Diễn đàn.... Xã hội học, số 4 - 1997 100<br />
<br />
<br />
Cộng đồng với việc giải quyết trẻ em lang thang trên Đèo Ngang<br />
NGUYỄN THIẾT<br />
Vài năm trước đây, nhiều phương tiện thông tin đại chúng và dư luận xã hội nói nhiều<br />
đến một tệ nạn bùng nổ ở Đèo Ngang - “dịch chặn xe xin ăn”. Trẻ em ra đường vái lạy xin ăn<br />
xuất hiện ở Đèo Ngang từ năm 1990-1991 và đặc biệt nghiêm trọng vào những năm sau đó.<br />
Những ngày cao điểm mỗi phía có tới bốn, năm chục em. Cả thảy hàng trăm em trên một<br />
quãng đường đèo gần 6 km. Bây giờ căn bệnh đã bị đẩy lùi.<br />
Hai xã Kỳ Nam thuộc Hà Tĩnh và Quảng Đông thuộc Quảng Bình đều mới thành lập<br />
từ năm 1965 à 1966. Cả hai xã đều nằm trên trục đường số 1, ba bề là rừng núi, một bên là<br />
biển cả, 2/3 diện tích đất tự nhiên là rừng núi, 1/3 là đất pha cát một phần nước lợ, nửa năm<br />
ngập úng. Nắng lắm, mưa nhiều, đất bị sói mòn chai sạn.<br />
Trước đây ở Đèo Ngang do địa hình hiểm trở và cách biệt nên cư dân thưa thớt. Điều<br />
kiện địa lý khí hậu khắc nghiệt, người dân thường xuyên phải đối mặt với thiên tai. Để tồn tại<br />
họ phải gắn bó với nhau trong cộng đồng làng xã.<br />
Theo số liệu thống kê ở Bắc Đèo Ngang có 3% số dân không biết chữ. Thế hệ cha mẹ<br />
học vấn cao hơn con cái, cha mẹ thường học hết cấp 2 và một số ít là cấp 3, nhưng con cái<br />
học hết cấp 2 quá ít. Năm học 1994-1995 chỉ có 11 em lớp 6, 22 em lớp 7 nhưng cả hai lớp<br />
chi tồn tại được hai tháng vì không có thầy. Ai muốn đi học thì phải đi xa hàng chục cây số.<br />
Đói nghèo như vậy hầu hết các em phải ở nhà giúp đỡ gia đình kiếm sống. Trẻ em không<br />
được đến trường là một trong những nguyên nhân của tệ nạn ăn xin.<br />
Với tình trạng độc canh cây lúa, sản xuất bấp bênh vì chịu ảnh hưởng sâu sắc của thời<br />
tiết, thu nhập lương thực bình quân đầu người hàng tháng chỉ có 11-13 kg thóc. Toàn vùng<br />
Bắc Đèo Ngang có 420 hộ thì 243 hội với 1.020 nhân khẩu thuộc diện nghèo, 67 hộ đói, 105<br />
hộ đủ ăn và chỉ có 5 hộ thuộc diện khá. Sản xuất chủ yếu là nông nghiệp nhưng diện tích đất<br />
nông nghiệp chỉ bằng 10% diện tích đất lâm nghiệp và bằng 8% tổng diện tích. Thế nhưng<br />
một thời gian dài chỉ định hướng phát triển cây lúa, con lợn mà quên đi đặc điểm địa lý kinh<br />
tế của tiểu vùng. Mặc khác cơ chế quản lý tập trung, bao cấp đã không chú ý phát huy quyền<br />
tự chủ và lợi ích của mỗi người xã viên, vì vậy, người nông dân không còn tha thiết với sản<br />
xuất và hợp tác xã. Thực trạng kinh tế xã hội như vậy trong khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế<br />
thực sự gây nên không ít khó khăn. Hầu hết hộ nông dân thiếu vốn để mua sắm công cụ, tư<br />
liệu sản xuất làm cho người nông dân rơi vào vòng luẩn quẩn, không hòa nhập được với cơ<br />
chế mới, khả năng tụt hậu là điều chắc chắn.<br />
Từ năm 1990 bắt đầu xuất hiện tình trạng một số người lớn và tẻ em “vái lạy xin ăn”<br />
có lúc cao điểm lên đến hàng trăm người. Tìm hiểu hoàn cảnh 37 em thường xuyên xin ăn<br />
thuộc 26 hộ, chúng tôi thấy nhưa sau:<br />
1) 42% gia đình đông con, bố mẹ già yếu hoặc gia đình có những biến động về xã hội<br />
như đi vùng kinh tế mới không trụ được phải về, di chuyển chỗ ở và sinh hoạt chưa ổn định.<br />
2) 58% gia đình không hoản chỉnh, bố mẹ mất sớm hoặc ly dị.<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
101<br />
Nguyễn Thiết<br />
<br />
Số hộ gia đình có 2 con chiếm 34%, số hộ 3 con trở lên 66%. Trong đó 26% có từ 5<br />
đến 7 con, 6 hộ có từ 2 đến 3 con thường xuyên lên đèo.<br />
3) Về tuổi của các em thường lên đèo xin ăn: 7 tuổi chiếm 8%; 8 tuổi chiếm 10%; 9<br />
tuổi chiếm 5%; 10 tuổi chiếm 13,5%; 11 tuổi chiếm 5%; 12 tuổi chiếm 19%; 13 tuổi chiếm<br />
13,5%; 14 tuổi chiếm 20%; 15 tuổi chiếm 5%.<br />
Trong số này có 32% là trẻ em gái, độ tuổi từ 10 đến 14 tuổi; 68% là nam tuổi từ 7 đến<br />
15. Các em nữ 13-14 tuổi thường không muốn tiếp tục công việc này vì đã biết xấu hổ. Nhưng<br />
các em nam ở độ tuổi ấy thì vẫn tiếp tục lang thang và có nhiều hành vi gây mất trật tự an<br />
toàn giao thông.<br />
4) Về học vấn 81% các em chỉ học lớp 1 và lớp 2, 2% học lớp 3 và 16,2% chưa từng<br />
đến trường. Tình trạng học vấn thấp như vậy đã ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức xã hội của<br />
các em. Trở lại lớp học là một việc khó khăn vì tuổi các em đã lớn so với tuổi vào lớp mà các<br />
em đã bỏ qua.<br />
Nhận xét chung về các em lang thang ăn xin trên Đèo Ngang là khác với trẻ em lang<br />
thang ở thành phố và nơi du lịch. Gần 100% trẻ em lang thang trên Đèo Ngang không tách rời<br />
gia đình. Hầu hết các em trả lời số tiền xin được đều đưa cho bố mẹ mua gạo, rất ít đứa trẻ đã<br />
chi tiêu số tiền đó cho nhu cầu riêng của mình.<br />
5) Nhận thức của các em về nguyên nhân “vái lạy ăn xin”<br />
Đa số các em được hỏi đều trả lời: nguyên nhân do kinh tế gia đình khó khăn, nhiều<br />
gia đình thất bát trở về từ những vùng kinh tế mới Tây Nguyên; hầu hết là đông anh em, mất<br />
mùa liên tục nên sự cưu mang của cộng đồng cũng hạn chế, không ít trường hợp bố mất sớm,<br />
còn mình mẹ. Nhiều hộ loại này có đến 2-3 em thường xuyên lên đèo.<br />
Nguyên nhân thứ hai: có nhiều trẻ em trả lời theo bạn bè, thấy người ta làm em cũng<br />
làm – số này thường dễ quay trở về nhà nếu được khuyên nhủ kịp thời của các Tổ chức xã<br />
hội.<br />
6) Nguyện vọng của các em<br />
Tuyệt đại đa số các em mong muốn gia đình sớm ổn định để phát triển sản xuất, các<br />
em có cơ hội để giúp đỡ gia đình theo khả năng của mình. Hầu hết các em đã từng lên đèo nay<br />
không lên nữa nhưng nhiều em vẫn chưa được đến trường, các em phải đi lấy củi hoặc làm<br />
thuê.<br />
Nhìn chung các hộ nông dân Đèo Ngang đều ít ruộng, không có vốn, thiếu khả năng<br />
thâm canh, mở rộng ngành nghề nên đã hạn chế khả năng tham gia vào các hoạt đọng kinh tế<br />
và xã hội của các em.<br />
Khi được hỏi về nguyện vọng học tập, nhìn chung các em rất ít trả lời. một số em ngại<br />
trở lại lớp vì lớn tuổi, các em rất tự ti về trình độ học vấn của mình, vì vậy mà chưa chủ động<br />
được định hướng học tập và công việc của mình. Điều đó đang tiếp tục nêu lên những vấn đề<br />
xã hội cần sớm có sự đầu tư hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức quần chúng, xã hội.<br />
Chúng tôi cho rằng những nguyên nhân chính tạo nên tình trạng đó là:<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
102 Cộng đồng với việc giải quyết trẻ em lang thang trên Đèo Ngang<br />
<br />
1) Nguyên nhân thứ nhất là do thiên nhiên khắc nghiệt, thiên tai đe dọa thường xuyên.<br />
Từ năm 1961 đến 1991 – trong 30 năm, Đèo Ngang gặp 37 cơn bão. Chỉ riêng ba năm 1988-<br />
1991 bị liên tục 9 cơn bão tàn phá, để lại hậu quả nặng nề. Tuy là nguyên nhân khách quan<br />
nhưng trong trường hợp cụ thể này đôi khi lại là yếu tố quyết định mọi vấn đề kinh tế xã hội<br />
dẫn đến tình trạng trẻ em lên đèo.<br />
2) Nguyên nhân thứ hai là do nghèo đói triền miên dẫn đến sự tha hóa, con người phải<br />
đối mặt với miếng ăn hàng ngày để sinh tồn.<br />
3) Tỷ lệ tăng dân số trước năm 1990 quá cao xấp xỉ 3%. Hậu quả của nó đang tác<br />
động xấu trong thời kỳ này.<br />
4) Địa phương nhiều năm chưa có trường cấp 2, chưa đủ giáo việ, cơ sở vật chất cho<br />
giáo dục còn hạn chế, tình trạng bỏ học là phổ biến.<br />
Kết quả nghiên cứu cho thấy hiện tượng trẻ em vái lạy xin ăn chỉ là dấu hiệu bên<br />
ngoài, thực ra bên trong nó đã tích tụ biết bao nhiêu mâu thuẫn về kinh tế- xã hội nhiều năm<br />
chưa có biện pháp khắc phục.<br />
Dự án “Hỗ trợ phát triển kinh tế hộ nông dân nghèo giúp trẻ em lang thang tái hòa<br />
nhập với cộng đồng” được áp dụng ở hai xã đã nêu trong tình hình đó. Mục tiêu của dự án là<br />
đưa trẻ em lang thang vái lạy ăn xin trên Đèo Ngang hòa nhập trở lại với cộng đồng, bằng hai<br />
biện pháp chính:<br />
Một là: Giúp đỡ nhân đạo tức thời cho những em đặc biệt khó khăn để các em trở về<br />
với cộng đồng và tham gia vào lớp học tình thương.<br />
Hai là: Cho vay vốn quay vòng giúp các gia đình nghèo phát triển sản xuất, nâng cao<br />
đời sống, duy trì lâu dài việc hòa nhập của các trẻ em lang tháng với cộng đồng.<br />
Mục tiêu dự án đề ra là lớn và chắc chắn phải vượt qua nhiều khó khăn. Thực tế lúc<br />
đầu cũng đã diễn ra như vậy. Số tiền đợt một tháng 5/1993 có 15 triệu đồng. Quỹ đã dành 4<br />
triệu để mua sách vở, bút mực, quần áo mở lớp học tình thương cho 47 em, trong đó có các<br />
em thường xuyên lên đèo vái lạy xin ăn. Phần còn lại Quỹ và ban chỉ đạo dự án động viên 8<br />
gia đình khó khăn nhất mạnh dạn vay với thời hạn 3 năm không thu lãi.<br />
Có vốn của Quỹ lại được cộng đồng quan tâm, số hộ nghèo phấn khởi nhắc nhở con<br />
cái của họ làm việc, học hành, không lên đèo vái lạy ăn xin nữa. Sau khi làm thử đợt một, số<br />
em lên đèo giảm hẳn. Nhiều hộ nghèo đã bỏ công sức cải tạo ruộng đất vườn, đào ao, khoanh<br />
hồ chuẩn bị nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc.<br />
Sau kết quả đó, Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam đã củng cố thêm quyết tâm mở rộng dự<br />
án vay vốn quay vòng với tổng số tiền là 50 triệu đồng.<br />
Song song với hoạt động phát triển kinh tế là hoạt động xã hội bằng việc thành lập câu<br />
lạc bộ những người vay vốn quay vòng của Quỹ. Nội dung sinh hoạt câu lạc bộ là giúp nhau<br />
kinh nghiệp phát triển sản xuất, quản lý và khuyên bảo con em không lên đèo, giúp các cháu<br />
học tậ và những vấn đề khác nảy sinh trong đời sống xã hội. Những hộ vay vốn sẵn có tiềm<br />
lực và kinh nghiệm hơn phải có trách nhiệm giúp đỡ kinh nghiệm cho cả nhóm sử dụng vốn<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
103<br />
Nguyễn Thiết<br />
<br />
làm ăn có hiệu quả, đồng thời chịu lãi suất 2% tháng (thời điểm này lãi suất ngân hàng 2,6%).<br />
43 hộ nghèo mỗi hộ được vay 500.000đ không phải trả lãi. Nếu vay nhiều hơn 500.000đ thì<br />
phải trả lãi phần vượt quá 500.000đ đó. Số lãi thu được từ vốn cho vay Quỹ Bảo trợ Trẻ em<br />
Việt Nam không thu về Quỹ mà giành toàn bộ cho công tác quản lý và phúc lợi cho trẻ em tại<br />
địa phương, trong đó ưu tiên cho tẻ em đã đến các lớp học tình thương.<br />
Sang giai đoạn 2 của dự án, mục tiêu phát triển kinh tế hộ gia đình theo cơ chế cho<br />
vay không lấy lãi hoặc lấy lãi một phần được gắn liền với biện pháp chuyển giao kỹ thuật<br />
được tổ chức hoạt động trên cơ sở hộ gia đình và câu lạc bộ những người vay vốn của Quỹ.<br />
Việc thành lập Câu lạc bộ có ý nghĩa quan trọng đối với thành công của dự án và tọa nên tác<br />
động kép giữa kinh tế và yếu tố tích cự của truyền thống tâm lý làng xã trong cư dân nông<br />
nghiệp, nhằm khơi dậy tinh thần cộng đồng sẵn có của một vùng dân cư đặc biệt do lịch sử và<br />
địa lý kinh tế quy định như đã nêu ở phần trên.<br />
Tuy dự án nhỏ triển khai trong phạm vi hẹp nhưng những nguyên tắc trên đây thực<br />
chất là việc hình thành thể chế mới trong cộng đồng làm cho sự phối hợp của dân chúng được<br />
dễ dàng, bằng cách giúp họ hình thành các nguyện vọng mà mọi người có thể tuân thủ một<br />
cách hợp lý khi thực hiện những nhiệm vụ kinh tế, xã hội có tính cộng đồng.<br />
Dự án Đèo Ngang gợi ý cho nông dân nói riêng va dân cư nông nghiệp nói chung xây<br />
dựng cho mình những hình thức hoạt động cộng đồng để giải quyết những nhu cầu của chính<br />
mình. Thông qua các hoạt động cộng đồng này xuất hiện những điều kiện mới, môi trường<br />
mới từ đó này sinh nhu cầu hợp tác lại giữa các hộ nông dân. Nhà nước nên có sự chú ý thích<br />
đáng để giúp đỡ nông dân và những vùng nông thôn nghèo hơn theo hướng tác động kích<br />
thích để cộng đồng tự tổ chức phát triển, từng bước từ thấp tới cao. Những chuyển biến trong<br />
cộng đồng dân cư được triển khai dự án là rất rõ rệt.<br />
1) Điều dễ nhận thấy là các gia đình có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn đã có biến đổi<br />
tích cực về sản xuất và đời sống. Tuyệt đại bộ phận những người được vay vốn đều đánh giá<br />
đời sống gia đình mình khá hơn trước: 25,31% khá hơn nhiều, 58,37% khá hơn một chút,<br />
2,75% vẫn như cũ, 6,78% cho rằng kém hơn. Tất cả những hộ được vay vốn đều rất phấn<br />
khởi và đều muốn giới thiệu với khách những thành quả do vay vốn mà có của mình.<br />
Điều không kém phần quan trọng là dự án đã tập trung vốn cho mục đích phát triển sản<br />
xuất, tạo công ăn việc làm cho gia đình, tạo được lợi nhuận và sự phấn khởi ngay từ đầu. Vì lẽ<br />
đó sau 2 năm, 84.04% số người được hỏi ý kiến trả lời cuộc sống của họ khá hơn do được vay<br />
vốn; 50% số hộ được hỏi khẳng định vốn có hữu ích; 44.4% hộ khẳng định có ích nhưng vốn<br />
còn ít. Như vậy 94.4% ý kiến khẳng định vốn có ích cho gia đình là một xác nhận thành công<br />
tốt đẹp về biện pháp kinh tế xã hội này của Quỹ.<br />
Dự án cho vay vốn còn đặt ra mục tiêu xa hơn là tạo tiền đề cho các hộ nghèo có điều<br />
kiện tự mình vượt qua khó khăn bằng chính các nguồn lực của mình, tạo ra sự biến đổi trong<br />
suy nghĩ, tổ chức sản xuất, tổ chức cuộc sống của gia đình theo yếu cầu mới của sự phát triển<br />
kinh tế và xã hội trong đó có việc chăm sóc trẻ em. Người dân tự tin hơn, có trách nhiệm hơn<br />
trong quá trình sử dụng vốn: 77,7% người trả lời cuộc sống tốt hơn là do có vốn; 22,2% trả<br />
lời do mạnh dạn đầu tư; 27,7% trả lời trong cuộc sống đã tính toán chặt chẽ hơn và 42,7% cho<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
104 Cộng đồng với việc giải quyết trẻ em lang thang trên Đèo Ngang<br />
<br />
rằn họ lo lắng đến sản xuất chăn nuôi từ vốn dự án hơn trước đây. Vì vậy, nhiều gia đình ở<br />
Đèo Ngang đã có nguồn vui và toàn cộng đồng đang có những niềm vui mới, nhận thức của<br />
nhân dân đã có những biến đổi lớn, đó là những yếu tố đảm bảo tính bền vững của dự án.<br />
2) Từ khi dự án triển khai kinh tế bắt đầu có sự thay đổi đã tạo cơ hội cho người nông<br />
dân có hoàn cảnh khó khăn tham gia vào quá trình hòa nhập với cơ chế thị trường: 86% người<br />
ngheo có trẻ con vái lạy xin ăn được vay vốn tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ thường xuyên.<br />
Khi được hỏi nội dung sinh hoạt Câu lạc bộ gồm những vấn đề gì? 47% trả lời trao đỏi kinh<br />
nghiệm sử dụng vốn cho sản xuất, 42% trả lời trao đổi kinh nghiệm giáo dục cho con cái và<br />
trên 10% trả lời bàn những vấn đề khác có liên quan.<br />
Hoạt động của lớp học tình thương, nhà trường ở hai phía đèo đã đóng vai trò tích cực<br />
trong quán trình triển khai dự án. Các thầy, cô giáo hình thành các “nhóm tâm sự” để phát<br />
hiện những khó khăn trong tâm lý trẻ em, để động viên các em đến trường và khắc phục<br />
những mặc cảm. Thái độ đúng đắn của thầy, cô làm cho nhiều em vượt qua được những khó<br />
khăn để theo học.<br />
Có thể khẳng định rằng biện pháp hỗ trợ đầu tư vốn phát triển kinh tế hộ gia đình thực<br />
sự là một khởi động, khơi dậy tính tích cực của cộng đồng để giải quyết các vấn đề xã hội của<br />
chính mình tại Đèo Ngang.<br />
Những khó khăn cần tiếp tục khắc phục:<br />
1) Dự án được triển khai ở một vùng nông thôn, dân trí chưa cao, nhận thức của người<br />
dân còn rất giản đơn, lại bắt đầu tiếp cận với một cách tổ chức thực hiện dự án hoàn toàn mới<br />
nên mục tiêu trợ giúp để phát huy năng lực sẵn có của bà con có khi được hiểu là trợ cấp, là<br />
làm thay như trước đây vẫn làm nên tốc độ vận hành dự án rất chậm.<br />
2) Dự án từ thiện trên đây có quy mô nhỏ nhưng phải giải quyết cùng lúc nhiều vấn đề<br />
kinh tế- xã hội với nhiều tác động ngược chiều khá quyết liệt như hậu quả phát triển dân số<br />
cao (thập kỷ 80 gần 30%, nay 2.27%), thiếu trường, thiếu thầy nên nhiều trẻ em mất cơ hội<br />
đến trường. Nhiều em muốn học tiếp nhưng đành phải bỏ vì không có cấp 2. Những khó khăn<br />
này bản thân dự án không giải quyết nổi nếu không có ngành giáo dục giúp đỡ.<br />
3) Dự án được triển khai tại một vùng thời tiết, khí hậu khắc nghiệt – nắng lắm mưa<br />
nhiều. Thành công đó, nhưng cũng có thể bị thất bại do bão lụt bị cuốn trôi xóa đi tất cả! Dự<br />
án không thể tồn tại nếu như không có những đầu tư cơ bản về hạ tầng từ phía nhà nước.<br />
Là một dự án từ thiện, bằng vốn đóng góp của hàng triệu người dân, mỗi người vài ba<br />
ngàn đồng nhằm mục đích giúp đỡ trẻ em lang thang. Đầu tư qua gia đình là nhằm mục đích<br />
tìm kiếm sự bền vững hơn sự trợ cấp truyền thống. Mong muốn của dự án chỉ là khởi đầu thể<br />
nghiệm một phương pháp đầu tư hỗ trợ từ vốn vận động xã hội, sau 4 năm đã có kết quả. Tuy<br />
nhiên, dự án chỉ bền vững khi tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước, kết hợp với sự phát huy tự<br />
quản cộng đồng, tự chủ của gia đình và từng thành viên trong cộng đồng đó.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />