intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Coi trọng phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn

Chia sẻ: Nguyen Bao Tran | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

100
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bước vào thế kỷ 21, trong phát triển nền kinh tế xã hội trong nông nghiệp, chúng ta cần coi trọng phát triển chăn nôi ở tàm cao hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm chuyển dịch cơ cấu sản xuất và đa dạng hoá vật nuôi gắn với bảo vệ môi trường ở nông thôn, đa dạng hoá sản phẩm để có nhiều thực phẩm góp phần thực hiện chiến lược con người nâng cao tầm vóc thể lực (chủ yếu chiều cao) các thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam trong tương lai 20-30 năm...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Coi trọng phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn

  1. Coi trọng phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn Bước vào thế kỷ 21, trong phát triển nền kinh tế xã hội trong nông nghiệp, chúng ta cần coi trọng phát triển chăn nôi ở tàm cao hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm chuyển dịch cơ cấu sản xuất và đa dạng hoá vật nuôi gắn với bảo vệ môi trường ở nông thôn, đa dạng hoá sản phẩm để có nhiều thực phẩm góp phần thực hiện chiến lược con người nâng cao tầm vóc thể lực (chủ yếu chiều cao) các thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam trong tương lai 20-30 năm tới khi đất nước trở thành nước công nghiệp hiện đại. I.Tiềm năng phát triển chăn nuôi 1. Diễn biến đàn gia súc, gia cầm Trong thời kỳ đổi mới, chăn nuôi gia đình và trang trại ở nông thôn được khuyến khích trong điều kiện lương thực ổn định, có lương
  2. thực dự trữ, đã phát triển qua từng năm, năm sau cao hơn năm trước, đã thực sự góp phần đáng kể cải thiện dân sinh. Trong 10 năm, từ năm 1995 đến 2005 của thời kỳ đổi mới, xu thế chăn nuôi vẫn là chăn nuôi lợn, bò và gia cầm (gà, vịt). So với năm 1995, đàn lợn năm 2005 tăng 1,68 lần (6,8%/năm) và bò 1,52 lần (5,2%/năm). Trâu và ngựa hầu như không phát triển và có chiều hướng giảm sút. Trong khi đó, bò sữa tăng với tốc độ rất cao 45,7%/năm từ 18,7 nghìn con năm 1995 lên đến 104 nghìn con năm 2005 và đàn dê từ 550 nghìn con lên 1.314 nghìn con. Trong chăn nuôi gia cầm, vịt ngan, ngỗng cũng tăng với tốc độ 8,7%/năm đạt 60 triệu con chiếm trên 27% tổng đàn gia cầm trong cả nước. Tuy nhiên, bình quân đàn gia súc/người còn quá thấp và mỗi hộ gia đình mới nuôi 2,62 con lợn; 0,80 con trâu bò và 21 con gia cầm (tương ứng với năm 1995 là 1,54; 0,63 và 15 con). Điều này nói lên tiềm năng chăn nuôi hộ và trang trại ở nông thôn còn rất lớn. 2. Sản phẩm chăn nuôi
  3. Song song với việc tăng số lượng đầu con gia súc, gia cầm, chất lượng giống vật nuôi do nhập nuôi thuần giống ngoại và lai cải tạo giống nội cũng không ngừng được nâng cao, được người chăn nuôi ở mọi vùng đất nước chấp nhận. Ta đã nhập nhiều giống lợn ngoại: Yorkshire, Landrace, Duroc, Hamshire, Pietrain, lai với các giống lợn nội tạo nhiều cặp lai bố mẹ có ưu thế lai cao, đưa khối lượng xuất chuồng bình quân của lợn nuôi thịt trong cả nước năm 2005 đạt 63-64 kg trong đó các tỉnh phía Bắc, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên đạt 56-58 kg/con, ở Đông Nam bộ 78 kg/con và ở đồng bằng sông Cửu Long đạt 86-87 kg/con. Ta đã nhập bò sữa Holstein Friesian (hiện chiếm 15,16%) lấy sữa và cho lai với bò cái Lai Sind tạo đàn bò lai hướng sữa (hiện chiếm 84,59%). Từ một nước không có tập quán nuôi bò sữa, nay ta đã có hàng trăm nghìn bò sữa nuôi trong các trang trại và hộ nông dân. Ta cũng đã có bộ giống gà ông bà và bố mẹ lông màu chăn thả, có bộ giống vịt siêu thịt CV Super M1, M2, vịt siêu trứng CV Layer 2000, có giống dê kiêm dụng thịt sữa Bách thảo và giống cừu Phan
  4. Rang. Chúng ta cũng đã có một số giống cỏ trồng thâm canh làm thức ăn xanh cho các loại vật nuôi ăn cỏ. Như vậy, nhân tố giống còn rất lớn. Đây cũng là một tiềm năng ta chưa khai thác hết, đó là chưa kể đến tiềm năng lao động nông nghiệp ở nông thôn. Năm 2005, sản lượng thịt hơi các loại đạt 2.812 nghìn tấn so với năm 1995 tăng 11,3%/năm, trong đó thịt lợn đạt 2.288 nghìn tấn tăng 12,7%/năm và chiếm tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay, 81,4% tổng lượng thịt các loại. Sản lượng thịt hơi các loại gia súc gia cầm khác về số lượng tuyệt đối có tăng so với năm 1995: thịt trâu bò tăng 7,1% và thịt gia cầm tăng 6,3%/năm, nhưng trong cơ cấu tiêu dùng, thịt trâu bò còn quá ít, khoảng 7%; thịt gia cầm mới được trên 11%; thật chưa tương xứng với tiềm năng sản xuất của 2 loại vật nuôi này. Nếu khai thác hết tiềm năng giống, ta còn có khả năng tăng thịt, trứng, sữa với tốc độ nhanh hơn trong thời gian ngắn cung cấp thực phẩm cho dân sinh tính theo đầu người. Bình quân thịt hơi/đầu người đã đạt 35,2 kg/năm tăng gần gấp 2 lần so với năm 1995. Bình quân sữa cũng tăng và được gần 2,5 lít
  5. sữa/người/năm, điều mà trước đây 10 năm chưa được nổi 0,30 lít/người/năm. Điều này thể hiện khá rõ nét tiềm năng về khoa học và công nghệ trong đó có những tiến bộ công nghệ về giống vật nuôi như đã đề cập ở trên. Nếu ở tất cả các địa phương thuộc 8 vùng kinh tế và lãnh thổ của đất nước ở đâu cũng phổ biến áp dụng vào sản xuất ở quy mô rộng, chắc chắn trong chăn nuôi ta sẽ có bình quân thực phẩm/đầu người/năm tăng gấp hai lần hiện nay vào năm 2010, không thua kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHÍNH 1. Định hướng Ở nước ta có đủ các loại gia súc, gia cầm: lợn, trâu, bò, ngựa, dê, thỏ, gà, vịt, ngan, ngỗng, đà điểu, bồ câu... Do đó, với nền nông nghiệp sinh thái nhiệt đới, trong cả nước, nơi nào thuận lợi cho loại vật nuôi nào, ta phát triển loại vật nuôi ấy theo quy mô hộ và trang trại nhằm khai thác và sử dụng hết tiềm năng thiên nhiên, đất đai và lao động của mỗi vùng.
  6. Nhưng để nhanh chóng có nhiều thực phẩm cho tiêu dùng xã hội, ta tập trung phát triển chăn nuôi lợn có tỷ lệ nạc cao, chăn nuôi gà theo hướng công nghiệp và gà lông màu chăn thả trong đó có con vịt, chăn nuôi bò sữa và trâu bò thịt, coi đây là hướng ưu tiên trong phát triển chăn nuôi ở nông thôn Việt Nam. Đây không chỉ là hướng ưu tiên mà còn là xu thế tất yếu trong phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại trong thời kỳ quá độ tiến lên hình thành ngành nông nghiệp hàng hóa ở nông thôn. Từ chỗ không có bò sữa, nay ta đã có nhân mối phát triển bò sữa. Đó là nhờ có tầm nhìn chiến lược của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, chỉ đạo cương quyết của Chính phủ từ thời còn cố Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng và tâm huyết của các nhà khoa học. Nuôi bò thịt đơn giản hơn nhiều so với nuôi bò sữa cả về đầu tư và kỹ thuật. Ta cần tiền hành cải tạo giống để chuyển giống trâu bò của ta hiện là giống trâu bò cày kéo thành trâu bò thịt nhằm có bê, nghé, nhất là bê lai nuôi đến 18-24 tháng tuổi đạt 300-400 kg giết thịt cho thịt bò thơm ngon gọi là "thịt đỏ" cung cấp cho tiêu dùng. 2. Một số giải pháp
  7. 2.1. Tổ chức lại công tác quản lý giống bằng cách xây dựng và ban hành tiêu chuẩn xếp cấp giống cho một số giống vật nuôi để có căn cứ bình tuyển xếp cấp giống hàng năm và dễ thanh tra kiểm tra chất lượng giống của các cấp quản lý. Bình tuyển xếp cấp là để xây dựng đàn hạt nhân và quản lý hệ thống giống vật nuôi theo tháp giống 3 cấp: Trong tháp giống ấy: - Ở đỉnh tháp là đàn hạt nhân cấp cụ kỵ, là những giống thuần dòng thuần (cả ngoại và nội). - Ở tầng giữa tháp là đàn hạt nhân giống, cấp ông bà, thường là những giống thuần, nhưng đã có dòng lai để cấp giống cho xây dựng đàn bố mẹ để có con lai có ưu thế lai cao cung cấp cho nuôi thương phẩm. Trong 5-7 năm trước mắt, ta có thể hình thành hệ giống hình tháp cho lợn và bò sữa. Hệ thống này có thể khép kín trong một doanh nghiệp chăn nuôi hoặc Liên hiệp một số doanh nghiệp chăn nuôi thành hệ thống có nhiệm vụ quản lý đàn hạt nhân và sản xuất giống bố mẹ cung cấp giống cho nông hộ chăn nuôi thương phẩm.
  8. Đàn giống hạt nhân ở các cơ sở giống quốc doanh và tư doanh hợp thành đàn giống hạt nhân quốc gia. - Bộ có chính sách trợ giá cho đàn giống hạt nhân trong thời gian đầu vì các chi phí nhân giống ở đàn hạt nhân bao giờ cũng cao hơn các đàn khác. - Như vậy sẽ khuyến khích các doanh nghiệp chăn nuôi tư nhân xây dựng đàn hạt nhân và hệ thống giống hình tháp. 2.2. Xây dựng cơ sở thức ăn vững chắc cho phát triển chăn nuôi ổn định và bền vững. 2.2.1.Trên cơ sở có an ninh lương thực quốc gia, quy hoạch một số vùng sản xuất thức ăn nguyên liệu như bột cá, ngô, lạc, đậu tương. Có thể dành vụ đông cho gieo trồng những cây này. Các xí nghiệp chế biến thức ăn đảm bảo lợi ích cho người sản xuất thức ăn nguyên liệu theo hợp đồng để luôn luôn có nguyên liệu cho sản xuất thức ăn hỗn hợp và thức ăn đậm đặc chất lượng tốt giá thành hạ cho chăn nuôi lợn, gia cầm và một số giống vật nuôi khác. - 2.2.2. Hợp đồng với nông dân dành diện tích đất trồng cỏ và cây thức ăn để có thức ăn xanh thô cho bò sữa và trâu bò thịt. Thiếu
  9. thức ăn xanh thô (chiếm 70-75% trong khẩu phần thức ăn hàng ngày) ta không thể nuôi bò sữa, bò thịt thâm canh có năng suất cao. Có thể tổ chức các hình thức "chợ cỏ và cây thức ăn xanh" hoặc ký hợp đồng vận chuyển đến tận chuồng nuôi. Ngoài trồng cỏ, có thể hợp đồng trồng thâm canh su hào, cải bắp, bí ngô... để tăng nguồn thức ăn xanh thô nhiều nước cho bò sữa và trâu bò thịt. 3. Tăng cường chăn nuôi quy mô trang trại để có điều kiện cơ giới hóa chăn nuôi ở nông nghiệp nông thôn 3.1. Có chính sách cho thuê đất lâu dài để nông dân có thể mở rộng chăn nuôi theo kiểu trang trại và chính sách cho vay vốn lãi suất thấp để xây dựng cơ sở hạ tầng và chuồng nuôi theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa sản xuất ở nông thôn. 3.2. Về chuồng nuôi: lợn nái sinh sản nuôi trong các chuồng 30-40 cm, gà công nghiệp quy mô lớn nuôitrong các chuồng kín, gà lông màu chăn thả có đủ chuồng nuôi để phân đàn, có vườn cây ăn quả để chăn thả. Với bò sữa, bò thịt nhất là bò sữa cần có chuồng nuôi thông thoáng. Tất cả các loại chuồng nuôi đều phải có trang bị
  10. máng ăn, máng uống tự động, riêng với bò sữa có dàn máy vắt sữa tự động. Xây dựng và trang thiết bị chuồng bị theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa cần có vốn đầu tư ban đầu nhưng tiết kiệm diện tích xây dựng, quản lý vật nuôi dễ dàng, vật nuôi ít bị dịch bệnh và buộc người nuôi có ý thức chọn giống, nuôi giống tốt đạt năng suất cao. 3.3 Trong thiết kế chuồng nuôi lợn, bò sữa và trâu bò cần xây dựng bể khí biogaz để xử lý chất thải chăn nuôi, có khí đốt, có nguồn phân đã xử lý dùng nuôi trồng thủy sản, làm phân bón cho thâm canh cây trồng và giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở nông thôn. 4. Muốn phát triển chăn nuôi ổn định và bền vững, ngoài các yếu tố giống, thức ăn, phòng bệnh, quản lý... cần có giải pháp giết mổ, chế biến thực phẩm tập trung và giải quyết khâu tiêu thụ sản phẩm cho các hộ nông dân chăn nuôi. Chỉ trên cơ sở chăn nuôi trang trại mới có thể tổ chức chăn nuôi theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nông thôn. Thành quả của chăn nuôi trang trại và chăn nuôi nông hộ trong vùng là có
  11. vùng nguyên liệu cung cấp cho xí nghiệp giết mổ và chế biến thực phẩm do nhà nước chủ yếu là các công ty quốc doanh hoặc tư doanh đảm nhiệm. Đây là hình thức đầu tư và liên kết giữa nhà nước với nông dân. Ở các thôn xã trong vùng có thể hình thành các tổ hợp chăn nuôi và hợp tác xã dịch vụ chuyên lo sản xuất. 5. Giải pháp phòng bệnh đảm bảo an toàn dịch bệnh cho vật nuôi, và an toàn thực phẩm cho con người là hết sức quan trọng và vô cùng cấp bách trong thời điểm hiện nay Bốn bệnh gia súc, gia cầm: bệnh dịch tả, bệnh lở mồm long móng, bệnh Niu-cat-xơn và bệnh dịch cúm gia cầm theo quy định của Tổ chức Thú y Thế giới, được xếp vào bảng A của Luật Thú y Quốc tế. Trong 4 bệnh ấy, 2 bệnh lở mồm long móng và dịch cúm gia cầm, ta chưa có vac-xin tại chỗ để chủ động tiêm phòng định kỳ hàng năm. Khi có dịch xảy ra trong thời buổi kinh tế thị trường và môi trường bị ô nhiễm nặng, dịch bệnh lây lan rất nhanh và gây nhiều thiệt hại cho phát triển chăn nuôi. Dịch lở mồm long móng phát
  12. sinh lúc đầu ở lợn sau đó lây lan sang trâu bò, sau đó , chỉ trong một thời gian rất ngắn đã lan ra nhiều tỉnh là một minh chứng. Do đó, cần tiến hành: 5.1. Củng cố thú y cấp huyện và tăng cường cán bộ thú y đến thôn xã; 5.2. Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến nâng cao nhận thức phòng bệnh vật nuôi cho người chăn nuôi và trong các cộng đồng dân cư. Ngoài những bài viết được đăng tải trên các báo chí ở Trung ương và địa phương, cần khai thác sử dụng triệt để hệ thống truyền thanh của Đài tiếng nói Việt nam hiện có mạng lưới ở các thôn xã trong phạm vi cả nước vào việc này. 5.3. Dịch đã xảy ra cần ngăn chặn không để tái phát. Khác với dịch cúm gia cầm khi mới phát hiện chưa có vac-xin, bệnh lở mồn long móng đã có vac-xin phòng bệnh nhưng phải nhập từ nước ngoài, Vừa rồi ta đã phải nhập của Mỹ, Hà Lan 2 loại vac-xin đơn giá và đa giá. Như vậy ta cần có kế hoạch nhập đủ vac-xin và tiến hành tiêm phòng kịp thời hàng năm nhằm ngăn chặn dịch bệnh tái phát theo nguyên tắc phòng bệnh hơn chữa bệnh.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2