và kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nhất là
chuyển đất canh tác sang sử dụng vào mục đích khác. Chính sách đền bù cho nông dân
khi lấy đất sử dụng vào mục đích khác phải có sự phân biệt giữa lấy đất cho mục đích
kinh doanh với lấy đất cho mục đích công ích. Khi lấy đất của nông dân, ngoài chính
sách đền bù bằng tiền, cần giúp nông dân có việc làm và nguồn thu mới (như có ruộng
đất ở nơi khác để sản xuất, có nghề mới, góp vốn hay làm việc ở các doanh nghiệp xây
dựng trên đất bị thu hồi.
1.2.4.4 Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
ở nông thôn
Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn là một
hướng quan trọng để thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn để lao động nông thôn dư thừa không đổ xô
vào các đô thị lớn, gây ra nhiều vấn đề kinh tế-xã hội phức tạp. Phát triển công nghiệp
nông thôn, khôi phục và phát triển các làng nghề, các nghề thủ công truyền thống, các
dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn, để nông dân “ly nông bất ly hương”,
là hướng phát triển được nhiều nước đang phát triển thực hiện có kết quả tốt.
Để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, Nhà
nước cần có sự hỗ trợ xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng ở nông thôn như điện,
đường, hệ thống nước, trường, trạm, chợ … Bổ sung chính sách khuyến khích mọi
người, mọi doanh nghiệp thuộc mội thành phần kinh tế, kể cả người nước ngoài đầu tư
vào phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, như xoá bỏ các
thủ tục phiền hà trong đăng ký kinh doanh, những quy định không hợp lý về cư trú, về
quản lý hộ khẩu, phân biệt người địa phương với người nơi khác đến đầu tư và tìm việc
làm; tăng thời gian miễn, giảm thuế, ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay và bảo lãnh các
khoản tín dụng, giảm giá thuê đất hoặc miễn toàn bộ tiền thuê đất đối với những dự án
đầu tư vào vùng khó khăn, kể cả với đầu tư 100% vốn nước ngoài …
Quy hoạch và xúc tiến việc xây dựng các khu công nghiệp, đặc biệt là các khu
quy mô nhỏ, tạo sẵn cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư vào nông thôn; xây dựng các thị
trấn, thị tứ cùng với các khu công nghiệp, hình thành các trung tâm kinh tế - xã hội -
văn hóa, khoa học và công nghệ ở nông thôn.
Việc phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn cần
được tổ chức theo theo hưóng liên kết cơ sở công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản
với đơn vị sản xuất nguyên liệu, liên kết giữa các khâu trước, trong và sau sản xuất,
giữa sản xuất nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo lợi ích của các khâu,
gắn kết quan hệ nông nghiệp với công nghiệp, công nhân với nông dân. Một số mô hình
đã hình thành ở một số địa phương như Liên hiệp mía đường Lam Sơn, nông trường
Sông Hậu cần được tổng kết, nhân rộng.
1.2.4.5 Tăng nhanh trang thiết bị kỹ thuật trong nông nghiệp, nông thôn
Trong 5 năm qua, nông thôn đã tăng thêm 56 ngàn máy kéo nhỏ, 83 ngàn máy
xay xát nhỏ, 60 ngàn máy động lực nhỏ phục vụ bơm nước và vận chuyển, 16.500 ô tô
các loại; trong ngư nghiệp có gần 100 ngàn tàu thuyền với 70 ngàn chiếc thuyền máy có
tổng công suất 1,6 triệu mã lực, do nông dân tự mua sắm trong khi Nhà nước chưa có sự
ưu đại nàp đáng kể. Tổng lượng phương tiện này nhiều hơn số được trang bị trong 20
năm trước đó (nhà nước bao cấp).
Tuy nhiên hiện nay, trong sản xuất nông nghiệp, sức máy móc cơ khí mới chiếm
khoảng 20%, còn 35% là sức người, 45% là sức súc vật. Trong lĩnh vực vận chuyển, chế
biến nông sản, tỷ lệ cơ khí hóa còn rất thấp. Lao động thủ công còn ở nhiều khâu trong
quá trình sản xuất nông nghiệp, làm cho năng suất lao động thấp, chưa giảm bớt được
sự nặng nhọc của công việc, các khâu sau thu hoạch tổn thất lớn.
Trong thời gian tới Nhà nước sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện để đẩy mạnh sản xuất cơ
khí trong nước phục vụ nông nghiệp, nhất là các thiết bị vừa và nhỏ (máy kéo 6 - 12 mã
lực, động cơ 4 – 6 – 9 - 12 mã lực, máy làm đất, bơm nước, máy tuốt lúa, xay xát, đánh
bóng) có sức cạnh tranh với nước ngoài. Tổ chức tốt các dịch vụ lắp đặt, hướng dẫn kỹ
thuật, bảo dưỡng, sữa chữa sau khi bán máy để tăng tính cạnh tranh và phục vụ tốt cho
sản xuất nông nghiệp.
Đối với những sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp và thuỷ sản, trong nước
sản xuất chưa đủ nhu cầu thì Nhà nước có sự ưu đãi về vốn và thuế để nhập khẩu những
mặt hàng này.
Việc nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất ở nông thôn đòi
hỏi phải có sự phát triển tương ứng của lực lượng lao động, sự phát triển tương ứng về
đào tạo nguồn nhân lực. Bởi vậy, cần đẩy mạnh việc đào tạo bồi dưỡng kỹ thuật, đồng
thời bồi dưỡng kiến thức kinh tế, hình thành đội ngũ những nhà kinh doanh giỏi ở nông
thôn, trong cả nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
1..2.4.6 Giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản
Trong những năm vừa qua, nông nghiệp phát triển khá. Mặc dù nông sản hàng
hóa chưa nhiều nhưng một số sản phẩm đã thiếu thị trường, khó tiêu thụ, giá cả không
ổn định, nhiều khi xuống quá thấp nên giá trị tăng thêm của nông sản không tương ứng
với mức tăng sản lượng, nông dân bị thu thiệt, được muà nông dân không phấn khởi,
làm cho sức mua của xã hội hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển chung của nền
kinh tế. Ngoài lúa thì hạt điều, cao su, cà phê, chè, các loại hoa quả khác cũng gặp
những vấn đề khó khăn về thị trường, sự bấp bênh của giá cả.
Thị trường tiêu thụ nông sản đang trở thành vấn đề lớn, bức sức đối với sản xuất
nông nghiệp và đời sống nông dân. Nông sản xuất khẩu của Việt Nam có cơ cấu tương
tự như nhiều nước trong khu vực: gạo, cà phê, cao su, chè … Gần đây các nước như
Thái Lan, Malaixia, Indônêxia, Philippin, đồng tiền mất giá do cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ càng làm cho hàng xuất khẩu của Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt hơn,
khó khăn hơn.
Để mở rộng thị trường tiêu thụ, yếu tố quyết định là nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Đó là những vấn đề thuộc
lĩnh vực sản xuất, phải phấn đấu thực hiện. Còn trong lĩnh vực lưu thông cần phải giải
quyết một số giải pháp lớn sau:
- Thực hiện cơ chế lưu thông thật sự thông thoáng trên thị trường trong nước đối
với các loại vật tư và sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp nông thôn với sự tham gia
của mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ tình trạng độc quyền, chia cắt, cát cứ trong việc mua
nông sản. Nhưng phải đặc biệt coi trọng, củng cố và phát triển hệ thống thương nghiệp
nhà nước trên địa bàn nông thôn, phát triển các hình thức hợp tác, liên kết giữa thương
nghiệp nhà nước với hợp tác xã, nông dân và lực lượng thương nghiệp tư nhân nhỏ.
Khắc phục tình trạng thương nghiệp nhà nước co cụm về thành phố, thị xã, thị trấn, kinh
doanh đơn thuần chỉ để nuôi sống mình, thả nổi thị trường nông thôn, gây thiệt hại đến
lợi ích của nông dân, không phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp.
Ngăn ngừa và xử lý kịp thời những hành vi đầu cơ lũng đoạn thị trường, xử lý
kịp thời những biến động trên thị trường làm thiệt hại lợi ích của nông dân và Nhà nước.
Miễn thuế lưu thông đối với hàng tươi sống và những nông sản thực phẩm thiết yếu cho
đời sống nhân dân.
- Tạo cho được một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có sức cạnh tranh trên
thị trường quốc tế
Điều đó đòi hỏi phải có sự lựa chọn đúng những sản phẩm có ưu thế của nông
nghiệp nước ta để tập trung đầu tư tổ chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ sinh học và công nghệ chế biến để tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, có
chất lượng và giá trị cao, như các sản phẩm thuỷ sản, gạo, chè, cà phê, cao su, hạt điều,
rau quả, thịt lợn, gia cầm …
Để khuyến khích và tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, cần đổi mới cơ
chế quản lý xuất khẩu nông sản theo hướng quy định rõ những điều kiện để cho phép
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (khi có đủ điều kiện do pháp luật quy
định) được trực tiếp xuất khẩu hoặc tham gia hiệp hội xuất khẩu nông sản, bảo đảm vai
trò chủ đạo và chủ lực của kinh tế nhà nước đối với xuất khẩu những sản phẩm chủ yếu.
Để khuyến khích chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu từ xuất khẩu sản phẩm thô, giá
trị thấp sang xuất khẩu sản phẩm chế biến có giá trị cao, cần đánh thuế xuất khẩu cao
đối với hàng xuất khẩu dạng nguyên liệu thô mà trong nước đã có khả năng, đã có cơ sở
chế biến. Cho nhập khẩu miễn thuế hoặc thuế suất thấp đối với các loại nguyên liệu, vật
liệu phục vụ công nghiệp nông thôn mà trong nước chưa sản xuất được hoặc còn thiếu
và đánh thuế nhập khẩu cao những nguyên liệu trong nước đã có để khuyến khích sản
xuất và sử dụng nguyên liệu trong nước.
1.3. Kinh nghiệm của một số nước về phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và
hiện đại hóa nông thôn.
1.3.1 Kinh nghiệm chung:
Trong vài chục năm qua nông nghiệp đô thị phát triển nhanh song song với quá
trình đô thị hóa. ở Hoa kỳ, từ 1980 đến 1990 nông nghiệp đô thị tăng 17%. ở Nhật Bản,
Hà Lan, Thuỵ Sĩ cũng tăng mạnh.
Trong 25 năm cuối của thế kỷ 20 trong thế giới đô thị hóa, xuất hiện một xu
hướng ngược lại với quá trình tách rời giữa quá trình xây dựng đô thị hiện đại với nông
nghiệp - công nghiệp hóa xảy ra từ thế kỷ 19. Chính sự phát triển của nông nghiệp đô
thị đã hài hoà hai quá trình đô thị hóa và phát triển nông nghiệp hiện đại.
Trong các năm 1970 nông nghiệp đô thị còn ít được chú ý. ở một số nước châu
Phi bắt đầu xây dựng các dự án nông nghiệp đô thị như ở Ghana, Zaire, Zambia với sự
giúp đỡ của Pháp FOA, UNICEF. Sang các năm 1980 nhiều tổ chức phát triển của các
nước và tổ chức quốc tế hỗ trợ nhiều dự án ở châu Phi, á, Mỹ Latin. Sang các năm 1990
thì phong trào nông nghiệp đô thị phát triển mạnh ở nhiều nước và bắt đầu phát triển cả
ở các nước đã phát triển như Mỹ, Canada, Anh, Hà Lan. Nhiều tổ chức quốc tế về nông
nghiệp đô thị ra đời, thúc đẩy việc nghiên cứu về vấn đề này. Các tổ chức phi chính phủ
tham gia vào phong trào này ngày càng đông từ thực tiễn phát triển nông nghiệp đô thị
của các nước có thể rút ra mặt tích cực của nông nghiệp đô thị: Đô thị có xu hướng phát
triển với mật độ dân số thấp hơn trước nên có nhiều đất để làm nông nghiệp. Nông
nghiệp đô thị có hiệu quả và tính cạnh tranh cao hơn nông nghiệp nông thôn, nhất là
trong những ngành rau, thuỷ sản, gia cầm, lợn. Nông nghiệp đô thị ở các nước đang
phát triển nhằm tạo an ninh thực phẩm, việc làm, môi trường còn ở các nước đang phát
triển thì nhằm vào chất lượng cao.
Theo các dự báo từ năm 1993 đến 2005, nông nghiệp đô thị tăng tỷ lệ tự túc thực
phẩm từ 15% lên 33%, phần rau, thịt, cá, sữa dùng ở đô thị tăng từ 33 lên 50%, số nông
dân ra đô thị sản xuất hàng hóa tăng từ 200 lên 400 triệu người. Công nghệ trong nông
nghiệp đô thị bắt đầu phát triển nhanh và trong thời gian tới sẽ phát triển rất nhanh.
Châu á là một vùng có nhiều châu thổ đông dân. Vấn đề phát triển của các châu thổ này
từ lâu đã là một đề tài mà nhiều ngành khoa học quan tâm. Vùng Nam và Đông Nam châu á có hai loại châu thổ: Châu thổ đông dân (trên 300 dân một km2), có 250.000km2 với 120 triệu dân và châu thổ thưa dân có 120.000 km2 với 10 triệu dân.
Trong tương lai các châu thổ như châu thổ sông Hồng sẽ phát triển như thế nào.
Dự đoán sự phát triển này thực ra rất khó. Dự đoán của P.Gourou vào các năm 1930 là:
“Nếu người ta chấp nhận một suất dư là 15 trên 1000 thì dân số Châu thổ Bắc Kỳ sẽ là
13.000.000 khẩu vào năm 1984. Chúng tôi tin rằng số dư thực sự phải giữ mức giữa 10
và 15 trên 1.000 và nếu như không gì làm biến đổi tiến bộ của sự khai triển thì dân số
vùng châu thổ sẽ lên tới 13.000.000 người giữa năm 1984 và 2001”. Trong thực tế vào năm 1998 dân số đã tăng lên đến 14,2 triệu người hay 947 người/km2 tức là đã tăng lên
2,2 lần. Dự báo về tăng dân số gần đúng nhưng mối lo của Gourou lại không xảy ra ở
vùng châu thổ sông Hồng không những không giải quyết được đủ ăn mà còn dư thừa
một ít để xuất khẩu.
Tương lai của châu thổ này có thể hình dung ra được nếu chúng ta so sánh với
các châu thổ còn đông dân hơn nữa của vùng Đông á như Nhật Bản, Trung Quốc. Các
châu thổ của vùng này có mật độ dân số còn cao hơn châu thổ sông Hồng nhưng đã rút
lao động ra khỏi nông nghiệp nhiều hơn. Mặc dù vậy sản lượng nông nghiệp trên một
đơn vị diện tích cao hơn ở sông Hồng 2-3 lần chủ yếu do phát triển chăn nuôi. Cơ cấu
sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh cây trồng hàng hóa và chăn nuôi. Để phục vụ cho
cơ cấu sản xuất ấy thì lương thực không đủ phải nhập thêm nhiều để phát triển chăn
nuôi.
Như vậy sự phát triển của các châu thổ này chỉ có thể thực hiện được với một sự
công nghiệp hóa và đô thị hóa rất mạnh. Tuy vậy các châu thổ của Đông Nam á sẽ
không thể theo mô hình của các nước Đông Nam á là sẽ phải nhập thực phẩm từ nước
ngoài. Phải phát triển như thế nào để vừa có tốc độ công nghiệp hóa nhanh nhưng vừa
phát triển được nông nghiệp, vừa tăng được thu nhập của nông dân, vừa đảm bảo được
an ninh thực phẩm vì các nước lớn khó có thể nhập lương thực của nước ngoài.
Vì vậy việc phát triển nông nghiệp trong điều kiện đô thị hóa và công nghiệp hóa
nhanh ở các châu thổ đông dân trở thành một vấn đề quan trọng cần giải quyết để có thể
phát triển. Theo nhiều dự báo thì ở châu á trong thời gian tới quá trình đô thị hóa sẽ xảy
ra rất nhanh chóng. Nếu tỷ lệ dân số đô thị năm 1995 là 50% thì năm 2025 sẽ tăng lên
70%. Các siêu đô thị sẽ được hình thành trong thời gian tới. Siêu đô thị là một khái
niệm do J.Gotunam (1978), một nhà địa lý Pháp đề nghị năm 1950 lúc nghiên cứu vùng
Đông Bắc của nước Mỹ. Các điều kiện để có siêu đô thị là: Phải có cảng, phải giữ vai
trò của một ngã tư, phải có mật độ dày đặc về quan hệ, phải có mật độ dân số cao, phải
có một hệ thống kinh tế trong đó dịch vụ chiếm một vị trí quan trọng. Trên thế giới có 5
tổ hợp siêu đô thị: Vùng 5 hồ lớn ở Mỹ, vùng bờ biển phía
Bảng1: Các hệ thống nông nghiệp đông dân ở châu á
Nhật Đài Loan Đông Nam Châu thổ
Bản TQ sông Hồng
Dân số/ha canh tác 28,5 24,3 22,6 23,0
Nông dân/ha canh tác 1,5 4,5 16,5 18,0
Lao động/ha canh tác 0,8 1,1 8,8 9,1
Sản lượng nông nghiệp($/ha) 6730 8540 4820 3550
Sản lượng trồng trọt($/ha) 1710 3090 2510 2470
Sản lượng chăn nuôi($/ha) 1450 5450 2310 1070
Cơ cấu sản lượng(%)
Lương thực 10 7 30 43
Rau quả 13 20 14 13
Cây công nghiệp 2 20 8 13
Chăn nuôi 75 64 48 30
Lương thực sản xuất(kg/ha) 2612 2603 6961 6928
Lương thực nhập(kg/ha) 6106 8289 2164 754
Lương thực sử dụng(kg/ha) 8717 10892 9125 7683
Lương thực sử dụng(kg/người) 305 449 403 335
Thịt sản xuất(kg/người) 732 2106 913 409
Nguồn: Đào Thế Tuấn, 2001
đông của Mỹ, ở Anh, ở Nhật và ở Tây Âu. Năm 2010 thế giới sẽ có 13 siêu đô thị
trên 10 triệu dân thì 7 ở châu á. Năm 2010 châu á sẽ có 30 thành thị trên 5 triệu dân
(trong lúc Mỹ chỉ có 2 và châu âu chỉ có 6). Thượng Hải, Bombay sẽ có trên 20 triệu
dân, Bắc Kinh, Dhaka, Jakarta, Manila, Thiên Tân, Calcuta và Delhi trên 15 triệu.
Trung Quốc năm 1994 sẽ có 28% dân sống ở đô thị thì đến năm 2010 sẽ có 50%.
Kế hoạch đô thị hóa ở Trung Quốc trong 30 năm tới như sau: Trung Quốc có 2000
huyện. Mỗi huyện lỵ sẽ phát triển thành một thị xã có 50 đến 100 ngàn dân, tổng số sẽ
là 100 triệu dân. Cả nước có 10609 thị trấn với 240 triệu dân. Nếu có một phần ba số thị
trấn sẽ trở thành thị xã nhỏ với 30-50 ngàn dân và trung bình với 50-150 ngàn dân thì sẽ
có 150-200 triệu dân. Cả nước có 500 thành phố, trong thời gian sau cải cách qua dân số
dân số đã tăng từ 500 ngàn đến 1 triệu người. Nếu trong 30 năm tới sẽ tăng trung bình
300 ngàn người thì sẽ có 150 triệu người. Nếu sẽ phát triển như vậy thì 30 năm tới sẽ có
thêm 400 triệu nông dân ra thành thị và dân số đô thị sẽ là 50%. Trung Quốc sẽ có 4 tổ
hợp siêu thị: Trung và hạ lưu sông Trường Giang (Thượng Hải, Tô Châu, Vô Tích, Nam
Kinh, Hàng Châu, Dương Châu); vùng châu thổ Châu Giang (Quảng Châu, Thẩm
Quyến, Chu Hải, …); vùng Liêu Ninh (Thẩm Dương …); vùng Bắc Kinh - Thiên Tân -
Đường Sơn. Riêng vùng châu thổ châu Giang có 20 đô thị và 500 thị trấn, 30 triệu dân và 600 người / km2, sản phẩm trong nước/người khoảng 3000 USD.
1.3.2 Nông nghiệp đô thị ở các nước phát triển
- ở Hoa Kỳ, trong số 2 triệu nông trại có 696.000 nông trại (chiếm 33%) ở trên
đất đô thị, các nông trại này chiếm trên 16% diện tích, sản xuất ra 35% sản phẩm trồng
trọt và chăn nuôi. Khoảng 25% nông hộ tham gia nông nghiệp đô thị, sản xuất 38 triệu
USD thực phẩm. Có khoảng 1000 dự án nông nghiệp vùng ven đô thị. Từ 1980 đến
1990 nông nghiệp đô thị của Hoa Kỳ tăng 17%. Năm 1994, có 30.000 nông trang tham
gia vườn công cộng, trong đó thành phố NewYork có 1000 vườn, Boston có 400, San
Francisco có 100. Các nông trại đô thị bán nông sản gấp 13 lần trên một acre nông trại
nông thôn. Các nông trại đô thị nông nghiệp hữu cơ phát triển nhiều hơn. Các hiệu ăn ở
Chicago và Washington mua 80% sản phẩm sản xuất ra ở vùng ven đô thị. ở miền Nam
California nơi có giá đất cao nhất thế giới nhưng lại là nơi có nông nghiệp đô thị phát
triển nhất, hoa và cây cảnh sản xuất nhiều trong nhà kính và ngoài trời ở đây.
- ở Canada có 11% diện tích đất tự nhiên (105 triệu ha) có thể phát triển nông
nghiệp, trong đó chỉ có 43% đất trồng trọt có hiệu quả cao (45,9 triệu ha), nhưng có
khoảng 1/3 đất này nằm trong các vành đai đô thị. Gần 55% đất tốt nằm trong vòng bán
kính 161 km của 23 đô thị lớn, từ 1950 đô thị hóa xảy ra trong loại đất này. Canada phát
triển mạnh nông nghiệp đô thị, hình thức vườn cộng đồng được phát triển phổ biến từ
năm 1970. Các đô thị trích một phần đất chia cho dân với một tỷ lệ nhất định để phát
triển các nhà vườn. Thành phố Montreal và Toronto có 10.000 khu đất chia cho dân.
Vancouver đã phát triển hình thức này hơn 20 năm nay.
- ở Cộng Hoà Liên Bang Đức, 15% đất ở thủ đô Berlin dùng cho nông nghiệp đô
thị, 80.000 mảnh vườn được chia và 14.000 người còn trên danh sách chờ đợi. Ngày
nghỉ các gia đình đến các nhà vườn để nghỉ ngơi.
- ở Hà Lan nông nghiệp đô thị chiếm 33% sản lượng nông nghiệp là từ. Nhiều hộ
nông gia nông thôn chuyển thành nông gia đô thị do thay đổi vành đai ven đô. ở các
thành phố của Hà Lan, để khắc phục khó khăn trong việc quản lý chất lượng rau xanh
đã tiến hành kiểm tra chặt chẽ chất lượng sản phẩm tại nơi tiêu thụ. Đồng thời xây dựng
mạng lưới chợ rau xanh để quản lý chất lượng sản phẩm và bảo vệ người tiêu dùng.
Điều đó đã tác động tích cực đến sản xuất, buộc các nhà sản xuất phải cải tiến quy trình
sản xuất, tuân thủ các quy định về chất lượng để tiêu thụ được sản phẩm trên thị trường.
- ở Nga, nông nghiệp đô thị có truyền thống lâu đời với các nhà vườn ở ngoại ô,
vào cuối tuần dân đô thị đến nghỉ ngơi và trồng trọt, khoảng 30% thực phẩm được sản
xuất từ các nhà vườn này. ở ngoại ô Thành phố St.Peterburg có 500.000 nhà vườn của
dân đô thị, lượng rau quả sản xuất ở đây đã bổ sung đáng kể nguồn rau xanh của thành
phố . ở Moskva số người làm nông nghiệp tăng 3 lần từ 1972 đến 1992.
1.3.3 Nông nghiệp đô thị ở các nước đang phát triển
Các nước đang phát triển đã bắt đầu phát triển nông nghiệp đô thị trước. Vào các
năm 1970, Ghana ở châu Phi phát triển nông nghiệp đô thị để giải quyết vấn đề thực
phẩm, tập trung trước tiên vào sản xuất chuối bột, đậu bắp, lúa gạo và rau.
ở ven đô của Zambia tập trung phát triển sản xuất rau và gia súc nhỏ từ năm 1980
phong trào này mở rộng ra Mozambique, Lesotho, Bostvana, Kenya, Chile, Philipin,
Peru. Từ 1990 phong trào nông nghiệp đô thị đã mở rộng ra hầu hết các nước đang phát
triển. Nhiều điển hình nông nghiệp đô thị đã được tổng kết, phổ biến ở các hội nghị
quốc tế. Phong trào đã phát triển mạnh sang cả châu Mỹ latinh với các điển hình như
Cuba, Braxin, Arhentina, Peru.
- Nông nghiệp đô thị ở châu á: ở châu á trước kia quy mô dân số các đô thị phụ
thuộc vào lượng thực phẩm sản xuất ra để cung cấp cho đô thị. Với sự phát triển của
giao thông cước phí vận chuyển lương thực thực phẩm được chở từ các vùng khác đến,
do đó thu nhập đã trở thành nhân tố quyết định. Tình trạng thiếu ăn và nghèo khổ ở các
đô thị trở thành một vấn đề gay gắt. Việc sản xuất thực phẩm trong nội đô thị và vùng
ven đô trở thành một nhu cầu: Do đô thị hóa, đất nông nghiệp vùng ven đô mất dần.
Đồng thời do sự đầu cơ đất nên việc bỏ hoang hay sử dụng kém hiệu quả đất ven đô
cũng trở nên phổ biến do sự đầu cơ đất. Do đó các nhà lãnh đạo và các nhà làm quy
hoạch cho rằng không nên làm nông nghiệp trong đô thị, do vậy trong quy hoạch đô thị
không có nông nghiệp, nông nghiệp đô thị dần lạc hậu và giảm đi. Các nước châu á phát
triển ngày càng phụ thuộc vào thực phẩm nhập. Hiện nay nông nghiệp đô thị ở các nước
châu á là phát triển vì cá là thức ăn chủ yếu của người dân châu á. Xu hướng phát triển
cây có giá trị hàng hóa cao và chăn nuôi thay cho cây lương thực, phát triển nhà vườn
đã trở lên phổ biến, lâm nghiệp đô thị ít phát triển. Nông nghiệp đô thị thường thâm
canh cao và có kết quả.
- Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp đô thị tại Trung Quốc: Trung Quốc có một
chiến lược đô thị hoá phi tập trung với nhiều đô thị nhỏ trong nông thôn và như vậy
nông nghiệp nông thôn cũng sẽ biến đổi. Vì vậy, nghiên cứu nông nghiệp đô thị này có
thể thấy được phần nào hình ảnh của nông nghiệp nông thôn trong tương lai gần. Trong
hoàn cảnh Trung Quốc tham gia WTO thì lợi thế so sánh của Trung Quốc sẽ là các sản
phẩm cần nhiều lao động như rau xanh, nuôi trồng thuỷ sản và sản xuất trong nhà lưới.
Hiện nay, Trung Quốc cũng đã xuất khẩu nhiều rau xanh sang các nước ASEAN. Tại
các đô thị lớn, nông nghiệp có xu thế đẩy xa ra các vùng khác có cơ sở hạ tầng tốt, nối
đô thị với các vùng xa hơn. Nông nghiệp quanh các đô thị lớn dần (tuy còn chậm) định
hướng theo nông nghiệp du lịch và sinh thái.
- Kinh nghiệm của Bangkok (Thái Lan): Do quá trình đô thị hoá nhanh đã gây
nhiều biến động về thị trường ruộng đất ở vùng ngoại ô, đã đẩy nông nghiệp ra các vùng
xa hơn. Để thúc đẩy các vùng sản xuất vệ tinh này phát triển đã xác lập các yếu tố tác
động sau: dễ dàng tiếp cận tín dụng, các kỹ thuật mới đa dạng mà nông dân dễ tiếp cận,
cơ sở hạ tầng phát triển, tăng cường quan hệ hợp đồng giữa các công ty chế biến và
nông dân nhằm tạo đầu ra cho nông sản. Các công ty tư nhân là yếu tố trực tiếp định
hướng cho phát triển nông nghiệp, đồng thời không thể thiếu vai trò của nhà nước trong
việc: quy hoạch đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng, điều tiết giá cả, làm trung gian giải
quyết các vấn đề về môi trường, tư vấn, đào tạo và tạo khung pháp lý cho phát triển
nông nghiệp .
1.3.4 Những kinh nghiệm rút ra từ quá trình phát triển nông nghiệp đô thị
sinh thái của một số nước
1.3.4.1 Hầu hết thủ đô và thành phố lớn của các nước công nghiệp cũng như các
nước đang phát triển đều hình thành các vùng vành đai phát triển nông nghiệp nằm xen
kẽ hoặc tạo thành vành đai bao quanh vùng đô thị, các vùng sản xuất này phần lớn bị
chia cắt, qui mô nhỏ, sản xuất ra các sản phẩm tự nuôi mình và cung cấp cho thị trường
đô thị. Hình thành vành đai nông nghiệp, vành đai môi trường sinh thái cho vùng đô thị.
1.3.4.2 Vùng nông nghiệp nội đô, hay ngoại vi đều bị ảnh hưởng ô nhiễm môi
trường: Nước, đất, khí và rác thải từ vùng đô thị. Điều này gây không ít khó khăn cho
vùng nông nghiệp. áp lực rất lớn đặt ra cho vùng nông nghiệp đô thị là vừa phải tiến
hành sản xuất, vừa phải tạo ra hệ sinh thái và môi trường cảnh quan cho đô thị.
1.3.4.3 Các nước công nghiệp đều đầu tư rất lớn cho sản xuất nông nghiệp và đặc
biệt quan tâm đầu tư cho nông nghiệp ngoại thành nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất
nông nghiệp, phát triển nông thôn, khắc phục hậu quả về môi trường và cũng chính là
làm cho các đô thị phát triển bền vững hơn.
1.3.4.4 Định hướng cho vùng nông nghiệp ở đô thị cũng có ý tưởng rõ ràng. Đối
với vùng đô thị: Diện tích đất nông nghiệp vẫn dùng trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả và
nuôi trồng thuỷ sản, nhưng không chỉ để lấy sản phẩm tiêu dùng mà còn để tạo cảnh
quan, môi trường sinh thái cho đô thị.
Đối với vùng ngoại ô sát đô thị: Tiến hành sản xuất nông nghiệp sạch, dựa vào tự
nhiên, tạo ra sản phẩm chất lượng cao nhưng không yêu cầu phải có năng suất cao vì
Nhà nước sẽ trợ giá để tồn tại. Mục đích của việc này là nhằm tạo ra một vùng đệm về
cảnh quan sinh thái cho khu đô thị.
Đối với vùng ngoại ô xa, hoặc các tỉnh lân cận: Tiến hành sản xuất nông nghiệp
qui mô lớn để đáp ứng các yêu cầu của đô thị về nông sản và môi trường.
1.3.4.5 Các vùng sản xuất nông nghiệp ngoại ô sẽ được CNH - HĐH ở mức độ
cao nhằm kéo bớt lực lượng lao động trẻ của khu vực này đi vào đô thị để học tập và
làm việc
Phần thứ hai
Đánh giá hiện trạng phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hóa nông
thôn Hà Nội trong thời kỳ đổi mới 1986 – 2005
2.1. Đánh giá hiện trạng nông nghiệp – nt giai đoạn 1986-1990
2.1.1 Cơ cấu kinh tế Hà Nội giai đoạn 1986 - 1990
- Cơ cấu kinh tế chung của thành phố trong giai đoạn 1986 -1990: Công nghiệp
TTCN chiếm tỷ trọng lớn, sau đó là nông nghiệp (Nông lâm thuỷ sản) tiếp đến là
thương mại và dịch vụ.
- Cơ cấu kinh tế nông thôn ngoại thành: Cơ cấu kinh tế nông thôn trên địa bàn (kể
cả kinh tế TW) công nghiệp TTCN - nông nghiệp - thương mại dịch vụ.
- Cơ cấu kinh tế nông thôn (không kể kinh tế TW) cơ cấu kinh tế nông thôn là
nông nghiệp - công nghiệp TTCN - thương mại dịch vụ.
2.1.2. Về phát triển công nghiệp và TTCN
Nhiệm vụ hàng đầu của công nghiệp TTCN trong giai đoạn này là tăng nhanh sản
xuất hàng tiêu dùng của nhân dân Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, thay thế hàng nhập
khẩu, đồng thời tăng nhanh hàng xuất khẩu.
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp thời kỳ 1986 - 1990 đạt tốc độ tăng
bình quân 2,7%/năm (nếu không tính công nghiệp TW thì chỉ đạt tốc độ tăng trưởng
2,4%/năm). Trong đó công nghiệp quốc doanh tăng 3,3%/năm, ngoài quốc doanh tăng
1,3%/năm. Công nghiệp TTCN ngoài quốc doanh của ngoại thành chỉ tăng 0,55%/năm.
- Xét về lượng, sản xuất hàng tiêu dùng không đạt tốc độ đề ra, thậm chí năm
1986 - 1990 còn giảm so với các năm trước, chưa đáp ứng thoả mãn nhu cầu tiêu dùng
của nhân dân thủ đô cả về lượng và chất.
2.1.2.1 Nguyên nhân
- Do chuyển đổi cơ chế kinh tế và quản lý theo tinh thần của Đại hội đại biểu
Đảng bộ của thành phố lần thứ 10, không chỉ ảnh hưởng đến các xí nghiệp công nghiệp
quốc doanh của nhà nước mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến các HTX, một số tổ sản xuất
và một số cơ sở sản xuất tư nhân và cá thể.
- Nguyên liệu, phụ liệu và phụ tùng thay thế không đảm bảo nhu cầu sản xuất
hàng tiêu dùng. Nguồn trong nước chỉ đáp ứng được 40%, nguồn nhập khẩu chỉ đảm
bảo khoảng 30%. Do vậy, năng lực sản xuất hàng tiêu dùng của Hà Nội nói riêng, của
cả nước nói chung không huy động hết năng lực sản xuất.
- Việc nhập hàng ngoại bằng nhiều kênh khác nhau diễn ra với tốc độ nhanh, tuy
có bổ xung một phần cho sự thiếu hụt về quỹ hàng hoá, giảm bớt căng thẳng cung - cầu
và quan hệ hàng - tiền, nhưng mặt khác đã chèn ép sản xuất hàng tiêu dùng nội địa, gây
tình trạng đình đốn trong sản xuất.
2.1.2.2 Thành công trong đổi mới công nghiệp TTCN của thủ đô
- Về phía người sản xuất đã bắt đầu quan tâm đến nhu cầu của người tiêu dùng,
đến thị hiếu, mẫu mã sản phẩm, giá cả và giá trị sử dụng. Trình độ kỹ thuật sản xuất,
trình độ quản lý kinh doanh, tiếp cận thị trường của các đơn vị sản xuất công nghiệp
TTCN đã được nâng lên một bước. Một số doanh nghiệp đã chú ý đầu tư chiều sâu, áp
dụng công nghệ tiên tiến, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Cơ cấu sản phẩm qua tác động của thị trường đang hình thành rõ hơn cơ cấu sản
phẩm tiêu dùng. Những sản phẩm không có nhu cầu sử dụng bị che lấp bởi cơ chế phân
phối, cấp phát hiện nay đã bộc lộ, những sản phẩm tiêu dùng đã bão hoà hoặc không
còn phù hợp với thị hiếu tiêu dùng nay đang chuyển đổi… Đã tác động mạnh mẽ đến
thay đổi cơ cấu sản xuất công nghiệp TTCN của thủ đô và bố trí lại sản xuất công
nghiệp, TTCN ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường và nâng cao hiệu quả
sản xuất xã hội.
- Về cơ cấu các thành phần kinh tế trong sản xuất công nghiệp, TTCN cũng có
thay đổi theo hướng tiến bộ. Sản xuất công nghiệp, TTCN của khối ngoài quốc doanh
tăng mạnh. Trong đó, giá trị sản lượng công nghiệp, TTCN của các hộ cá thể tăng bình
quân 15%/năm, các tổ sản xuất CN - TTCN tăng 10,9%/năm.
- Về phía người tiêu dùng: Quan điểm tiêu dùng cũng có thay đổi về cơ bản, đã
quan tâm đến giá trị sử dụng và nhu cầu đích thực, không còn dự trữ hàng tạo ra nhu
cầu giả tạo; Cung cầu hàng hoá vì thế cũng đỡ căng thẳng, tình trạng khan hiếm hàng
hoá cũng giảm bớt.
2.1.3. Sản xuất nông nghiệp của Hà Nội 1986 - 1990
- Nhiệm vụ trọng tâm của nông nghiệp ngoại thành là phát triển vành đai thực
phẩm, đảm bảo nhu cầu lượng thực, thực phẩm cho nông dân, đồng thời đáp ứng phần
quan trọng thực phẩm cho nhu cầu của dân cư nội thành, cung cấp nguyên liệu cho sản
xuất công nghiệp và nông sản xuất khẩu.
- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp Hà Nội. Năm 1985 ngành trồng trọt chiếm
61,94%, chăn nuôi chiếm 38,06% giá trị sản lượng. Năm 1990 trồng trọt chiếm 64,68%,
chăn nuôi thuỷ sản chỉ chiếm 35,32%.
- Sản xuất trồng trọt: Đảm bảo lương thực cho nông dân và cung cấp một phần
cho nội thành, đáp ứng nhu cầu rau xanh của thành phố, bằng cách tăng vụ và thâm
canh để tăng năng suất cây trồng. Diện tích gieo trồng năm 1985 là 76.280 ha, năm
1990 đạt 83.940 ha, tốc độ tăng diện tích gieo trồng 1,92%/năm.
Về sản xuất lương thực: Cây ngô đông và khoai lang đông phát triển mạnh, diện
tích cây lương thực từ 60.161 ha năm 1985 đã tăng lên 69.497 ha năm 1990, tốc độ tăng
diện tích gieo trồng cây lương thực 1,29%/năm. Năm 1985, năng suất lúa cả năm đạt
26,4 tạ/ha đã tăng lên 30,1 tạ/ha năm 1990. Năng suất ngô từ 22,7 tạ/ha năm 1985 tăng
lên 24,6 tạ/ha năm 1990. Sản lượng lương thực quy thóc tăng bình quân 6,15%/năm.
Năm 1985, lương thực bình quân/khẩu của cả Thủ Đô đạt 85,2 kg tăng lên 102,3 kg
năm 1990. Nếu tính bình quân lương thực cho một nhân khẩu nông nghiệp thì năm 1985
chỉ đạt 251,6 kg, đến năm 1990 đã đạt 308,1 kg.
Về cây thực phẩm: Diện tích cây thực phẩm trong giai đoạn 1986 - 1990 không
có biến động lớn, luôn giữ ổn định ở mức trên dưới 8000 ha. Tuy nhiên, do cơ cấu các
loại rau, đậu có chất lượng cao được đưa vào sản xuất ngày càng nhiều, nên giá trị sản
lượng của cây thực phẩm có tốc độ phát triển rất cao 24,2%/năm. Cơ cấu cây thực phẩm
trong giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm từ 12,94% năm 1985 lên 22,57% năm
1990.
- Về chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản: Đáp ứng nhu cầu về thịt, trứng, cá... cho
nhân dân Thủ Đô và có thêm sản phẩm xuất khẩu. Thực tế qua số liệu về chăn nuôi cho
thấy: Đàn bò tăng trưởng bình quân 6,5%/năm trong giai đoạn 1985 - 1990; năm 1985
chưa có chăn nuôi bò sữa, năm 1990 toàn thành phố đã có 337 con bò sữa và cho sản
lượng 200 tấn sữa tươi.
Chăn nuôi lợn, tổng đàn lợn (không kể lợn sữa) giảm, tốc độ giảm bình quân
1,05%/năm, do đàn lợn trước năm 1986 phát triển ở khắp các nơi, các hộ nội thành, các
hộ cán bộ công chức, hộ nhà cao tầng, nhà cấp 4, đều chăn nuôi lợn để tăng thu nhập,
cải thiện đời sống nên đàn lợn phát triển mạnh. Giai đoạn 1986 - 1990 phong trào chăn
nuôi đã tạm thời lắng xuống, ở khu vực ngoại thành tốc độ tăng trưởng rất thấp chỉ có
0,35%/năm. Tuy đầu con giảm nhưng sản lượng thịt hơi xuất chuồng của toàn thành
phố vẫn tăng, bình quân 4,8%/năm, trong đó khu vực ngoại thành tăng 6,7%/năm do
trọng lượng xuất chuồng tăng.
Đàn gia cầm (nhất là gà công nghiệp) được phát triển mạnh và rộng khắp, đầu gia
cầm tăng bình quân 5,5%/năm, trong đó khu vực ngoại thành tăng 7,35%/năm. Sản
lượng thịt gia cầm giết mổ tăng bình quân 15,75%, ngoại thành tăng 17,75%/năm.
Nuôi trồng thuỷ sản, về diện tích nuôi thả giảm bình quân 0,3/năm, nhưng do
nuôi thâm canh và thả giống cá có năng suất cao nên sản lượng cá thu hoạch tăng bình
quân 9%/năm, ngoại thành tăng 8,25%. Sản lượng cá tăng nhanh ở các xí nghiệp nuôi
cá quốc doanh quản lý các hồ nội thành và Hồ Tây.
- Sản xuất nông nghiệp của Hà Nội nói chung và ngoại thành nói riêng giai đoạn
1986 - 1990 có bước phát triển nhất định, kết quả chưa đạt được mục tiêu đề ra, tốc độ
tăng trưởng sản lượng nông nghiệp tăng bình quân 5%/năm, bằng nửa tốc độ tăng
trưởng của giai đoạn 1981 - 1985. Trong đó, ngành trồng trọt tăng 6,6% năm, chăn nuôi
tăng 7,35%/năm; xét theo thành phần kinh tế thì khu vực quốc doanh giảm 4,35%/năm,
ngoài quốc doanh tăng 5,35%/năm. Theo khu vực nội thành và ngoại thành thì nội thành
giảm bình quân 2,5%/năm, ngoại thành tăng 5,9%/năm.
- Do công nghiệp hóa, đô thị hóa chậm và theo kế hoạch và quy hoạch nên ít tác
động xấu đến môi trường sinh thái. Đồng thời sản xuất nông nghiệp ở mức độ thâm
canh chưa cao. Việc sử dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu, hóa chất chưa nhiều nên hệ
sinh thái nông nghiệp đóng góp lớn trong cải tạo môi trường sinh thái đô thị.
2.1.3.1 Nguyên nhân:
- Cơ chế khoán 100 chỉ có tác dụng tích cực ở những năm đầu (giai đoạn 1981 -
1986), những năm sau đó đã bộc lộ những hạn chế như: Định mức khoán không ổn
định, thậm chí thay đổi từng vụ đã làm giảm đầu tư thâm canh, phương án phân phối
sản phẩm không thống nhất. Mặt khác, tình trạng khê đọng sản phẩm đã trở nên bức xúc
ở một số HTX do phương thức ứng trước vật tư theo kiểu bao cấp…
- Tình trạng khoán trắng, buông lỏng quản lý và điều hành HTX, các đội sản xuất
phó mặc cho hộ nông dân, chưa được khắc phục kịp thời, triệt để đã làm cho tốc độ tăng
trưởng giá trị sản lượng nông nghiệp của Hà Nội tăng chậm so với giai đoạn 1981 -
1985.
- Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý nông nghiệp (5/4/1988)
nhằm hoàn thiện và nâng cao cơ chế khoán sản phẩm trong HTX, khẳng định chính sách
phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp theo hướng chuyển sang kinh tế
hàng hoá đã tác động đến sản xuất nông nghiệp của thủ đô, nhưng chưa tác động mạnh
trong giai đoạn 1986 - 1990 do các chính sách khác chưa thay đổi kịp.
- Với chính sách đẩy mạnh lưu thông hàng hoá, xoá bỏ “ngăn sông cấm chợ”
(1989), nông sản hàng hoá được tự do lưu thông trong cả nước. Do vậy nông sản hàng
hoá của nông nghiệp Thủ Đô bắt đầu có sự cạnh tranh của các vùng có ưu thế giá rẻ đã
tác động đến sản xuất nông nghiệp của Hà Nội.
2.1.3.2 Những nhân tố mới của nông nghiệp Hà Nội giai đoạn 1986-1990.
- Đa thành phần tham gia sản xuất nông sản hàng hoá, nhất là kinh tế hộ gia đình,
kinh tế cá thể…
- Người sản xuất bắt đầu chú ý đến nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng nông sản của
người dân đô thị, cơ cấu nông sản bắt đầu có sự chuyển hướng, cụ thể nông sản hàng
hoá có giá trị và chất lượng như rau cao cấp, được đưa vào sản xuất nhiều hơn…
2.1.4. Dịch vụ và lưu thông phân phối
Trong giai đoạn 1986 - 1990, giai đoạn rối ren về giá cả tiền tệ và bất ổn về thị
trường, nên thương mại và dịch vụ của thủ đô vẫn duy trì phương thức hoạt động của
thương nghiệp XHCN. Nhà nước nắm hầu hết hàng hoá, phân phối đến tận người tiêu
dùng, kiểm soát giá cả thị trường, nhằm ổn định giá cả và lập lại trật tự trên lĩnh vực lưu
thông phân phối...
Tuy nhiên, với chính sách tự do lưu thông hàng hoá, xoá bỏ “ngăn sông, cấm
chợ” và thừa nhận thị trường tự do như là một bộ phận không thể thiếu của thị trường
XHCN (1989) đã tác động đến thị trường hàng hoá của thủ đô Hà Nội, trong đó có thị
trường nông sản hàng hoá.
Nếu như năm 1985, tổng mức bán lẻ hàng hoá của khu vực kinh tế quốc doanh
Hà Nội chiếm 53,8%, thì đến năm 1990 chỉ còn 31% khu vực kinh tế tập thể (HTX mua
bán) năm 1985 chiếm 7,5% thì năm 1990 chỉ còn 2,2%. Ngược lại, kinh tế tư nhân, từ
chỗ chỉ chiếm 38,7% năm 1985, năm 1990 chiếm 66,8%.
Hộ tư thương và dịch vụ cá thể tăng nhanh, tốc độ bình quân của thành phố là
11,7%/năm, ở khu vực ngoại thành tăng bình quân 11,1%/năm.
Tồn tại: Thương mại và dịch vụ của Hà Nội chậm đổi mới so với một số tỉnh
thành trong cả nước, nhất là các tỉnh thành phía Nam. Đồng thời, việc chậm đổi mới của
thương mại dịch vụ không theo kịp đổi mới trong sản xuất công nghiệp - TTCN và nông
nghiệp nên đã hạn chế phần nào của phát triển sản xuất công nghiệp - TTCN và nông
nghiệp…
Tuy nhiên, với việc thừa nhận thị trường tự do là một bộ phận của thị trường
XHCN và kinh tế tư thương đã tác động định hướng sản xuất theo nhu cầu của thị
trường…
2.1.5 Kết cấu hạ tầng, văn hoá, xã hội NT của ngoại thành.
- Kết cấu hạ tầng nông thôn giai đoạn 1986 -1990 ít đạt được đầu tư và không có
thay đổi đáng kể so với giai đoạn trước (giao thông, thuỷ lợi, điện nước, chợ…)
- Văn hoá xã hội: Lao động, việc làm và đời sống; Dân số và lao động có quan hệ
khăng khít với nhau và với đời sống. Do đó việc hạ thấp tốc độ tăng dân số có ý nghĩa
chiến lược sống còn. Trong 5 năm, năm 1985 với tỷ lệ sinh là 1,99%, năm 1990 tỷ lệ
sinh hạ xuống còn 1,93%. Tuy tỷ lệ sinh có giảm chút ít, nhưng do đời sống tăng, tuổi
thọ tăng lên, tỷ lệ dân số tự nhiên năm 1985 là 1,5%, năm 1990 tỷ lệ tăng tự nhiên
1,51%.
Đời sống đã được cải thiện so với năm 1985, thể hiện năm 1985 chi tiêu chiếm
78,79% thu nhập, thì năm 1990, chi tiêu chỉ chiếm 76,31%. Lượng tiêu dùng lương
thực, thực phẩm chủ yếu năm 1990 tăng chút ít so với năm 1985 điều đó khẳng định đời
sống của nhân dân Thủ Đô đã được cải thiện nhưng chưa nhiều.
2.2. Đánh giá hiện trạng nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hóa nông thôn
Hà Nội 1991 - 2000
2.2.1. Tốc độ phát triển và cơ cấu kinh tế ngoại thành.
- Trong 10 năm (1991 - 2000), kinh tế ngoại thành phát triển toàn diện và liên
tục, với tốc độ tăng trưởng bình quân 10,65%/năm.
- Kinh tế ngoại thành bước đầu đã có chuyển dịch bứt phá. Từ chỗ cơ cấu kinh tế
năm 1990 là: Nông nghiệp - công nghiệp và TTCN - thương mại và dịch vụ, đến năm
2000 đã chuyển thành công nghiệp, TTCN - nông nghiệp - thương mại và dịch vụ
(57,77% - 29,16% - 19,07%).
- Sản xuất công nghiệp TTCN và xây dựng tăng bình quân 13,65%. trong đó
riêng công nghiệp TTCN tăng bình quân 11,81%/năm
- Sản xuất nông nghiệp thuỷ sản tăng bình quân 5,05%
- Thương mại dịch vụ tăng trưởng mạnh, tốc độ tăng trưởng bình quân
16,34/năm.
2.2.2 Phát triển nông lâm thuỷ sản
2.2.2.1 Những thành tựu đạt được thời kỳ 1990 - 2000:
- Kinh tế nông nghiệp của thành phố có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
tích cực, từ chỗ tỷ trọng của ngành tròng trọt chỉ chiếm 64,68% (1990) giảm xuống còn
có 58,72% (năm 2000), ngành chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản từ chỗ có 35,32% tăng
lên 39,02%.
- Sản xuất trồng trọt từ năm 1990 - 2000 có tốc độ tăng trưởng bình quân
3,45%/năm. Trong đó, hoa và cây cảnh có tốc độ tăng bình quân cao 49,25%/năm, cây
lương thực có hạt tăng bình quân 28,65%/năm, cây ăn quả tăng bình quân 2,7 %/năm.
Tỷ trọng của các nhóm cây trồng có sự chuyển dịch tích cực, nhóm cây hoa và cây cảnh
tăng dần tỷ trọng trong sản xuất trồng trọt, nhóm cây ăn quả cũng tăng trong tổng cơ
cấu.
- Chăn nuôi và thuỷ sản trong thời kỳ này tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng
bình quân chung của ngành đạt 8,4%/năm. Trong đó sữa bò tăng 27,5%/năm, lợn tăng
bình quân 6,15%/năm, gia cầm tăng bình quân 7,65%/năm, trứng gia cầm tăng 12,2%,
thuỷ sản tăng 7,25%/năm.
- Sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp trong suốt 10 năm quan
không có sự thay đổi lớn giữa trồng trọt và chăn nuôi, nhưng các loại nông sản hàng hoá
phát triển đa dạng theo yêu cầu của thị trường. Trong trồng trọt, các loại cây có chất
lượng cao như lúa nếp, lúa thơm, rau cao cấp, rau an toàn, hoa và cây cảnh, quả có chất
lượng cao vừa được khôi phục vừa tiếp thu các giống tiến bộ đưa nhanh vào sản xuất và
đẩy nhanh khối lượng sản phẩm hàng năm.
- Chăn nuôi và thuỷ sản cũng phát triển tương tự: Chăn nuôi gia cầm thuỷ sản và
chăn nuôi bò sữa phát triển mạnh. Các sản phẩm chăn nuôi cũng phát triển theo hướng
đa dạng và nâng cao chất lượng như: Lợn nạc, gà thả vườn, gà siêu thịt, siêu trứng, bò
lai sind, bò sữa năng suất, chất lượng sữa cao, cá chim trắng, tôm càng xanh đang phát
triển mạnh
- Nông nghiệp thủ đô đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất
nông sản phẩm an toàn và nông sản sạch. Hình thành các vùng sản xuất rau an toàn ở
Vân Nội (Đông Anh); Đặng Xá, Văn Đức (Gia Lâm); Lĩnh Nam, Yên Mỹ của Thanh
Trì… Hình thành các vùng trồng hoa mới ở Tây Tựu - Thanh Trì, vùng cây ăn quả ở Từ
Liêm… Nông nghiệp của thủ đô bắt đầu hình thành nông nghiệp sinh thái bền vững kết
hợp với du lịch.
- Cùng với phát triển sản xuất, quản lý trong nông nghiệp - nông thôn cũng có
thay đổi phù hợp với sản xuất. Đã xuất hiện trên 300 trang trại sản xuất nông sản hàng
hoá có hiệu quả cao.
2.2.2.2 Những hạn chế của nông nghiệp Hà nội giai đoạn 1990 - 2000
- Sản xuất nông nghiệp của thủ đô vẫn chưa khắc phục được tình trạng sản xuất
nhỏ manh mún, nông sản hàng hoá phân tán…
- Tốc độ tăng trưởng chưa ổn định, chuyển dịch trong nội bộ ngành nông nghiệp
còn chậm, chất lượng sản phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm chưa cao, chưa có địa chỉ
tiêu thụ, giá thành còn cao…
- Qui trình CNH, đô thị hoá diễn ra nhanh và tự phát đã làm tăng ô nhiễm, cảnh
quan môi trường bị huỷ hoại. Diện tích đất nông nghiệp, diện tích ao hồ giảm, nhiều mô
hình sản xuất tập trung thâm canh cao, sử dụng quá mức phân hóa học, thuốc sâu, hóa
chất và thức ăn công nghiệp tạo ra hệ sinh thái nông nghiệp không bền vững, ít tác dụng
trong cải thiện môi trường sinh thái. Đồng thời phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái
chưa được quan tâm đầy đủ và chưa có định hướng rõ ràng.
2.2.3 Phát triển công nghiệp và xây dựng ở nông thôn ngoại thành
2.2.3.1 Những thành tựu đạt được
- Sản xuất công nghiệp TTCN và xây dựng tăng trưởng liên tục, tốc độ tăng
trưởng bình quân 13,65%/ năm, trong đó khu vực ngoài quốc doanh tăng 15,3%/ năm,
riêng công nghiệp TTCN tăng 11,85%/ năm.
- Các huyện ngoại thành đã thu hút nhiều dự án đầu tư nước ngoài và hình thành
nên nhiều khu công nghiệp mới như khu công nghiệp Đài Tư, khu công nghiệp Sài
Đồng A, khu công nghiệp DAEWOO, khu công nghiệp Nội Bài, khu công nghiệp Bắc
và Nam Thăng Long, khu công nghiệp Cầu Bươu…
- Đã hình thành nhiều khu công nghiệp vừa và nhỏ như khu công nghiệp Từ
Liêm, Phú Thượng, Dương Xá, Kiêu Kỵ, Vĩnh Tuy, Nguyên Khê… Nhiều ngành nghề
và làng nghề thủ công truyền thống được khôi phục và phát triển thêm nhiều ngành
nghề mới. Hiện tại ở ngoại thành Hà Nội có 83 làng nghề sản xuất công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp.
- Số doanh nghiệp và cơ sở sản xuất công nghiệp - TTCN không ngừng tăng lên.
Sản xuất công nghiệp và TTCN bước đầu được đổi mới, kết hợp công nghệ truyền
thống với công nghệ tiên tiến hiện đại, đã nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng
suất lao động và hiệu quả sản xuất.
- Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và làng nghề tập trung vào các nhóm sản phẩm
chủ yếu sau: Gốm sứ, dệt may, thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu song, mây, tre, nứa lá,
sản phẩm chế biến lương thực thực phẩm, chế biến đồ gỗ dân dụng, nghề điêu khắc,
chạm khảm và điêu khắc…
2.2.3.2 Những khó khăn hạn chế:
- Công nghệ và cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp, năng suất và chất lượng sản
phẩm chưa cao, giá thành sản phẩm còn cao, thiếu sức cạnh tranh.
- Tình trạng ô nhiễm môi trường ở nông thôn đã đến mức báo động và ngày càng
nghiêm trọng.
- Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phần lớn là tự phát, phân tán,
chưa có tổ chức quản lý và quy hoạch thống nhất, bởi vậy đầu tư hạ tầng cơ sở vật chất:
Điện, nước, giao thông v.v… chưa đồng bộ.
2.2.4 Thương mại dịch vụ nông thôn ngoại thành
2.2.4.1 Những kết quả đạt được
- Hoạt động thương mại và dịch vụ phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng bình quân
16,34%/năm.
- Ngoài thương mại và dịch vụ quốc doanh, thương mại và dịch vụ của tư thương
ở ngoại thành tăng trưởng khá nhanh, năm 1990 có 13.631 hộ đến năm 2000 có 18.597
hộ.
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa khu vực ngoại thành năm 1990 là 718 tỷ đồng, năm
2000 đạt 5400 tỷ đồng.
- Đã hình thành một số chợ đầu mối, nâng cấp chợ nông thôn và các trung tâm
thương mại dịch vụ tại các huyện ngoại thành.
- Hoạt động thương mại và dịch vụ của thương nhân ở thị trường nông thôn được
khuyến khích đã góp phần tích cực phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân ngoại
thành.
2.2.4.2 Những tồn tại:
- Thương mại và dịch vụ ở khu vực ngoại thành chủ yếu do tư thương và dịch vụ
tư nhân, thương mại và dịch vụ quốc doanh chiếm tỷ lệ thấp nên việc quản lý và kiểm
soát đang là vấn đề nổi cộm.
- Cơ sở vật chất kỹ thật của thương mại và dịch vụ của khu vực ngoại thành chưa
đáp ứng được phát triển kinh tế, văn hoá và đời sống vật chất tinh thần của dân cư khu
vực ngoại thành
- Các doanh nghiệp chế biến và hoạt động xuất khẩu tiêu thụ các sản phẩm nông
sản còn ít và ít chú ý đến thị trường nông sản của ngoại thành do khối lượng còn hạn
chế, phân tán nhỏ lẻ…
2.2.5. Xây dựng cơ sở hạ tầng:
2.2.5.1 Những thành tựu đạt được
- Được sự quan tâm của thành uỷ và chính quyền các cấp, trong 10 năm qua,
nhất là 5 năm 1996 - 2000, đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn ngoại thành tăng khá,
đã tạo tiền đề cho phát triển sản xuất và cải thiện bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống
vật chất tinh thần của dân cư ngoại thành. Trong 5 năm 1995 - 2000 kết quả đầu tư cho
nông nghiệp và nông thôn ngoại thành như sau:
-Tổng vốn đầu tư cho kinh tế nông thôn ngoại thành từ năm 1995 đến năm 2000
là 511,5 tỷ đồng, bình quân 1 năm là 102,3 tỷ đồng. Tập trung vào các lĩnh vực: Đầu tư
cho các trạm trại nông lâm ngư nghiệp 4307 triệu đồng/ năm. Đầu tư cho trồng rừng
phủ xanh đất trống đồi trọc thuộc chương trình 5 triệu ha rừng và chương trình 327 bình
quân năm là 2.883 triệu đồng/năm. Đầu tư cho thuỷ lợi là 24.457 triệu đồng/năm. Đầu
tư cho giao thông ngoại thành trong các năm 1996 - 2000 đạt 161.070 triệu đồng/năm.
Đầu tư cho nâng cấp hệ thống điện nông thôn bình quân năm đạt 16.926 triệu
đồng/năm. Đầu tư cho hệ thống nước sạch nông thôn 14.070 triệu đồng cho 22 công
trình nước sạch nông thôn…. Đầu tư cho tu bổ đê điều bình quân 14.753 triệu
đồng/năm.
- Hệ thống giao thông nông thôn đã được nâng cấp hệ thống đường liên xã, liên
thôn, đường thôn đã được trải nhựa, bê tông và lát gạch đạt 70%. Hệ thống đê điều đã
đảm bảo vững chắc trong mùa mưa bão. Hệ thống thuỷ lợi đã đảm bảo 70% tưới và
40% diện tích tiêu chủ động.
- Hệ thống điện đã phủ kín 100% số thôn ở ngoại thành và 100% số hộ sử dụng
điện trong sinh hoạt.
- Hệ thống nước sạch đã có 38 trạm cấp nước tập trung và chục ngàn giếng khoan
UNICEF đảm bảo cấp nước sạch cho 65% dân số ngoại thành...
- Hệ thống trường học: Đến nay 100% trường PTTH, 83% trường PTCS, 81%
trường tiểu học, 68% trường mẫu giáo mầm non đã được xây dựng kiên cố, không còn
tình trạng học 3 ca. Các huyện đều có trung tâm dạy nghề, trung tâm giáo dục thường
xuyên đào tạo nghề và học nghề cho thanh thiếu niên.
- Hệ thống y tế: 100% số xã có trạm Y tế, bình quân 1000 dân có 0.56 giường
bệnh. Các trung tâm y tế huyện được nâng cấp, tăng số giường bệnh và trang thiết bị,
cùng với hệ thống mạng lưới y tế xã đã phục vụ và chăm sóc sức khoẻ tốt hơn cho nhân
dân ở nông thôn. 83,1% số xã có sân thể thao, 100% số xã có đài truyền thanh và 51%
số xã có nhà văn hoá…
2.2.6 Phát triển văn hoá xã hội
- Giáo dục đào tạo: Việc xã hội hoá công tác giáo dục và đào tạo đã đạt được kết
quả khá, nội dung giáo dục được đổi mới, chất lượng giáo dục được giữ vững. Tỷ lệ trẻ
em đến lớp mẫu giáo mầm non đạt 73,4%, tỷ lệ trẻ em 6 tuổi đi học lớp 1 đạt 99,2%,
100% học sinh đạt tốt nghiệp tiểu học, 100% số xã đạt tỷ lệ phổ cập giáo dục cấp phổ
thông cơ sở. Tuy nhiên cơ sở vật chất và trang thiết bị đồ dùng học tập và giảng dạy
giữa ngoại thành và nội thành còn có sự khác biệt lớn, các trường ngoại thành còn thiếu
thốn nhiều.
- Chăm sóc sức khoẻ: Hệ thống y tế ở tuyến huyện, tuyến xã đều được quan tâm
đầu tư nâng cấp. Cả 5 huyện ngoại thành đều có trung tâm y tế huyện (bệnh viên Đa
khoa), các xã đều có trạm y tế xã có từ 4 - 10 giường bệnh, có bác sĩ và các y sĩ chuyên
khoa... Hoạt động chuyên môn của ngành y tế liên tục được mở rộng trong các lĩnh vực:
Phòng chống dịch bệnh và tai nạn thương tích, tiêm chủng mở rộng; công tác kế hoạch
hoá gia đình; chương trình bảo vệ bà mẹ trẻ em và chăm sóc sức khoẻ sinh sản, chương
trình phòng chống HIV/AIDS. Kết quả tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 15,5%.
Tuổi thọ trung bình tăng…
2.2.7 Thể dục thể thao.
Phong trào luyện tập Thể dục thể thao phát triển khá và mang tính xã hội hoá cao,
phát triển manh như cầu lông, bóng bàn, bóng đá, một số môn võ thuật… Phong trào
hoạt động văn hoá văn nghệ phát triển khá. Năm 2000 có 310 làng xây dựng làng văn
hoá, 73,2% số hộ nông thôn đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá. Tuy nhiên hoạt động kinh
doanh dịch vụ vui chơi giải trí ở khu vực ngoại thành còn hạn chế, thiếu sự kiểm soát và
quản lý… Các trung tâm thể thao chưa phát triển…
2.2.8 Sinh thái vệ sinh môi trường nông thôn
Nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở nông thôn làm thay đổi bộ mặt nông thôn nông
nghiệp ngoại thành, vệ sinh môi trường tốt hơn. Tuy nhiên do đô thị hoá nông thôn diễn
ra tự phát, nên phá vỡ sinh thái môi trường nông thôn, nhà vườn ở ngoại thành ven đô
đã đi vào dĩ vãng. Đô thị hoá nông thôn, thiếu qui hoạch, thiếu đồng bộ giữa xây dựng
kiến trúc với cảnh quan sinh thái với vệ sinh môi trường.
2.2.9 Đời sống vật chất tinh thần của nông dân
- Đời sống vật chất của nông dân ngoại thành đã nâng lên đáng kể, thu nhập bình
quân đầu người đạt trên 300 nghìn đồng/ tháng; tỷ lệ hộ giàu đạt 25%, tỷ lệ hộ nghèo
chỉ còn 9,5% (theo tiêu chuẩn mới).
- Giải quyết việc làm đã được cải thiện đáng kể, hàng năm từ 1996 - 2000 mỗi
năm giải quyết được 40.000 - 50.000 việc làm, tỷ lệ nông nhàn đã giảm.
- Đời sống tinh thần đã được cải thiện một bước, phương tiện thông tin nghe nhìn
cá nhân và phương tiện thông tin công cộng đã cung cấp kịp thời những thông tin kinh
tế chính trị, xã hội.
2.3 Đánh giá về thực trạng trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn ngoại thành
Hà Nội 1991-2000
2.3.1. Thành tựu trong phát triển kinh tế xã hội
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế ngoại thành phát triển toàn diện và đạt ở mức cao,
tốc độ tăng trưởng bình quân 10.65%/ năm. Cơ cấu kinh tế ngoại thành đã có bước bức
phá, đưa công nghiệp TTCN lên vị trí hàng đầu, nông nghiệp tụt xuống hàng thứ 2 và
kế đến là thương mại dịch vụ.
- Nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng không cao nhưng vẫn duy trì được tốc độ phát triển
của giai đoạn trước, vẫn là ngành có vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của thủ đô,
nhất là kinh tế ngoại thành, tốc độ tăng trưởng bình quân năm 5.05%/ năm. Trong nội
bộ ngành nông nghiệp, tỷ trọng của chăn nuôi thuỷ sản có xu hướng tăng, tỷ trọng của
ngành trồng trọt có xu hướng giảm. Trong nông nghiệp bước đầu hình thành các vùng
sản xuất nông sản hàng hoá tập trung, những nông sản có giá trị kinh tế cao và nông sản
là hoa cây cảnh có xu hướng phát triển mạnh. Những kỹ thuật tiến bộ và công nghệ cao
đang được đưa vào sản xuất ra những nông sản có chất lượng và đảm bảo an toàn thực
phẩm. Nông nghiệp đô thị sinh thái đã xuất hiện những điểm sáng trong nông nghiệp
thủ đô và là xu hướng phát triển tất yếu của nông nghiệp ven đô.
- Sản xuất Công nghiệp TTCN có tốc độ tăng trưởng cao 11,81%/ năm và đã
chiếm vị trí thứ nhất trong kinh tế ngoại thành. Hình thành các khu, cụm công nghiệp
tập trung ở ngoại thành, các làng nghề và ngành nghề truyền thống đã được khôi phục
và phát triển mở rộng các ngành nghề mới.
- Thương mại dịch vụ du lịch có tốc độ tăng trưởng cao 16,34%/năm. Thương
mại dịch vụ tư nhân phát triển ở khu vực nông thôn ngoại thành, đã phục vụ tốt cho
kinh tế ngoại thành và phục vụ cho dân sinh, bổ sung cho thương mại dịch vụ quốc
doanh.
- Hạ tầng cơ sở (giao thông, thuỷ lợi, điện nước, hệ thống trạm trại hệ thống hạ
tầng giáo dục, thông tin, y tế, văn hoá..) Đã được đầu tư nâng cấp tạo bộ mặt mới cho
nông thôn ngoại thành, phục vụ dân sinh.
- Phát triển văn hoá, xã hội, thể dục thể thao, vệ sinh môi trường đã góp phần
nâng cao đời sống tinh thần, nâng cao trí lực và thể lực của dân ngoại thành…
2.3.2 Những tồn tại hạn chế
- Nhịp độ tăng trưởng kinh tế nói chung, kinh tế ngoại thành nhất là nông nghiệp
chưa ổn định, sản xuất nông sản hàng hoá phát triển chậm với qui mô nhỏ và phân tán,
chất lượng nông sản hàng hoá chưa cao, chưa đáp ứng được đòi hỏi cao của nhu cầu
tiêu dùng ở đô thị nhất là thực phẩm.
- Cơ cấu kinh tế nông thôn và nông nghiệp có chuyển dịch nhưng chậm chưa tạo
ra được sự bứt phá mạnh mẽ, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi tuy đã có chuyển
dịch, nhưng chậm và chưa rõ ràng, diện tích trồng cây lương thực có hạt còn chiếm tỷ
trọng lớn, sản xuất thực phẩm chất lượng cao an toàn chiếm tỷ trọng còn thấp, chưa có
cơ chế hỗ trợ trong tiêu thụ.
- áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, công nghệ sinh học vào công
nghiệp, TTCN và ngành nghề truyền thống còn thấp, chưa tạo ra sản phẩm có chất
lượng cao và độc đáo của riêng nông nghiệp nông thôn ngoại thành, đặc biệt trong áp
dụng công nghệ sinh học trong nhân giống cây trồng, vật nuôi, trong bảo quản chế biến
sau thu hoạch.
- Hệ thống hạ tầng cơ sở đã được tăng cường kể cả cơ sở vật chất kỹ thuật phục
vụ sản xuất, phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế và văn hoá xã hội. Nhưng nhìn chung
qui mô còn nhỏ, dàn trải, thiếu đồng bộ và lạc hậu, phát huy tác dụng còn thấp.
- Quan hệ sản xuất trong nông thôn và nông nghiệp còn nhiều hạn chế, tuy có
quan tâm nhưng còn lúng túng chưa có định hướng rõ và có biện pháp cụ thể quyết liệt.
Tình trạng buông lỏng quản lý còn diễn ra khá phổ biến, nhất là quản lý đất đai, quản lý
xây dựng theo qui hoạch ở nông thôn ngoại thành.
- Về mặt xã hội còn một lực lượng lao động dôi dư chưa được bố trí việc làm do
thu hẹp diện tích đất nông nghiệp và 6-8% lao động nông nghiệp không có việc làm
thường xuyên; lao động qua đào tạo nghề chiếm tỷ lệ thấp, các tệ nạn xã hội còn diễn
biến phức tạp. Môi trường sinh thái đô thị và nông thôn chưa kết hợp hài hoà, ô nhiễm
môi trường đang có xu hướng gia tăng ở khu vực nông nghiệp, nông thôn ngoại thành .
2.3.3. Nguyên nhân
Tồn tại trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, nguyên nhân khách quan
do diễn biến của thiên nhiên, tác động của khủng khoảng kinh tế khu vực và trên thế
giới dẫn đến thị trường giá cả liên tục biến động đã ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của
Hà Nội nói chung và kinh tế ngoại thành nói riêng. Bên cạnh đó có nguyên nhân chủ
quan đáng chú ý là:
- Trong nhận thức và quan điểm trong phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn
ngoại thành còn nhiều ý kiến, không thống nhất cao nên trong định hướng chỉ đạo, còn
nhiều lúng túng, đầu tư còn dàn trải.
- Trong triển khai thực hiện các chính sách của Trung ương và Thành phố còn
thiếu kiên quyết. Hệ thống chính sách chưa đồng bộ, còn chồng chéo nên triển khai
trong thực tế còn chậm và nhiều vướng mắc chưa được tháo gỡ kịp thời.
- Vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp, chưa tìm được khâu đột phá
để đầu tư mạnh, tạo ra sự bức phá trong sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông
thôn. Vì vậy, kinh tế nông nghiệp và nông thôn ngoại thành tốc độ phát triển chưa ổn
định. Chưa đầu tư và chú ý đúng mức cho việc qui hoạch nông nghiệp, nông thôn; để
đầu tư theo đúng qui hoạch và nâng cao hiệu quả của đầu tư. Đầu tư cho nghiên cứu
khoa học, nhất là nghiên cứu kinh tế xã hội của nông nghiệp, nông thôn ngoại thành
chưa được quan tâm đúng mức; bởi nông nghiệp và nông thôn ven đô có đặc thù riêng,
có tiềm năng và có những hạn chế mà không giống bất cứ một tỉnh, thành phố nào. Do
đó các chính sách của Thành phố phải được nghiên cứu cụ thể hoá cho phù hợp với đặc
thù nông nghiệp, nông thôn ven đô.
- Trình độ năng lực tổ chức quản lý của đội ngũ cán bộ cơ sở nhất là cấp xã chưa
đáp ứng được đòi hỏi của kinh tế thị trường và trong đặc thù của kinh tế nông thôn,
nông nghiệp ven đô.
2.4 Đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá
nông thôn Hà Nội giai đoạn 2001 - 2005
2.4.1 Nông nghiệp tăng trưởng liên tục toàn diện theo cơ cấu tiến bộ
2.4.1.1 Tăng trưởng nông nghiệp: Mặc dù đất nông nghiệp trong những năm qua
giảm mạnh (mỗi năm giảm khoảng 1000 ha do quá trình đô thị hóa), và có hàng ngàn ha
đất nông nghiệp bị ảnh hưởng do phải chờ dự án không sản xuất được hoặc bị sâu bệnh,
chuột phá hoại cho năng suất thấp, nhưng tổng giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn tăng
trung bình 2,25% năm (giai đoạn 2001-2004, giá cố dịnh 1994). Dự kiến đến năm 2005
bình quân tăng trên 2,5%. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 ha đất nông nghiệp tính
theo giá thực tế năm 2002 đạt 43,5 triệu đồng; năm 2003 đạt 47,0 triệu đồng, bằng 94%
mục tiêu của năm 2005 (cao nhất huyện Từ Liêm giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 67,7
triệu/1 ha, thấp nhất huyện Sóc Sơn đạt 34 triệu/1 ha đất nông nghiệp).
Biểu số 2: GDP của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2001 - 2005
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng sản phẩm nội địa 31.513 35.717 41.944 47.953 53.707 60.152
CN-XD 11.606 13.153 14.853 19.403 22.507 26.108
DV 18.966 22.613 26.032 27.422 30.039 32.847
NLN 914 951 1.059 1.128 1.161 1.197
Số liệu 2005là số liệu dự báo của đề tài
Biểu số 3: Cơ cấu GDP của Hà Nội giai đoạn 2001 - 2005
Đơn vị: %
2000 2001 2002 2003 2004 2005 Chỉ tiêu
Tổng sản phẩm nội địa 100,00 100,00 100,00 100,0 100,00 100,00
CN-XD 35,13 36,83 35,41 40,46 41,91 43,40
DV 60,18 63,31 62,06 57,19 55,93 54,61
NLN 2,99 2,66 2,53 2,53 2,16 1,99
- Về trồng trọt: Tổng giá trị sản xuất ngành trồng trọt (giá cố định) từ 2001 - 2003
tăng trung bình mỗi năm 1,0%; năm 2001 đạt 701.836 triệu đồng giảm 5,5% so với năm
2000 do năm 2001 thời tiết có những thay đổi bất thường ảnh hưởng không tốt cho sản
xuất nông nghiệp (mưa, hạn, sâu bệnh, …); năm 2002 đạt 754.786 triệu đồng tăng
4,56% so với năm 2001; năm 2003 đạt 784.161 triệu đồng tăng 3,89% so với năm 2002.
Nhìn tổng thể, các nhóm cây trồng có giá trị lớn đang chuyển dịch theo hướng tích cực,
hợp lý, phù hợp với quá trình phát triển sản xuất hàng hóa, ngoại trừ nhóm cây lâu năm
sản xuất còn bấp bênh chưa ổn định. Đã đưa vào sản xuất thành công một số giống cây
trồng vật nuôi mới có năng suất chất lượng cao như: Các giống rau cao cấp, các giống
hoa mới, áp dụng việc nhân giống một số loài hoa cao cấp bằng công nghệ cấy mô tế
bào (INVITRTO). Từ năm 2000 đến 2004 đã giảm hơn 6839 ha diện tích trồng lúa để
trồng hoa, rau sạch, cây ăn quả nuôi trồng thuỷ sản. Diện tích cây ăn quả tăng từ 2.565
ha năm 2000 lên 2751 ha năm 2004 tăng 7,52%. Diện tích trồng hoa tăng từ 1.562 ha
năm 2000 lên 1.627 ha năm 2004. Diện tích trồng rau đạt 8.806 ha, trong đó rau an toàn
đạt 4.100 ha, năm 2005. Nhiều vùng nông dân đã mạnh dạn chuyển đổi một phần diện
tích trồng lúa sang trồng các cây khác, hình thành những vùng sản xuất hàng hóa tập
trung như: Vùng trồng hoa Tây Tựu (Từ Liêm), vùng trồng rau sạch Văn Đức, Đặng
Xá, Đông Dư (Gia Lâm), Vân Nội (Đông Anh), Lĩnh Nam (Thanh Trì), …
- Về chăn nuôi, thuỷ sản: Ngành chăn nuôi, thuỷ sản có những bước tiến đáng kể:
Chăn nuôi gia cầm phát triển nhanh, ngành thuỷ sản và bò sữa có nhiều tiến triển, các
sản phẩm chăn nuôi phát triển theo hướng đa dạng và chất lượng, lợn nạc, gà thả vườn,
cá chim trắng, tôm càng xanh đang phát triển nhanh. Tốc độ tăng trưởng trung bình mỗi
năm đạt 3,44%. Giá trị ngành chăn nuôi năm 2001 là 492,52 tỷ đồng tăng 7,5% so với
năm 2000; năm 2002 đạt 515,12 tỷ đồng tăng 4,35% so với năm 2001; năm 2003 ước
đạt 529,257 tỷ đồng tăng 2,74%. Năm 2004 đạt 371,12 tỷ đồng giá cố định.
- Diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm 2004 đạt 3.345 ha tăng 17% so với năm
2003. Một số địa phương đã mạnh dạn chuyển diện tích trồng lúa năng suất thấp bấp
bênh sang nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với chăn nuôi và trồng cây ăn quả.
2.4.1.2 Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trong 3 năm qua có sự thay đổi tích
cực theo hướng tiến bộ: Năm 2000 cơ cấu ngành trồng trọt chiếm 61,70%; ngành chăn
nuôi chiếm 35,92%. Năm 2004 cơ cấu ngành trồng trọt chiếm 58,9%; ngành chăn nuôi
chiếm 39,61%. Trong từng ngành trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, sản xuất các sản phẩm
có chất lượng cao, an toàn thực phẩm tăng nhanh. Trong những năm qua, nhiều vùng
nông dân đã mạnh dạn chuyển đổi một phần diện tích đất trồng lúa sang trồng các cây
khác, bước đầu hình thành những vùng sản xuất hàng hóa tập trung như: Vùng trồng
hoa Tây Tựu (Từ Liêm), vùng trồng rau sạch Văn Đức, Đặng Xá, Đông Dư (Gia Lâm),
…
Biểu số 4: Giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp - thuỷ sản
(giá thực tế) Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng số 1600577 1638949 1752646 1834071 1889093 1945765
1. N LN 1523906 1551752 1649762 1717791 1758745 1807676
a. Nông nghiệp 1510473 1538326 1636460 1709541 1751711 1800585
- Trồng trọt 931921 887703 932088 996908 1017552 1035394
- Chăn nuôi 542556 612263 666007 673853 693870 723871
- Dịch vụ 35986 38360 38365 38780 40289 41320
b. Lâm nghiệp 13433 13426 13302 8250 7034 7031
2. Thuỷ sản 76671 87196 102884 116280 130348 138149
Số liệu thống kê Hà nội qua các năm, năm 2005 là cố định
Biểu số 5: Cơ cấu giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp – thuỷ sản
Đơn vị: %
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
1. Nông- Lâm nghiệp 95.20 94.68 94.13 93.66 93.10 92.90
a. Nông nghiệp 99.12 99.13 99.19 99.52 99.60 99.61
+ Trồng trọt 61.70 57.71 56.96 58.31 58.09 57.50
+ Chăn nuôi 35.92 39.80 40.70 39.42 39.61 40.20
+ Dịch vụ 2.38 2.49 2.34 2.27 2.30 2.30
b. Lâm nghiệp 0.88 0.87 0.81 0.48 0.40 0.39
2. Thủy sản 4.80 5.32 5.87 6.34 6.90 7.10
Số liệu thống kê Hà nội qua các năm, năm 2005 là cố định
2.4.2 Kinh tế nông thôn tăng trưởng liên tục toàn diện và chuyển dịch cơ cấu
đúng
2.4.2.1 Ngành công nghiệp và xây dựng:
- Giá trị sản xuất CN - TTCN - XDCB tăng trung bình một năm 21% (năm 2001
đạt 1.555,41 tỷ đồng tăng 13% so với năm 2000. Năm 2002 đạt 2.092,27 tỷ đồng tăng
34,52% so với năm 2001; Năm 2003 đạt 2.794,90 tỷ tăng 33,58% so với năm 2002 và
tăng 200% so với năm 2000) trong phạm vi quản lý của các huyện và thành phố. Trong
phạm vi lãnh thổ giai đoạn 2001-2005 ngành CN-XD tăng bình quân 21% năm với tổng
giá trị đến năm 2005 dự kiến đạt 12.993 tỉ đồng.
- Cùng với các khu công nghiệp lớn như: Sài Đồng A, Đền Lừ, Mai Động, dự án
phía Nam Hà Nội, Nội Bài, Bắc Thăng Long đã hình thành các khu công nghiệp vừa và
nhỏ: Từ Liêm, Phú Thuỵ, Dương Xá …, đã bước đầu đi vào sản xuất thu hút khối lượng
lao động nông nghiệp lớn.
- Công nghiệp chế biến nông lâm sản đang có xu hướng phát triển. Tính đến năm
2002 Hà Nội có 22 cơ sở chế biến quốc doanh và khoảng 7.000 cơ sở chế biến nông lâm
sản, thực phẩm, đồ uống và chế biến gỗ. So với năm 2000 tăng 902 cơ sở chế biến nông
sản. Giá trị sản xuất chế biến nông sản năm 2003 ước 1.761 tỷ đồng chiếm tỷ trọng
5,8% so với giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố. Tốc độ tăng trưởng
bình quân đạt 13,12%/năm.
- Ngành nghề thủ công truyền thống của ngoại thành đang có điều kiện phục hồi
phát triển tốt. Hiện nay Hà Nội có 83 làng nghề sản xuất CN - TTCN chiếm 10,8% so
với tổng làng ở ngoại thành. Có 44 xã có nghề bằng 37,3% tổng số xã ngoại thành, hàng
ngàn lao động dư thừa trong nông nghiệp. Nhiều ngành nghề nông thôn.
- Công nghiệp Vĩnh Tuy, Từ Liêm, Dương Xá bước đầu đi vào sản xuất, thu hút
Ngoại thành đã hình thành những khu công nghiệp vừa và nhỏ: Khu được khuyến khích
phát triển như: May mặc, hàng da, giả da, đồ gỗ, đan lát. Công nghệ tiên tiến trong sản
xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp bước đầu được đưa vào ứng dụng như: Nung
gốm sứ bằng lò ga, phun sơn, thay vecny, nhiều khâu sản xuất được cơ khí hóa. Sản
xuất CN - TTCN, ngành nghề nông thôn được mở rộng nên đã thúc đẩy kinh tế ngoại
thành phát triển, đời sống của người lao động được nâng cao góp phần phân công lại lao
động, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động dư thừa trong nông nghiệp.
Biểu số 6: Hiện trạng phát triển kinh tế nông thôn ngoại thành Hà Nội giai đoạn
2001-2005
Đơn vị: tỉ đồng
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005
CN-XD 5009 6.061 7.334 8.874 10.737 12.993
Dv 2599 2.884 3.202 3.554 3.945 4.379
NLN 1239 1.277 1.315 1.354 1.395 1.436
Tống số 8847 10.222 11.851 13.782 16.077 18.808
Tốc độ tăng trưởng bình quân năm :15,5%
Tốc độ tăng trưởng bình quân ngành công nghiệp và xây dựng:21%
Tốc độ tăng trưởng bình quân ngành dịch vụ: 11%
Tốc độ tăng trưởng bình quân ngành NLN: 3%
Biểu số 7: Cơ cấu phát triển kinh tế nông thôn Hà Nội 2001-2005
Đơn vị : %
2000 2001 2002 2003 2004 2005 Chỉ tiêu
55,62 59,29 61,89 64,39 66,78 69,08 CN-XD
29,38 28,22 27,10 25,79 24,54 23,28 Dv
14,00 12,49 11.01 9,82 8,68 7,64 NLN
Tống số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
2.4.2.2 Thương mại dịch vụ:
- Giá trị sản xuất ngành thương mại dịch vụ tăng trung bình mỗi năm 11%. Nhiều
trung tâm thương mại chợ nông thôn (nhất là các chợ đầu mối) được xây dựng, nâng
cấp. Toàn thành phố có 140 chợ: 10 chợ đầu mối, chợ loại I có 9 chợ, chợ loại 2 có 20
chợ, chợ loại 3 có 101 chợ, chợ đầu mối hoa Tây Tựu, chợ Trung Văn, chợ Dịch Vọng,
chợ cá Thanh Trì, chợ nông sản Ninh Hiệp … Tạo ra hệ thống thương mại dịch vụ phục
vụ cho nhu cầu tiêu thụ nông sản của nhân dân.
- Hà Nội đã mở thí điểm phiên chợ rau sạch và hình thành 60 cửa hàng bán rau
sạch cung cấp cho nhu cầu đời sống của nhân dân. Công tác kiểm tra giết mổ gia súc
được tăng cường nhằm mục tiêu cung cấp thực phẩm sạch cho người tiêu dùng. Hính
thành nhiều khu giết mổ gia cầm khép kín ở các chợ như: Long Biên, chợ Hôm …
2.4.2.3 Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn diễn ra rõ nét và chuyển
dịch theo hướng tiến bộ. Tỷ trọng ngành CN - XD tăng từ 55,62% năm 2000 lên
69,08% năm 2005;. Thương mại dịch vụ từ 29,38 % năm 2000 năm 2005 dự kiến
23,28%, và nông nghiệp giảm dần từ 14% năm 2000 còn 7,64% năm 2005. Kinh tế
nông thôn đã dần chuyển sang nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CN-DV-NLN
Do chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng toàn diện nên kinh tế ngoại thành tăng
bình quân 15,5% .
2.4.3 Cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được tăng
cường
- Đang đầu tư xây dựng một số khu sản xuất nông nghiệp kỹ thuật cao: Trung
tâm kỹ thuật rau hoa quả (24 tỷ đồng); Trại lợn giống ông bà thuộc công ty Giống Gia
súc Hà Nội (76 tỷ đồng), dự kiến khởi công và hoàn thành vào năm 2005; Đang chỉ đạo
xây dựng để phê duyệt các dự án kỹ thuật cao tại công ty Tam Thiên Mẫu (Sở nông
nghiệp và PTNN Hà Nội), xã Nam Hồng (Đông Anh) và dự án công viên nông nghiệp
công nghệ cao với diện tích 300 ha, kho sản xuất kỹ thuật cao Đông Mỹ.
- Đầu tư hình thành một số vùng sản xuất tập trung theo hướng hiện đại hóa: Khu
nuôi trồng thuỷ sản Đông Mỹ 60 ha, dự án 500 ha hoa Tây Tựu (Từ Liêm), dự án rau an
toàn ở Vân Hội (Đông Anh), Lĩnh Nam (Hoàng Mai), Đặng Xá (Gia Lâm) theo hướng
hiện đại hóa từ hệ thống giao thông nội đồng, thuỷ lợi, hệ thống tưới tiêu, nhà lưới…
- Đầu tư xây dựng nhà máy chế biến thịt lợn tại công ty Đông Thành (Sở nông
nghiệp và PTNN) với vốn vay ODA và hỗ trợ của nhà nước (dự án đang ở bước phê
duyệt); Dự án nhà máy chế biến thịt gia cầm tại công ty cổ phần Phúc Thịnh với số vốn
đầu tư 16 tỷ đồng (dự án đã được phê duyệt và chuẩn bị khởi công), cơ sở chế biến rau
quả Đông Anh, cơ sở giết mổ phía Nam thành phố …
- Cơ khí hóa trong nông nghiệp đã có 45% công nhận đất được sử dụng máy.
Khâu thu hoạch lúa gần 100% được cơ khí hóa. Máy kéo lớn trên 12 CV trung bình mới
có 0,24 cái/100 ha đất. Máy kéo nhỏ dưới 12 CV trung bình 2,28 cái/100 ha đất canh
tác. Xe ô tô vận tải, công nông có 8,41 cái/100 ha đất canh tác. Máy bơm nước có 433,2
cái/100 ha đất canh tác.
- Hiện nay trên địa bàn 5 huyện ngoại thành và 2 quận mới đang quản lý 418 trạm gồm 664 máy bơm tưới các loại có công suất từ 1000 - 81000 m3/h. Hệ thống thuỷ lợi
đảm bảo 70% diện tích được tưới và 40% diện tích được tiêu chủ động. Có nhiều hồ
chứa lớn nhỏ và 1.247 km kênh mương cấp I và cấp II thực hiện nhiệm vụ tưới cho
35.033 ha, tiêu 19050 ha phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh xã hội. Tỷ lệ cứng
hóa đạt 100% với kênh loại I, 47% đối với kênh loại II và 26% đối với kênh loại III.
- Đầu tư cho nông nghiệp nông thôn có xu hướng tăng: 3 năm (2001 - 2003) tổng
số vốn đầu tư phát triển các lĩnh vực hạ tầng, kỹ thuật nông nghiệp, nông thôn ước đạt
547 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách 497,6 tỷ đồng. Bình quân 165,9 tỷ đồng/năm gấp
1,8 lần so với vốn đầu tư bình quân thời kỳ 1996 -2000. Vốn huy động đóng góp của
dân ước tính 77 tỷ đồng (chủ yếu tập trung các lĩnh vực nước sạch nông thôn 10 tỷ, điện
nông thôn 22 tỷ, giao thông nông thôn 40 tỷ). Tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp nông
thôn năm 2000 là 21%. Năm 2003 đầu tư cho nông nghiệp nông thôn ước đạt 22,72%,
trong đó đầu tư trực tiếp cho nông nghiệp là 2,32%.
- Quá trình điện khí hóa nông thôn đã có bước tiến vượt bậc, đến 2001 có 100%
số xã có điện và 99,93% số hộ sử dụng điện. Tính đến năm 2002, đã đầu tư cải tạo nâng
cấp lưới điện nông thôn, hoàn thành 79 dự án/77 xã. Đến năm 2003 đã cơ bản hoàn
thành đề án điện nông thôn.
- Hệ thống đê kè sớm được tu bổ với chất lượng tốt, đảm bảo an toàn cho hệ
thống đê trong mùa mưa lũ.
- Hệ thống chợ nông thôn được tập trung đầu tư, đến cuối năm 2003 trên địa bàn
thành phố có tổng số 140 chợ. Các chợ đầu mối, chợ loại I và loại II được xây dựng
kiên cố và bán kiên cố. Hệ thống các chợ được đầu tư nâng cấp cải tạo và xây dựng mới
tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa và tiêu thụ nông sản của nông dân.
- Hệ thống giao thông nông thôn đã được quan tâm đầu tư xây dựng và nâng cấp.
- Hệ thống cấp nước sạch nông thôn đã được quan tâm. Đã đầu tư trong 5 năm từ
1998 - 2002 là 44,77 tỷ đồng đáp ứng được 73,5% số hộ được dùng nước sạch trong đó
có 25% số hộ được sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn, đạt 92% so với mục tiêu năm
2005.
2.4.4 Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa xã hội phát triển - Đời sống nhân dân
từng bước được cải thiện
- Hệ thống cơ sở giáo dục, trạm y tế đã được tăng cường mở rộng. 100% số xã có
trường tiểu học và trung học cơ sở; 16,1% số xã có trường phổ thông trung học, các cơ
sở nhà trẻ, mẫu giáo được duy trì, mở rộng, 100% số xã có nhà trẻ mẫu giáo. Trong lĩnh
vực y tế ngoài việc tăng cường số lượng y, bác sỹ cho các trạm y tế, việc mở rộng cho
các cơ sở khám chữa bệnh cũng được đặc biệt chú ý. Thống kê các đơn vị trên tuyến
huyện có 590 giường bệnh ở 4 bệnh viện huyện, 18 phòng khám đa khoa ở khu vực,
228 cơ sở y tế ở tuyến xã. Số bác sỹ bình quân 1 trạm y tế có trên 1 bác sỹ. Số y sỹ bình
quân mỗi trạm y tế là 2,34 người.
- 46.385 hộ dân (chiếm 17,1%) có điện thoại, 100% số xã có đài truyền thanh;
85% số xã có trạm bưu điện; 32,3% số xã có nhà văn hóa; 28,8% số xã có thư viện …
Những kết quả nêu trên của ngoại thành Hà Nội đều đạt cao hơn bình quân cả nước,
vùng đồng bằng sông Hồng và thành phố Hồ Chí Minh.
- Tỷ lệ trẻ em đến lớp mẫu giáo đạt 70%, tỷ lệ trẻ em 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%,
học sinh tốt nghiệp tiểu học đạt 100%. Thành phố đã hoàn thành việc phổ cập cấp II.
- Nhiều xã đăng ký xây dựng làng văn hóa, nhiều gia đình đăng ký xây dựng gia
đình văn hóa. Số xã có nhà văn hóa đạt 80%. Các xã đều có đài truyền thanh. Ước tính
90% số hộ nông dân ngoại thành được xem truyền hình. 30% số làng có trung tâm văn
hóa làng. Có 195/621 thôn làng đăng ký xây dựng làng văn hóa chiếm 32,8%.
- Đời sống vật chất tinh thần của nông dân từng bước được cải thiện. Thu nhập
người dân tăng (năm 2000 thu nhập bình quân người/tháng là 275.000đ; năm 2001 là
320.000đ; năm 2002 tăng lên 390.000đ; năm 2003 ước đạt 420.000đ bằng 82% so với
mục tiêu của năm 2005). Tỷ lệ hộ nghèo còn 3,2% (năm 2003), cao nhất huyện Sóc Sơn
4,3%, Thành phố không có hộ đói.
2.4.5 Quan hệ sản xuất XHCN được tiếp tuc đổi mới, tình hình chính trị -
trật tự an toàn xã hội được giữ vững
- Đã xuất hiện nhiều mô hình hợp tác xã mới thành lập, làm ăn có lãi. Số HTX
hoạt động khá chiếm 25%. Nhận thức của các cấp, các ngành đối với HTX đã có chuyển
biến tích cực và đã có sự quan tâm hơn.
- Kinh tế trang trại phát triển tạo bước tiến quan trọng trong sản xuất nông nghiệp
và kinh tế nông thôn. Thành phố đang tạo ra những cơ chế thuận lợi, ưu đãi để các chủ
trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Hiện nay toàn thành phố có 277 trang trại,
xu hướng phát triển của các trang trại là tập trung đầu tư vào các sản phẩm có ưu thế
của Hà Nội và gắn sản xuất với du lịch, dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư.
- Đến nay đã hoàn thành cơ bản việc giao đất vá cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nông nghiệp cho nông dân.
- Tập trung sắp xếp đổi mới phát triển doanh nghiệp nhà nước. Đã xây dựng kế
hoạch sắp xếp từ nay đến năm 2005. Trong đó ưu tiên đầu tư phát triển các doanh
nghiệp thực hiện nhiệm vụ công ích và dịch vụ giống cây trồng, vật nuôi, các đơn vị có
điều kiện phát triển công nghiệp chế biến.
- Hà Nội đang tập trung xây dựng trong năm 2004 bảy mô hình thí điểm doanh
nghiệp cổ phần nông thôn ở các huyện. Trong đó cổ đông là những pháp nhân và hộ
nông dân góp cổ phần bằng quyền sử dụng đất.
- Tình hình an ninh chính trị trật tự và an toàn xã hội được giữ vững, xã hội nông
thôn ổn định. Các tổ chức trong hệ thống chính trị được đổi mới, kiện toàn từng bước
qui chế dân chủ trong nông thôn được quan tâm thực hiện hơn trước.
2.5 Đánh giá những kết quả và hạn chế của nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện
đại hoá nông thôn Hà nội giai đoạn 2001 - 2005
2.5.1 Những kết quả đạt được
- Kinh tế nông thôn vẫn tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp – dịch vụ – nông nghịêp, tốc độ tăng trưởng nhanh, đạt 15 – 15,5. Cơ cấu kinh tế
nông thôn đạt: CN 66,78% - DV: 24,54% - NLN thuỷ sản: 8,68% năm 2004. Công
nghiệp, thủ công nghiệp phát triển nhanh nhiều khu công nghiệp lớn, khu công nghiệp
vừa và nhỏ đã xây dựng và đã đi vào hoạt động, một số nhà máy trong nội thành đã
chuyển dịch ra ngoại thành.
- Trong sản xuất nông nghiệp đã có chuyển dịch cơ cấu, trồng trọt giảm, chăn
nuôi tăng trong cơ cấu NLN, nông nghiệp đã đi theo hướng chuyên môn hóa một số cây
trồng tạo ra sản phẩm hàng hóa: Rau, hoa, cây ăn quả, chăn nuôi lợn nạc, gia cầm, thuỷ
sản, bò sữa… Đặc biệt chú ý chất lượng sản phẩm gắn với thị trường tiêu thụ và nâng
cao hiệu quả kinh tế.
- Hình thành một số mô hình nông nghiệp đô thị sinh thái gắn với du lịch như:
khu công viên sinh thái du lịch Từ Liêm, khu nuôi trồng thuỷ sản cây ăn quả du lịch
Đông Mỹ, khu công viên nông nghiệp sinh thái công nghệ cao Gia Lâm, khu sản xuất
nông nghiệp sinh thái du lịch Bắc Hà, Đông Anh …
- Cơ sở hạ tầng: Thuỷ lợi, điện, đường, trường, trạm v.v … đã được đầu tư , đáp
ứng yêu cầu cho sản xuất và đời sống góp phần vào hiện đại hóa nông thôn.
- Đời sống vật chất văn hóa xã hội nông thôn được cải thiện, giải quyết việc làm
đã có chuyển biến tích cực so với giai đoạn 1996 - 2000.
2.5.2 Những tồn tại và hạn chế
- Do tốc độ đô thị hóa và phát triển công nghiệp dịch vụ quá nhanh mang tính tự
phát đã làm thay đổi kiến trúc cảnh quan nông thôn ngoại thành, một số vùng quy hoạch
cũ bị phá vỡ … Đất nông nghiệp bị chia cắt, hệ thống thuỷ lợi bị mất tính liên hoàn
đồng bộ, ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí tăng. Đất vườn cây ăn quả, cây xanh
phân tán ở vùng ngoại ô giảm mạnh, diện tích ao hồ bị thu hẹp … đã tăng tác động xấu
đến môi trường sinh thái, cảnh quan đô thị và cả hệ sinh thái trong sản xuất nông
nghiệp.
- Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn phát
triển tự phát, thiếu quy hoạch và chưa có nhiều khu cụm công nghiệp, công nghệ lạc
hậu, không đồng bộ nhất là sử lý chất thải trong sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, do đó môi trường nông thôn biến đổi theo hướng tiêu cực.
- Đầu tư cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn chưa tương xứng với vai trò và
chức năng của nông nghiệp đô thị sinh thái. Mới đáp ứng tối thiểu cho sản xuất ra sản
phẩm, còn nông nghiệp sinh thái chưa coi trọng. Đầu từ cho nông nghiệp, nông thôn
còn rất thấp, mức độ công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn còn quá thấp. Những vấn
đề việc làm, đời sống xã hội ở nông thôn vẫn còn bức xúc. Khoảng cách giàu nghèo
giữa nội thành và ngoại thành, giữa người làm nông nghiệp và phi nông nghiệp có xu
hướng ngày càng cách xa.
- Nghiên cứu và chuyển giao thiết bị khoa học và công nghệ mới ở lĩnh vực nông
nghiệp – nông thôn còn rất hạn chế. Đầu tư cho nghiên cứu công nghệ sản xuất nông
nghiệp sạch, các mô hình nông nghiệp đô thị sinh thái, các mô hình nông nghiệp đô thị
sinh thái du lịch còn ở mức rất thấp.
- Nhiều chính sách của Nhà nước về nông nghiệp nông thôn triển khai chậm
hoặc không đủ điều kiện để triển khai. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành,
các cấp trong phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hóa nông thôn, thậm chí
sự quan liêu, phiền hà của bộ máy chính quyền làm cản trở đến phát triển nông nghiệp
đô thị sinh thái và hiện đại hóa nông thôn. Như triển khai chậm cấp sở quyền sử dụng
đất đã hạn chế đến chuyển nhượng tích tụ ruộng đất …
phần thứ ba
Phương hướng - giải pháp phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá
nông thôn
3.1 Những căn cứ để xây dựng phương án
3.1.1 Căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước đặc biệt là nghị
quyết 15 của Bộ chính trị và pháp lệnh Thủ đô cũng như các nghị quyết, chủ trương của
Đảng Bộ và UBND thành phố và chiến lược phát triển kinh tế xã hội thủ đô đến năm
2020. Quy hoạch phát triển nông nghiệp Hà Nội đến năm 2020.
3.1.2. Kinh tế trọng điểm Bắc bộ trong giai đoạn tới. Xu hướng hội nhập kinh tế
toàn cầu và đặc biệt Việt Nam sẽ gia nhập WTO vào cuối năm 2005.
3.1.3 Căn cứ vào tiềm năng đất đai, tài nguyên, nhân lực, tài chính v.v… và vị
thế thuận lợi của Thủ đô Hà Nội
3.1.4. Căn cứ vào những vấn đề lý luận cơ bản và phân tích hiện trạng phát triển
nông nghiệp, kinh tế xã hội nông thôn Hà Nội từ 1986 - 2005 và những bài học kinh
nghiệm được rút ra từ thực tiễn. Căn cứ vào xu thế phát triển kinh tế của thế giới, khu
vực, cả nước và vùng.
3.2. Quan điểm về phát triển
3.2.1. Phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái Hà Nội phải tạo ra hệ sinh thái Nông
nghiệp – Lâm nghiệp – Thuỷ sản bền vững, sử dụng công nghệ sạch thân thiện với môi
trường, theo mô hình nông trại sinh thái, phố vườn, vườn rừng kết hợp với du lịch. Tập
trung vào một số sản phẩm mũi nhọn: Hoa, cây cảnh, quả, rau, cây xanh, thịt gia cầm,
lợn nạc, thuỷ sản … được quản lý chặt chẽ từ sản xuất đến chế biến bảo quản và tiêu
thụ, đảm bảo chất lượng cao và an toàn vệ sinh thực phẩm.
3.2.2. Hiện đại hóa nông thôn Hà nội theo hướng hiện đại văn minh gắn liền với
bản sắc văn hóa dân tộc, đẩy mạnh CNH - HĐH công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ ở nông thôn, hình thành các cụm khu công nghiệp vừa và nhỏ, tập trung gắn với
xử lý và quản lý chất thải nhằm giảm thiểu tác động xấu đến phát triển nông nghiệp đô
thị sinh thái. Sử dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến, công nghệ thân thiện với môi
trường. Đầu tư đồng bộ hạ tầng, phục vụ cho sản xuất và hạ tầng phục vụ dân sinh cho
các vùng nông thôn.
3.2.3. Đầu tư tập trung với mức cao và ưu tiên tập trung cho các mô hình nông
nghiệp sinh thái. Đầu tư đồng bộ cho hạ tầng cơ sở nông thôn, ưu tiên cho cấp thoát và
xử lý nước thải cho các khu công nghiệp, đô thị, khu dân cư nông thôn. Đầu tư đẩy
nhanh CNH - HĐH ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn,
ưu tiên cho công nghệ hiện đại, tiên tiến, công nghệ thân thiện với môi trường.
3.2.4 Hoàn thiện hệ thống chính sách của thủ đô nhằm khuyến khích phát triển
nông nghiệp đô thị sinh thái bền vững, khuyến khích phát triển công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại, khuyến khích và đảm bảo
lợi ích cho những người sản xuất nông nghiệp đô thị sinh thái bền vững và sử dụng
công nghệ sạch trong mọi lĩnh vực.
3.2.5 Chỉ đạo quyết liệt đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ chế chuyển
đổi ruộng đất, tích tụ, tập trung ruộng đất để hình thành nông nghiệp đô thị sinh thái bền
vững với sản phẩm chất lượng cao, an toàn theo mô hình nông trại sinh thái, phố vườn,
rừng vườn … Đồng thời liên doanh, liên kết với các vùng nông nghịêp của Đồng băng
sông Hồng theo hướng nông nghiệp thủ đô cung cấp giống, công nghệ để sản xuất ra
nông sản thực phẩm chất lượng cao, an toàn, tổ chức mạng lưới phân phối tiêu thụ đáp
ứng nhu cầu của thị trường Hà nội.
Biểu số 8: Giá trị GDP của Hà Nội giai đoạn 2006 - 2010
Đơn vị: tỷ đồng
Tốc độ
Chỉ tiêu 2005 phát 2006 2007 2008 2009 2010
triển
11% GDP 60152 67388 75542 84734 95101 106800
10% - Dịch vụ 32847 36131 39745 43719 48091 52900
15% - CN và XD 26108 30024 34528 39707 45663. 52513
1197 3% 1233 1269 1308 1347 1387 - NLN
Biểu số 9: Cơ cấu GDP của Hà Nội giai đoạn 2006 - 2010
Đơn vị: %
GPD 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00
- Dịch vụ 54.61 53.62 52.61 51.60 50.57 49.53
- CN và XD 43.40 44.55 45.71 46.86 48.02 49.17
- NLN 1.99 1.83 1.68 1.54 1.42 1.30
3.3. Nhân tố ảnh hưởng đến nông nghiệp đô thị sinh thái và HĐH nông thôn
3.3.1. Mở rộng quy mô và tốc độ đô thị hoá của thủ đô Hà Nội có tác động trực
tiếp đến phát triển sản xuất nông nghiệp. Theo dự báo thì đất nông nghiệp Hà Nội chỉ
còn trên 33.000 ha vào năm 2010 và 30.000 ha vào năm 2020 do quá trình đô thị hoá.
Điều đó gây sức ép đến lao động việc làm ở nông thôn, mặt khác cũng có tác động tiêu
cực đến cuộc sống truyền thống ở nông thôn. Ngược lại đô thị hoá kích thích cho nông
nghiệp và nông thôn phát triển mở rộng thị trường tiêu thụ, khả năng tăng vốn đầu tư
cho thâm canh phát triển sản xuất. Dự báo về việc mở rộng thủ đô Hà Nội ra các thành
phố vệ tinh và việc phát triển thủ đô với các tỉnh trong khu trọng điểm của trục kinh tế
Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh sẽ có tác động to lớn đến phát triển nông nghiệp và
nông thôn Hà Nội.
Biểu số 10: Dự báo quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010
Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010
STT Danh Mục Diện tích Cơ cấu Diện tích Cơ cấu Diện tích Cơ cấu
(Ha) (%) (Ha) (%) (Ha) (%)
Tổng số 92.097 100 92.097 100 92.097 100
1 Đất nông nghiệp 43.612 47,36 38.404 41,70 33.146 36,32
2 Đất lâm nghiệp 6.128 6,65 7.663 8,33 7.703 8,36
3 Đất chuyên dùng 20.533 22,30 25.947 28,17 29.779 32,33
4 Đất ở (đô thị và nông thôn) 11.689 12,69 12.234 13,28 13.784 14,97
5 Đất chưa SD và sông suối 10.135 11,00 7.849 8,52 7.385 8,02
Nguồn: Báo cáo chuyên đề chiến lược về phát triển kinh tế ngoại thành UBND
Thành phố Hà nội 2 - 2001
3.3.2. Quá trình đô thị hóa và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của Thủ đô: Điện, giao
thông, cấp thoát nước, thông tin v.v… có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển nông nghiệp
đô thị sinh thái và hiện đại hóa nông thôn.
3.3.3. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới có tác động tích cực
vào phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội.
3.3.4. Hà Nội là một trong những trung tâm tài chính lớn của cả nước bởi vậy có
nhiều cơ hội thuận lợi để thu hút và huy động vốn đầu tư cho sự nghiệp CNH - HĐH.
3.3.5. Quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá tác động đến một cách nhanh
chóng và tích cực đến phát triển nông nghiệp sinh thái và hiện đại hoá nông thôn ngoại
thành Hà Nội. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp được mở rộng, nhu cầu tiêu
dùng của Thành phố cũng được tăng lên nhanh chóng do phát triển nhu cầu cá nhân và
tăng dân số.
Biểu số 11: Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội
Hiện trạng năm 2000 Dự báo nhu cầu năm Dự báo nhu cầu năm
2005 2010
Loại sản phẩm BQ sử dụng BQ sử dụng BQ sử dụng Nhu cầu Nhu cầu Nhu cầu Kg/người/nă Kg/người/nă Kg/người/nă (tấn) (tấn) (tấn) m m m
44.914 17 21 61.200 26 83.720 1. Thịt lợn hơi
3.435 1,3 3 8.750 5 16.100 2. Thịt bò hơi
9.775 3,7 6 17.500 9 29.000 3. Thịt gia cầm hơi
4. Trứng (1000 40 quả 105.680 70 quả 204.190 100 quả 322.000 quả)
10.570 4 10 29.170 20 64.400 5. Sữa tươi
21.140 8 11 32.080 15 48.300 6. Thuỷ sản
198.150 75 85 247.950 90 289.800 7. Rau các loại
158.520 60 70 204.190 80 257.600 8. Quả các loại
Nguồn: Báo cáo chuyên đề chiến lược về phát triển kinh tế ngoại thành UBND Thành
phố Hà nội 2 - 2001
3.4. Phương hướng phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông
thôn
3.4.1 Phát triển nông nghiệp theo đô thị sinh thái
3.4.1.1 Nông nghiệp Hà Nội phát triển theo điều kiện cụ thể của 3 vùng kinh tế
sinh thái, hay nói cách khác ba khu vực nông nghiệp Hà Nội
Thứ nhất: Diện tích đất nông nghiệp ở 9 quận đã quy hoạch được xác định trên
bản đồ qui hoạch đến năm 2020. Trong địa giới hành chính của mỗi quận đều còn lại
diện tích đất nông nghiệp xen kẽ với khu đô thị và công nghiệp. Đất nông nghiệp này
còn có thể sử dụng một thời gian cho đến khi phát triển đô thị và công nghiệp lấp kín.
Tổng diện tích đất nông nghiệp theo thống kê ban đầu còn khoảng 2.000 - 2.500 ha.
Phần lớn đất nông nghiệp nằm ở các quận mới thành lập quận Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh
Xuân, Hoàng Mai và Long Biên. Đối với diện tích đất nông nghiệp này có 3 trường hợp
diễn ra:
- Sẽ biến thành đất xây dựng nhà ở, công nghiệp v.v… trong giai đoạn tới, thời
gian khó xác định có thể 5 - 10 năm cho nên trong thời gian đó vẫn được sử dụng vào
sản xuất nông nghiệp.
- Một phần sẽ là đất sản xuất nông nghiệp lâu dài nhưng với quy mô nhỏ dưới
dạng nông nghiệp hộ gia đình.
- Một phần sẽ trở thành đất công viên, cây xanh v.v… trong tương lai.
Bởi vậy cần có định hướng đối với vùng sản xuất nông nghiệp này, không thể để
hoang hoá và chờ đợi chuyển thành đất xây dựng. Những vùng đất này có quy mô nhỏ,
xen kẽ với khu dân cư, công nghiệp, dịch vụ, các đường giao thông, kênh mương thuỷ
lợi chia cắt trong quá trình qui hoạch và phát triển thành phố, bị ô nhiễm môi trường
nước, không khí, các loại chuột bọ phá hoại; Phù hợp nhất là bố trí trồng hoa, cây cảnh
có giá trị cao, nếu có bị ô nhiễm, cũng ít ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.
Đồng thời có tác động tích cực đến môi trường đô thị. Về chăn nuôi: Khuyến khích nuôi
động vật cảnh.
Thứ hai: Phát triển nông nghiệp ở vùng giáp ranh giữa các quận, khu đô thị, khu
công nghiệp và các huyện. Đây là vùng nông nghiệp nhạy cảm có thể đa dạng hoá sản
xuất đáp ứng yêu cầu thị trường nội đô, thường có hiệu quả kinh tế cao, vì nó rất có điều
kiện thuận lợi về thị trường tiêu thụ và phát triển sản xuất. Nhưng ở vùng đất nông
nghiệp này cũng rất dễ bị biến động, khi mở rộng quy mô đô thị, tâm lý người dân
muốn chuyển nhượng quyền sử đất có thu nhập cao hơn đầu tư sản xuất. Vì vậy, bố trí
sản xuất nông nghiệp cho vùng này để trở thành vành đai nông nghiệp sinh thái, trong
vành đai này cần xác định các cây chủ lực: Cây rau, cây hoa, cây ăn quả, cây giống. Sản
phẩm chăn nuôi chính: Lợn nạc, gia cầm, thuỷ sản.
Về tổ chức sản xuất hình thành các trang trại, các doanh nghiệp sản xuất nông
nghiệp qui mô vừa và nhỏ, các vùng nguyên liệu, các doanh nghiệp chế biến nông sản
vừa và nhỏ với công nghệ hiện đại, xây dựng các trung tâm bán buôn, chợ đầu mối nông
sản. Trong tương lai, đây sẽ là vùng chuyển tiếp từ vùng ngoại ô đến trung tâm Thành
phố.
Thứ ba: Vùng sản xuất nông nghiệp vẫn còn giữ nông nghiệp - nông thôn truyền
thống: Bao gồm các xã ở xa của các huyện Gia Lâm, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm và
phần lớn các xã Sóc Sơn. Đây là vùng sản xuất nông nghiệp với quy mô lớn, vùng cây
lương thực lúa, rau, cây ăn quả, hoa chất lượng cao, vùng chăn nuôi bò sữa, gia cầm,
lợn, thuỷ sản để cung cấp cho công nghiệp chế biến để tiêu thụ thành phố và xuất khẩu.
Đây cũng là vùng lâm nghiệp cải tạo môi trường của thành phố, tập trung chủ yếu ở
huyện Sóc Sơn.
Biểu số 12: Mục tiêu phát triển kinh tế ngoại thành Hà Nội 2001 - 2005 và 2006 -
2010, trong phạm vi quản lý của TP
(Tính theo giá trị sản xuất hiện hành năm 2000)
2000 2010 2005
Tốc Tốc Cơ Giá trị Chỉ Tiêu Giá trị độ Cơ cấu Giá trị độ Cơ cấu Cấu (tỷ (tỷ đồng) Tăng (%) (tỷ đồng) Tăng (%) (%) đồng) (%) (%)
5.563,0 16388,06 16,6 100,00 10,0 Tổng số 100,00 8.940,96 100,00 0 6 7
và 2.880,0 CN 11.144,8 22,0 68,01 13,0 51,77 5.306,21 59,35 0 XD 6 0 0
1.060,0 3.008,57 15,2 18,35 10,0 Dịch vụ 19,07 1.707,14 19,09 0 4 0
1.623,0 2.234,63 3,00 13,64 NLN 29,16 1.927,61 3,50 21,56 0
Dân số (triệu người) 1,4 1,5
Bình quân (nghìn đồng) 6.419,99 11.076,11
Nguồn: Báo cáo tổng kết chương trình 06 của UBND Thành Phố Hà Nội (giá trị sản
xuất theo giá hiện hành năm 2000 = 5.563 tỷ đồng Việt Nam)
3.4.1.2 Phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản theo hướng đô thị sinh thái
Tập trung đầu tư xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa chất lượng cao, trước mắt
tập trung vào các sản phẩm như: Rau, hoa – cây cảnh, cây ăn quả, lương thực chất
lượng cao, các vùng chăn nuôi lợn hướng nạc, gia cầm và thuỷ sản. Xây dựng một số
khu nông nghiệp công nghệ cao, khu công nghiệp bảo quản, giết mổ và chế biến gắn với
các vùng sản xuất hàng hóa tập trung có khối lượng nguyên liệu lớn. Đến năm 2010
nông nghiệp Hà Nội sẽ tạo được nhiều nông sản hàng hóa chất lượng cao. Xây dựng
một số vùng sản xuất nông nghiệp sinh thái gắn với du lịch
- Trồng trọt: ở các vùng sản xuất tập trung các cây trồng chủ yếu hoặc ở mỗi
huyện xây dựng các khu trung tâm nhân và cung cấp giống chuyển giao tiến bộ kĩ thuật,
kiểm tra chất lượng sản phẩm.
+ Diện tích trồng rau sẽ được đầu tư hiện đại và mở rộng thêm, bảo đảm sản
xuất rau an toàn, chất lượng cao. Xây dựng các vùng sản xuất rau nguyên liệu và một số
khu nông nghiêp công nghệ cao. Diện tích trồng rau an toàn đến năm 2010 đạt 2.500 –
3.000 ha. Vùng chuyên rau tập trung ở: Đông Anh, Gia Lâm, Sóc Sơn, Thanh Trì. Tổng
diện tích gieo trồng rau đạt 10.000 ha.
+ Mở rộng diện tích trồng hoa theo quy hoạch, trước hết bù đắp diện tích trồng
hoa bị sử dụng vào xây dựng đô thị. Xây dựng các vùng trồng hoa, cây cảnh tập trung ở
Từ Liêm, Đông Anh, Gia Lâm và Sóc Sơn được trang bị hiện đại. Tổng diện tích trồng
hoa, cây cảnh đến năm 2010 đạt 2.000 – 2.500 ha.
+ Phát triển nhanh diện tích có khả năng trồng cây ăn quả để đến năm 2010 đạt
5.500 – 6.000 ha. Các vùng trồng cây ăn quả tập trung sẽ được xây dựng tại các huyện:
Sóc Sơn, Gia Lâm, Đông Anh và Từ Liêm.
+ Diện tích trồng cây lương thực và các cây trồng khác đến 2010 sẽ còn khoảng
10.000 ha, chủ yếu là sản xuất các sản phẩm lương thực chất lượng cao hoặc các sản
phẩm truyền thống: Lúa thơm, gạo nếp, ngô thực phẩm, đậu đỗ các loại.
+ Trong giai đoạn từ 2006 – 2010 và giai đoạn tiếp theo, từng bước thực hiện kè
hai bên bờ sông Hồng; lập và thực hiện quy hoạch cải tạo, xây dựng thành các khu công
viên, nghỉ ngơi, nhà vườn kết hợp với phát triển sản xuất nông nghiệp đô thị sinh thái và
du lịch.
+ Tổng diện tích đất canh tác các vùng tập trung sản xuất các nông sản chủ yếu
của Hà Nội đến năm 2010 còn khoảng 20.000 – 25.000 ha. Phấn đấu đạt giá trị sản xuất
bình quân trên 1 ha đất canh tác năm 2010 đạt 60 – 70 triệu đồng.
- Chăn nuôi
Yêu cầu của thị trường Thành phố là phải được cung cấp các thực phẩm chất
lượng cao, bảo đảm vệ sinh, đồng thời phải đảm bảo môi trường trong sạch. Do vậy
trọng tâm phát triển chăn nuôi ngoại thành Hà Nội trong thời gian tới là:
+ Phát triển mạnh chăn nuôi lợn hướng nạc, với số đầu con đạt từ 400.000 –
450.000 con, xác định những nơi đủ điều kiện để phát triển chăn nuôi theo vùng tập
trung, với các hình thức và qui mô phù hợp, chủ yếu phát triển chăn nuôi hộ và trang
trại. Hình thành ở mỗi huyện một trung tâm kĩ thuật chăn nuôi: Bảo đảm các dịch vụ về
giống, thức ăn phòng dịch bệnh, kiểm dịch, xây dựng khu giết mổ, bảo quản, chế biến
với thiết bị và công nghệ tiên tiến. Xây dựng một số vùng chăn nuôi lợn hướng nạc là
nguyên liệu cho các khu chế biến sẽ tập trung ở Gia Lâm, Thanh Trì, Đông Anh, Từ
Liêm và Sóc Sơn.
+ Phát triển mạnh mẽ chăn nuôi gia cầm với các hình thức nuôi chuồng hoặc
nuôi thả vườn, nuôi ở các trang trại kết hợp với trồng cây ăn quả. Phát triển chăn nuôi
gà công nghiệp lấy thịt, trứng ở các hộ quy mô lớn và các trang trại, khuyến khích phát
triển các doanh nghiệp chăn nuôi quy mô vừa và nhỏ dự kiến đàn gia cầm đạt từ 6 – 7
triệu con.
+ Chăn nuôi trâu, bò và bò sữa cần có phương án chuyển dần đến các vùng xa
trung tâm thành phố như Sóc Sơn và một số địa phương giáp ranh. Hiện tại vẫn nuôi ở
các vùng ven sông Hồng, sông Đuống để tận dụng nguồn thức ăn phong phú và bãi chăn
thả, nhưng phải có phương án xử lý chất thải chăn nuôi để bảo vệ môi trường. Tổng đàn
trâu bò đến 2010 sẽ đạt 40.000 – 50.000 con.
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản
Hiện tại Hà Nội chỉ còn hơn 3.000 ha mặt nước, nhưng khai thác nuôi trồng thuỷ
sản chưa đạt hiệu quả cao, trong khi nhu cầu về thuỷ sản càng tăng. Vì vậy phát triển
mạnh nuôi trồng thuỷ sản nhằm tăng giá trị sản xuất trên 1 ha từ 80 – 100 triệu đồng.
Phương hướng phát triển nuôi trồng thuỷ sản của Hà Nội từ nay đến 2010.
+ Đầu tư thâm canh và từng bước hiện đại hóa nuôi trồng thuỷ sản trên diện tích
hiện có để có thể đạt được giá trị từ 100 đến 150 triệu đồng/ha/năm.
+ Mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản bằng biện pháp chuyển đổi diện tích
trũng, diện tích cấy 1 – 2 vụ lúa không ăn chắc sang nuôi trồng thuỷ sản. Các diện tích
trũng, sâu nên chuyển hẳn sang nuôi trồng thuỷ sản đặc sản. Phấn đấu đến năm 2010 đạt
4.500 – 5.000 ha nuôi trồng thuỷ sản. Tập trung ở các huyện Thanh Trì, Đông Anh, Sóc
Sơn.
- Phát triển lâm nghiệp
+ Tập trung chăm sóc, bảo vệ 4.930 ha rừng hiện có, trông mới 1.700 ha rừng
phòng hộ kết hợp với kinh tế làm giàu và làm giàu cảnh quan môi trường, kết hợp thăm
quan du lịch, di tích lịch sử và sinh thái. Diện tích rừng tập trung đến năm 2010 tối thiểu
đạt 6.630 ha, tập trung chủ yếu ở huyện Sóc Sơn. Xây dựng một số khu rừng đạt độ che
phủ cao và có hệ sinh thái đa dạng, cảnh quan đẹp.
+ Trồng mới và chăm sóc, bảo đảm đến năm 2010 toàn thành phố có 2 triệu cây
phân tán.
Biểu số 13: Phương án1: phát triển kinh tế ngoại thành Hà Nội theo lãnh thổ Giai
đoạn 2001 – 2005 và 2006 –2010
Chỉ Tiêu 2000 2010 2005
Tốc Giá trị Cơ Giá trị Tốc độ Cơ cấu Giá trị độ Cơ cấu (tỷ Cấu (tỷ Tăng (%) (tỷ đồng) Tăng (%) đồng) (%) đồng) (%) (%)
100,0 15..285, GDP 8.847,08 11,6 100,00 29.770,92 14,5 100,00 0 8
9.435,2 CN và XD 5.009,26 56,62 13,5 61,73 20.686,25 17,0 69,49 3
4.378,7 Dịch vụ 2.598,55 29,37 11,00 28,65 7.378,38 11,0 24,78 1
1.471,8 NLN 1.239,27 14,01 3,5 9,63 1.706,29 3,0 5,73 6
Dân số (triệu người): 1,2737 1,4 1,5
Bình quân (nghìn đồng): 4.891 7.689 19.846
Biểu số 14 -Phương án 2 :phát triển kinh tế nông thôn Hà Nội 2006-2010
đơn vị : tỉ đồng
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 2010
CN-XD 12992 15461 18399 21894 26055 31005
Dv 4378 4860 5395 5988 6647 7379
NLN 1,436 1472 1509 1547 1586 1625
Tống số 18808 21794 25303 29430 34288 40009
Biểu15 - Cơ cấu phát triển kinh tế nông thôn Hà Nội 2006-2010
(Phương án 2 )
Đơn vị:(%)
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 2010
CN-XD 69,08 70,94 72,71 74,39 75,99 77,50
Dv 23,28 22,30 21,32 20,35 19,39 18,44
NLN 7,64 6,76 5,97 5,26 4,62 4,06
Tống số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
Tốc độ tăng trưởng bình quân năm :16,5%
Tốc độ tăng trưởng bình quân ngành công nghiệp và xây dựng : 19 %
Tốc độ tăng trưởng bình quân ngành dịch vụ: 11%
Tốc độ tăng trưởng bình quân ngành NLN: 2,5%
Phương án 2 thể hiện tốc độ tăng trưởng cao hơn về phat triển công nghiệp,vì vậy sẽ
đưa công nghiệp của ngoại thành trở thành một ngành chủ lực.
3.4.2 Ngành công nghiệp và xây dựng
Ngoại thành Hà Nội là địa bàn thích hợp cho phát triển công nghiêp của Thành
phố. Từ nay đến 2010 và những năm tiếp theo, ngoại thành Hà Nội sẽ trở thành một
trung tâm khu công nghiệp lớn của Hà Nội và cả nước. Định hướng phát triển như sau:
- Chuyển nhanh phần lớn các cơ sở công nghiệp còn đang sản xuất trong nội
thành ra ngoại thành. Chỉ để lại trong nội thành một số cơ sở công nghiệp thật cần thiết
như tin học, điện tử, cơ khí chính xác. Trên cơ sở xây dựng lộ trình cụ thể với các biện
pháp hữu hiệu, nhất là chính sách và ưu tiên đầu tư. Theo tinh thần của nghị quyết 15
của Bộ chính trị tập trung ”Sắp xếp lại các cơ sở công nghiệp hiện có, cải tạo, chuyển
hướng sản xuất và có kế hoạch di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm, kĩ thuật giản đơn đến
khu vực xa dân cư”.
- Khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả các khu công nghiệp hiện có và
nghiên cứu sự lựa chọn xây dựng thêm các khu công nghiệp mới, tạo cơ hội thu hút đầu
tư của doanh nghiệp nước ngoài (FDI) của người Việt Nam ở nước ngoài và trong nước,
các nguồn đầu tư ODA…, các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT…
- Xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ tập trung mỗi huyện 1 - 2 khu, với
quy mô mỗi khu khoảng 20 - 30 ha, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất
và đảm bảo vệ sinh môi trường.
- Xây dựng các cụm sản xuất thủ công nghiệp tập trung ở các làng nghề, qui mô
khoảng 5 – 10 ha, trước hết cho những vùng có yêu cầu bức xúc như cụm Bát Tràng,
Kiêu Kị, Triều Khúc, Vân Hà, Liên Hà …
- Phát triển các làng nghề, các ngành nghề thủ công mới làm hàng gia công cho
các khu công nghiệp, từng bước áp dụng kĩ thuật mới, kĩ thuật cao và sản xuất, tạo thêm
việc làm để thu hút thêm lao động và sản xuất hàng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
- Phát triển công nghiệp cơ khí, trước hết sản xuất các máy công cụ vừa và nhỏ,
các máy công tác và các loại phụ tùng, linh kiện máy, đáp ứng yêu cầu cơ giới hóa ở
nông thôn, ưu tiên cơ giới hóa nông nghiệp và sản xuất thủ công.
- Xây dựng một số khu công nghiệp công nghệ cao gắn với các vùng sản xuất
chuyên canh: Khu công nghiệp công nghệ cao Toàn Thắng (Gia Lâm), Nam Hồng
(Đông Anh), Phú Diễn (Từ Liêm), Đông Mỹ (Thanh Trì) v.v…
- Xây dựng trên mỗi huyện ít nhất 1 khu công nghiệp giết mổ và chế biến các loại
thịt với quy mô từ 50 – 100 tấn thịt/ngày với công nghệ hiện đại.
- Về xây dựng, trong những năm tới, ngành xây dựng sẽ phát triển mạnh mẽ,
khả năng tăng gấp 2 – 3 lần so với thời kì 2001 – 2005, vì khối lượng xây dựng sẽ tăng
cao, bao gồm xây dựng các công trình hạ tầng, các nhà máy, các khu, cụm công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề, các trung tâm thương mại, các khu dân cư đô thị
hóa, và hạ tầng xã hội tương ứng.
- Đến năm 2010 ngành công nghiệp và xây dựng ngoại thành sẽ chiếm trên 69%
đến trên 77% tổng giá trị của ngành công nghiệp và xây dựng toàn thành phố và dự báo
đến năm 2020, công nghiệp và xây dựng ngoại thành chiếm trên 80% toàn bộ giá trị của
công nghiệp trên địa bàn thành phố.
3.4.3 Thương mại, dịch vụ:
Trong 5 năm đầu kế hoạch 2005 – 2010, ngành thương mại – dịch vụ tập trung
thực hiện:
- Dịch vụ phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các cơ sở công nghiệp, các
công trình văn hóa công cộng, các chợ đầu mối và các trung tâm thương mại (dự kiến có
8 trung tâm thương mại ở ngoại thành ).
- Phát triển các dịch vụ thông tin, bưu điện, viễn thông, các dịch vụ giao thông,
tài chính, tín dụng, du lịch, thể dục, thể thao, nghỉ ngơi, giải trí.
- Các dịch vụ cung ứng vật tư, tiêu thụ nông sản, các dịch vụ phục vụ đời sống
vật chất và tinh thần của cộng đồng.
- Thực hiện các dịch vụ chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ sinh học,
trước hết là công nghệ sạch, công nghệ bảo quản, chế biến vào nông nghiệp nông thôn.
- Ngoại thành phải trở thành những trung tâm giao dịch mua bán lớn, phục vụ
đắc lực yêu cầu trao đổi hàng hóa từ Hà Nội đi các tỉnh, xuất khẩu và từ các tỉnh, các
huyện vào nội thành, thông qua các chợ đầu mối, các trung tâm thương mại.
- Tổ chức lại và phát triển các hệ thống dịch vụ và thương mại ngoại thành theo
các định hướng sau:
+ ở các vùng đô thị ngoại thành như các thị trấn, các khu dân cư tập trung sẽ
phát triển mạnh mẽ các trung tâm tài chính, viễn thông, các trung tâm buôn bán… Hệ
thống các cơ sở dịch vụ này gắn trong mạng lưới hệ thống dịch vụ trong thành phố, cả
về mô hình và nhịp độ phát triển.
+ ở các thị tứ, các xã chủ yếu sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ven
các vùng dân cư tập trung, chủ yếu phát triển các dịch vụ phù hợp với yêu cầu phục vụ
sản xuất và đời sống theo hướng mở rộng giao lưu, thực hiện công nghiệp hóa nông
nghiệp nông thôn.
+ ở các xã vùng xa các trung tâm, chủ yếu tập trung đầu tư các dịch vụ phục vụ
sản xuất và đời sống, phù hợp với các bước phát triển.
3.4.4 Những chỉ tiêu chủ yếu để phát triển nông nghiệp đô thi sinh thái và
hiện đại hóa nông thôn
- Về tốc độ tăng trưởng ở thời kỳ 2006 - 2010 bình quân 14,5%/năm
+ Giữ tốc độ tăng trưởng nông nghiệp đạt bình quân 2,5 – 3%
+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng đạt bình
quân từ 17 - 18%/năm
+ Tốc độ tăng trưởng về thương mại dịch vụ đạt bình quân từ 10 - 11%/năm.
Chỉ tiêu 2010
100% 1. Về cơ cấu kinh tế nông thôn tới năm 2010
- CN-TTCN-XDCB 69
- Thương mại-dịch vụ 25
- Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6
100% 2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
- Trồng trọt 46
- Chăn nuôi + thuỷ sản 44
- Dịch vụ 10
- Giá trị sản xuất nông nghiệp/1 ha đất canh tác đạt từ 60 - 70 triệu đồng
3.4.5 Phương hướng phát triển văn hoá - xã hội nông thôn
3.4.5.1 Phương hướng phát triển văn hóa thông tin
- Bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống văn hóa (vật thể và phi vật thể)
ở các vùng nông thôn Hà Nội; Từng bước xây dựng, mở rộng giao lưu văn hóa và hợp
tác quốc tế để phát triển văn hoá thông tin ngoại thành Hà Nội. Xây dựng mới các công
trình văn hóa tiêu biểu, thiết thực chuẩn bị cho kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà
Nội vào năm 2010.
- Xây dựng văn hóa nông thôn ngoại thành Thủ đô thực sự là nền tảng tinh thần
bền vững và phong phú của nhân dân, là động lực thúc đẩy và yếu tố cấu thành của sự
phát triển kinh tế xã hội, góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH
– HĐH nông nghiệp nông thôn.
- Phát triển sự nghiệp văn hoá thông tin góp phần nâng cao đời sống tinh thần
của nhân dân và tập trung cụ thể hóa tiêu chí xây dựng con người mới.
- Nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa nghệ thuật để đáp ứng nhu cầu và
thoả mãn mức độ hưởng thụ văn hoá của nhân dân ngày càng cao, đồng thời thực hiện
xã hội hóa sự nghiệp văn hoá thông tin.
Kết hợp phát triển văn hóa với giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực Thủ đô nâng
cao dân trí. Chú trọng công tác bồi dường tài năng trẻ về văn hoá cho đất nước trong
thời kì mới…
3.4.5.2 Phương hướng phát triển Nghề – dạy nghề và các vấn đề xã hội 2006-
2010
- Giải quyết việc làm cho 75 - 80 ngìn người trên toàn thành phố, ở nông thôn từ
40 - 45 ngàn người, đặc biệt các vùng bị lấy đất để xây dựng công nghiệp và đô thị.
- Giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống 6,5%, ở nông thôn còn 6%.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo 60%. Trong đó lao động qua trường đào tạo đạt
30%. Bình quân mỗi năm tuyển 65.000 học sinh học nghề, kể cả dài hạn lẫn ngắn hạn.
- Chăm sóc đối với người có công với cách mạng, tiếp tục hỗ trợ nhà cho người
có công, xây dựng và sửa chữa toàn bộ nhà tình nghĩa, điều dưỡng mỗi năm từ 6000 -
8000 lượt thương binh nặng và người có công với cách mạng.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn thành phố xuống dưới 1%, khu vực nông thôn dưới
3% (theo tiêu chí hiện tại).
- Tạo điều kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ hộ nghèo có việc làm, phát triển sản
xuất, tăng thu nhập để thoát nghèo.
- Quan tâm mọi mặt nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người
nghèo, phấn đấu 100% người nghèo được hưởng các dịch vụ xã hội về y tế, văn hóa
giáo dục ...
3.4.5.3 Phương hướng phát triển giáo dục nông thôn
- Phổ cập bậc trung học, mục tiêu tổng quát là làm cho mọi công dân của thủ đô
đến hết tuổi 21 đều đạt được trình độ học vấn trung học hoặc tương đương, nhằm nâng
cao mặt bằng dân trí, đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài
phục vụ cho công nghiệp hóa hiện đại hóa thủ đô Hà Nội. Trước hết năm 2005 phấn đấu
70%, năm 2010 đạt 100% thanh niên trong độ tuổi đạt tiêu chuẩn phổ cập bậc trung học.
- Mở rộng đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề với quy mô gấp 2 lần
hiện nay vào năm 2010, nhằm giải quyết việc làm và đào tạo nguồn nhân lực có tay
nghề cao đáp ứng cho công nghiệp hóa hiện đại hóa thủ đô.
- Xây dựng mạng lưới trường học hợp lý và cân đối giữa các quận nội thành,
giữa quận cũ và quận mới thành lập, giữa khu vực nội và ngoài thành. Phấn đấu đến
năm 2010 số trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia chiếm 30% (80 trường/271 trường),
trung học cơ sở đạt chuẩn quốc gia chiếm 20% (45/225 trường), trung học phổ thông đạt
chuẩn quốc gia đạt 15% (15/97 trường) …
- Đẩy mạnh xã hội hóa trong giáo dục và đào tạo, chuyển các trường mầm non ở
khu vực nông thôn sang bán công, chuyển dần các trường mầm non công lập ở các khu
vực nội thành sang trường mầm non bán công, năm 2005 đạt ít nhất 20%, năm 2010 đạt
100%. Mở rộng các trường bán công, dân lập ở các khối các cấp …
3.4.5.4 Phương hướng phát triển y tế giai đoạn 2006 - 2010
- Tỷ lệ trẻ em < 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ từ 99,5% đến 100%.
- Tỷ suất chết trẻ em < 1 tuổi/1.000 trẻ sinh ra sống, ở mức từ 7,5% - 8,5%.
- Tỷ suất chết trẻ em < 5 tuổi/1.000 trẻ sinh ra sống, ở mức từ 9,5% - 10,6%.
- Tỷ lệ trẻ mới sinh cân nặng < 2500 gam từ 5% đến 5,2%.
- Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng < 5 tuổi (theo chuẩn mới) từ 14,5% - 15%.
- Số lần khám thai trung bình từ 4 đến 4,4 lần.
- Tỷ lệ phụ nữ có thai được tiêm phòng uốn ván đủ 2 mũi từ 92,5% - 95,5%.
- Giường bệnh ở tuyến Huyện đạt từ 850 - 1000 giường.
3.4.5.5 Các chỉ tiêu về văn hóa xã hội
2010 Chỉ tiêu
Thu nhập/người/năm (USD) 1200-1250
<3,0 Tỷ lệ hộ nghèo (%)
< 1,2 Tỷ lệ sinh (%)
Tỷ lệ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá (%) 90
Tỷ lệ số dân được sử dụng nước sạch (%) 100
Số lao động được giải quyết việc làm hàng năm 30 - 40 vạn
3.4.6 Xây dựng cơ sở hạ tầng
3.4.6.1 Giao thông
- Các hệ thống đường giao thông lớn, về cơ bản sẽ hoàn thành sớm, như hệ thống
đường 1, 5, 2, 3, 6, các nút giao thông, hệ thống cầu vượt, hệ thống giao thông vành đai
3 cũng sẽ cơ bản hoàn thành. Đảm bảo giao thông vào nội thành cũng như đi các tỉnh
thông suốt và đã được hiện đại hóa từng bước. ( Đã có đề án của thành phố)
- Đường liên huyện, liên xã, đường trên các hệ thống đê được nhựa hóa hoặc bê
tông. Đường đến các khu công nghiệp, khu sản xuất lớn về nông nghiệp, công nghiệp
đều được trải nhựa tối thiểu rộng 6 m.
- Đường trong thôn xóm: Từ 2006 – 2010 sẽ tiến hành đề án xây dựng quy hoạch
theo mô hình nông thôn đô thị, hướng dẫn các thôn xóm xây dựng nông thôn hiện đại;
đến năm 2010 số nông thôn đạt giao thông hiện đại chiếm 50%. Năm 2020 sẽ hoàn
thành toàn bộ hệ thống đường giao thông nông thôn theo hướng hiện đại.
3.4.6.2 Điện
Hoàn thành hệ thống điện hạ áp hiện đại đến 100% hộ gia đình, chậm nhất 2010
xong, đảm bảo đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng của dân. Trước hết, các khu công
nghiệp dùng đường tải điện cao áp ngầm.
3.4.6.3 Thuỷ lợi, cấp và thoát nước
- Thuỷ lợi, các công trình tưới đảm bảo chủ động 100%, tiêu 80% diện tích, hệ
thống kênh mương được kiên cố hóa bê tông, nhựa composit… Các vùng trồng rau,
hoa, quả, lúa tập trung, nuôi trồng thuỷ sản được đầu tư thiết bị tưới với công nghệ hiện
đại đạt 50% diện tích vào năm 2010.
Đến năm 2010 thì 80% dân số dùng nước sạch, 20% dùng nước giếng khoan có
hệ thống lọc. Đặc biệt các vùng Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm khẩn trương giải quyết
vấn đề nước sạch đạt 100% vào năm 2010.
- Đến năm 2010 toàn bộ nước thải ở ngoại thành, nước thải công nghiệp phải
được xử lý theo luật định và nước thải ở các khu dân cư đều qua xử lý theo hình thức
lọc 3 lớp hồ sinh học, hạn chế ô nhiễm nguồn nước.
3.4.6.4 Trường học
- Đến năm 2010: Hiện đại hóa phòng học, đủ ánh sáng, thông gió chống lạnh,
chống nóng. Phương tiện, giáo cụ cho học sinh đầy đủ.
- Mỗi huyện có một trung tâm đào tạo, 2 trường trung cấp, 2 trường dạy nghề, đủ
đáp ứng yêu cầu dạy và học nghề cho người lao động ở ngoại thành.
3.4.6.5 Hệ thống thông tin, bưu điện, viễn thông
Hệ thống bưu chính viễn thông ở ngoại thành sẽ được hiện đại hóa vào năm
2006 – 2010.
- Bình quân 100 người dân có 15 máy ở nông thôn vào năm 2010.
- Bình quân 100 người dân có 15 - 20 máy điện thoại với thị trấn, thị tứ.
- Mỗi thôn có trạm bưu điện vào năm 2010, đảm bảo dịch vụ thông tin cập nhật.
Các xã đều nối mạng Internet.
3.4.6.6 Hệ thống phòng chữa bệnh
- Đến năm 2010, trạm y tế có trang thiết bị tương đương với phòng khám đa khoa
giai đoạn 2001 hiện nay, có đủ bác sĩ, dược sỹ, y tá đủ khả năng chăm sóc sức khoẻ ban
đầu, khám chữa bệnh thông thường, được trang bị một số máy móc hiện đại để khám
phát hiện bệnh sớm cho nhân dân.
Mỗi huyện có 1 đến 2 trung tâm y tế có trình độ ngang tầm với các bệnh viện đa
khoa của thành phố như hiện nay.
3.4.6.7 Các chỉ tiêu về xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn
Chỉ tiêu 2010
Tỷ lệ hiện đại hóa tưới tiêu bằng đường ống (%) 30
Tỷ lệ diện tích được tưới tiêu chủ động (%) 100
Tỷ lệ diện tích tiêu chủ động (%) 80
Đường liên thôn liên xã được cứng hoá (%) 100
(Gắn phát triển giao thông với tổ chức lại khu dân cư)
Các vùng sản xuất hàng hoá tập trung được hiện đại các cơ sở vật chất 70
Kỹ thuật (Giao thông, tưới, tiêu, điện)(%) Diện tích cây xanh - đất TD TT (m2/người) 18
Số xã có trung tâm hoạt động văn hoá (%) 100
Trường học các cấp được kiên cố (%) 100
Trường học các cấp đạt tiêu chuẩn quốc gia(%) 60
Số trạm y tế xã đạt tiêu chuẩn quốc gia (%) 100
Trung tâm TDTT của huyện được trang bị hiện đại(%) 100
3.5 Các nhóm giải pháp chủ yếu
3.5.1 Giải pháp phát triển kinh tế
3.5.1.1 Rà soát lại các quy hoạch
Rà soát, hoàn thiện các quy hoạch đề án về phát triển kinh tế xã hội ngoại thành,
đẩy mạnh việc xây dựng một số đề án về phát triển các vùng chuyên canh: Rau, hoa
quả, thịt gia cầm, thịt lơn nạc, thuỷ sản, bò và bò sữa, trọng tâm là gắn vùng chuyên
môn hóa sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đẩy
mạnh việc mở rộng vùng nguyên liệu ra các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm của
đồng bằng Bắc Bộ. Đặc biệt là các tỉnh giáp ranh với Hà Nội.
3.5.1.2 Đẩy nhanh tốc độ dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngoại thành và phát triển
sản xuất hàng hóa. Nâng cao hiệu quả kinh tế trong các ngành sản xuất.
- Chuyển cơ bản hoặc phần lớn các cơ sở sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm nặng
đang ở nội thành ra ngoại thành, lấp đầy các khu công nghiệp hiện có, các khu công
nghiệp vừa và nhỏ.
- Xây dựng các khu công nghiệp mới, khu công nghiệp kĩ thuật cao cho nông
nghiệp, xây dựng các khu sản xuất tập trung về tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề
thủ công.
- Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp trên 3 vành đai nông nghiệp sinh thái, tạo
thành vùng chuyên môn hóa.
- Đẩy mạnh quy trình công nghiệp hóa sản xuất nông nghiệp. Tiến hành cơ giới
hóa các khâu việc nặng, phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản và các khâu khác sau
thu hoạch. Gắn quá trình sản xuất nguyên liệu – công nghiệp bảo quản chế biến đến
khâu tiêu thụ sản phẩm nông sản.
- Xây dựng các chợ đầu mối ở ngoại thành, bảo đảm mỗi huyện có từ 2 – 4 chợ
đầu mối và ít nhất có 1 trung tâm giao dịch thương mại.
- Nông nghiệp có kế hoạch tập trung chuyển mạnh sang sản xuất một số sản
phẩm chính: Rau, hoa quả, cây lương thực, nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi lợn, gia cầm,
trên cơ sở qui hoạch xây dựng các vùng tập trung và áp dụng kĩ thuật công nghệ mới để
nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành.
3.5.1.3 Giải pháp về mở rộng thị trường
- Thành phố Hà Nội là nơi có điều kiện thuận lợi nhất về thông tin, trong đó có
thông tin thị trường. Trong thời gian tới đây, ngay từ năm 2001, cần hoàn thiện một
bước về thị trường, từ tổ chức công tác thông tin cập nhật, dự báo, hướng dẫn sản xuất ở
ngoại thành (công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp), xây dựng chiến lược thị trường, chú
trọng đến thị trường nông sản, trên cơ sở đó lập kế hoạch sản xuất (ngoại thành) và tác
động thu hút hàng hóa nông sản từ các tỉnh khác, vùng khác cung ứng cho Hà Nội.
Đồng thời đầu tư để hình thành các thị trường bất động sản, thị trường tài chính, thị
trường lao động.
- Chính quyền các cấp của Thành phố chỉ đạo phát triển và quản lý công tác
thông tin, đào tạo cán bộ làm công tác thông tin, thị trường…
- Thành phố xây dựng và công bố các chủ trương mới, các cơ chế, chính sách
(hành lang pháp lý) để dân tự đầu tư tự sản xuất, kinh doanh, nhằm làm cho dân thấy rõ
lợi ích để chuyển dịch nhanh cơ cấu nông nghiệp, mở nghề thủ công mới, tích tụ đất đai
để phát triển sản xuất nông nghiệp với qui mô lớn.
- Các doanh nghiệp kí hợp đồng với dân cùng đầu tư sản xuất, bao tiêu sản phẩm.
Các doanh nghiệp chịu trách nhiệm chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm.
- Quy hoạch và rà soát lại quy hoạch, triển khai xây dựng các trung tâm thương
mại, chợ đầu mối, chợ chuyên rau, hoa, thịt, cá …, phù hợp với quá trình mở rộng đô
thị.
3.5.1.4 Đẩy nhanh việc ứng dụng các tiến bộ khoa hoa và công nghệ tiên tiến
vào sản xuất và dịch vụ
- Tập trung hiện đại hóa ngành bưu chính viễn thông, trong thời kì 2006 - 2010
tăng mức đầu tư cho hiện đại hóa ngành bưu chính viễn thông ở ngoại thành đáp ứng
yêu cầu cho phát triển sản xuất và đời sống phát triển với tốc độ nhanh.
- Trong công nghiệp ứng dụng công nghệ hiện đại: Công nghệ thông tin, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa và đặc biệt quan tâm bảo vệ môi trường.
- Trong nông nghiệp, đẩy mạnh phát triển công nghệ sinh học, từ việc tạo ra cây,
con giống đến sản xuất đại trà, từ khâu nguyên liệu đến sản xuất, chế biến, bảo quản,
bao bì, đóng gói đề nâng cao chất lượng sảm phẩm.
3.5.1.5.Giải pháp về đầu tư và vốn
- Về đầu tư: Tăng tỷ lệ đầu tư và vốn đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn khoảng
25 – 30% của tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản của thành phố. Trong đầu tư cần đầu
tư tập trung cho các cơ sở sản xuất ra sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, ưu tiên đầu tư
cho việc ứng dụng các công nghệ hiện đại với thời gian ngắn nhất. Giảm bớt những thủ
tục không cần thiết trong quá trình chuẩn bị đầu tư và đầu tư.
- Vốn và nguồn vốn: Đây là giải pháp quan trọng, có tính quyết định đến việc
tăng trưởng và phát triển kinh tế cũng như đường lối thực hiện công nghịêp hóa hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn. Bình quân mỗi năm cần đầu tư 15.000 - 20.000 tỉ đồng.
Đây là toàn bộ số vốn đầu tư cho các ngành sản xuất và hạ tầng cơ sở ngoại thành để đạt
mức tăng trưởng đã đề ra. Đầu tư xây dựng và kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp ngoại
thành giai đoạn 2006 – 2010 đạt 6.000 tỷ đồng.
Để đảm bảo số vốn trên cần phải huy động:
- Nguồn vốn tiềm ẩn trong nhân dân: 25% - 30%
- Nguồn vốn tín dụng ngân hàng: 25% - 30%
- Đầu tư từ ngân sách nhà nước cả TW và Hà Nội từ 10 đến 15%
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là 20 – 25 %
3.5.1.6 Thực hiện cơ chế chính sách và tăng cường thể chế
- Cụ thể hóa và tổ chức tập huấn hướng dẫn để nắm vững và triển khai thực hiện
các cơ chế chính sách hiện hành của Nhà nước đến cơ sở.
- Nghiên cứu, xây dựng và bổ sung những chính sách, cơ chế của Thành phố v.v.
tập trung vào chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp sinh thái, hiện đại
hóa và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
- Tiếp tục phân cấp mạnh mẽ theo hướng phân cấp quyền hạn và trách nhiệm cho
cấp huyện, xã.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm tham nhũng, tiêu cực, cản trở đến việc thi
hành chính sách và pháp luật của Nhà nước.
3.5.1.7 Tăng cường và củng cố quan hệ sản xuất
- Tiếp tục củng cố nâng cao năng lực và phương thức hoạt động của các hợp tác
xã. Hướng dẫn các hợp tác xã hoạt động sản xuất và dịch vụ đầu vào, đầu ra. Xây dựng
các mô hình hợp tác xã sản xuất sản phẩm chất lượng cao.
- Tổ chức tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, tham quan v.v.., để xây dựng các
hợp tác xã theo mô hình mới.
- Tăng cường hơn nữa việc thực hiện luật hợp tác xã một cách có hiệu quả.
- Đẩy mạnh việc sắp xếp và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở ngoại
thành.
- Đẩy mạnh việc phát triển các loại hình doanh nghiệp trong lĩnh vực nông
nghiệp.
3.5.1.8 Giải pháp đào tạo và lựa chọn cán bộ: đào tạo, tuyển chọn, xây dựng đội
ngũ giỏi, từ đội ngũ lãnh đạo, quản lý đến thợ lành nghề cho quá trình phát triển kinh tế
ngoại thành và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế – xã hội Hà Nội nói
chung. Đến năm 2010 phần lớn hoặc toàn bộ người lao động ở ngoại thành Hà Nội đều
qua lớp đào tạo nghề nghiệp. Đặc biệt tập trung đào tạo người lao động ở các vùng nằm
trong qui hoạch đô thị hóa, để tạo cơ hội cho người lao động kiếm được việc làm.
3.5.2 Giải pháp về văn hoá - xã hội
3.5.2.1 giải pháp phát triển văn hoá thông tin
- Nâng cao nhận thức, tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục với phương
châm “lấy xây để chống”. Có biện pháp tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức cho
mọi người về tầm quan trọng của hoạt động văn hóa – nghệ thuật đối với việc xây dựng
nhân cách, đạo đức của con người, nhất là thế hệ trẻ. Các hình thức tuyên truyền phải
phong phú, sinh động tuỳ theo từng loại đối tượng cần tuyên truyền. Thực hiện đồng bộ
công tác giáo dục lối sống lành mạnh, văn minh thanh lịch và sáng tạo cho các đối
tượng thanh thiếu niên trong các trường học, tổ chức đoàn thanh niên cơ sở.
- Làm rõ chức năng quản lý của nhà nước, của ngành văn hóa thông tin trên địa
bàn thành phố. Tăng cường củng cố nâng cao năng lực ở các huyện, nhất là các huyện
xã trung tâm thành phố. Phải làm rõ trách nhiệm của phòng Văn hoá thông tin quận
huyện trước Chủ Tịch UBND quận, huyện về mọi hoạt động văn hoá thể thao xảy ra
trên địa bàn thuộc địa phương quản lý.
- Tăng cường đầu tư trang thiết bị kĩ thuật, cơ sở vật chất để đưa hoạt động quản
lý VHTT có hiệu quả hơn. Hoàn chỉnh hệ thống các cơ chế chính sách về quản lý văn
hóa thông tin trên địa bàn thành phố. Các giải pháp về thống nhất quy hoạch không gian
với quy hoạch VHTT. Tăng cường huy động vốn đầu tư phát triển sự nghiệp VHTT.
Tăng cường năng lực cán bộ cho công tác thông tin văn hóa, đặc biệt ở các huyện, xã.
3.5.2 2 Các giải pháp về lao dộng và việc làm
Tăng cường trách nhiệm của các cấp chính quyền, các ngành và nâng cao tính
chủ động của bản thân người lao động trong công tác giải quyết việc làm, dạy nghề.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện chính sách pháp luật. Triển khai
đề án giải quyết việc làm, tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho người lao động
(cho vay vốn, dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm, dạy nghề, …). Đặc biệt quan tâm đến
việc dạy nghề, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người nông dân bị thu hồi đất
trong quá trình ĐTH-CNH-HĐH.Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về lao động,
việc làm ở 3 cấp: Thành phố, quận, huyện, xã, phường. Tổ chức thực hiện điều tra lao
động việc làm và hội chợ việc làm thủ đô lần thứ 3. Đưa công nghệ thông tin vào đào
tạo nghề, dịch vụ việc làm. Sắp xếp lại 8 doanh nghiệp xuất khẩu lao động do thành phố
quản lý. Xây dựng một số chính sách của thành phố nhằm đẩy mạnh công tác xuất khẩu
lao động như: Vay vốn, hỗ trợ kinh phí giáo dục định hướng, thưởng khuyến khích cho
doanh nghiệp đạt hiệu quả, tạo mở thị trường.
- Quy hoạch và đầu tư mạng lưới đào tạo nghề theo hướng xã hội hóa, tiếp tục
thực hiện việc quy hoạch lại hệ thống các cơ sở dạy nghề của thành phố theo hướng xã
hội hóa, trong đó: Nhà nước sẽ tập trung đầu tư xây dựng những trường đào tạo công
nhân kỹ thuật cao, đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật cho các ngành kinh tế mũi nhọn,
có máy móc hiện đại mà các thành phần khác không có khả năng đầu tư. Thực hiện rộng
rãi các cơ chế chính sách xã hội hóa lĩnh vực giáo dục dạy nghề theo Nghị định 90/CP
và Quyết định 73/CP của Chính phủ. Thành phố tăng cường việc thông tin, dự báo sự
phát triển kinh tế của thị trường lao động, thông tin cung cầu lao động và mạng lưới cơ
sở đào tạo nghề trên địa bàn.
- Tiếp tục đa dạng hóa các hình thức đào tạo nghề, phát triển mạnh đào tạo nghề
có địa chỉ và liên kết giữa cơ sở đào tạo nghề với các doanh nghiệp để nâng cao chất
lượng đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho học sinh sau tốt nghiệp. Bố trí các trường
trong hệ thống dạy nghề để đào tạo lại nghề cho lao động dôi dư khi sắp xếp lại doanh
nghiệp theo Nghị định 41/2002/NĐ - CP. Đối với các trường dạy nghề thuộc thành phố
quản lý: Dành đất trong các khu đô thị mới, đặc biệt là khu đô thị mới phía Bắc sông
Hồng để xây dựng mới cơ sở đào tạo cho 6 đến 8 trường dạy nghề, dãn các trường dạy
nghề quá nhỏ bé hiện nay ở nội thành ra ngoại thành. áp dụng chính sách thu hút đào
tạo, sử dụng tài năng của thành phố để tuyển bổ sung đội ngũ giáo viên giỏi cho các
trường dạy nghề. Tạo thuận lợi cho các tổng công ty, doanh nghiệp, quận, huyện liên
kết hoặc mở thêm mới các trường, trung tâm, cơ sở đào tạo nghề để phục vụ đào tạo
mới, đào tạo lại đội ngũ lao động. Thành lập quỹ hộ trợ đào tạo nghề để thu hút sự đóng
góp, tài trợ của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đối với công tác đào tạo nghề.
Tiếp tục đầu tư mở rộng nhà xưởng, phòng học đối với trường dạy nghề có địa điểm
chật hẹp; đầu tư trang thiết bị, máy móc đối với các đơn vị có nhà xưởng nhằm từng
bước hoàn thiện hệ thống phòng học chất lượng cao.
- Tăng cường tài chính cho đào tạo dạy nghề: dự tính nguồn lực chi cho đào toạ
nghề trên địa bàn bình quân mỗi năm 350 tỷ đồng (chia ra theo nhóm ngân sách cấp
47,82%; trong đó chương trình mục tiêu 23,91%; đóng góp của người học 47,46%;
nguồn khác 2,24%)… Tăng cường công tác quản lý nhà nước các cấp đối với đào tạo
nghề thông qua việc hướng dẫn , thanh kiểm tra các hoạt động đào tạo nghề, trên cơ sở
hệ thống kiến thức qua kiểm tra, đánh giá toàn diện cơ sở dạy nghề. Đẩy mạnh ứng
dụng khoa học công nghệ vào công tác quản lý và đào tạo.
- Nhà nước cần đẩy mạnh việc huy động các nguồn vốn và sử dụng có hiệu quả
vào xoá đói giảm nghèo. Phát triển một số khu công nghiệp vừa và nhỏ. Khôi phục các
làng nghề truyền thống như đồ gỗ mỹ nghệ, khảm trai Đông Anh, gốm sứ Bát Tràng…
phát triển các khu du lịch, kinh tế trang trại, tăng các hộ làm giàu … Lồng ghép các
chương trình mục tiêu quốc gia: Giải quyết việc làm, dân số kế hoạch hóa gia đình, y tế,
giáo dục … vào mục tiêu giảm nghèo của Thành phố. Đẩy mạnh việc cho hộ nghèo có
sức lao động, có nhu cầu được vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, … từ
quỹ hỗ trợ nông dân và người nghèo phát triển sản xuất, ngân hàng chính sách xã hội
thành phố, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, quỹ tiết kiệm vì phụ nữ
nghèo và nguồn vốn của các tổ chức quốc tế. Tiếp tục thực hiện dự án vay phát triển sản
xuất trồng trọt chăn nuôi thuỷ sản. Tổ chức tham quan học tập các điển hình hộ nông
dân nghèo biết cách phát triển kinh tế, sản xuất có hiệu quả, nâng cao thu nhập thoát
nghèo. Hướng dẫn cách làm ăn, kinh nghiệm sản xuất cũng như tổ chức các hoạt động
dịch vụ, chuyển giao công nghệ trong sản xuất nông nghiệp. Tăng cường vận động các
doanh nghiệp tiếp nhận lao động nghèo vào làm việc. Đầu tư vốn vay quỹ quốc gia giải
quyết việc làm cho các dự án của các HTX, doanh nghiệp có thu hút lao động nghèo
vào làm việc.
- Thực hiện chủ trương xóa nhà dột nát của thành uỷ, năm 1998 Sở Lao Động
Thương Binh và Xã Hội đã chỉ đạo các quận huyện điều tra và trình UBND thành phố
giải pháp hỗ trợ hộ nghèo xóa nhà dột nát theo phương thức: Cấp thẻ BHYT cho 100%
người nghèo và thực hiện tốt chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình. Miễn giảm học
phí và miễn giảm các khoản thu khác đối với học sinh nghèo.
3.5.2.3 Giải pháp về y tế
- Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở theo tinh thần Chỉ thị 06 -CT/TW,
ngày 22/1/2002, của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX). Nâng cao năng lực giám
sát, phát hiện và khống chế kịp thời các dịch bệnh, đặc biệt là các dịch bệnh mới. Tăng
cường thông tin giáo dục, truyền thông thay đổi hành vi, giảm thiểu lây nhiễm; Quản lý,
tư vấn, chăm sóc và điều trị cho người HIV/AIDS. Đẩy mạnh các hoạt động phòng
chống các bệnh không lây nhiễm, phòng chống tai nạn, thương tích, phục hồi chức năng
cho người tàn tật. Ưu tiên chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi.
- Thực hiện tốt pháp lệnh vệ sinh, an toàn thực phẩm, phát triển các phong trào
vệ sinh, phòng bệnh và thể dục thể thao, phong trào xây dựng làng văn hoá - sức khoẻ.
Kịp thời dự báo và có biện pháp ngăng ngừa để hạn chế tối đa những tác động tiêu cực
đối với sức khoẻ nhân dân do sự thay đổi về điều kiện lao động, môi trường, các hiểm
họa có thể xảy ra trên địa bàn Thủ đô. Thực hiện lồng ghép các chương trình y tế nhằm
nâng cao công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân; đồng thời kết hợp các lực
lượng quân – dân y trên địa bàn trong chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
- Thực hiện chiến lược phát triển ngành dược và chính sách quốc gia về thuốc.
Góp phần lập lại trật tự kỷ cương trong sản xuất, lưu thông, phân phối để ổn định thị
trường và cung ứng đủ thuốc có chất lượng trên địa bàn Thủ đô. Đẩy mạnh công tác xã
hội hóa nhằm thu hút nguồn lực tăng cường đầu tư chăm sóc sức khoẻ người dân.
3.5.2 4 giải pháp Về giáo dục
- Rà soát và bổ sung hoàn thiện quy hoạch giáo dục và quy hoạch mạng lưới
trường học của thủ đô đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Trên cơ sở tổng kết
đánh giá việc triển khai thực hiện quy hoạch 2001 - 2010 theo quyết định số
05/2003/QĐ - UB và quyết định số 06/2003/QĐ - UB để bổ sung hoàn thiện quy hoạch
phát triển giáo dục và mạng lưới trường học đến năm 2010.
- Tổng kết đánh giá việc triển khai thực hiện đề án số 22 của Thành uỷ Hà Nội,
chú trọng đánh giá việc thực hiện những nội dung cơ bản của chiến lược và nhiệm vụ
xây dựng phát triển giáo dục và đào tạo Hà Nội với nhiệm vụ cấp bách trước mắt như:
Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông, phát triển giáo dục mầm non, phát
triển phương thức giáo dục không chính quy, thí điểm phổ cập bậc trung học, phát triển
đào tạo nhân lực bậc trung học chuyên nghiệp, xây dựng đội ngũ, kiên cố hóa, hiện đại
hóa trường học, phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, chấn chỉnh kỷ cương, nề
nếp, xây dựng và thực hiện tốt quy chế quản lý, quy chế dân chủ trong các nhà trường.
Trên cơ sở đó bổ sung hoàn thiện chiến lược phát triển giáo dục và kế hoạch triển khai
cho từng năm cho đến năm 2010.
- Điều tra cơ bản tổng thể hệ thống giáo dục phổ thông trên toàn thành phố. Lập
kế hoạch xây dựng các trường đạt chuẩn quốc gia cho từng cấp học, cho từng năm, cho
từng quận huyện trên cơ sở đó có kế hoạch đầu tư đồng bộ cho từng trường. Đồng thời
kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia phổ thông
ở khu vực nội thành có diện tích mặt bằng chật hẹp để các trường có thể đạt chuẩn quốc
gia.
- Tăng cường đầu tư cho cơ sở vật chất trường học, xoá bỏ phòng học cấp 4 ở
khối mầm non 760 phòng, khối tiểu học và trung học cơ sở 324 phòng trước năm 2006.
Từ năm 2006 đến năm 2010 tăng cường đầu tư các phòng chức năng như phòng thư
viện của khối tiểu học, phòng thực hành lý, hoá, sinh của các trường phổ thông cơ sở.
Tăng cường các thiết bị dạy và học cho các trường, đáp ứng cho học gắn học với hành
để nâng cao chất lượng giáo dục.
- Triển khai xây dựng cụm các trường trung học chuyên nghiệp trên diện tích đất
29 ha của trường trung học nông nghiệp trong 2 năm 2005 và 2006. Đồng thời kiến nghị
Bộ Giáo dục và Đào tạo ưu tiên dành dự án của nước ngoài cho một số trường trung học
chuyên nghiệp ở Hà Nội thành trường chuẩn của khu vực, đáp ứng việc tăng gấp 2 số
lượng đào tạo nghề vào năm 2010.
- Phát triển mạnh các trường, trung tâm dạy nghề bán công, tư thục, dân lập với
chính sách ưu tiên cấp đất để xây dựng trường và có chính sách ưu đãi đầu tư.
Một số chính sách: Ưu tiên đào tạo dạy nghề miễn phí cho con em nông dân ở
khu vực đô thị hóa mất đất nông nghiệp được đào tạo nghề để có cơ hội tìm việc làm.
Dành một phần kinh phí đền bù giải toả đất nông nghiệp để lập quỹ đào tạo nghề và các
nguồn kinh phí khác. Tăng biên chế về cán bộ quản lý, giáo viên, công nhân viên các
bậc học, cấp học phù hợp với yêu cầu giáo dục toàn diện và nhiệm vụ mới (giáo viên
dạy 2 buổi/ngày, giáo viên dạy các môn chuyên biệt, cán bộ y tế học đường, thư viện,
thí nghiệm … ở các trường) hoặc cho phép các trường thực hiện tuyển hợp đồng dài hạn
có bảo hiểm xã hội bằng nguồn thu hợp lý của nhà trường. Đề nghị xem xét điều chỉnh
lại thang lương của giáo viên mầm non và giáo viên tiểu học cho hợp lý hơn. Sở Giáo
dục và Đào tạo đề nghị Bộ và Chính phủ cho phép Hà Nội có quy chế riêng trong việc
thay đổi các khoản thu trong năm học có mức cao hơn các địa phương khác cho phù hợp
với kinh tế - xã hội của Thủ đô.
Phần thứ tư
Kết luận và kiến nghị
Xây dựng một nền nông nghiệp đô thị sinh thái đó là con đường phát triển tất yếu
của sự nghiệp CNH - HĐH thủ đô Hà Nội. Chính nền nông nghiệp đó sẽ khai thác mọi
tiềm năng đất đai khí hậu thời tiết kết hợp với công nghệ tiên tiến để tạo ra sản phẩm có
chất lượng cao, đồng thời cũng góp phần cải tạo môi trường sinh thái của thủ đô. Nông
nghiệp đô thị sinh thái được phát triển không phải chỉ ở ngoại thành, đương nhiên ngoại
thành là nơi nông nghiệp phát triển tập trung. Trong sự nghiệp CNH - HĐH của nông
thôn Hà Nội; đóng vai trò rất quan trọng, do xuất phát điểm thấp, sản xuất chủ yếu thủ
công lạc hậu, mà chỉ trong một thời gian từ 10 - 15 năm nông thôn ngoại thành trở lên
có trình độ CNH - HĐH, không những thế còn phải dẫn đầu của cả nước. Dựa trên cơ
sở lý luận và thực tiễn phát triển, qua phân tích 20 năm đổi mới và phát triển của thủ đô
Hà Nội đã chỉ ra mặt thành công và tồn tại, nguyên nhân của nó. Căn cứ vào các nhân tố
chủ quan và khách quan v.v.. đề tài đã đưa ra các chỉ tiêu, phương hướng bước đi và
giải pháp phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hóa nông thôn Hà Nội giai
đoạn 2006 – 2010. Đây là giai đoạn mang tính đột phá, tạo nền tảng để 5 –10 năm sau
Hà Nội có vùng ngoại ô công nghiệp hóa và hiện đại hóa, có nền nông nghiệp đô thị
sinh thái. Để đạt được mục tiêu đó đề tài xin có một số kiến nghị sau:
1. Quy hoạch vùng nông thôn và vùng nông nghiệp Hà Nội: Hiện tại Hà Nội
đã có chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2020 và quy hoạch đến 2020.
Trong biên giới của Hà Nội như hiện nay (2004) đã chỉ ra hướng phát triển mở đến các
thành phố vệ tinh; Đối với một quốc gia sẽ có gần 100 triệu dân đến năm 2020 sẽ trở
thành một nước công nghiệp. Vậy thủ đô Hà Nội có mở rộng địa giới nữa không? Và
hướng mở ra như thế nào? Vùng nông thôn được xác định đến năm 2020 có ổn định
không? Có như vậy mới có định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn lâu dài. Theo
kiến giải của đề tài, Hà Nội không nên mở rộng theo vết dầu loang như hiện nay mà mở
rộng đô thị mới vào vùng tập trung và các thành phố vệ tinh có thể cách trung tâm Hà
Nội 30km. Còn vùng nông thôn đã quy hoạch vẫn giữ nguyên, nó đan xen, bao bọc lấy
các vùng đô thị. Điều đó tạo cơ hội cho nông nghiệp – nông thôn Hà Nội phát triển theo
hướng sinh thái và hiện đại.
2. Phát triển các khu sản xuất chất lượng cao – công nghệ cao trong nông
nghiệp: Muốn phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái thì phải chuyển sản xuất nông
nghiệp theo số lượng, năng suất cao sang nông nghiệp chất lượng cao, hàm lượng khoa
học cao trong sản phẩm và hiệu quả kinh tế cao. Muốn như vậy thì phải có đầu tư ban
đầu để tạo bước đột phá, chứ không thể cải tạo dần nông nghiệp truyền thống như hiện
nay khó tạo ra nông nghiệp đô thị sinh thái. Sản phẩm tập trung vào: Rau, hoa, cây ăn
quả, nuôi trồng thuỷ sản, lợn nạc, gia cầm. Tạo thành các khu chuyên môn hóa tập trung
sản xuất được kiểm soát, nguồn gốc giống, quy trình sản xuất theo quy định, sản phẩm
được kiểm tra chất lượng, an toàn thực phẩm và có địa chỉ cụ thể của người sản xuất.
Có công ty gắn với vùng sản xuất nguyên liệu để tiêu thụ, chế biến nông sản và đáp ứng
các dịch vụ khác cho đơn vị sản xuất nguyên liệu theo mô hình liên kết, liên hiệp sản
xuất.
S x nguyên liệu
Thu mua nguyên liệu kiểm tra Chế biến bảo quản Cung ứng dịch vụ
Khách sạn nhà hàng Cơ quan ngoại giao Siêu thị Cửa hàng Chợ
Người tiêu dùng
Hà Nội hình thành khoảng 10 khu tổng hợp sản xuất rau với diện tích 3000 ha sẽ
hình thành khoảng 60 doanh nghiệp vừa và nhỏ để tiến hành sản xuất. Đối với các sản
phẩm khác của Hà Nội cũng tổ chức hình thức sản xuất tương tự như sản xuất rau an
toàn. Nhưng đề nghị tập trung phát triển với quy mô lớn đối với các doanh nghiệp thu
mua, chế biến và tiêu thụ để có đủ khả năng thu hút thêm nguyên liệu của các tỉnh giáp
với Hà Nội.
3. Về đầu tư cho phát triển nông nghiệp sinh thái và nông thôn Hà Nội:
Muốn có bước đột phá trong sản xuất nông nghiệp và hiện đại hóa nông thôn thì phải có
đầu từ toàn diện, không chỉ là đầu tư tài chính mà còn đầu tư về tổ chức chỉ đạo, trí tuệ,
chính sách mới có thể tạo ra bước nhảy vọt.
- Đầu tư cho sản xuất nông nghiệp sinh thái cần tăng cả về tỷ trọng và số lượng
vốn đầu tư. Vốn đầu tư bao gồm nhiều nguồn vốn: Ngân sách nhà nước, vốn đầu tư
nước ngoài, vốn tín dụng, vốn khai thác tiềm năng của người sản xuất để hình thành các
vùng sản xuất chuyên canh, các khu công nghiệp cao của một số sản phẩm chính và đầu
tư đồng bộ từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ, đảm bảo an toàn thực phẩm và chất
lượng cao. Đối với cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp tập trung đầu tư
cho vùng chuyên canh, khu nông nghiệp chất lượng cao, khu công nghệ cao với hệ
thống tưới nước sạch, hệ thống điện, hệ thống xử lý nước thải cùng với công nghệ chế
biến bảo quản hiện đại.
- Hiện tại vốn đầu tư cho cở sở hạ tầng ở nông thôn từ ngân sách chiếm đến trên
90% vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Nhưng với số diện tích trải rộng đến 80%
và dân số trên 40%, cho nên số vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn chiếm tỷ lệ
quá thấp so với tổng số vốn đầu tư của toàn thành phố, bởi vậy cần cân đối và tăng tỷ lệ
đầu tư từ 20 - 25% hàng năm cho nông nghiệp - nông thôn thì mới có khả năng từng
bước hiện đại hóa nông thôn. Thành phố cần có chính sách khai thác tiềm năng đất đai
của mỗi huyện mỗi xã, có cơ chế xây dựng khu dân cư mới ở nông thôn, đấu thầu đất
đai để có tiền bổ sung vào quỹ xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Nếu chỉ trông chờ vào
ngân sách thì khó có thể nhanh chóng hiện đại hóa cơ sở hạ tầng ở nông thôn ngoại
thành.
4. Đẩy nhanh phát triển sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường: Nhanh
chóng xây dựng nền sản xuất hàng hóa trong nông thôn, nông nghiệp. Hình thành, mở
rộng thị trường hàng hóa, thị trường tài chính, thị trường lao động v.v…. Đặc biệt nâng
cao trình độ, ý thức của mỗi người dân, người sản xuất kinh doanh về sản xuất theo cơ
chế thị trường, giữ chữ tín, làm ăn có hiệu quả, đảm bảo phát triển bền vững. Đây là
vấn đề khó và cần có thời gian, không thể nóng vội. Trong sản xuất nông nghiệp đạt
chất lượng, an toàn thực phẩm lên hàng đầu bắt đầu từ người sản xuất nguyên liệu, sau
đó là người chế biến và tiêu thụ. Vì vậy phải xây dựng mô hình sản xuất – chế biến –
tiêu dùng thành một hệ thống dây truyền cùng chịu trách nhiệm, cùng hưởng thụ thành
quả với sự đóng góp của mỗi khâu trong cả quá trình sản xuất.
5. Đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ tiên tiến: Đẩy
mạnh việc sản xuất sản phẩm có chất lượng cao trong nông nghiệp, cần chỉ đạo tập
trung một số sản phẩm chủ yếu, không chỉ đạo dàn trải hàng chục sản phẩm nông
nghiệp như hiện nay. Sản xuất sản phẩm thủ công, công nghiệp tập trung vào sản xuất
sản phẩm tinh sảo, đầu tư lao động kỹ thuật cao để nâng cao giá trị của một sản phẩm.
Đây là nội dung cơ bản của ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ cao vào sản xuất và
đời sống.
- Tăng số vốn đầu tư khoa học công nghệ cho nông nghiệp để giải quyết hai vấn
đề ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và xử lý ô nhiễm môi trường đất và nước trong
sản xuất nông nghiệp. ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao vào việc kiểm tra chất lượng
sản phẩm nông nghiệp để đảm bảo an toàn thực phẩm cho người dân Thành phố.
6. Nâng cao chất lượng đào tạo: Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ
quản lý kinh tế và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao cho vùng nông thôn ngoại thành.
Cân đối lại số lượng trường lớp đào tạo để có thể thu hút 80 % - 90% số học sinh tốt
nghiệp PTCS và PTTH (không được vào các trường đại học và cao đẳng quốc gia) ở
ngoại thành được qua trường lớp học nghề đào tạo tại chỗ.
- Cần có quy hoạch đào tạo mới đội ngũ cán bộ trong bộ máy công quyền các
cấp, phục vụ cho công việc cải cách hành chính và chuyển tải việc thực hiện pháp luật
và chính sách của Nhà nước vào thực tiễn một cách nhanh chóng và có hiệu quả.
- Đẩy nhanh đào tạo đội ngũ giám đốc các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn
để phát triển mạnh các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn 2006 – 2010,
thu hút nhiều hộ nông dân sản xuất qui mô nhỏ thành doanh nghiệp sản xuất hàng hóa
nông sản mang tính chuyên môn hóa cao.
7. Tăng cường phát triển công nghiệp cơ khí chế tạo: Để đẩy nhanh sản xuất
nông sản hàng hóa với chất lượng cao và an toàn đồng thời hiện đại hóa nông thôn,
ngành công nghiệp Hà Nội nghiên cứu xây dựng một nhà máy cơ khí chế tạo máy động
lực, máy công cụ với công suất vừa và nhỏ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và hiện
dại hóa nông thôn, để hạn chế nhập máy móc và thiết bị ở nước ngoài.
8. Hoàn thiện và xây dựng một só chính sách: Ngoài các chính sách vĩ mô
chung của Nhà nước, Hà Nội cần xây dựng một số chính sách mang tính đặc thù của
nông nghiệp – nông thôn Thủ đô.
- Chính sách khuyến khích sản xuất – chế biến – tiêu thụ đối với thực phẩm an
toàn. Tập trung đầu tư một số khu nông nghiệp tổng hợp công nghệ cao mang tính mô
hình.
- Chính sách khuyến khích sản xuất sản phẩm với công nghệ ít gây ô nhiễm môi
trường và chính sách đầu tư xử lý ô nhiễm môi trường ở nông thôn.
- Chính sách khuyến khích đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề kỹ thuật cho
người lao động.
- Chính sách đào tạo tay nghề, giải quyết làm, nâng cao thu nhập cho người nông
dân bị thu hồi đất cho sự nghiệp đô thị hoá hiện đại hoá nông thôn.