Lời nói đầu

Công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước là đòi hỏi tất yếu của các quốc

gia đang phát triển trên thế giới trong quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện

nay nhưng phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh và ổn định là không thể

thiếu được. Nước Việt Nam chúng ta có truyền thống về nông nghiệp thì để

tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá chỉ thu được thành công khi chúng ta

đã đảm bảo an toàn về lương thực thực phẩm- tức có ngành nông nghiệp phát

triển.

Như vậy đối với một tỉnh nông nghiệp như Hà Tây, bên cạnh việc chú ý

phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ , phát triển nông nghiệp vẫn là ưu

tiên số một trong quá trình phát kinh tế xã hội của mình. Do vậy đầu tư sẽ là

nhân tố cực kì quan trọng tạo nên sự phát triển mạnh ngành nông nghiệp . Vì

thế ,có thể nói trong thời gian vừa qua ngành nông nghiệp tỉnh Hà Tây nhờ có

sự đầu tư mạnh mẽ của nhà nước ,của toàn tỉnh nên có sự phát triển vượt bậc.

Bởi vì đầu tư không những tạo ra cơ sở hạ tầng hiện đại cho nông nghiệp mà

còn giúp nông nghiệp có những giống mới ,những phương tiện sản xuất mới

tiên tiến và các phương thức sản xuât mới.

Nghiên cứu về đầu tư và tìm ra những giải pháp để thu hút vốn đầu tư ,nâng

cao hiệu quả đầu tư là một trong những vấn đề trọng tâm của tỉnh Hà Tây và

luôn được quan tâm chú ý. Trên cơ sở nghiên cứu về tình hình đầu tư nông

nghiệp Hà Tây trong giai đoạn 1996 -2000,về những phương hướng và giải

pháp cho đầu tư trong thời gian tới, cũng như muốn đóng góp một phần vào công cuộc đầu tư ngành nông nghiệp ; tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu:

"Đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây” Nội dung chính gồm các phần chủ yếu sau :

Chương I. Những vấn đề lí luận chung Chương II. Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây ChươngIII. Phương hướng và giải pháp cho đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây

1

Chương I. Những vấn đề về lí luận chung

I. Bản chất và vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế

1. Các khái niệm. *Khái niệm chung về đầu tư

+Xét trên góc độ tiêu dùng: Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại

để thu được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai

+Xét trên góc độ tài chính: Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để

chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.

Khái niệm trình bày ở trên về đầu tư được xem xét ở hai khía cạnh khác

nhau, do vậy rất khó cho việc nghiên cứu và hiểu chính xác về nó . Chính vì

vậy, các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm trung nhất về đầu tư.

Đầu tư : là sự bỏ vốn ra cùng với các nguồn lực khác( như tiền của, sức lao

động, trí tuệ...) trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó hoặc tạo ra

hay khai thác sử dụng một tài sản nào đó ngằm thu về các kết quả có lợi trong

tương lai.

*Khái niệm đầu tư phát triển:

Trong đầu tư thì người ta lại chia thành các loại đầu tư cụ thể như sau:

+ Đầu tư thương mại +Đầu tư tài chính +Đầu tư phát triển

Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ vốn ra để tiến

hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế làm tăng tiềm lực

sản xuấ kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo

việc làm và nâng cao đời sống của người dân trong xã hội.

*Khái niệm vốn đầu tư.

2

Trong đầu tư người ta cũng hay đề cập đến một thuật ngữ là vốn đầu tư, đây

chính là yếu tố quyết định tính chất qui mô của dự án.

+ Dưới hình thái tiền tệ : Vốn đầu tư là khoản tiền tích luỹ của xã hội ,của

các cơ sở sản xuất kinh doanh , dịch vụ; là tiền tiết kiệm của dân và huy động

từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội

nhằm duy trì các tiềm lực sẵn có vào tạo ra những tiềm lực mới cho nền kinh

tế.

+ Dưới hình thái vật chất : Vốn đầu tư bao gồm các loại máy móc thiết bị,

nhà xưởng ,các công trình hạ tầng cơ sở, các loại nguyên liệu ,vật liệu,các sản

phẩm trung gian khác...

Vốn đầu tư là yếu tố không thể thiếu được của các công cuộc đầu tư.Trong

nền kinh tế phát triển , vai trò của vốn đầu tư là tối quan trọng, nó góp phần tạo

sự phát triển mạnh cho nền kinh tế

*Khái niệm hoạt động đầu tư :là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực

sản xuất và tạo ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hoá vốn thành

các tài sản phục vụ cho quá trình sản xuất.

2.Phân loại hoạt động đầu tư.

Hoạt động đầu tư có thể được phân chia theo nhiều cách khác nhau, phụ

thuộc vào mục đích của người nghiên cứu và các nhà quản lí đầu tư. Sau đây là

một số cách phân loại chính:

 Theo đối tượng đầu tư :

+ Đầu tư vật chất ( đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng

,máy móc thiết bị...)

+ Đầu tư tài chính :

 Theo cơ cấu sản xuất :

+ Đầu tư chiều rộng: nhằm mở rộng sản xuất ,đòi hỏi lượng vốn lớn có tính chất kĩ thuât phức tạp trong thời gian dài + Đầu tư chiều sâu : nhằm nâng cao trình độ khoa học công nghệ, lượng vốn không lớn và tính chất kĩ thuật không phức tạp, và thời gian không

dài...

3

 Theo phân cấp quản lí

+ Dự án nhómA do thủ tướng quản lí

+Dự án nhóm B,C do bộ ,cơ quan ngang bộ hoặc UBND các tỉnh, thành

phố quản lí

 Theo nguồn vốn huy động + Vốn huy động trong nước

+Vốn huy động từ nước ngoài.

 Theo thời gian :

+ Đầu tư ngắn hạn

+ Đầu tư trung hạn

+ Đầu tư dài hạn

 Theo vùng lãnh thổ: phản ánh tình hình đầu tư của từng vùng kinh tế, từng

tỉnh

Ngoài các hình thức phân loại trên , còn có các hình thức phân loại khác mà

không được nêu trong bài này. Do vậy tuỳ theo mục đích mà người ta có thể

lựa chọn sử dụng từng cách phân loại cho phù hợp

3.Vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế Từ trước tới nay khi nói về đầu tư, không một nhà kinh tế học nào và

không một lí thuyết kinh tế nào lại không nói đến vai trò to lớn của đầu tư đối

với nền kinh tế . Có thể nói rằng đầu tư là cốt lõi là động lực cho sự tăng

truởng và phát triển nền kinh tế

3.1 Tác động tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.

Đầu tư tác động mạnh tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Mức độ

tác động cũng như thời gian ảnh hưởng là khác nhau.

Đối với tổng cầu: Đầu tư là một yếu tố cực kì quan trọng cấu thành tổng

cầu. Bởi vì , đầu tư một mặt tạo ra các sản phẩm mới cho nền kinh tế mặt

khác nó lại tiêu thụ và sử dụng một khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ trong

quá trình thực hiện đầu tư. Do vậy, xét về mặt ngắn hạn đầu tư tác động trực

4

tiếp tới tổng cầu theo một tỉ lệ thuận- Mỗi sự thay đổi của đầu tư đều ảnh

hưởng tới ổn định của tổng cầu nền kinh tế.

Đối với tổng cung: Ta biết rằng,tiến hành một công cuộc đầu tư đòi hỏi

một nguồn lực, một khối lượng vốn lớn , thành quả (hay các sản phẩm và dịch

vụ mới của nền kinh tế) của các công cuộc đầu tư đòi hỏi một thời gian khá

dài mới có thể phát huy tác dụng . Do vậy, khi các thành quả này phát huy tác

dụng làm cho sản lượng của nền kinh tế tăng lên. Như vậy , đầu tư có tính

chất lâu dài và nó sẽ làm cho đường tổng cung dài hạn của nền kinh tế tăng lên

.

Qua sự phân tích trên ta thầy rằng , đầu tư ảnh hưởng mạnh tới cả tổng

cung và tổng cầu. Bởi vì, xét về mặt cầu thì đầu tư tiêu thụ một khối lượng lớn

hàng hoá và dịch vụ cho nền kinh tế nhưng đứng về mặt cung thì nó làm cho

sản xuất gia tăng, giả cả giảm, tạo công ăn việc làm và làm tăng thu nhập từ đó

kích thích tiêu dùng. Mà sản xuất phát triển chính là nguồn gốc của phát triển

kinh tế xã hội, là điều kiện để cải thiện đời sống con người.Như vậy đầu tư là

nhân tố cho sự tăng trưởng và phát triển một nền kinh tế.

3.2 Ảnh hưởng hai mặt tới sự ổn định nền kinh tế.

Khi nghiên cứu về đầu tư ai cũng hiểu rằng đầu tư luôn có một độ trễ nhất

định, tức là "đầu tư hôm nay , thành quả mai sau”. Ngoài ra do đầu tư có ảnh

hưởng tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế không ăn khớp về thời gian do

vậy nó có thể phá vỡ sự ổn định của một nền kinh tế.Nếu đầu tư tốt nó có thể

giúp cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển . Ví dụ như các nước NICs, do có đầu tư hiệu quả nên từ những nước còn nghèo đã trở thành những nước

công nghiệp với nền kinh tế công nghiệp tương đối phát triển. Giả sử bây giờ ta tăng đầu tư trong nước, khi đó làm cho nhu cầu tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ liên quan đến công cuộc đầu tư như máy móc , thiết bị sức

lao động, nguyên vật liệu... tăng theo . Điều đó làm cho tổng cầu của nền kinh

tế của những loại hàng hoá này tăng lên, theo qui luật cung cầu của kinh tế dẫn

đến giả cả của những hàng hoá này cũng tăng lên một cách mạnh mẽ, và đến

một mức độ nào đó có thì dẫn tới lạm phát ,với tỷ lệ có thể là rất cao. Khi lạm phát xảy ra, giá cả tăng vọt, dẫn đến các chi phí đầu vào cho sản xuất tăng lên

5

dấn đến sản xuất bị đình trệ, và người lao động thất nghiệp , nền kinh tế bị

giảm thu nhập và đời sống của các tầng lớp dân cư bị gảm sút. Tất cả những

điều đó làm cho nền kinh tế lâm vào khủng hoảng trì trệ và làm giảm tốc độ

phát triển. Tuy nhiên nếu các quốc gia điều tiết đầu tư thì không những khắc

phục được những ảnh hưởng tiêu cực mà còn làm cho nó trở thành động lực

cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.

3.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển nền kinh tế .

Ta thấy rõ rằng đầu tư có ảnh hưởng đến tổng cung và tổng cầu và tác

động đến sự ổn định của nền kinh tế . Như vậy, sự tăng trưởng và phát triển

của nền kinh tế sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn của đầu tư .

Để xem xét cụ thể ta có thể sử dụng hàm Harrod- Domar để minh hoạ mối

quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và vốn đầu tư .

i

k = -----------

g

Trong đó: + k: hệ số gia tăng vốn trên sản lượng hay hệ số ICOR

+ i: Vốn đầu tư

+ g: Mức tăng GDP

i

Từ đó suy ra : g = -------------

k

Như vậy, nếu ICOR không đổi thì tốc độ tăng trưởng GDP hoàn toàn phụ

thuộc vào vốn đầu tư hay nói cách khác đầu tư quyết định sự tăng truởng của nền kinh tế. Đối với mỗi quốc gia khác nhau ICOR cũng khác nhau ,nó tuỳ thuộc

vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và cơ chế chính sách của nhà nước .Đối

với các nước đang phát triển có ICOR thấp còn các nước phát triển ngược lại .

Đồng thời chỉ số ICOR của nhiều ngành kinh tế là khác nhau , trong đó ICOR

trong nông nghiệp thường là rất thấp tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp cũng không cao.

6

Ngoài ra đầu tư còn làm tăng năng suất lao động,chất lượng sản phẩm

,năng lực sản xuất do vậy thay đổi tốc độ phát triển kinh tế . Vì vậy đối với mỗi

quốc gia cần có một chính sách thích hợp để huy động vốn và đầu tư có hiệu

quả nhằm nâng cao tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nước mình .

3.4 Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế .

Một quốc gia được coi là phát triển khi cơ cấu kinh tế theo hướng công

nghiệp -dịch vụ -nông nghiệp trong đó công nghiệp và dịch vụ chiếm một tỷ lệ

cao trong GDP của nước đó . Bởi vì nông nghiệp do nhiều hạn chế về điều kiện

tự nhiên và khả năng sinh học của cây trồng vật nuôi nên chỉ có tốc độ tăng

trưởng tối đa từ 5-6% .Do vậy khi công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao , nó

có khả năng đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước đó lên cao 9-10% năm .

Muốn vậy chúng ta phải chính sách đầu tư thoả đáng .Mỗi nước cần tăng

cường tỷ lệ đầu tư cho công nghiệp và dịch vụ và có nhiều chính sách phát huy

hiệu quả của đầu tư có vậy thì mới có công nghiệp và dịch vụ phát triển .

Trong nông nghiệp ta cũng nên đầu tư nhiều hơn cho chăn nuôi bởi chăn

nuôi thường có tỷ lệ tăng trưởng mạnh hơn trồng trọt .

Còn đối với cơ cấu vùng lãnh thổ một quốc gia phát triển thường có cơ cấu

kinh tế lãnh thổ cân đối và đồng đều giữa các vùng trong cả nước .Do vậy bên

cạnh việc đầu tư trọng điểm để phát triển thành thị và các vùng đồng bằng

chúng ta cũng cần có chính sách để đầu tư phát triển kinh tế các vùng núi và

nông thôn để vừa phát triển kinh tế xã hội vừa tạo sự cân bằng ổn định trong

nước. 3.5. Đầu tư góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ :

Ta biết rằng khoa học công nghệ là trung tâm của đời sống kinh tế xã hội hiện đại. Một đất nước, một quốc gia chỉ phát triển được khi có khoa học công nghệ tiên tiến và hiện đại. Ở các nước phát triển, họ có mức đầu tư lớn, có quá

trình phát triển lâu dài nên trình độ khoa học công nghệ của họ hơn hẳn các

nước khác trên thế giới. Khi họ áp dụng các thành tựu này làm cho nền kinh tế

có mức độ tăng trưởng mạnh mẽ, đời sống nhân dân nâng cao. Còn đối với các

nước đang phát triển, do công nghệ nghèo làn, lạc hậu lại không có điều kiện để nghiên cứu phát triển khoa học kĩ thuật nền kinh tế phát triển rất thấp, sản

7

xuất kém phát triển và bị phụ thuộc vào các nước công nghiệp . Muốn thoát

khỏi tình trạng này thì các nước phải tăng cường đầu tư và tìm cách thu hút đầu

tư từ bên ngoài vào trong nền kinh tế. Đầu tư ở đây được hiểu là các nước này

thu hút công nghệ hiện đại bên ngoài phù hợp đồng thời tổ chức nghiên cứu để

phát minh ra các công nghệ mới hiện đại hơn. Quá trình công nghiệp hoá hiện

đại của các nước này có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc

đầu tư phát triển khoa học công nghệ.Có thể khẳng định rằng đầu tư khoa học

công nghệ là một chính sách cực kì quan trọng trong quá trình phát triển kinh

tế xã hội.

 Ngoài các vai trò chính yếu trên,đầu tư còn có một vài vai trò khác như làm tăng ngân sách cho chính phủ, góp phần làm ổn định đất nước, mở

rộng ảnh hưởng của quốc gia...

Qua việc phân tích trên ta có thể khẳng định rằng đầu tư là chìa khoá

cho sự phát triển của mỗi quốc gia và cho toàn thế giới.

4.Quản lí đầu tư. Đây là hoạt động có ảnh hưởng rất mạnh tới kết quả và hiệu quả đầu tư của

một đất nước nói chung, của một ngành kinh tế nói riêng

4.1 Khái niệm

Quản lí đầu tư chính là sự tác động liên tục , có tổ chức, có định hướng

quá trình đầu tư ( bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận

hành kết quả đầu tư cho đến khi thanh lí tài sản do đầu tư tạo ra ) bằng một hệ

thống đồng bộ các biện pháp kinh tế xã hội và tổ chức kĩ thuật cùng các biện

pháp khác nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao trong những điều kiên cụ

thể và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những qui luật kinh tế.

4.2 Mục tiêu của quản lí đầu tư : được xem xét dưới hai góc độ

 Vĩ mô:

+ Đáp úng tốt nhất việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển ngành trong từng thời kì nhất định + Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực trong và ngoài

nước

8

+ Đảm bảo quá trình thực hiện đầu tư xây dựng các công trình theo đúng

qui hoạch, kiến trúc định ra

 Vi mô

Đó là việc đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất với chi phí bỏ ra thấp

nhất trong một giai đoạn nhất định. Mục tiêu này được cụ thể trong từng giai

đoạn của quá trình đầu tư . Mục tiêu này ở các cơ sở, nếu thực hiện tốt sẽ làm

cho các công cuộc đầu tư của nó đạt kết quả cao và thúc đẩy cơ sở đó đi lên

4.3 Các nguyên tắc

 Thống nhất giữa lãnh đạo chính trị, kinh tế; kết hợp hài hoà giữa hai mặt kinh tế và xã hội. Nguyên tắc này đòi hỏi ngành kinh tế vừa phải phát triển

nhưng mặt khác nó phải theo định hướng chung của Đảng và nhà nước và

tạo công ăn việc làm , tăng thu nhập cho người lao động

 Tập trung dân chủ:Đòi hỏi mỗi ngành kinh tế phải được đạt dưới một sự lãnh đạo thống nhất của nhà nước nhưng những ddịnh hướng , chiến lược

chúng phải nhận được sự đóng góp của cấp dưới. Bên cạnh hướng phát

triển chung thì mỗi ngành kinh tế ở mỗi địa phương có thể tuỳ theo đặc

điểm của mình mà có những chính sách phát triển phù hợp

 Quản lí theo ngành kết hợp với quản lí theo địa phương , vùng lãnh thổ.

Đòi hỏi tại mỗi địa phương , từng ngành phải phát triển trong tổng thể chung

của địa phương đó, dảm bảo sự phát triển toàn diện các ngành kinh tế ở địa

phương.

 Kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích : nó đòi hỏi mỗi công cuộc đầu tư

không chỉ đáp ứng đơn thuần là lợi ích tài chính mà còn phải đáp ứng cả

lợi ích xã hôi, lợi ích cộng đồng.

 Tiết kiệm và hiệu quả: đòi hỏi một ngành với vốn đầu tư nhất định, ít các

chi phí mà thu được hiệu quả cac nhất

 Phải đảm bảo thực hiện đúng trình tự đầu tư và xây dựng

Quản lí hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng đối với sự thanh công của các công cuộc đầu tư ở mỗi ngành, mỗi địa phương và trên cả đất nước.

9

5. Kế hoạch hoá đầu tư : Nó vừa là nội dung, vừa là một công cụ để quản lí hoạt động đầu tư. Công tác

kế hoạch hoá đầu tư có tính chất hướng dẫn ,địn hướng cho việc thực hiện đầu

tư sau đó

5.1 Các nguyên tắc

+ Kế hoạch đầu tư của ngành phải xuất phát từ yêu cầu chung của đường lối

phát triển ngành đó, của cả nền kinh tế và nhu cầu của thị trường trong và

ngoài nước.

+ Phải đảm bảo qui luật khách quan, khoa học và tính hiện thực của các

phương án.

+ Kết hợp tốt về các mặt trong ngành kinh tế đó: tạo điều kiện khai thác hết

các tiềm năng của ngành, để nó phát triển toàn diện hơn

+Kế hoạch hoá ở cấp cao sẽ mang tính định hướng, kế hoạch ở các địa phương

sẽ cụ thể hoá , thực hiện đường lối đó: Điều này sẽ bảo đảm kế hoạch được

thực hiện thống nhất từ trên xuống và không bị chồng chéo

+ Phải có độ tin cậy cao va tối ưu

5.2 .Trình tự lập kế hoạch đầu tư:

Kế hoạch đầu tư ở đây được lập chủ yếu cho ngân sách nhà nước đầu tư vào

ngành kinh tế; theo trình tự sau

-Xác định nhu cầu về chủng loại và khối lượng sản phẩm . dịch vụ cho sản

xuất và tiêu dùng của kỳ kế hoạch mà ngành kinh tế phải đảm nhiệm - Xác định khả năng đáp ứng nhu cầu của với các điều kiện hiện có ở đầu kì

kế hoạch để xem khả năng của ngành đó ra sao - Xác định các năng lực và dịch vụ mới cần tăng thêm trong kì

- Tiến hành lập kế họch đầu tư để đáp ứng năng lực mới tăng thêm cho kì kế

hoạch thông qua các dự án đầu tư. Việc lập kế hoạch đầu tư theo dự án lại được

tiến hành theo các bước sau đây:

+ Kế hoạch cho điều tra, khảo sát + Kế hoạch chuẩn bị đầu tư

10

+ Kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án đầu tư

+ Kế hoạch thực hiện dự án.

5.3 Các điều kiện được ghi dự án vào kế hoạch đầu tư:

+ Phải nằm trong qui hoạch ngành

+ phải có quyết định đầu tư ( mới được ghi vào kế hoạch chuẩn bị thực hiện

dự án)

+ Phải có thiết kế kĩ thuật và tổng dự toán hay thiết kế kĩ thuât và dự toán cho

các giai đoạn đầu tư đối với các công trình lớn.

II. Đầu tư- nhân tố quyết định đối với sự phát triển nông nghiệp

1. Giới thiệu về nông nghiệp 1.1 Khái niệm.

Con người sinh ra trên đời không thể không ăn mà vẫn có thể tồn tại và

phát triển được,cho nên nhu cầu về lương thực thực phẩm là nhu cầu cấp thiết

của loài người. Muốn có lương thực và thực phẩm phải hình thành và phát triển

ngành nông nghiệp.Do vậy mà nông nghiệp xuất hiện từ rất sớm trong đời sống loài người. Trong suốt một thời gian dài lịch sử nhân loại, ở phương Đông

cũng như phươngTây,nông nghiệp là một ngành cực kì quan trọng, không một ngành nào có thể sánh được. Ngày nay, nông nghiệp không còn có được vị trí như trước nữa và cũng là ngành có trình độ phát triển thấp kém hơn so với các

ngành khác trong nền kinh tế vì vậy phát triển nền nông nghiệp mạnh vẫn là

đòi hỏi thiết yếu của hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm nông - lâm- ngư nghiệp,

phát triển nông nghiệp cũng có nghĩa là phát triển nông - lâm - ngư nghiệp. Ngoài ra phát triển nông nghiệp còn gắn liền với phát triển nông thôn và nâng

11

cao các điều kiện sinh hoạt ở nông thôn. Nông nghiệp được hiểu theo nghĩa

hẹp chỉ bao gồm hai nghành trồng trọt và chăn nuôi.

Việt Nam chúng ta là một nông nghiệp lâu đời với truyền thống hàng

nghìn năm trồng lúa nước .Có thể nói nước ta có nhiều điều kiện về tự nhiên và

con người rất thuân lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh..

Tuy rằng, nông nghiệp chiếm một vị trí ngày càng thấp kém trong nền kinh tế

nhưng trong giai đoạn này nó vẫn là một ngành kinh tế quan trọng , góp phần

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xuất khẩu và thu ngoại tệ cho đất nước, cải thiện

đời sống nhân dân... Phát triển nông nghiệp là yêu cầu cấp thiết của đất nước

trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước

1.2 Đặc điểm của nông nghiệp nói chung

Từ việc nghiên cứu tình hình thực tế và những kinh nghiệm của người đi

trước, người ta thấy rằng ngành nông nghiệp có một vài đặc điểm sau:

a.Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu.

Đây là một đặc điểm cực kì quan trọng và khác biệt của nông nghiệp.

Trong nông nghiệp, đặt biệt trong trồng trọt thì đất là một yếu tố sản xuất

không thể thiếu được, đất vừa là nơi sản xuất cũng chính là yếu tố quyết định

cho sự sinh tồn của cây trồng , như vậy đất là không thể thiếu cho nông nghiệp.

Cùng với các yếu tố khác như sự chăm sóc của con người, tưới tiêu và thời

tiết, chất lượng đất đai có ảnh hưởng mạnh tới năng suất chất lượng sản phẩm nông nghiệp và thành quả lao động của người nông dân, Vì thế , muốn nông

nhgiệp đạt kết quả cao thì phải có những biện pháp tác động và đất đai.Tuy nhiên đất là do tự nhiên tạo ra cho nên ta không thể thay đổi hoàn toàn những điều kiện của đất. Do đặc điểm này mà mức độ tác động của con người trong

sản xuất nông nghiệp là rất hạn chế, mức độ áp dụng tiến bộ khoa học cũng

không thật nhiều nên nông nghiệp là ngành có tốc độ phát triển không cao và

nhanh như các ngành kinh tế khác.Tuy vậy, đối với một số lĩnh vực chăn nuôi

đất đai cũng chỉ là mặt bằng để tiến hành sản xuất như các ngành kinh tế khác và nó không chịu nhiều ảnh hưởng của đất.

12

b.Đối tượng sản suất là những cơ thể sống

Một đặc điểm khác nữa của nông nghiệp so với các ngành kinh tế khác là

đối với các ngành này thì đối tượng sản xuất là những sản phẩm hàng hoá còn

đối tượng sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống , đó là nhưng cây trồng

vật nuôi có sẵn trong tự nhiên được con người đem về thuần dưỡng. Những đối

tượng này thường có những qui luật tăng trưởng và phát triển nhất định, mặc

dù đã được con người thay đổi ít nhiều, chúng cũng chịu ảnh hưởng rất mạnh

mẽ của các điều kiện tự nhiên và cũng không thể tăng trưởng quá mức cho

phép của qui luật tự nhiên. Vì những đặc trưng trên mà ngành nông nghiệp có

tốc độ tăng trưởng thấp hơn so với các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên ,tốc độ

tăng trưởng nông nghiệp có thể đạt cao hơn nếu con người tác động vào các cơ

thể sống này thông qua việc phát triển công nghiệp sinh học để tạo ra những

giống cât trồng mới với năng suất và chất lượng sản phẩm cao hơn. Chúng ta

cũng cần tìm hiểu các qui luật phát triển của các đối tượng sống này để tìm ra

các biện pháp chăm sóc kịp thời và có các loại phân bón tốt nhất vào các thời

điểm cụ thể.

c.Nông nghiệp là ngành sản xuất chịu ảnh hưởng mạnh của các điều kiện tự

nhiên.

Do vậy mỗi sự thay đổi nhỏ của tự nhiên đều ảnh hưởng tới nông nghiệp;

đối với các ngành kinh tế khác, thì mức độ phụ thuộc này là không lớn; như

công nghiệp,thì dù trời có đổ mưa hay có gió lớn thì người ta vẫn tiến hành sản

xuất bình thường và sự thay dổi trong kế hoạch sản xuất là không đáng kể. Nhưng đối với ngành nông nghiệp thì khác hẳn, mọi sự thay đổi đều có ảnh

hưởng, như đất tốt hay xấu đều ảnh hưởng tới năng suất chất lượng sản phẩm. Nếu thời tiết tốt, phù hợp với yêu cầu , chúng ta đạt được một vụ mùa bội thu còn nếu thời tiết xấu thì ngược lại. Vì vậy trong nông nghiệp chúng ta cần hạn

chế các ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên hoặc phải có những biện pháp khai

thác tự nhiên tốt nhất thì chúng ta với thu được các kết quả cao và giúp cho sản

xuất nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.

d.Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao.

13

Bởi lẽ đối với những loại cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp ,chúng

không thể phát triển quanh năm mà chúng cần có một thời gian phù hợp nhất

định trong năm để sinh trưởng và phát triển tốt. Mặt khác,do trong nông nghiệp

thời gian lao động không hoàn toàn ăn khớp với thời gian sản xuất . Những đặc

điểm này làm cho sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ . Để khắc phục được

tình trạng này thì chúng ta cần phải xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng thuận

tiện, hiện đại và phù hợp để có thể phục vụ tốt nhất cho công cuộc sản xuất .

e.Nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng thấp

Đây là một thiệt thòi của ngành nông nghiệp có so với các ngành công

nghiệp và dịch vụ. Người ta thấy rằng dù nông nghiệp có điều kiện sản xuất

thuận lợi đến mấy đi nữa thì nông nghiệp cũng chỉ đạt tốc độ tăng trưởng tối đa

từ 5 - 6 % năm trong khi ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng truởng 10 % trở

lên là bình thường. Kết quả thấp kém của sản xuất nông nghiệp chính là hệ

quả tất yếu của những đặc điểm trên của ngành nông nghiệp.

Dựa trên việc nghiên cứu các đặc điểm trên của ngành nông nghiệp , chúng

ta sẽ có những ý tưởng , những sáng kiến trong việc lập kế hoạch sản xuất, tiến

hành đầu tư và có những biện pháp cần thiết cho phát triển sản xuất nông

nghiệp.

1.3. Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam

Dù đang trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước nhưng

Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp và trình độ phát triển của ngành nông

nghiệp vẫn ở mức rất thấp. Vì thế nghiên cứu rõ đặc điểm của nền nông nghiệp này sẽ giúp cho chúng ta có những chính sách đầu tư phát triển phù hợp nhằm

thúc đẩy nền nông nghiệp nước ta từng bước đi lên, theo kịp tiến trình phát triển của cả nước. Có thể nói nền nông nghiệp nước ta ngoài những đặc điểm chung như nêu ở trên thì có những đặc điểm riêng sau:

Nền nông nghiệp Việt Nam vẫn mang tính truyền thông sâu sắc, chưa có

những thay đổi lớn so với những năm trước đây.Trong suốt thời kì vừa qua ,

nông nghiệp được Đảng và nhà nước quan tâm và đầu tư thoả đáng nên đã có

những bước phát triển mạnh cả về năng suất , chất lượng. Nhưng nhìn chung thì sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính cá thể và đơn lẻ; mức độ áp dụng khoa

14

học kĩ thuật công nghệ vào nông nghiệp là rất ít, đồng thời mức độ cơ giới hoá

trong nông nghiệp là không cao. Thậm chí ở nhiều vùng quê ,sản xuất nông

nghiệp vẫn ở trong tình trạng " con trâu đi trước, cái cày theo sau”. Còn về vấn

đề cây trồng thì trong trồng trọt vẫn ở dạng độc canh cây lúa, trong khi nhiều

nơi thích hợp cho phát triển nhiều loại cây khác lại chưa có chính sách khuyến

khích thoả đáng. Ngoài ra chăn nuôi là ngành sẽ giúp cho nông nghiệp có tốc

độ tăng trưởng cao hơn thì chúng ta vẫn chưa có những chính sách đầu tư phát

triển thích hợp cho nên tỷ lệ chăn nuôi trong toàn ngành nông nghiệp vẫn ở

mức thấp.Trong khi đó hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông

nghiệp, một số vùng nếu có thì đã quá lạc hậu hoặc thiếu đồng bộ còn lại là

rất thiếu. Tất cả những điều này ảnh hưởng rất lớn đối với sản xuất nông

nghiệp

Đất nước ta được chia ra làm 3 miền Bắc - trung - nam với khí hậu và

địa hình rất phức tạp và khác biệt. Nước ta còn có tỉ lệ đồi núi chiếm tới hơn 70

% lãnh thổ, do vậy mà sản xuất nông nghiệp chỉ ở trong những khoảng không

gian nhỏ và khó cho việc áp dụng máy móc .Các vùng đồng bằng có điều kiện

cũng không giống nhau, như đồng bằng sông Cửu Long có độ phù sa lớn, có

thể canh tác 3 - 4 vụ trong năm lại phải chịu lũ lụt hàng năm ; đồng bằng sông

Hồng chỉ có thể sản xuất hai vụ do có mùa đông giá rét. Khí hậu, thời tiết khát

phức tạp; trong khi miền bắc có mùa đông rét và lạnh, thích hợp cho việc sản

xuất một số nông sản mùa đông, ở Miền nam , gần miền xích đạo nên thời tiết

nóng quanh năm nên chỉ cho phép phát triển những cây mùa hè. Chính sự phức tạp , đa dạng này đã tạo cho sản xuất nông nghiệp nước ta không không thống

nhất và đồng bộ giữa các miền, và khó cho việc áp dụng những giống cây trồng vật nuôi đại trà trong cả nước. Nhưng lại tạo ra cho nước ta thuận lợi trong việc phát triển đa dạng những sản phẩm nông nghiệp

Nông nghiệp nước ta hiện nay được phát triển trong điều kiện đất nước

đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Chính vì vậy mà nó

nhận đước sự quan tâm lớn của toàn xã hội, mức độ công nghiệp hoá nông

nghiệp và nông thôn sẽ được tiến hành nhanh hơn và rộng hơn trên cả nước, đồng thời sự áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuất cũng nhiều hơn và tốt

15

hơn. Tuy vậy thì nông nghiệp lại chịu một sự thiệt thòi lớn là tỷ lệ đầu tư của

nhà nước và xã hội cho nông nghiệp sẽ ngày càng giảm sút

Hiện nay nền nông nghiệp chúng ta đã có một khối lượng rất lớn hàng

nông lâm thuỷ sản xuất khẩu, chiếm một tỉ lệ cao trong giá trị xuất khẩu của cả

nước. Nhưng có một thực tế ngược lại là tuy sản lượng tăng mạnh, năng suất

lao động lại chưa cao , hơn nhiều so với các nước khác. Như ở Thái Lan, năng

suât lúa của họ thường đạt trên 8 tấn / ha tại Việt Nam năng suất chỉ khoảng 6

tấn / ha, như vậy là rất thấp và không có nhiều tiến bộ so với trước.Chất lượng

hàng nông sản của chúng ta cũng không cao do vậy mà giá trị của chúng trên

thị trường cũng thấp.Vì thế ,trong thời gian tới chúng ta cần có những biện

pháp đầu tư để tạo ra những giống mới và có những cách thức sản xuất mới

nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp.

Tóm lại , ngành nông nghiệp nước ta tuy có nhiều tiến bộ trong những

năm gần đây vẫn còn yếu kém và lạc hậu ;do vậy cần nhận được sự đầu tư

toàn diện và sâu rộng, của Đảng, của nhà nướcvà của toàn xã hội để nó có

thể phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có.

1.4Vai trò của nông nghiệp.

Chưa khi nào trong lịch sử loài người mà nông nghiệp lại không được coi

trọng. Thế giới dù có hiện đại , dù có phát triển đến mấy thì nông nghiệp vẫn

giữ những vị trí hết sức then chốt và cực kì quan trọng.Sở dĩ nông nghiệp có

được vị trí như vậy vì ngành này có những vai trò sau: Thứ nhất, nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực thực phẩm duy nhất

cho cả xã hội loài người. Đây là vai trò nổi bật của nông nghiệp.Với vai trò này nông nghiệp quyết định sự ổn định và phát triển của xã hội loài người. Khi mỗi con gnười được sinh ra trên đời thì họ không thể không ăn mà có thể lao động,

học tập và cống hiến tài năng của mình cho xã hội. Bởi vì có ăn , chúng ta mới

có thể có đủ năng lượng cung cấp cho cơ thể hoạt động. Xã hội phát triển càng

cao , càng văn minh thì đòi hỏi của con người về lương thực và thực phẩm

ngày cao về lượng và đặc biệt là về chất. Muốn vậy ,đòi hỏi ngành nông nghiệp

16

phải không ngừng đầu tư phát triển để nâng cao năng xuất lao động trong sản

xuất nông nghiệp và chất lượng của nông sản.

Thứ hai, đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát

triển thì nông nghiệp vẫn là một ngành kinh tế tạo ra một khối lượng lớn công

ăn việc làm và tạo thu nhập cho người dân. Như ở Việt Nam, hiện nay vẫn có

tới khoảng 70% dân số sống ở nông thôn và cũng một tỉ lệ tương tự làm việc

trong ngành nông nghiệp. Tuy nhiên ,lực lượng lao động trong nông nghiệp

này có trình độ còn thấp kém và mức thu nhập của họ cũng rất thấp.Nhưng

trong tương lai đây là lượng lao động chủ yếu cho nền kinh tế . Vì vậy ,để thúc

đẩy nền kinh tế phát triển nói chung ,cũng như giúp cho nông nghiệp nói riêng

thì chúng ta cần có những chính sách về giáo dục và đào tạo nhằm đào tạo

nghề và nâng cao trình độ cho người nông dân.Với một lượng lớn dân số sống

ở các vùng nông thôn và làm việc trong ngành nông nghiệp nên những đối

tượng này sẽ là lực lượng tiêu dùng rất lớn cho nền kinh tế .Đây là một thị

trường tiêu thụ tiềm năng cho các nhà sản xuất trong nước.Khai thác và sử

dụng hiệu quả thị trường này sẽ giúp cho các nhà sản xuất thu lợi nhuận tăng

cường thị trường của mình và đồng thời góp phần tăng trưởng và phát triển nền

kinh tế đất nước.

Thứ ba , nông nghiệp còn có vai trò khá quan trọng đối với một số ngành

kinh tế khác như công nghiệp chế biến. Có thể nói ngành công nghiệp chế biến

nông sản phụ thuộc rất nhiều vào nông nghiệp. Bởi nông nghiệp là ngành kinh

tế cung cấp đầu vào cho sản xuất công nghiệp chế biến.Trong các nước đang phát triển thì ngành công nghiệp chế biến chiếm một vai trò khá quan trọng, nó

là lĩnh vực thúc đẩy phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Để ngành này muốn hoạt động tốt thì đòi hỏi ngành nông nghiệp phải phát triển ổn định và thường xuyên cung cấp các

đầu vào rẻ và có chất lượng cao. Như vậy nông nghiệp qui định sự phát triển

ngành công nghiệp chế biến. Ngoài ra một số nông sản còn là những đặc sản

trong hoạt động du lịch và dịch vụ ăn uống nhằm thu hút khách hàng, nên nông

nghiệp cũng là nhân tố thúc đẩy du lịch

17

Thứ tư, đối với các nước đang phát triển , nông nghiệp đóng vai trò cực kì

quan trọng, góp một tỷ lệ lớn vào giá trị hàng hoá xuất khẩu và thu ngoại tệ cho

đất nước đồng thời cũng chiếm một vị trí khá cao trong GDP của đất nước.

Như ở Việt Nam, xuất khẩu hàng nông sản và sản phẩm chế biến từ nông sản

thu được hàng tỷ Đôlla, chiếm một tỉ lệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu; các

mặt hàng như gạo , cà phê.. có giá trị xuất khẩu lớn.Do vậy mà chúng ta cần

tăng cường hơn nữa xuất khẩu loại hàng hoá này để thúc đẩy phát triển nông

nghiệp và đất nước. Tuy nhiên , các sản phẩm xuất khẩu lại chủ yếu dưới dạng

thô, do vậy giá trị hàng hoá rất thấp ,rất bất lợi cho người nông dân. Thêm vào

nữa là nông nghiệp chiếm tỷ lệ khoảng hơn 30% GDP của các nước đang phát

triển, đây là một tỷ lệ khá cao và cho thấy nông nghiệp có ảnh hưởng mạnh tới

sự tăng trưởng kinh tế của các nước này. Tuy nhiên đây là một dấu hiệu không

đáng mừng , bởi lẽ một đất nướcđược coi có nền kinh tế phát triển và hiện đại

khi có tỷ lệ nông nghiệp trong GDP là thấp ( khoảng dưới 15 % ). Vì thế các

nước này cần có những biện pháp đầu tư ,một mặt vẫn giúp cho nông nghiệp

có tốc độ tăng trưởng cao nhưng mặt khác phải nâng cao tỷ trọng trong GDP

của các ngành công nghiệp và dịch vụ.

Thứ năm , nông nghiệp là ngành kinh tế đóng vai trò như một nhân tố tạo

vốn, lao động và thị trường cho thời kì đầu của quá trình công nghiệp hoá -

Hiện đại hoá ở các nước đang phát triển. Một nước chỉ có thể tiến hành thành

công công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước khi có đủ vốn và các

nguồn lực. Trong giai đoạn đầu này, công nghiệp và dịch vụ vẫn chưa phát triển, thì nông nghiệp với ưu thế là ngành truyền thống sẽ tạo được một khối

lượng lớn nông sản có giá trị cao và có thể xuất khẩu ;từ đó tạo ra một nguồn vốn khá lớn cho ngành công nghiệp. Nông nghiệp cũng là ngành cung cấp đầu vào cho công nghiệp chế biến. Với lực lượng lao động đông đảo trong ngành

nông nghiệp sẽ là những công nhân với trình độ tay nghề khá cao ( nếu được

chú ý đào tạo và bồi dưỡng hợp lí ) có sự cần cù chăm chỉ ,giá nhân công lại rẻ

, điều này sẽ tạo thuận lợi lớn cho ngành công nghiệp phát triển. Như vậy nông

nghiệp là ngành kinh tế tạo những tiền đề , cơ sở ban đầu cho sự công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

18

Tóm lại, nông nghiệp đối với những nước đang phát triển nói chung và

Việt Nam nói riêng vẫn là ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong đời sống

kinh tế xã hội . Đầu tư phát triển ngành nông nghiệp là đòi hỏi tất yếu của nền

kinh tế đất nước hiện nay.

2. Đầu tư - nhân tố quyết định tới sự phát triển nông nghiệp

Có thể khẳng định rằng , tất cả các ngành các lĩnh vực muốn có sự tăng

trưởng và phát triển thì cần phải có đầu tư , không có đầu tư thì không có sự

phát triển. Ngành nông nghiệp cũng không nằm ngoài qui luật này. Chính đầu

tư là nhân tố quyết định những sự biến đổi vượt bậc của ngành nông nghiệp.

Đầu tư chính là đòn bẩy, là động lực cho sự phát triển .

Thứ nhất ,đầu tư tạo cho nông nghiệp một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện

đại và có qui hoạch, tập trung. Ta biết rằng nông nghiệp chỉ có thể tiến hành

sản xuất có kết quả tốt khi được cung cấp các yếu tố đầu vào đầy đủ như : điện

,nước, phân bón, hệ thống nhà kho...Muốn có được những yếu tố quan trọng

này thì chúng ta phải xây dựng và củng cố các hệ thống trạm bơm, các kênh

mương, các mạng lưới điện, phát triển và nâng cấp hệ thống đường giao thông.

Khi những hệ thống này hoạt động tốt sẽ rất thuận lợi cho sản xuất.Tuy nhiên

những cơ sở hạ tầng này không tự nhiên có mà cần phải có sự đầu tư tiền và

các nguồn lực khác . Việc đầu tư này cần phải được qui hoạch tổng thể , tránh

hiện tượng đâu tư dàn trải, không trọng điểm. Khi đã có đầu tư và đầu tư hiệu

quả thì chúng ta sẽ có một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, sẽ giúp cho nông nghiệp có thể tiến hành những phương thức sản xuất mới, có thể tiễn hành

thâm canh tăng vụ, người nông dân cũng có thể chủ động trong quá trình sản xuất.. những thuận lợi này sẽ làm cho sản lượng ngành nông nghiệp tăng cao và chất lượng nông sản cũng tốt hơn.

Thứ hai,trong thế giới hiện nay, một nền nông nghiệp hiện đại , có năng

suất , hiệu quả cao khi nó được cơ giới hoá , công nghiệp hoá một cách cao độ.

Hay nói rõ hơn là sản xuât nông nghiệp được áp dụng máy móc một cách phổ

biến và đại trà trong mọi khâu và mọi lĩnh vực và góp phần giải phóng sức lao động của con người. Nhờ có những chính sách hỗ trợ mà đặc biệt là do có các

19

nguồn đầu tư hữu ích của xã hội mà ngành nông nghiệp có được những loại

máy móc hiện đại ,tiên tiến như máy cày máy kéo, máy gặt đập, máy xay xát,

các loại xe chuyên chở ...thay thế cho sức người và súc vật trong quá trình sản

xuất. Do có những loại máy móc này mà sản xuất nông nghiệp có thể tiến hành

trên diện rộng và hàng loạt, đồng thời làm tăng năng suất cây trồng vật nuôi lên

rất nhiều lần so với trước đây. Như vậy đầu tư máy móc thiết bị nông nghiệp là

nhân tố thúc đẩy sản suất nông nghiệp ; vì thế chúng ta nên quan tâm và coi

trọng đầu tư cho nông nghiệp một cách thoả đáng. Ở Việt Nam , ngành nông

nghiệp còn sử dụng sức người và súc vật trong khi làm việc là chủ yếu, áp

dụng máy móc trong sản xuất nông nghiệp còn rất hạn chế và ở qui mô nhỏ.

Đầu tư mua sắm những phương tiện này là đỏi hỏi cấp thiết của nền nông

nghiệp. Tuy nhiên chúng ta phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng địa

phương ,từng lĩnh vực mà mua những máy móc cho thích hợp nhất.

Thứ ba , đầu tư vào lĩnh vức khoa học công nghệ sẽ góp phần tạo ra cho

nông nghiệp những giống cây trồng vật nuôi mới hiệu quả hơn. Mà ta biết

giống là một yếu tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển ngành nông nghiệp

.Mỗi người đều hiểu rằng khoa học công nghệ là động lực cho sự phát triển các

ngành kinh tế và no vẫn là nhân tố quan trọng cho sự phát triển mạnh sản xuất

nông nghiệp. Ngày nay, công nghệ sinh học đang phát triển mạnh mẽ và chiếm

một vị trí ngày càng quan trọng trong đời đời sống kinh tế thế giới. Công nghệ

sinh học ngày càng có những thành công to lớn hơn và là lĩnh vực liên quan

khá chặt chẽ với ngành nông nghiệp.Một phần công nghệ này sẽ được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp. Ở mức độ quốc gia chúng ta cần đầu tư mạnh để

phát triển công nghệ này , đồng thời cần có những chính sách khác để khuyến khích động viên những nhà khoa học giỏi nghiên cứu và từ đó áp dụng triệt để những thành quả của nó.Mặt khác, chúng ta nên xây dựng những trung tâm

giống cây trồng vật nuôi với những cán bộ khoa học giỏi về chuyên môn

nghiệp vụ để nghiên cứu ra những giống mới từ kết quả của công nghệ sinh

học . Vì vậy,chúng ta nên có những chính sách để thu hút các nguồn lực trong

và ngoài nước đầu tư vào công nghệ này và thành lập những trung tâm nghiên cứu áp dụng những kĩ thuật tiên tiến của thế giới và trong nước. Tóm lại , đầu

20

tư góp phần vào việc tạo ra cho nông nghiệp một sức phát triển mới thông qua

đầu tư cho công nghệ phục vụ sản xuất.

Thứ tư , đầu tư là đã góp phần tạo ra cho nông nghiệp một lực lượng lao

động hùng hậu có tay nghề chuyên môn và trình độ kĩ thuất cao. Dù máy móc

có hiện đại và phù hợp đến đâu, hay một phương thức sản xuât mới có tiên tiến

đến mấy nhưng nếu lao động trong nông nghiệp không có trình độ để nắm bắt

và sử dụng thì những thứ trên đều là vô dụng, bỏ đi. Nhờ có một khối lượng

lớn đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo thông qua việc xây dựng các trung

tâm dạy nghề , các chương trình phổ biến kiến thức nông nghiệp mới cho

người nông dân mà họ ngày càng nắm bắt được những kiến thức mới , thiết

thực cho việc trồng trọt và chăn nuôi : biết cách thâm canh, biết điều khiển

máy móc , biết làm kinh tế Vac...Điều này cũng sẽ giúp họ hiểu rõ hơn về các

đặc tính và quá trình sinh trưởng của từng loại cây trồng vật nuôi để họ có

những biện pháp chăm sóc tốt hơn. Khi người nông dân có trình độ càng cao sẽ

càng thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp trong việc sử dụng những kĩ

thuật mới và giúp cho ngành này có sự tăng trưởng cao.

Thứ năm , đầu tư góp phần tạo cho nông nghiệp một cơ cấu trồng trọt và

chăn nuôi hợp lí hơn với tỷ trong chăn nuôi chiếm ngày càng cao trong tổng

giá trị ngành nông nghiêp. Bởi vì, trong nông nghiệp , chăn nuôi là lĩnh vực có

tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều so với trồng trọt, muốn phát triển ngành nông

nghiệp thì phải đầu tư phát triển lĩnh vực chăn nuôi. Như trước đây, trồng trọt

chiếm vai trò chủ yếu nên ngành nông nghiệp có tốc độ phát triẻn không cao, kể từ khi đầu tư mạnh hơn vào chăn nuôi thì nông nghiệp đã có những sự phát

triển vượt bậc. Đây là hướng đi đúng của nhiều nước đi trước mà những nước đi sau như Việt Nam cần học tập và phát huy. Nói chung, đầu tư còn góp phần cải thiện đời sống người nông dân, cải cách

phương thức tổ chức quản lí nông thôn ... Tóm lại, đầu tư có vai trò quyết định

sự tiến bộ đi lên không ngừng của nông nghiệp. Khi nền kinh tế càng hiện đại,

nông nghiệp càng không thể không có đầu tư.

3. Đặc trưng của đầu tư trong nông nghiệp

21

Nông nghiệp là một ngành kinh tế dặc thù với những đặc điểm riêng biệt,

vì vậy mà đầu tư trong nông nghiệp cũng có những nét đặc trưng riêng, không

giống bất cứ một ngành kinh tế nào trong nền kinh tế.

Đặc trưng thứ nhất là đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp là quá trình thực

hiện một công cuộc đầu tư cũng như việc thu hoạch những kết quả của nó chịu

ảnh huởng nhiều của các điều kiện tự nhiên. Điều đặc trưng này là do đặc điểm

ngành nông nghiệp chi phối. Đầu tiên, khi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, do

đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu nên chúng ta phải nghiên cứu rất kĩ về các

điều kiện của đất , chất lượng và đặc điểm của đất và đặc điểm về địa hình. Bởi

vì đất tốt hay xấu ảnh hưởng rất mạnh tới quá trình thực hiện đầu tư và thành

quả thu được. Nếu đất tốt thì cây trồng phát triển thuận lợi, có xây dựng hạ

tầng cơ sở thì cũng giảm chi phí và ngược lại. Nghiên cứu về đất còn cho

chúng ta biết nên trồng loại cây nào, nên nuôi loại động vật gì, để từ đó có kế

hoạch sản xuất.Địa hình cũng có ảnh hưởng tới đầu tư, nếu địa hình bằng

phẳng thì có thể đầu tư nhiều loại cây trồng, vật nuôi thích hợp cho vùng đồng

bằng, đỡ tốn công san lấp và thuận lợi về giao thông do vậy vận chuyển các

nông sản mang ra thị trường nhanh và đảm bảo tươi sống. Khi đầu tư dựa vào

điều kiện của địa hình để có những chính sách đầu tư phù hợp nhất.

Khí hậu cũng ảnh hưởng tới quá trình đầu tư,khi đầu tư người ta thường

phải nghiên cứu rõ điều kiện khí hậu, bởi nó có ảnh hưởng mạnh tới kết quả

của sản xuất nông nghiệp hay kết quả đầu tư. Ví dụ như khi tiến hành đầu tư

xây dựng hệ thông thuỷ lợi thì thường tiến hành vào mùa nước cạn, bởi khi nước lên thì việc xây dựng rất khó và cực kì tốn kém. Hoặc khi ta đầu tư một

loại cây lương thực náo đó, chẳng hạn như cây lúa, ta không thể trồng lúa vào mùa đông lạnh ,bởi lúa là cây không thích hợp với điều kiện giá rét , do vậy mà đầu tư không thu được lợi ích tốt. . Do vậy mà khi đầu tư vào nông nghiệp các

nhà đầu tư phải nghiên cứu rất kĩ đặc điểm tự nhiên của từng vùng để có thể có

những công cuộc đầu tư mang hiệu quả cao hoặc có những biện pháp phòng

tránh ảnh hưởng xấu của tự nhiên hữu hiệu.

Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ nên đầu tư trong nông nghiệp cũng mang tính thời vụ khá rõ rệt. Rất nhiều hoạt động đầu tư trong nông

22

nghiệp phải nghiên cứu thời điểm đầu tư và chọn khu vực điểm điểm đầu tư.

Bởi vì, trồng trọt và chăn nuôi không thể tiến hành quanh năm cho nên chọn

thời điểm để sản xuất là rất cần thiết.Do vậy khi đầu tư vào một loại đối tượng

nào đó thì ta chỉ có thể bắt đầu đầu tư tại một thời gian rõ ràng và cố định trong

năm, như trồng cây thì thường phải vào mùa xuân. Tuy nhiên , với trình độ

khoa học phát triển chúng ta có thể đầu tư đa dạng và với khoảng thời gian

rộng hơn.

Một đặc trưng nổi rõ của đầu tư trong nông nghiệp đó là nó đỏi hỏi một

lượng vốn đầu tư khá lớn, có độ rủi ro cao nhưng tỷ suất lợi nhuận lại thấp hơn

nhiều so với các ngành , lĩnh vực khác.Cụ thể, khi ta tiến hành đầu tư vào hệ

thống cơ sở hạ tầng( như hệ thống thuỷ lợi ) hay khoa học công nghệ thì lượng

vốn đầu tư thất không nhỏ chút nào. Ví dụ như để phát hiện ra một loại giống

mới cho sản xuất nông nghiệp thì lượng vốn bỏ ra và số nhà khoa học cần cho

nghiên cứu không thua kém để cho một sản phẩm công nghiệp mới ra đời.

Hoặc chi phí để xây một hệ thống thuỷ lợi cũng không kém việc xây dựng một

nhà máy hay một khách sạn du lịch. Vì vậy mà khi đầu tư , đỏi hỏi các nhà đầu

tư phải có những chính sách biện pháp huy động đủ vốn và kịp tiến độ.

Đầu tư trong nông nghiệp có độ rủi ro cao, đây là vấn đề thiệt thòi cho nông

nghiệp. Sở dĩ rủi ro cao vì đầu tư trong ngành nông nghiệp một mặt chịu những

rủi ro chung của các công cuộc đầu tư mặt khác nó còn chịu ảnh hưởng cực

mạnh của những biến đổi tự nhiên xấu. Ngoài ra việc kiểm soát và hạn chế

những loại rủi ro này là rất khó, đôi khi không thể ngăn chặn nổi. Một thiệt thòi lớn của đầu tư là tỷ suất lợi nhuận của hoạt động đầu tư trong nông nghiệp rất

thấp thường chỉ vài phần trăm một năm trong khi các ngành khác đạt hơn 10 % , do nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng không cao.Khi đầu tư thời gian thu hồi vốn cũng rất lâu. Còn một số công trình đầu tư trong nông là hoà vốn, thậm chí

nhiều công trình không thu đủ số vốn đầu tư ban đầu bỏ ra.

Tóm lại , hoạt động đầu tư trong nông nghiệp có những nét riêng, chính vì

những nét này mà các nhà đầu tư thường không muốn bỏ vốn của mình đầu tư

vào ngành nồng nghiệp, hoặc có thì cũng rất ít. Do vậy để thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển thì đòi hỏi chính phủ mỗi nước phải có những chính sách

23

khuyến khích , hỗ trợ đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư và bản thân nhà nước

phải bỏ vốn đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở.

4. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp Để xem xét thành quả hay mức độ thành công của các công cuộc đầu tư

, của một ngành của một tỉnh hay của cả nước ; ngoài chỉ tiêu kết quả đầu tư

người ta còn phải sử dụng chỉ tiêu hiệu quả đầu tư để tính. Ngành nông nghiệp,

do có những đặc điểm cũng như do đầu tư trong nông nghiệp có các đặc trưng

riêng nên trong nông nghiệp người ta có thể sử dụng những chỉ tiêu hiệu quả

sau:

a.Chỉ tiêu :GO tăng thêm/ Vốn đầu tư và GDP tăng thêm/ Vốn đầu tư

Trong đó :+ GO: giá trị sản xuất

+ GDP : tổng sản phẩm

+ Vốn đầu tư : là số vốn đầu tư của một dự án, của nhiều dự án

đầu tư hay của cả một tỉnh, một nước trong một năm hoặc một thời kì nhất định

Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra thì tạo ra bao nhiêu giá trị

hàng hoá và dịnh vụ. Chỉ tiêu này, càng cao thì chứng tỏ công cuộc đầu tư càng

thành công. Trong các chỉ tiêu tính hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp thì đây

là chỉ tiêu dễ tính nhất cũng như đơn giản nhất bởi lẽ các số liệu thu thập về

GO ,GDP cũng như về vốn đầu tư là tương đối dễ.

b. Thời hạn thu hồi vốn đầu tư: là thời gian mà các kết quả của quá trình đầu tư

cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra từ lợi nhuận thu được

Công thức tính: Ivo

T = ------------

Wpv

Trong đó : Wpv là lợi nhuận thu được bình quân một năm hoặc

T

 Wipv  Ivo

24

i=0

T và T : là thời gian thu hồi vốn đầu tư tính theo tháng ,quí ,năm

Thời hạn T thường được tính cho một dự án. Nó phản ánh phần nào mức độ

hiệu quả của dự án. Đối với những dự án tương tự nhau thì dự án có thời gian

thu hồi vốn đầu tư càng nhỏ càng tốt. Tuy nhiên đối với nhiều dự án của một

tỉnh, một giai đoạn thì T rất khó tính, thậm chí là không tính được. Trong nông

nghiệp có nhiều dự án khó tính được thời gian T bởi vì đầu tư trong nông

nghiệp mang tính xã hội cao, nhiều khi không có lợi nhuận, nên nó không được

sử dụng nhiều

c. Hệ số hoàn vốn nội bộ: là tỷ suất lợi nhuận mà nếu được sử dụng để tính

chuyển các khoản thu chi của toàn bộ công cuộc đầu tư về mặt bằng thời gian ở

hiện tại sẽ làm cho tổng thu cân bằng với tổng chi. Công cuộc đầu tư được coi

là có hiệu quả khi :

Trong đó IRR định mức có thể là lãi suất đi vay nếu ta phải vay vốn để đầu tư,

IRR  IRR định mức

có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do nhà nước qui định nếu vốn đầu tư do

ngân sách cấp , có thể là tỷ suât lợi nhuận bình quân hoặc là chi phí cơ hội của

vốn tự có...

Để tính IRR của một dự án người ta có thể tình bằng nhiều cách khác

nhau: như bằng máy tính, bằng phương pháp nội suy, ngoại suy... Chỉ tiêu IRR

rất quan trọng trong việc tính hiệu quả dự án đầu tư. Nói chung dự án có IRR

càng lớn càng tốt . Trong ngành nông nghiệp, do dặc trưng của đầu tư trong ngành nên các công cuộc đầu tư thường có IRR là tương đối thấp. Đây là công

thức có thể tính được nếu công tác thống kê thu thập làm tốt.

d. Chỉ tiêu số lao động tăng thêm từng năm của dự án.

Số việc làm = Số lao động  Số lao động

tăng thêm thu hút thêm mất việc làm

Số lao động tăng thêm nói lên sự đóng góp của dự án đối với nền kinh tế xã

hội. Số lao động tăng thêm nói chung là tương đối dễ tính tuy nhiên trong

ngành nông nghiệp, người nông dân dù có thêm hay giảm đầu tư thì họ vẫn phải làm nông nghiệp, nên trong nông nghiệp tính không phải là dễ. Còn số lao

25

động tăng thêm càng nhiều ,dự án đó càng hiệu quả ( nhưng ta còn phải xem

xét thêm thu nhập của người lao động tư dự án như thế nào)

e .Giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm( NVA):

Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô của

đầu tư. NVA là mức chênh lệnh giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào.

Công thức tính: NVA = O - (MI + Iv)

Trong đó : - NVA là giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm do đầu tư đem lại

- O : là giá trị đầu ra của công cuộc đầu tư ( doanh thu)

- MI: là giá trị đầu vào của vật chất thường xuyên và các dịch vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây( năng

lượng, nhiên liệu, giao thông ...)

- Iv: vốn đầu tư hoặc khấu hao

Trong ngành nông nghiệp ,chỉ tiêu này rất phù hợp bởi nhiều dự án nông

nghiệp mang tính lợi ích xã hội hơn là lợi nhuận. Nếu tính theo chỉ tiêu này thì

mức lợi ích của đầu tư trong nông nghiệp là tương đối cao. Tuy nhiên, đây lại

là chỉ tiêu rất khó tính được chính xác. NVA còn có thể tính cho từng năm hoặc

tính cho nhiều dự án trong một thời kì nhất định

f.Chỉ tiêu GO/GDP

Trong đó: GO giá trị sản xuất của

: GDP = GO - chi phí trung gian

Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả của vốn đầu tư, nói trung nó có giá trị càng gần

1 càng tốt. Nếu gần 1, tức sẽ giảm tối thiểu các chi phi trung gian không cần thiêt, những kết quả thu được từ đầu tư chính là sự gia tăng giá trị cho xã hội

g. Chỉ tiêu công bằng xã hội :chỉ tiêu này xem xét mức độ bình đẳng của người dân trong xã hội, mức độ phân phối thu nhập từ công cuộc đầu tư... Trên đây là một vài chỉ tiêu tiêu biểu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông

nghiệp. Muốn tính hiệu quả đầu tư chính xác ta nên kết hợp chúng với nhau .

26

Chương II. Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây

I.Các nguồn lực cho đầu tư phát triển 1. Giới thiệu các nguồn lực Hà Tây 1.1 Điều kiện tự nhiên

 Vị trí địa lí:

Hà Tây là một tỉnh vừa mới tái lập gồm hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây

hợp thành. Hà Tây có diện tích chung là 2147 km2, nằm trong vùng đồng Bằng

Bắc Bộ; phía đông nằm ngay tiếp giáp Thủ đô Hà Nội, phía bắc giáp với Vĩnh

Phúc, Phía Tây và Nam tiếp với hai tỉnh Hải Dương và Hoà Bình. Như vậy, Hà

Tây là cửa ngõ nối Thủ đô Hà Nội với các tỉnh Tây Bắc và đặc biệt là các tỉnh

phía Nam và Hà Tây nằm trên nhiều đường giao thông quan trọng huyết mạch

của đất nước như đường quốc lộ 1, 6 và 32 , đường thuỷ sông Hồng chạy qua

nên rất có điều kiện phát triển kinh tế xã hội.

Hơn nữa , Hà Tây còn nằm gần khu tam giác kinh tế trọng điểm không

những của phía bắc và cả nước: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Như vậy

tỉnh sẽ chịu ảnh hưởng mạnh của sự phát triển của các tỉnh này.

 Khí hậu Có thể nói, Hà Tây nằm ở vùng Đông Bắc nên có khí hậu nhiệt đới gió

mùa ẩm với mùa đông nhiệt độ thấp lạnh, có gió mùa đông bắc rét, hanh khô

còn mùa hè nóng và mưa nhiều. Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng

1800 - 2000 mm.Do diện tích không lớn, nên khí hậu Hà Tây không có sự khác

biệt lớn giữa các huyện thị trong tỉnh. Với loại khí hậu này , Hà Tây có thể phát

triển đa dạng các loại cây trồng vật nuôi. Tuy nhiên , Hà Tây cũng có bất lợi về mùa mưa chịu ảnh hưởng của lượng mưa lớn còn mùa khô thiếu nước nên đòi

hỏi đầu tư lớn cho hệ thống thuỷ lợi để điều hoà tưới tiêu. Ngoài ra một số vùng Hà Tây còn chịu ảnh hưởng kế hoạch phân lũ Sông Hồng, nên có thể ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp.

 Địa hình

Hà Tây là một tỉnh với nhiều loại địa hình đa dạng và cũng tương đối phức

tạp.

27

+ Với phía Tây là vùng đồi núi chiếm 1/3 diện tích lãnh thổ toàn tỉnh. với diện

tích vùng núi là 70.400 ha.

+ Vùng đồi với độ cao khoảng dưới 100 m, chủ yếu là đồi thấp với diện tích

53.400 ha

+Phía đông là vùng đồng bằng với diện tích khoảng 144.450 ha, chiếm 2/3

diện tích toàn tỉnh. Vùng đồng bằng với bề mặt tương đối bằng phẳng lại ven

một số con sông lớn như sông Hồng, sông Đáy..Trong vùng đồng bằng có hai

nơi trũng nhất là Mỹ Đức và vùng Ứng Hoà ,Thường Tín ... Với kiểu địa hình

này, Hà Tây có thể trồng đa dạng các loại cây, đồng thời có thể tiến hành thâm

canh tăng vụ hoặc cũng có thể ứng dụng nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp

như VAC hay phát triển kinh tế trang trại.

 Tài nguyên đất

Đây là tỉnh có vùng đồng bằng có diện tích khá lớn, nằm ở một trong

những đồng bằng phì nhiêu và tốt nhất nước. Nên đất ở đây cũng tương đối

màu mỡ và phì nhiêu ,giàu chất phù sa. Các vùng đất này có thể nằm trong đê

hoặc ngoài đê thường xuyên được phù sa các con sông bồi đắp.Vì vậy mà đất

ngày càng trở nên tốt và hiệu quả đối với trồng trọt.

Vùng đồng bằng này có các loại đất chủ yếu như sau:

+ Đất phù sa bồi: diện tích 17.038 ha ( chiếm 8 %)

+ Đất phù sa không bồi : diện tích 51.392 ha ( chiếm 24 % )

+ Đất phù sa Gley : diện tích 51.551 ha ( chiếm 24 % )

Như vậy diện tích đất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp của Hà Tây là

rất lớn và khá đa dạng. Tuy vậy việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên này

cũng chưa thật cao. Thể hiện ,Hà Tây chủ yếu là độc canh cây lúa trong trồng

trọt nhưng năng suất cũng chưa cao và hiệu suất sử dụng đất trong năm

khoảng hơn hai lần là tương đối thấp.

Hà Tây còn có một vùng đồi núi với các loại đất khá phong phú:

+ Đất nâu vàng trên phù sa cổ: diện tích 20. 603 ha ( chiếm 10 % )

+ Đất đỏ vàng trên đá phiến sét : 10.783 ha ( chiếm 5 % ) + Còn lại là các loại đất khác.

28

Các loại đất này chủ yếu dùng để phát triển cây lương thực ngắn ngày hoặc

thích hợp cho việc trồng cây công nghiệp, không thật phù hợp cho cây lương

thực. Tuy nhiên trong vùng đất này ta có thể tiến hành chăn nuôi gia súc như

trâu bò, dê hoặc phát triển kinh tế trang trại với các cây ăn quả là rất thích hợp.

 Tài nguyên nước

Là một tỉnh có nhiều con sông lớn chảy qua như sông Hồng bao bọc ở phía

Đông, sông Đà ở phía Bắc, Sông Đáy ở phía Nam và còn cả một hệ thống sông

nội địa như sông Nhuệ... Như vậy mật độ nước ở tỉnh Hà Tây là khá dàyvà

chiếm một diện tích không nhỏ. Các con sông này có lưu lượng nước hàng năm

là rất lớn, với lượng nước hàng năm vào khoảng 180 - 200 tỷ m3. Cùng với

nước là hàng ngàn tấn phù sa các loại luôn bồi đắp cho các vùng đồng bằng. Ở

Hà Tây còn có một trữ lượng nước ngầm khá lớn chưa được khai thác hiệu

quả. Với lượng nước đồi dào nay thì vấn đề tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp

là cực kì thuận lợi; để khai thác tốt lợi thế này , cần phải xây dựng hoàn thiện

hệ thống thuỷ lợi.

1.2 .Dân số và lao động

Vào năm 1996, dân số Hà Tây là 2328 triệu người; nhưng đến năm 2000

dân số của tỉnh là 2423 triệu người với tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm

trong giai đoạn 1996- 2000 là 1.1 % năm, là một tỷ lệ tăng khá thấp so với

trung bình toàn quốc.Với diện tích là 2147 km2 , năm 2000 mật độ dân số là

1084 người / km2, trong đó vùng đồng bằng có mất độ khá cao là 1305 người /

km2. Có thể nói mật độ dân số Hà Tây là rất cao, như vậy đây là một tỉnh đông

dân . Trong số dân này, có đến 90% dân số sồng ở các cùng đồng bằng, trong

khi các vùng núi có tiềm năng số dân lại ít ỏi.Và cũng một tỉ lệ đó dân sô sống

ở các vùng nông thôn . Mặc dù là một tỉnh giáp với thủ đô, một trung tâm lớn

của cả nước nhưng số dân thành thị của Hà Tây lại thấp. Nhìn chung đây vẫn là

một tỉnh đông dân, sống phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp với dân số lại

tương đối trẻ và sung sức. Với lực lượng lao động là 1276. 3 triệu người ( chiếm 52.6% dân số ), thì Hà Tây có đội ngũ lao động hùng hậu với tốc độ tăng bình quân là 2% năm . Trong

29

số này thì hơn 70% laođộng tập trung trong sản xuất nông nghiệp.Người lao

động trong nông nghiệp rất khoẻ, cần cù chịu khó lại có trình độ văn hoá

tương đối khá, họ còn là những người có kinh nghiệm trong trồng trọt và chăn

nuôi. Tuy nhiên lực lượng lao động trong nông nghiệp chủ yếu là thuần nông

và thiếu ngành nghề phụ để sinh sống .Dọ vậy cần phải mở các lớp dạy nghề và

nâng cao kiến thức cho người nông dân.

Trong những năm gần đây , lực lượng lao động trí thức của Hà Tây đã có

bước phát triển đáng kể cả về chất lượng và số lượng, nhưng tập trung chủ yếu

ở thành thị, tuy vậy việc làm của họ chưa thật ổn định.

2. Những lợi thế và thách thức. 2.1 Lợi thế.

Nhìn vào các nguồn lực cho phát triển trên ta thấy , Hà Tây có rất nhiều

thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội nói chung và phát triển nông nghiệp nói

riêng.

- Gần thủ đô Hà Nội, nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, lên có diện

tích đồng bằng khá lớn, có chất lượng đất tốt nên thuận lợi cho trồng trọt .

Ngoài ra , Hà Tây còn có thể tiếp nhận những giống cây trồng vật nuôi mới

được phát triển từ các trung tâm nghiên cứu ở thủ đô. Sản phẩm nông sản của

tỉnh còn có một thị trường tiêu thụ rộng lớn.Nằm ở vị trí này cũng dễ nhận

được sự quan tâm và đầu tư của Đảng và nhà nước cũng như của nhiều thành

phần kinh tế xã hội.

- Với lượng mưa lớn, nguồn nước dồi dào, nếu sử dụng tốt ngành nông

nghiệp sẽ được đảm bảo thuận lợi về tưới tiêu

- Hà Tây có lực lượng lao động đông đảo, có nhiều đặc tính nổi bật lại tập

trung hơn 70 % cho sản xuất nông nghiệp.

- Hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh và đang được đầu tư - Khí hậu đa dạng phong phú và thay đổi giữa các mùa và địa hình thì

không đồng nhất

- Đất nước đang trong qua trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nên toàn

dân hăng hái sản xuất xây dựng đất nước.

30

- ...

2.2 Những thách thức

Bên cạnh những lợi thế ,sự phát triển nông nghiệp của tỉnh cũng gặp nhiều

khó khăn và thách thức.

+ Đất nước đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nên sự quan

tâm và đầu tư của các cấp chính quyền cũng như của các tầng lớp dân cư cho

nông nghiệp sẽ kém hơn trước, cho nên nhiều yếu tố thuận lợi không còn

+ Mùa mưa với lượng nước lớn thường gây úng ngập ở nhiều vùng trong tỉnh.

Một số huyện nằm trong vùng phân lũ của sông Hồng cho nên gây khó khăn

cho sản xuất nông nghiệp vào mùa mưa

+ Dân số tăng nhanh trong khi đất nông nghiệp có hạn dẫn đến bình quân m2

đất trên đầu người giảm, đất nông nghiệp cũng bị thu hẹp để phục vụ cho mục

đích khác.

+ Lực lượng lao động tuy đông nhưng trình độ còn thấp , chủ yếu là lao động

thuần nông nên chưa đủ kiến thức để tiếp thu những tiến bộ mới trong nông

nghiệp

+ Cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp đã quá cũ và hỏng nhiều, tuy có đầu tư

những vẫn chưa khắc phục được

+ ... Tóm lại , Quá trình phát triển nông nghiệp của toàn tỉnh Hà Tây có nhiều cơ

hội cũng như gặp nhiều thách thức.Do vậy để có được một nền nông nghiệp mạnh thì toàn tỉnh phải cố gắng nỗ lực phấn đẫu hơn nữa để phát huy hết những lợi thế đồng thời phải vượt qua những khó khăn thử thách.

II.Tổng quan về tình hình đầu tư Hà Tây trong giai đoan 1996- 2000

Hà Tây là tỉnh nằm ở một vị trí hết sức thuận lợi cho phát triển

kinh tế xã hội lại nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng , nhà nước và các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh nên kinh tế Hà

31

Tây đã có sự phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua . Cùng với bước phát

triển đó, các nguồn vốn đầu tư vào Hà Tây cũng tăng lớn rất mạnh với nhiều

dự án có vốn đầu tư khá lớn và hoạt động mang lại hiệu quả cao. Nó đã góp

phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế tỉnh.

1.Phân theo nguồn vồn đầu tư Căn cứ vào cách chia của địa phương , đầu tư vào tỉnh Hà Tây theo các

nguồn cụ thể sau:

Bảng1. Bảng cơ cấu vốn đầu tư phân theo nguồn vốn

Giai đoạn1996- 2000

Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000

Ngân sách nhà Tỉ đồng 152.9 149.8 536.2 96.4 500.4

nước

46.12

17.83

18.73

44.24

14.46 % Tỷ trọng

Vốn tín dụng Tỉ đồng

14.3 2.14 28.0 2.4 12 1.4 23 2.88 30.0 2.65 % Tỷ trọng

Vốn đầu tư Tỉ đồng

doanh nghiệp

30.1 4.51 24.0 2.06 28. 2 3.29 32 4 25.4 2.24 Tỷ trọng %

Vốn tư nhân và Tỉ đồng

dân cư

450.4 67.56 515.0 44.29 577.5 67.34 525.3 65.7 520.5 46.01 Tỷ trọng %

Vốn khác

75.5 11.32 59.5 5.12 87 10.14 69.5 8.69 55 4.86 Tỷ trọng Tỉ đồng %

Tổng Tỉ đồng

666.7 100 857.6 100 799.6 100 1162.7 100 1131.2 100 Tỷ trọng %

( Nguồn : Biểu số liệu kèm theo báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội nhiệm vụ

1996- 2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 tỉnh Hà Tây)

Như trên đã trình bày , tổng vốn đầu tư toàn tỉnh Hà Tây không ngừng tăng lên; theo cơ cấu này các nguồn vốn đầu tư có sự biến đổi khác nhau. Theo

bảng trên , cơ cấu vốn đầu tư tỉnh Hà Tây có nhiều điểm nổi bật nhưng lại có

32

nhiều điểm chưa hợp lí.Vốn đầu tư của doanh nghiệp trong giai đoạn này

chiếm tỷ trọng khá thấp trong tổng vốn đầu tư trong khi vốn đầu tư của tư nhân

và các tầng lớp dân cư lại chiếm tỷ lệ cao.

Trong từng năm của giai đoạn 1996- 2000, vốn đầu tư doanh nghiệp chỉ

chiếm tỉ lệ khá nhỏ trong khi vốn đầu tư tư nhân -dân cư chiếm một tỉ lệ rất

cao. Điều này chứng tỏ Hà Tây có nhiều chính sách hợp lí để thu hút vốn nhàn

rỗi trong dân, nhưng mặt khác cho thấy đầu tư ở Hà Tây chủ yếu vào các dự án

có qui mô vốn nhỏ, mang tính cá thể. Trong khi đó vốn đầu tư doanh nghiệp

thấp cho thấy hoạt động của các doanh nghiệp trên địa bàn là yếu hay thiếu

năng động trong việc tìm cơ hội đầu tư. Không những thế vốn đầu tư của các

doanh nghiệp lại giảm như 30.1 tỉ đồng năm 1996 xuống còn 24 tỉ năm 1999

và 25.4 tỉ năm 2000. Có thể giải thích là do xu hướng chung của nền kinh tế

nhưng với một tỉnh giàu tiềm năng như Hà Tây mà tỉ trọng vốn đầu tư của các

doanh nghiệp chiếm tỉ lệ không cao là chưa thật thuyết phục. Vì vậy tỉnh nên

có những biiện pháp cải tổ và khuyến khích đầu tư từ khu vực này . Bởi vì vốn

đầu tư của doanh nghiệp là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế

xã hội của tỉnh

Trong bảng cho thấy là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ngày càng lớn và

tăng dần theo các năm. Năm 1996 la 96.4 tỉ ; đến năm 1997 là 152.9 tỉ đồng,

tăng 58.61%; Năm 2000 là 500,4 tỉ đồng, thấp hơn năm cao nhất là 536.2 tỉ

đồng ( năm 1999 ), nhưng so với các năm trước là cao hơn nhiều, như so với

năm 1996 , nó gấp 5.2 lần.Không những thế, tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách còn chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong tổng vốn đầu tư; năm 1999 nguồn

vốn này có giá trị cao nhất trong tổng vốn đầu tư. Điều này chứng tỏ Đảng, nhà nước và các cấp chính quyền của tỉnh chú ý tới việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế nhằm khuyến khích và thu hút các nguồn vốn khác phục vụ phát

triển kinh tế.

Về nguồn vốn tín dụng cũng có tỷ trọng thấp nhưng điều đáng mừng là

khối lượng vốn nay ngày càng tăng , và năm sau cao hơn năm trước. Năm 1999

là 28 tỉ đồng tăng 96.97 % so với năm 1996, năm 2000 là 30 tỉ đồng tăng so với năm 1999 là7.14 %. Trong số vốn này đã có một khối lượng vốn cho vay

33

ưu đãi đối với hộ nông dân để họ xoá đói giảm nghèo và phát triển sản xuất

nông nghiệp.

Tóm lại , nguồn vốn cho đầu tư phát triển của Hà Tây là rất phong phú và

đa dạng, đã góp phần khai thác được các thế mạnh của tỉnh. Tuy vậy, để có

một nền kinh tế mạnh đỏi hỏi tỉnh phải có những biện pháp huy động nhiều

hơn nữa mọi nguồn và cân đối một cách hợp lí.

2.Theo cơ cấu ngành kinh tế

Để phân tích đánh giá vốn đầu tư Hà Tây theo cơ cấu kinh tế, do không có

điều kiện xem xét tổng các nguồn vốn ,ta có thể lấy vốn đầu tư từ ngân sách

của tỉnh và từ nguồn thuế nông nghiệp để xem xét đánh giá. Do Hà Tây là một

tỉnh nông nghiệp và ngành nông nghiệp đóng góp một tỉ trọng cao trong ngân

sách tỉnh cho nên vốn đầu tư cho nông nghiệp của tỉnh cũng chiểm tỉ trọng cao.

Bảng 2.Bảng cơ cấu đầu tư từ ngân sách theo ngành kinh tế .

Giai đoạn 1996- 2000

Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000

1. Nông nghiệp Tỉ đồng

13.406 21.4 20.42 25.6 17.552 20.5 28.9 27.1 29.03 32.84 Tỷ trọng %

Tỉ đồng

17.68 28.2 17.32 21.7 20.74 24.2 16 15 18 20.28 2. Công nghiệp Tỷ trọng %

3.Thương mại- du lịch Tỉ đồng

2 3.2 6 7.5 1 1.17 3 2.8 2 2.25 Tỷ trọng %

62.57 100 79.76 100 85.6 100 106.3 100 88.4 100 Tổng vốn ngân sách Tỷ trọng Tỉ đồng %

( Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 1996-2000.)

Ngoài các ngành trên, vốn ngân sách tỉnh còn phải đầu tư cho nhiều

ngành khác như : giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá xã hội, thể dục thể thao...

Nhìn vào số liệu từ bảng trên ta nhận thấy rằng, vốn đầu tư của tỉnh Hà

Tây cho hai ngành công nghiệp và dịch vụ là tương đối thấp so với vị trí và khả

34

năng của hai ngành kinh tế này. Như ngành công nghiệp, Hà Tây là tỉnh gần

Hà Nội, đây là một thị trường có sức tiêu thụ lớn, ngày càng phát triển, các sản

phẩm công nghiệp của Hà tây dễ tiêu thụ. Tỉnh chỉ đầu tư rất khiêm tốn cho

công nghiệp, năm cao nhất là năm 1996 với 17.68 tỉ đồng( chiếm tỷ trọng 28.2

%) nhưng về các năm sau sau lại có xu hướng giảm hơn so với đầu thời kì,

năm 1999 là 16 tỉ đồng(chiếm 15%)và năm 2000 là 18 tỉ đồng(chiếm 20.28 %)

, nếu chỉ đầu tư nhỏ cho công nghiệp thì khó phát triển được công nghiệp và

khai thác thị trường trên

Trong vùng Đồng Bằng Bắc Bộ , Hà Tây là một vùng có nhiều danh thắng

cảnh nổi tiếng và đẹp, lại có một thị trường rộng lớn cho du lịch như Hà Nội,

Hải Dương...trong khi các công ty ngoài quốc doanh chưa phát triển trong

ngành này thì đầu tư của ngân sách sẽ đóng vai trò quan trọng. Nhưng thực tế

thì nguồn vốn này lại rất thấp, chiếm tỷ trọng chưa đầy 10 % , do đó cần phải

khắc phục và điều chỉnh kịp thời.

Trong giai đoạn này, tín hiệu đáng mừng nhất là đối với ngành nông nghiệp;

Vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp có tỷ trọng tương đối cao và về số lượng

ngày càng tăng lên So với năm 1996(vốn đầu tư :13.406 tỉ đồng) năm

1997(với 20.42 tỉ đồng )tăng 52.3 %, năm 1999 tăng hơn năm 1998 là

(84.65% ), năm 2000 là cao nhất với số vốn đầu tư 29.03 tỉ đồng. Tuy vậy năm

1998 lại thấp hơn năm 1997 với vốn đầu tư 17.55 tỉ đồng.Vốn đầu tư cho nông

nghiệp trong giai đoạn này tăng vì tỉnh Hà Tây tập trung mạnh đầu tư để nâng

cấp và hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi: các trạm bơm, cống... như dự án tưới tiêu Đồng Mô( Sơn Tây), trạm bơm Ngọ Xá ( Ứng Hoà) với số vốn hàng tỷ đồng;

hoặc cùng với trung ương đầu tư cho hệ thống đê điều và phân lũ sông Hồng.

3.Phân theo cấp quản lí.

Xét theo cấp quản lí , vốn đầu tư của Hà Tây được chia theo hai cấp

:Cấp trung ương và cấp địa phương. Cấp trung ương quản lí các dự án có qui

mô lớn hoặc đầu tư hợp tác với nước ngoài; cấp địa phương quản lí các dự án

nhỏ hơn.

35

Bảng 3. Bảng cơ cấu vốn đầu tư phân theo cấp quản lí

Giai đoạn 1996 - 2000

Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000

1.Trung ương Tỉ đồng

13.6 2.04 58.3 6.8 55.6 6.95 426.9 36.72 390 34.48 Tỷ trọng %

2.Địa phương Tỉ đồng

653.1 97.96 799.3 93.2 744.0 93.05 735.8 63.28 741.2 65.52 Tỷ trọng %

Tỉ đồng Tổng

666.7 100 857.6 100 799.6 100 1162.7 100 1131.2 100 % Tỷ trọng

( Nguồn : Biểu số liệu kèm theo báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội nhiệm vụ

1996- 2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 tỉnh Hà Tây)

Qua bảng trên có thể nhận thấy rằng vốn đầu tư do địa phương quản lí

luôn chiếm tỉ lệ cao trong tổng vốn đầu tư tỉnh Hà Tây trong những năm vừa

qua. Theo qui định ,vốn đầu tư do tỉnh quản lí thường là các dự án nhỏ, vốn

đầu tư không cao; với một tỉnh nhỏ như Hà Tây điều này cũng tương đối hợp

lí. Đi vào phân tích kĩ ta thấy vốn đầu tư của nguồn này là tương đối ổn định,

với mức độ tăng giảm không đáng kể. Năm có giá trị cao nhất là năm 1997

với số vốn đầu tư là 799.3 tỉ đồng chênh lệch không nhiều so với năm 1996 là

653.1 tỉ đồng ; các năm còn lại tương đối đồng đều. Nguồn vốn này luôn

chiếm tỉ lệ cao cũng chứng tỏ Hà Tây chú trọng tới việc thu hút các nguồn vốn

nhỏ trong tỉnh cho phát triển kinh tế. Trong khi đó , nguồn vốn do trung ương quản lí có những sự tăng đột ngột và mạnh mẽ trong hai năm gần đây cả về giá trị tuyệt đối lẫn tỉ trọng. Cụ thể

36

năm 1997, vốn đầu tư là 58.3 tỉ đồng( chiếm 6.8% ), năm 1998 là 55.6 tỉ đồng

( chiếm 6.95% ), đến năm 1999 là 426.9 tỉ đồng( chiếm 36.68%) tăng vọt so

với năm 1998 là 668%, năm 2000 nguồn vốn này cũng cao. Vốn trung ương

quản lí các dự án đầu tư vào tỉnh có qui mô lớn, lượng vốn này tăng cao cho

thấy có nhiều dự án lớn : như dự án đầu tư cải tạo hệ thống đê điều, nước sạch

nông thôn , nhà máy xi măng Tiên Sơn, sân gold Đồng Mô... đầu tư vào Hà

Tây .Đây là một dấu hiệu đáng mừng đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh.

Tóm lại, dù có phân chia vốn đầu tư theo cách nào, dựa trên các số liệu

,ta có thể khẳng định rằng tình hình đầu tư của Hà Tây trong thời gian vừa qua

là rất tích cực và có chiều hướng tăng lên theo thời gian. Từ đó ta thấy kinh tế

xã hội của tỉnh đang trong xu hướng tăng trưởng và phát triển

III.Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp HàTây.giai đoạn 1996- 2000

Hà Tây, như đã nói ở trên là một tỉnh nông nghiêp, ngành nông nghiệp

vẫn chiếm một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của tỉnh. Vì

vậy phát triển một ngành nông nghiệp vững mạnh, đảm bảo cung cấp đầy đủ

lương thực , thực phẩm cho người dân và có thể xuất khẩu là một đòi hỏi thiết

yếu của tỉnh Hà Tây.Vì vậy mà trong thời gian qua, ngành nông nghiệp Hà

Tây luôn được toàn tỉnh quan tâm và đầu tư thích đáng và trong các ngành

kinh tế thì nông nghiệp có một tỷ trọng khá cao trong tổng vốn đầu tư.

1.Theo cơ cấu vốn đầu tư Nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp Hà tây là phong phú và đa

dạng,như vốn đầu tư do trung ương cấp, vốn của dân , vốn tín dụng...Cụ thể các nguồn vốn trong bảng dưới đây.

37

Bảng 4. Bảng cơ cầu vốn đầu tư cho nông nghiệp Hà Tây phân theo nguồn vốn đầu tư . Giai đoạn 1996 -2000

I.

20.264 34.43 1997 50.84 45.9 1998 57.43 51 1999 52.7 49 2000 52.29 54.59 Vốn NSTƯ cấp Tỷ trọng

1.Bộ quản

14.415 24.5 36.44 32.9 41 36.45 39.9 37.16 31.85 32.77 Tỷ trọng

5.849 9.93 14.4 13 16.43 14.55 12.8 11.84 20.44 21.82 2 .Tỉnh quản Tỷ trọng Đơn vị 1996 Tỉđồng % Tỉđồng % Tỉđồng %

Tỉđồng II.Vốn từ thuế nông nghiệp để lại

%

16.4 14.8 20.55 18.27 21.09 19.64 11 11.49 8.257 14 Tỷ trọng

III. Vốn tự cân đối

25.85 23.36 25.14 22.35 25.22 23.48 24.495 25.57 24.5 41.6

Tỷ trọng 1.Trích từ thuỷ lợi phí Tỷ trọng 19.5 17.62 19 16.89 18.65 17.37 18 18.79 17 28.9

6.35 5.74 6.14 5.46 6.57 6.11 6.495 6.78 7.5 12.7 Tỉđồng % Tỉđồng % Tỉđồng % 2.Dân tự làm Tỷ trọng

Tỉđồng 9.36 8.38 8.36 7.8 8 8.35 5.818 9.97 17.56 15.94 IV.Vốn tín dụng ưu đãi Tỷ trọng %

58.839 100 110.65 100 112.48 100 107.37 100 95.785 100 Tỉđồng % Tổng vốn đầu tư Tỷ trọng

(Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện vốn đầu tư XDCB giai đoạn 1996-2000) Nhìn vào tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp Hà Tây, thấy rằng nguồn vốn đầu tư cho ngành này là khá đa dạng và biến động khá phức tạp. Những nguồn

vốn này đầu tư cho cả nông nghiệp và phát triển nông thôn. Ta có thể thấy

38

rằng vốn đầu tư cho nông nghiệp của Hà Tây là tương đối cao và luôn ở một

mức độ tương đối ổn định. So với năm 1996 ,đầu thời kì những năm tiếp theo

cao hơn rất nhiều, thậm chí có năm cao gấp đôi. Trong dòng vốn đầu tư này ,

ta nhận thấy năm có giá trị vốn đầu tư cao nhất là năm 1998 với vốn đầu tư

112.48 tỉ đồng, so với năm 1996 với vốn đầu tư 58.839 tỉ đồng tăng 91.16

%. Các năm còn lại đều có vốn đầu tư là khá cao với giá trị khoảng 100 tỉ

đồng. Nhìn vào đây ta cũng thấy là mức độ gia tăng vốn đầu tư là không đồng

đều. Trong khi năm 1998 tăng 1.65% so với năm 1997, năm 1999 lại giảm

4.5% so với năm 1998, còn năm 2000 cũng giảm đáng kể. Từ tình hình đầu tư

trên ta thấy, nông nghiệp Hà Tây trong giai đoạn vừa qua đã có những tiến bộ

trong việc thu hút vốn đầu tư, để có thể phát triển hơn và thu hút được nhiều

lượng vốn đầu tư ,ngành nông nghiệp cũng như tỉnh Hà Tây phải có những cố

gắng nhiều hơn nữa trong chính sách cũng như chiến lược thu hút vốn đâù tư

từ nhiều nguồn khác nhau.

Trên đây là một vài phân tích về tổng vốn đầu tư , nhưng để có thể đánh

giá chính xác và chi tiết về thực trạng đầu tư nông nghiệp Hà Tây , ta còn phải

đi sâu hơn nữa vào các nội dung sau.

1.1 Vốn ngân sách trung ương

Đây là nguồn vốn do nhà nước đầu tư cho tỉnh Hà Tây hoặc bổ sung vào

ngân sách tỉnh để đầu tư nông nghiệp của tỉnh. Giá trị nguồn vốn này phản ánh

phần nào sự quan tâm của Đảng và nhà nước cho phát triển kinh tế xã hội nói

chung và ngành nông nghiệp nói riêng.

Xem xét cả về tỷ trọng và khối lượng vốn ,ta thấy rằng nguồn vốn này tăng

khá đều qua các năm và luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư. Nguồn vốn này biến đổi thay đổi khá ổn định. Ta thấy rằng năm 1996, năm đầu của thời kì phát triển kinh tế 1996 -2000, là năm có giá trị thấp nhất là 20.264 tỉ

đồng , nhưng cũng cao hơn so với giá trị bình quân giai đoạn 1991 -1995.

Đến năm 1997 giá trị nguồn vốn này tăng vọt, với giá trị là 50.84 tỉ đồng , tăng

lên 150.8 % so với năm 1996. Đây là con số rất cao, sở dĩ như vậy vì giai đoạn

39

này nhà nước chú trọng đầu tư cho các công trình lớn tỉnh Hà Tây nhằm hiện

đại hoá cơ cấu hạ tầng nông nghiệp và nông thôn.Năm 1998 là năm còn có giá

trị cao hơn năm 1997 và là năm đạt giá trị cao nhất trong thời kì này với tỷ

trọng 51 % trong tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp. Trong hai năm tiếp ,nguồn

vốn này có xu hướng giảm do các công trình ở Hà Tây xây dựng hạ tầng đã

hoàn thành và ngành nông nghiệp tỉnh đã khá phát triển.

Nguồn vốn trung ương này được chia làm hai phần: nguồn vốn do các bộ

quản ( thường với các công trình có qui mô lớn và có ý nghĩa quan trọng ...) và

nguồn vốn do tỉnh quản lí ( với các dự án có qui mô nhỏ hơn). Hai nguồn này

luôn hỗ trợ và tương hỗ lẫn nhau trong việc đầu tư cho ngành nông nghiệp

nhưng không phải chúng có xu hướng vận động như nhau mà sự biến động

của chúng là khá phức tạp

* Vốn do bộ quản

Nguồn vốn do bộ quản có thể nói luôn chiếm một vị trí cao không những

trong tổng vốn ngân sách trung ương cấp mà còn trong cả vốn đầu tư cho nông

nghiệp Hà Tây. Trong vốn trung ương thường thì nguồn vốn này luôn chiếm

khoảng hơn hai phần ba, và trong thời kì vừa qua nó tăng khá .Năm 1996 là

năm có giá trị vốn đầu tư thấp nhất , nhưng từ năm 1997 trở đi, vốn đầu tư

luôn ở mức cao và cao hơn rất nhiều so với năm 1996, thường gấp từ hai lần

trở lên so với năm 1996. Nguồn vốn này tăng, và chiếm tỷ lệ cao do trong

thời kì này nhà nước tập trung đầu tư các dự án lớn cho tỉnh Hà Tây như dự án đầu tư nâng cấp hệ thống sông Nhuệ với số vốn hàng chục tỷ đồng , hay dự án cải tạo hồ chứa nước Quan Sơn, dự án cống Bến mắm ở Sơn Tây với vốn thực

hiện là 21 tỉ đồng, hay như dự án bãi Xuân Phú với số vốn đầu tư 19 tỉ đồng ,đều bắt đầu từ năm 1997 và kéo dài trong nhiều năm tiếp theo, như dự án sông Nhuệ thậm chí còn kéo dài sang cả những năm của thế kỉ 21.Quan trọng

trong nguồn vốn này là nguồn vốn đầu tư cho hệ thống đê điều và dự án phân

lũ sông Hồng vào một số huyện thị của tỉnh Hà Tây. Những năm trong giai

đoạn này có vốn đầu tư thấp bởi lẽ hệ thống cơ sở hạ tầng ở nông nghiệp Hà

40

Tây như các trạm bơm , các kênh mương cấp I, nhiều hệ thống tưới tiêu đã cũ

và xuống cấp khá trầm trọng cần và đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn của nhà

nước và của tỉnh.

Đi vào phân tích kĩ từng năm, năm 1998 có giá trị cao nhất với số vốn 41

tỉ đồng, năm này có giá trị cao bởi nhiều dự án bắt đầu từ năm 1997 đi vào

thực hiện ở giai đoạn quan trọng và trọng điểm do vậy đòi hỏi lượng vốn rót

cho các công trình khá lớn ,đồng thời năm 1998 cũng bắt đầu một vài dự án

khá quan trọng như trạm bơm An Vọng( Chương Mĩ ). Đến năm 1999 ,một vài

dự án đã hoàn thành do vậy vốn do bộ quản đã giảm đi chút ít . Còn năm 2000

hàng loạt các công trình hoàn thành như bãi Xuân phú, bến Mắm ( Sơn Tây )...

Trong khi các dự án mới ít và vốn không lớn do vậy mà năm 2000 vốn giảm

sút rất nhiều , so với năm 1999 thì nó giảm tới 20.1 %. Như vậy nguồn vốn bộ

quản trong thời kì vừa qua tăng giảm không đều nhưng nó góp phần cực kì

quan trọng vào quá trình phát triển nông nghiệp Hà Tây.

*Vốn do tỉnh quản

Trong khi nguồn vốn do bộ quản có xu hướng giảm trong thời gian gần

đây thì nguồn vốn ngân sách trung ương do tỉnh quản lại có xu hướng gia tăng.

Nguồn vốn này thể hiện sự quan tâm của trung ương đối với những dự án nhỏ

,các dự án liên quan hỗ trợ cho các dự án lớn . Như vậy nhà nước không chỉ

quan tâm ở tầm vĩ mô mà còn ở tầm vi mô. Bởi lẽ các dự án nhỏ có qui mô

nhỏ , vốn ít đầu tư chi tiết do vậy mà bộ không thể quan tâm được hết và như vậy lại tốn chi phí quản lí. Trong khi đó, do nắm vững tình hình phát triển của ngành nông nghiệp do vậy mà chính quyền địa phương dễ nắm bắt các khu

vực nhỏ cần đầu tư ,do vậy giao một phần vốn cho tỉnh quản là hợp lí ;đồng thời tăng cường tính tự chủ của địa phương. Các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn này chủ yếu để xây dựng và phát triển trạm bơm, kiên cố hoá các kênh mương

cấp II ,phát triển hệ thống giống, bảo vệ thực vật...Nhìn vào vốn đầu tư ta thấy

rằng năm 1996 là năm có giá trị thấp nhất, đến năm 1998 vốn này cũng đạt giá

trị cao, với vốn đầu tư là 16.43 tỉ đồng, tương ứng với mức vốn ngân sách

41

trung ương đầu tư cho tỉnh ở mức cao.Như vậy bên cạch đầu tư cho các dự án

lớn tỉnh cũng phát triển đồng bộ các dự án nhỏ khác để các công cuộc đầu tư

đạt hiệu quả cao.Đến năm 2000 , vốn do tỉnh quản cao hơn hẳn và là năm cao

nhất với vốn đầu tư 20.44 tỉ đồng tăng 59.68 % so với năm 1999, do được bổ

sung một phần khá lớn vốn đầu tư trong đợt giữa năm và các dự án nhỏ cần

được đầu tư để khai thác các dự án lớn do trung ương đầu tư đã hoàn

thành.Nguồn vốn này tuy không có giá trị cao nhưng nó góp phần cực kì quan

trọng trong việc phát triển nông nghiệp từng huyện thị xã.

Tóm lại, nguồn vốn ngân sách trung ương đóng vai trò then chốt trong vốn

đầu tư cho nông nghiệp.Các dự án đầu tư của nó không những tạo ra cơ sở hạ

tầng cực kì quan trọng cho phát triển nông nghiệp mà còn góp phần tạo nền

tảng ban đầu để thu hút các nguồn vốn đầu tư khác. Khai thác và sử dụng

nguồn vốn này sẽ rất hữu ích đối với sự phát triển của ngành nông nghiệp tỉnh

Hà Tây .

1.2 Vốn từ thuế nông nghiệp

Nguồn vốn này có được do việc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp và

một số loại thu khác ... và được nhà nước giao cho tỉnh một phần. Cụ thể,

theo qui định của nhà nước Việt Nam, các tỉnh thành phố trong cả nước có

quyền giữ lại một phần hoặc toàn bộ nguồn thuế nông nghiệp này và năm đầu

tiên áp dụng chính sách này là năm 1996. Trong năm 1996, tỉnh Hà Tây được

phép giữ lại 45 % thuế nông nghiệp và mỗi năm có những sự thay đổi khác nhau , riêng năm 1999 ,tỉnh được phép giữ lại toàn bộ nguồn thuế này phục vụ đầu tư phát triển,năm 2000 có tỷ lệ để lại nhỏ hơn. Với chủ trương này,

nhà nước đã tạo điều kiện cho chính tỉnh đó lấy vốn từ thuế để đầu tư cho chính mình, như vậy là rất thiết thực đối với người dân.

Nguồn vốn đầu tư từ thuế nông nghiệp được trao cho chính địa phương

quản lí, do vậy nó cũng nằm trong ngân sách tỉnh hàng năm . Nhìn vào bảng 4

,ta thấy rằng nguồn vốn này không chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư

và giá trị cũng tương đối thấp. Nhưng nó lại tạo ra một khối lượng không nhỏ

42

các dự án đầu tư phát triển hạ tầng nông nghiệp. Nói chung ,nguồn vốn này

thường không hình thành các dự án đầu tư độc lập mà nó thường kết hợp với

vốn ngân sách do địa phương quản lí và vốn tự cân đối để tiến hành đầu tư.

Xem bảng 4, ta thấy trong thời kì 1996 -2000 nguồn vốn đầu tư từ thuế

nông nghiệp có xu hướng tăng ,phù hợp với xu thế đưa vốn trở lại chính nơi

xuất phát để đầu tư cho hiệu quả. Với năm 1999, là điển hình, giá trị vốn lên

đến 20.14 tỉ đồng, chiếm tới 19,64 % tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp . Năm

1999 có giá trị cao như vậy bởi năm này theo xu hướng chung là cần đầu tư

cho những dự án có vốn nhỏ và cũng là năm tỉnh được nhà nước cho phép giữ

lại 100% thuế nông nghiệp cho đầu tư.Nếu xét cả quá trình từ năm 1996 -

1999, năm 1997 cao hơn năm 1996 là 98.6%, năm 1998 lại cao hơn năm 1997

là 25.3%, còn năm 1999, cao nhất tăng hơn năm 1998 là 2.6 %, như vậy xu

hướng tăng vốn chậm dần. Nguyên nhân vốn tăng chậm không phải là do nhu

cầy đầu tư cho nông nghiệp giảm xuống mà do nguyên nhân khách quan: đất

nông nghiệp thì diện tích luôn cố định nên số thuế không thể tăng liên tục

cao được, do vậy dù nhà nước có để lại cho tỉnh hết cũng không cao hơn

nữa. Riêng năm 2000,ta thấy vốn đầu tư cho nông nghiệp tư thuế nông

nghiệp giảm sút mạnh chỉ có 11tỉ đồng; tuy nhiên lí do giảm không phải là

thuế nông nghiệp thu ít hay nhà nước để lại cho tỉnh không nhiều mà do tỉnh

tập trung vốn lớn để đầu tư cho việc xây dựng hệ thống kênh mương huyện

Phúc Thọ dài 73.6 km vào cuối năm với tổng vốn đầu tư là 11.5 tỉ đồng

nhưng chưa được tính vào vốn đầu tư năm 2000.

Nguồn vốn đầu tư từ thuế nông nghiệp nói chung được sử dụng khá đa

dạng trong việc đầu tư cho nông nghiệp.

43

Bảng 5.Bảng cơ cấu đầu tư từ nguồn thuế nông nghiệp.

Đơn vị :tỉ đồng

1996 1997 1998 1999 2000

1. Trạm bơm 1.1 0.96 1 1.24 3.3

2. Kiên cố hoá - 3.8 4. 4.05 3

kênh mương

3.Nâng cấp hệ 1.088 2.7 5.75 6.2 3.2

thống giống

4.Nâng cấp hệ 0.63 1.25 2.5 1.89 0.75

thống thú y

5. Nâng cấp hệ 1.139 1.8 2.05 1.5 0.75

thống BVTV

6.Khuyến nông 1.3 2.5 2.75 2.81 -

Kí hiệu - : không có vốn đầu tư

(Nguồn : Báo cáo tình hình thực hiện các dự án đầu tư các ngành kinh tế các năm từ 1996 -2000 của tỉnh Hà Tây.)

Năm 1996 như đã trình bày là năm đầu tiên thực hiện chích sách để tiền

thu được từ thuế nông nghiệp cho công cuộc đầu tư của từng địa phương . Do

vậy năm này, nguồn vốn đầu tư là thấp về cả giá trị và tỷ trọng vốn đầu tư; cho nên nó chỉ góp phần vào các công cuộc đầu tư thông qua bổ sung và kết hợp

44

với vốn ttừ ngân sách. Tuy vậy năm 1996 , vốn đầu tư này vẫn đóng góp quan

trọng vào sự phát triển nông nghiệp và sơ sở hạ tầng nông nghiệp. Nguồn vốn

này được sử dụng một phần nhằm kiên cố hoá hệ thống kênh mương, phát triển

và nâng cấp hệ thống thú y, hệ thống giống và bảo vệ thực vật....Năm 1996

cũng có một vài dự án từ nguồn vốn này như xây dựng trạm bơm tiêu Phụng

Châu(Thường Tín ) với vốn đầu tư 1 tỷ đồng.

Sang năm 1997, vốn đầu tư từ thuế nông nghiệp bắt đầu tăng lên, cơ cấu

vốn đã đa dạng và phức tạp hơn trước. Trong cơ cấu vốn năm 1997, thì vốn

đầu tư cho nâng cấp hệ thống và kiên cố hoá kê mương chiếm một phần khá

cao trong tổng vốn đầu tư. Điều này cho thấy tỉnh đã chú trọng đầu tư vào hệ

thống cơ sở hạ tầng và vào công nghệ giống, những nhân tố quyết định phần

lớn năng xuất của sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra ,các lĩnh vực khác của nguồn

này cũng cao hơn so với năm 1996. Trong năm 1997, số dự án từ nguồn này

cũng tăng lên rõ rệt và ngày càng quan trọng hơn.; như dự án xây dựng hệ

thống trạm trại nông nghiệp trên toàn tỉnh với vốn 1.5 tỉ đồng hoặc góp một

phần vốn là 1 tỉ đồng vào dự án trạm bơm tiêu hạ du Đồng Mô. Như vậy năm

1997 đánh dấu sự biến chuyển tích cực của nguồn vốn đầu tư này.

Trong hai năm tiếp theo, cùng với việc nhà nước trao cho tỉnh nhiều hơn nữa

tiền thu được từ thuế nông nghiệp nên trong hai năm 1998, 1999 tổng vốn đầu

tư từ thuế và tững cơ cấu lĩnh vực đều tăng , trong đó năm 1999 cao hơn năm

1998 về mọi mặt.Trong hai năm 1998, 1999 vốn đầu tư cho hệ thống giống và

cho việc kiên cố hoá hệ thống kênh mương vẫn tăng và chiểm tỷ lệ cao ( với tỷ trọng tương ứng năm 1998 là 28.75 % và năm 1999: 48.81 % ). So với năm

1997, thì vốn đầu tư năm 1998 cho hệ thống giống tăng 112.96 % , năm 1999 lại tăng so với năm 1998 là 7.8 % .Việc tăng đầu tư cho giống trong thời gian này là do tỉnh bắt đầu chú trọng hơn đến các loại giống cho ngành chăn nuôi,

dặc biệt là giống về lợn và tỉnh cũng thử nghiệm các loại cây trái có thể đem lại

hiệu quả cao trong mô hình kinh tế trang trại ở các vùng đồi núi. Cùng với đó

là nâng cấp hệ thống thú y và phát triển các chương khuyến nông cũng nhận

được sự đầu tư trợ giúp lớn nhằm đáp ứng chủ trương phát triên chăn nuôi và khuyến khích làm kinh tế mới. Như vậy trong hai năm này ,nguồn vốn đầu tư

45

từ thuế nông nghiệp đạt tới giá trị cao nhất. Trong thời gian này cũng có nhiều

dự án lớn như dự án Hệ thống tưới tiêu đồng Mô, vốn là 1 tỉ đồng năm 1998 và

tiếp tục sang năm 1999 với vốn 1 tỉ đồng , dự án cải tạo bãi Phướn Ba Vì với

vốn 1.5 tỉ đồng, hoặc như dự án trại giống lợn Thanh Hưng với vốn đầu tư 2.5

tỉ đồng...Có thể nói các dự án trên là thiết thực với sự phát triển nông nghiệp

Hà Tây.

Năm 2000 tỉnh vẫn được nhà nước cho phép giữ lại phần lớn thuế nông

nghiệp. Nhìn chung năm 2000, tỉnh vẫn tập trung đầu tư mạnh cho hệ thống

kênh mương và các trạm bơm được đầu tư cao hơn trước trong khi đầu tư cho

các lĩnh vực khác giảm hẳn thậm chí chương trình khuyến nông không nhận

được vốn đầu tư .Có thể giải thích cho vốn trong năm này cho các lĩnh vực

giảm do các năm trước đã được đầu tư thích đáng và phần nào đã đáp ứng được

nhu cầu của tỉnh.Năm 2000, đầu tư cho hạ tầng nông nghiệp, qua các dự án

như trạm bơm Ngọ Xá 2 với vốn từ thuế nông nghiệp 2.8 tỉ đồng( trong tổng

vốn đầu tư 3.8 tỉ đồng), hay dự án kênh mương Phúc Thọ( đã trình bày ở trên).

Việc đầu tư mạnh này là do chủ chương vừa phát triển nông nghiệp vừa kích

thích đầu tư và tăng tiêu dùng trong nền kinh tế để kích cầu đầu tư và tiêu dùng

của toàn tỉnh.

Có thể khẳng định rằng , vốn đầu tư từ thuế nông nghiệp chiếm một vai trò

khá quan trọng trong vốn đầu tư cho nông nghiệp.Khai thác nguồn vốn này

hiệu quả là yêu cầu cho sự phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây.

1.3 Vốn tự cân đối

Nguồn vốn này ở đây được hiều là vốn huy động trong nội bộ tỉnh từ các doanh nghiệp, từ nhân dân...bao gốm một phần thuỷ lợi phí( khác với thuế nông nghiệp) và vốn do dân đóng góp; nó không thuộc phạm vi quản lí của

chính quyền cũng như phải nộp vào ngân sách theo như những qui định của

nhà nước và pháp luật. Ta biết rằng để phát triển một nền kinh tế, một ngành

nhất định thì vốn từ các tầng lớp dân cư và doanh nghiệp mới là quyết định cho

quá trình đầu tư phát triển, trong khi vốn ngân sách nhà nước và vốn ngân sách địa phương chỉ là nguồn vốn tiền đề ,nền tảng để từ đó có thể kêu gọi các

46

nguồn vốn đầu tư khác. Như vậy ngành nông nghiệp tỉnh Hà Tây muốn phát

triển thì phải có khối lượng vốn từ các doanh nghiệp của ngành và từ dân cư

phải có giá trị lớn. Tuy nhiên ,đặc trưng của đầu tư trong nông nghiệp có tỷ

suất lợi nhuận thấp có độ rủi ro cao nên ít người dân dám đàu tư ; vì vậy nguồn

vốn đầu tư này khônglớn. Nhưng ta cũng không thể phủ nhận những đóng góp

của nó vào quá trình phát triển ngành nông nghiệp của tỉnh .Đây là nguồn vốn

rất rải rác ,nhỏ, lẻ nên việc thu thập số liệu và thống kê là rất khó khăn. Do vậy

các con số về đầu tư về nguồn vốn này chỉ là ước tính bình quân và mang tính

tương đối nhưng nó cũng có thể phản ánh tương đối chính xác về tình hình đầu

tư.

Trong tổng vốn đầu tư trong ngành nông nghiệp trong giai đoạn 1996- 2000

thì nguồn vốn này luôn chiếm tỷ trong khoảng 20 % và trong đó đầu tư từ thuỷ

lợi phí chiếm 3/4 trong số này.Ta thấy rằng nguồn vốn đầu tư trong thời kì

1996 -2000 là tương đối ổn định và không có nhiều sự biến động lớn, với số

vốn bình quân khoảng 25 tỉ đồng , trong đó năm cao nhất 1997 có giá trị vốn

đầu tư 25.85 tỉ đồng tăng hơn so với năm thấp nhất 1996 ( với vốn đầu tư 24.5

tỉ đồng ) là 5.5 %. Đi vào phân tích kĩ hơn thì nguồn vốn này được sử dụng tập

trung chủ yếu để đầu tư vào hệ thống thuỷ lợi: như kiên cố hoá kênh mương

cấp III( các kênh mương nhỏ ,trong địa bàn một xã). Nhờ có nguồn vốn này mà

nhiều công trình xây dựng được hoàn thành và hoạt động tốt phục vụ cho sản

xuất nông nghiệp . Nhưng kể từ năm 1997 trở về năm 2000 vốn đầu tư có xu

hướng giảm, năm sau thấp hơn so với năm trước; điển hình là năm 2000 có vốn đầu tư thấp nhất. đây là một dấu hiệu không tốt. Việc giảm sút này do các

công trình lớn kêu gọi được nhiều các nguồn vốn đầu tư phù hợp trong khi các công trình đầu tư nội đồng cũng đã giảm nhiều. Nhưng nguyên nhân giảm chủ yếu là do công tác thu thuỷ lợi phí và kêu gọi nhân dân đóng góp có nhiều điều

khúc mắc và bất cập khiến cho người dân không đồng tình và họ không chịu

góp vốn.Vì vậy để không ngừng nâng cao khối lượng vốn đầu tư cho những

công trình thiết thực cho sản xuất nông nghiệp, đòi hỏi các cấp chính quyền

phải rõ ràng minh bạch trong quá trình sử dụng vốn và thực hiện đầu tư. Tóm lại đây là một nguồn vốn đầu tư có nhiều tiềm năng lớn chưa được khám phá

47

và khai thác triệt để. Vì vậy thu hút và kêu gọi nhiều hơn nữa nguồn vốn này

sẽ góp phần không nhỏ vào công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hóa nông

nghiệp. Điều này đòi hỏi các cấp chính quyền tỉnh Hà Tây cần cố gắng và nỗ

lực hơn nhằm để cho người dân tin và hiểu như vậy họ sẽ đóng góp nhiều hơn

cho những chương trình đầu tư ở địa phương.

1.4 Vốn tín dụng ưu đãi.

Do đầu tư trong nông nghiệp có lợi nhuận thấp, nên không thu hút được

nhiều nhà đầu tư, mặt khác những người nông dân sống trong khu vực này chủ

yếu là những người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn vì thế họ rất thiếu vốn

sản xuất. Trong khi đó nhiều địa phương như Hà Tây lại không giàu có, cơ sở

hạ tầng cho nông nghiệp lại đang ở tình trạng xuống cấp. Do vậy bên cạnh

nguồn vốn đầu tư của nhà nước thì rất cần sự trợ giúp của ngân hàng và các tổ

chức tín dụng thông qua các chương trình cho vay vốn với lãi suất ưu đãi cùng

các điều kiện vay thuận lợi , dễ dàng. Nếu như các ngân hàng và các tổ chức tín

dụng thực hiện tốt chương trình này sẽ giúp cho người nông dân gia tăng sản

xuất và nâng cao đời sống của họ đồng thời làm cho những tiềm năng của tỉnh

Hà Tây được khai thác phục vụ cho phát triển kinh tế.

Trong tổng vốn đầu tư giai đoạn 1996 -2000 , vốn đầu tư từ tín dụng có giá

trị thấp và chiếm tỷ trọng không lớn. Cụ thể như năm 1997 là năm có khối

lượng vốn đầu tư lớn nhất , với 17.56 tỉ đồng , cũng chỉ chiếm 15.84 % trong

tổng vốn đầu tư cùng năm đó.; các năm khác thấp hơn nhiều.Không những thế

nguồn vốn đầu tư này còn giảm đi trong những năm gần đây, năm 1998 với vốn 9.36 tỉ đồng , năm 1999 với 8.36 tỉ đồng , giảm 11.69 % so với năm 1998,

còn năm 2000 thấp hơn nữa với vốn 8 tỉ đồng. Vốn đầu tư cho nông nghiệp thấp là do ngân hàng và các tổ chức tín dụng tỉnh chưa thật sự nhiệt tình trong việc giúp đỡ các hộ nông dân vốn cho sản xuất,

đồng thời các thành phần kinh tế trong tỉnh chưa năng động trong việc tìm

kiếm và phát hiện các cơ hội đầu tư để vay vốn .

Nguồn vốn đầu tư này nói chung không chỉ bao gồm ngành nông

nghiệp thuần tuý mà nó còn tính cả vốn đầu tư cho cả các ngành lâm nghiệp, thuỷ sản. Trong giai đoạn 1996 -2000 , nguồn vốn này cũng góp phần đáng kể

48

vào việc phát triển nông nghiệp và nông thôn thông qua các dự án như:dự án

chuyển dịch cơ cấu kết hợp nuôi trồng thuỷ sản du lịch ở Mĩ Đức ( vốn 11.43

tỷ đồng ) , đề án cấp nước và vệ sinh môi truờng nông thôn (vốn 3.62 tỷ đồng),

hay như dự án nâng cấp hệ thống giống cây trồng Thường tín ( vốn 1.21 tỷ

đồng).

Tóm lại , đầu tư đã đóng góp quan trọng vào quá trình công nghiệp háo

và hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Theo cơ cấu nguồn vốn đầu tư

ta thấy vốn từ ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất trong khi

cácnguồn vốn khác chưa thể hiện được vai trò của mình. Vì vậy trong thời

gian, tỉnh một mặt phải nâng cao hơn nữa hiệu quả vốn đầu tư ngân sách ,

mặt khác phải có những biện pháp chính sách nhằm huy động nhiều hơn

các nguồn vốn khác phục vụ phát triển.

2.Cơ cầu lĩnh vực đầu tư Hà Tây là một tỉnh không có tiềm lực kinh tế mạnh, phụ thuộc nhiều vào

nông nghiệp; trong khi đó các điều kiện cho phát triển nông nghiệp như cơ sở

hạ tầng, giống ... yếu kém và chưa đáp ứng được đòi hỏi của sản xuất. Vì vậy

để phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh thì tỉnh đã đầu tư nhiều cho

nông nghiệp và có định hướng đầu tư hợp lí cho những lĩnh vực cần thiết.

Bảng 6.Bảng cơ cấu đầu tư theo lĩnh vực ngành nông nghiệp.

Giai đoạn 1996 -2000

Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000

1. Đê điều Tỉ đồng

12.5 21.24 24.2 21.87 11 3.78 12.8 11.92 11.35 11.85 Tỷ trọng %

2.Trạm bơm + kênh Tỉ đồng

mương

31.449 53.45 54.91 49.62 63.07 56.07 66.92 62.33 74.956 78.25 % Tỷ trọng

3.Giống

1.088 1.85 2.7 2.45 5.75 5.11 6.2 5.77 3.34 3.49 Tỷ trọng Tỉ đồng %

1.769 3.01 3.05 2.76 4.55 4.05 3.39 3.16 1.5 1.57 4.Thú y- BVTV Tỷ trọng Tỉ đồng %

49

5.Khuyến nông Tỉ đồng

1.3 2.2 2.5 2.26 2.75 2.44 2.81 2.62 2 2.09 Tỷ trọng %

6.Tổng:(1)+(2)+(3)+ Tỉ đồng

81.76

77.45

48.106 87.12 (4)+(5)

87.364 78.96 92.12 85.8 93.146 97.25 Tỷ trọng %

7. Lĩnh vực khác Tỉ đồng

10.733 18.24 23.286 21.04 25.36 22.55 15.25 14.2 2.639 2.75 % Tỷ trọng

Tổng:(6)+(7)

110.65 100 112.48 100 107.37 100 95.785 100 58.839 100 Tỉđồng % Tỷ trọng

( Nguồn : Báo cáo kết quả thực hiện đầu tư XDCB . giai đoạn 1996-2000)

Trong việc thống kê đầu tư ở Hà Tây còn chưa thật hệ thống và chính xác

,ngoài ra còn có nhiều dự án của nhiều lĩnh vực chưa được thống kê đầy đủ

nên các con số trên chỉ là tương đối . Các lĩnh vực đầu tư khác bao gồm : đầu

tư cho vệ sinh môi trường ,nước sạch nông thôn . .. trong việc phân tích ta chủ

yếu sử dụng số liệu dòng (1) đến dòng (6) .

Qua bảng 6; ta thấy rằng tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp theo cơ cấu lĩnh

vực đầu tư ở dòng (6) là không ngừng gia tăng và với tốc độ khá cao .Cụ thể

năm 1997 cao hơn năm 1996 là 81,6% ,năm 1999 cao hơn năm 1997 và cả năm

1998 , tốc độ tăng vốn đầu tư 1999 so với 1998 là 5.4%. Còn năm 2000 là năm

cao nhất của giai đoạn 1996 -2000 có tổng vốn đầu tư 93.146 tỉ đồng ,nó cao

gấp 1.95 lần năm 1996 và vốn đầu tư tăng hơn năm1999 là 1.11 %. Vốn đầu tư

trong thời kỳ này tăng do nhà nước đầu tư cho hệ thống đê điều trên địa bàn

tỉnh nhằm nâng cấp cải tạo khi chúng đã có biểu hiện xuống cấp . Đồng thời

cùng với tỉnh nhân dân trong các huyện nâng cấp hệ thống thuỷ lợi : các trạm

bơm ,kênh mương ...nhằm đáp ứng tưới tiêu và ổn định sản xuất nông nghiệp.

Trong các lĩnh vực đầu tư , đầu tư cho đê điều luôn chiếm một vị trí ổn

định và chiếm tỷ trọng cao ,năm cao nhất 1997 chiếm tới 21.87% .Đầu tư cho

lĩnh vực đê điều là ổn định là bởi lẽ tỉnh Hà Tây có nhiều sông ,đặc biệt là sông

Hồng ,sông luôn có lượng nước thất thường và nguy hiểm .Tuy nhiên đầu tư cho đê điều nói chung không tác động trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp .Đầu tư này góp phần an toàn hệ thống đê ,để nhân dân trong toàn tỉnh ,các ngành

50

kinh tế, không riêng gì nông nghiệp được yên tâm sản xuất và kinh doanh .Do

vậy mức đóng góp của nó không cao cho sản xuất nông nghiệp nhưng vẫn

được tính vào đầu tư cho nông nghiệp .

Đáng kể nhất là vốn đầu tư cho hệ thống trạm bơm và kênh mương . Nguồn

vốn đầu tư từ nguồn này khá đa dạng : vốn ngân sách nhà nước và ngân sách

địa phương ,dân góp ,thuỷ lợi phí... Vốn đầu tư cho lĩnh vực này luôn chiếm

một tỷ lệ cao thậm chí là rất cao trong tổng vốn đầu tư ,ví dụ như : năm1996 (

vốn đầu tư 31.449 tỉ đồng) chiếm 53.45%, năm 1998( vốn 63.07 tỉ đồng) là

56.07% ,năm1999 ( vốn 66.92 tỉ đồng )là 62.33% và đến năm 2000 là năm

cao nhất, với vốn đầu tư 74.956 tỉ đồng, chiếm 78.25%. Qua tỷ lệ trên ta thấy,

nó đóng góp vai trò quan trọng vào quá trình phát triển nông nghiệp .Đầu tư

cho hệ thống kênh mương là chính sách khá hợp lý của tỉnh . Bởi kênh mương

các loại :cấp1, cấp 2, cấp 3 ở tỉnh đã xuống cấp .Trong khi đó đòi hỏi tưới tiêu

cho hệ thống nông nghiệp ngày càng cao. Nâng cấp hệ thống kênh mương là

điều tất yếu .

Đi sâu vào các năm ta thấy : năm 1996 vốn đầu tư khá lớn ,đến năm1997 hơn

năm 1996 là 74.6% ,năm 1998 tăng 14.86% so với 1997,năm 1999 tăng 6.1%

so với năm 1998 và năm 2000 tăng 19.92% so với năm 1999. Như vậy ,giai

đoạn 1997 -2000 vốn đầu tư cho trạm bơm và kênh mương tăng mạnh và ở

mức cao . Bởi trong giai đoạn này tỉnh đầu tư mạnh cho hệ thống các trạm bơm

Phụng Châu ,Gia Khánh và hệ thống tưới tiêu Đồng Mô. Và đặc biệt là nhiều

công trình do trung ương cấp vốn như nâng cấp và cải tạo hệ thống sông Nhuệ , công trình hồ Quan Sơn ,cống Bến Mắm (Sơn Tây)...

Đây là những công trình trọng điểm và liên quan trực tiếp đến đời sống kinh tế- xã hội của tỉnh ,các trạm bơm còn cần cho sản xuất nông nghiệp...Do vậy đầu tư cho lĩnh vực này là thích đáng .

Ngoài ra các lĩnh vực khác như giống, thú y ,bảo vệ thực vật cũng được

quan tâm đầu tư nhưng chúng lại có vốn khá nhỏ chiếm tỷ trọng thấp ,vốn đầu

tư chủ yếu lấy từ ngân sách tỉnh và thuế nông nghiệp ... Tuy vậy ta nhận thấy

đầu tư cho các lĩnh vực này là khá ổn định và ít biến động . Đầu tư ít không có nghĩa là có vai trò nhỏ, mà những lĩnh vực này góp phần tạo ra một nền sản

51

xuất mới với nhiều giống cây trồng vật nuôi mới với những phương thức sản

xuất tiên tiến . Trong khi các lĩnh vực này chủ yếu từ nguồn thuế nông nghiệp

và do đã phân tích ở phần thuế nông nghiệp nên ta không đi sâu phân tích thêm

bởi chúng không có sự khác biệt nhiều .Do nguồn đầu tư như vậy nên đây là

điều đáng lo ngại bởi tỉnh thiếu các các doanh nghiệp đầu tư cho giống nông

nghiệp nhằm đưa giống tư nơi khác về nhằm bán cho người dân hoặc tự đầu tư

cho mình.

Kết Luận, Đầu tư nông nghiệp Hà Tây theo cơ cấu lĩnh vực là tương đối

toàn diện và khá hợp lí nhưng tỉnh cũng đã đầu tư vào nhưng lĩnh vực trọng

điểm ,cần thiết nhất cho nông nghiệp .Trong thời gian tới tỉnh nên có những

chính sách để thu hút đầu tư cho công nghệ sinh học để phát triển những loại

giống mới tốt hơn.

3.Theo cơ cấu lãnh thổ.

liên quan chặt chẽ và rất khó phân chia rõ ràng vốn đầu tư cho từng huyện

như : dự án cải tạo sông Nhuệ( đây là con sông chảy qua nhiều vùng trong tỉnh)

, hay nhiều công trình về đê điều; mặt khác việc thống kê và thu thập số liệu về

vốn đầu tư của các nguồn khác nhau cho từng huyện thị là rất khó. Cho nên để

có thể tìm hiểu phần nào về cơ cấu đầu tư của vùng lãnh thổ, nên ta chỉ có thể

sư dụng vốn đầu tư ngân sách địa phương và từ thuế nông nghiệp

52

Bảng7 .Bảng cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ từ nguồn vốn ngân sách địa

phương và thuế nông nghiệp .Giai đoạn 1996 -2000 Đơn vị : Triệu đồng

1997 230 4000

1600 2900 2380

120 - - - - - - - 200 1.Hà Đông 2. Sơn Tây 3. Chương Mĩ 4. Thường Tín 5. Quốc Oai 6. Thạch Thất 7. Thanh Oai 8. Ba Vì 9. Ứng Hoà 10. Đan Phượng 11. Phúc Thọ 12. Hoài Đức 13. Mĩ Đức 14. Phú Xuyên 1996 439 - 1365 1000 - - - - 144 - - - - - 1998 - 1000 1450 3205 3620 620 1120 1900 - 120 - 120 - 605 1999 1400 1600 1200 1300 400 - 700 800 900 2000 2500 700 900 500 2000 2090 750 500 - - 250 2000 1100 3800 - - - 4000 500

53

Tổng 13500 14900 13660 14490

2948 Kí hiệu: - không có vốn đầu tư ( Nguồn: Kế hoạch đầu tư cho các ngành kinh tế hàng năm của tỉnh Hà Tây cho các ngành kinh tế giai đoạn 1996 - 2000) Có thể thấy đầu tư của tỉnh Hà Tây cho nông nghiệp phân bố tương đối

đồng đều cho 12 huyện và 2 thị xã. Nguồn vốn này tuỳ theo nhu cầu của

ngành nông nghiệp từng vùng mà có những kế hoạch đầu tư cần thiết. Do vậy

vốn đầu tư của từng năm cho mỗi huyện thị là khá biến động và không ổn định

mặt khác tính chất dự án và kiểu đầu tư cho các vùng không giống nhau.

Hai thị xã Hà Đông và Sơn Tây, các dự án tập trung đầu tư cho xây dựng

trụ sở hoặc cho hệ thống thú y và bảo vệ thực vật( Các trung tâm thú y và bảo

vệ thực vật của tỉnh thường đóng ở hai thị xã này).Hai nơi này chủ yếu phát

triển công nghiệp và dịch vụ trong khi nông nghiệp thì kém phát triển và không

được chú trọng đầu tư. Như Hà Đông , tổng vốn đầu tư cả giai đoạn 1996 -

2000 là 4159 triệu đồng. Riêng Sơn Tây có thêm dự án tưới tiêu hạ du Đồng

Mô( tổng

vốn đầu tư 5000triệu đồng ) nên vốn đầu tư cao hơn.

Nhưng có lẽ nơi có được nhiều vốn đầu tư nhất là các huyện nông nghiệp.

Bởi vốn đầu tư cho nông nghiệp của tỉnh lại tập trung nhiều cho hệ thống

trạm bơm và kênh mương để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các huyện như

Chương Mĩ , Quốc Oai, Đan Phượng, Thanh Oai là những vùng sản xuất nông

nghiệp trọng điểm của tỉnh . Những huyện này đóng góp không nhỏ vào giá trị

sản xuất nông nghiệp . Mặt khác hệ thống cơ sở hạ tầng ở đây là đã tương đối

xuống cấp và lạc hậu ,nên việc tưới tiêu vẫn chưa chủ động ,do vậy cần phải đầu tư xây dựng cho các trạm bơm ,kênh mương như các dự án : trạm bơm

Cộng Hoà ở Quốc Oai có số vốn là 2280 triệu đồng (năm 1997) ; dự án trạm bơm tưới tiêu Phụng Châu ở Chương Mỹ với vốn 1430 triệu đồng (trong 2 năm 1997- 1998 ) ; dự án kênh nội đồng cấp 1 ở Đan Phượng có vốn 2000 triệu

đồng (năm1999) ; dự án trại giống lợn Thanh Hưng ở Thanh Oai có vốn 2000

triệu đồng (năm 2000) .Đây là các dự án lớn và chủ yếu .Nguồn vốn của các

huyện này sẽ giúp cho sản xuất nông nghiệp phát triển hơn ,năng suất và chất

lượng ở mức cao hơn . Nhưng nhìn chung vốn cho các huyện này thay đổi

54

,năm tăng,năm giảm . Và vốn đầu tư không những cho trạm bơm và kênh

mương mà còn cho cả các trạm nhân giống ,để phục vụ chung cho các huyện

và cả tỉnh .

Có thể nói huyện được đầu tư nhiều nhất là huyện Thường Tín với vốn đầu

tư cả giai đoạn 1996- 2000 là 8303 triệu đồng. Huyện Thường Tín là một

huyện có địa hình trũng trong tỉnh và có nền nông nghiệp khá phát triển . Do

vậy tỉnh tập trung đầu tư cho hệ thống trạm bơm và kênh mương để phát triển

thuỷ lợi và tưới tiêu ,như dự án : trạm bơm tiêu Gia Khánh với tổng vốn đầu tư

6000 triệu đồng .

Các huyện còn lại như Ba Vì ,Phú Xuyên ... là những huyện có diện tích đồi

núi lớn cho nên nông nghiệp không thể phát triển mạnh được nên nhu cầu về

vốn đầu tư rất thấp .

Xét theo cơ cấu lãnh thổ thì đầu tư của tỉnh là tương đối khoa học và hợp lý .

Đầu tư đã đi vào trọng điểm và từng vùng .

Còn tính theo từng năm ta thấy vốn đầu tư của tỉnh cho nông nghiệp là không

ngừng gia tăng ,năm sau thường cao hơn năm trước . Năm 1996 chỉ là 2948

triệu đồng thì đến các năm sau đã tăng vọt , như năm 1997 là 13500 triệu đồng

,tăng rất cao so với năm 1996 ; năm 1998 cao hơn năm1997 và năm 1999 là

năm cao nhất với vốn đầu tư 14980 triệu đồng ,năm này còn đầu tư cho nhiều

dự án quan trọng và đầu tư trên diện rộng . Năm 2000 có giảm đi đôi chút

nhưng vẫn ở mức cao .

Tóm lại đầu tư đã góp phần phát triển toàn diện nông nghiệp Hà Tây trên các huyện thị .

Kết Luận : Đầu tư cho nông nghiệp tỉnh Hà Tây đã có sự phát triển vượt bậc , góp phần quan trọng vào sự phát triển của ngành và của toàn tỉnh .

IV. Kết quả và hiệu quả đầu tư vào nông nghiệp tỉnh Hà Tây

1. Kết quả đầu tư

55

1.1 Những ảnh hưởng chung tới sự phát triển kinh tế toàn tỉnh Nhờ những công cuộc đầu tư đạt những thành công trong lĩnh vực nông

nghiệp nên ngành nông nghiệp tỉnh Hà tây có những sự phát triển mạnh mẽ.

Trong khi đó, Hà Tây lại là một tỉnh mà có quá trình phát triển kinh tế xã hội

và đời sống của đại bộ phận lớn dân cư phụ thuộc rất nhiều vào ngành nông

nghiệp. Khi ngành nông nghiệp phát triển thì sẽ đóng vai trò quan trọng đưa

nền kinh tế đi lên. Để xem xét ảnh hưởng của đầu tư nông nghiệp tới kinh tế

tỉnh thì ta có thể xét tới chỉ tiêu GDP của toàn tỉnh và tốc độ tăng trưởng của

các tỉnh trong thời gian qua.

Bảng8. Bảng tổng sản phẩm toàn tỉnh ( GDP ) .

4977.2 14.24 1997 5301.9 6.5 1998 6095.7 14.97 1999 6755.0 10.81 2000 7540 11.62 GDP Tốc độ tăng trưởng GDP Đơn vị 1996 Tỉ đồng %

( Nguồn: Biểu số liệu kèm theo báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội nhiệm

kì 1996 - 2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 tỉnhHà Tây )

Như vậy, Hà Tây có tốc độ tăng giá trị tương đối cao, năm sau luôn giữ một

giá trị cao hơn so với năm trước. Trong đó năm có giá trị GDP cao nhất là năm 2000 với giá trị 7540 tỉ đồng. Những thành công này là một điều đáng mừng cho toàn tỉnh.Những dự án đầu tư vào nông nghiệp đúng trọng điểm, đúng nơi và luôn hiệu quả đã tạo ra cho ngành nông nghiệp một cơ sở hạ tầng hiện đại,

những giống cây trồng vật nuôi mới , những phương thức làm kinh tế hiện đại

56

đã góp phần làm cho ngành nông nghiệp đi lên, từ đó góp phần thúc đẩy kinh

tế toàn tỉnh , Do vậy trong thời kì này tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao

lên đến14.97%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước

khoảng 6%. Như vậy Hà Tây là tỉnh có sự phát triển kinh tế khá cao trong cả

nước. Năm đầu của giai đoạn là năm 1996 có tốc độ tăng trưởng rất cao với

14,2%. Đến năm 1997 Hà Tây có tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp nhất , với 6.5

%. Năm 1997 mặc dù tỉnh đầu tư khá cao vào nông nghiệp nhưng tỉnh vẫn có

tốc độ tăng trưởng thấp là do ảnh hưởng của tình hình suy giảm kinh tế chung

trong cả nước và những dự án đầu tư trong năm này chưa phát huy tác dụng và

mới đi vào hoạt động. Các năm tiếp theo,đầu tư đều tăng và nhiều thành quả

đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng nên có tốc độ tăng trưởng cao năm nào cũng

trên 10 % . Cùng với tăng trưởng GDP cao nên đời sống nhân dân trong tỉnh

không ngừng được cải thiện, giáo dục đào tạo, y tế được nâng lên, đặc biệt là

đời sống của những người nông dân nâng cao rõ rệt, giảm hộ đói nghèo... Như

vậy đầu tư trong ngành nông nghiệp đã góp phần quan trọng cho sự thành công

kinh tế tỉnh.

1.2.Đối với sản xuất nông nghiệp

Với sự quan tâm của nhà nước, của tỉnh uỷ , UBND tỉnh và của toàn dân

cho ngành nông nghiệp, nên thời gian này ngành đã phát triển không ngừng và

vững chắc. Tuy nhiên, những thành công của các công cuộc đầu tư: như đầu tư

đúng hướng, đúng trọng điểm, đúng lĩnh vực và có hiệu quả cao... mới chính là

nhân tố quyết định tới ngành công nghiệp, một sự phát triển tương đối toàn diện và với tốc độ cao. Có thể nói giai đoạn 1996 - 2000 là thời kì mà nông

nghiệp tỉnh Hà Tây nhận được sự đầu tư mạnh nhất và rông nhất của nhà nước , của tỉnh so với các giai đoạn trước đó. Chính vì vậy mà sản xuất nông nghiệp phát triển, năng suất cây trồng vật nuôi không ngừng tăng lên , chất lượng nông

sản nâng cao rõ rệt...Vì vậy mà ngành nông nghiệp có những bước tiến vượt

bậc. Ta thấy rằng giá trị sản xuất nông nghiệp ( GO)theo giá cố định năm 1994

tỉnh là không ngừng gia tăng.

Bảng 9. Bảng giá trị sản xuất nông nghiệp ( GO )

57

Giai đoạn 1996 -2000

Đơn vị : tỉ đồng

Năm 1996 1997 1998 1999 2000

Giá trị sản xuất(GO) 2671 2662.4 2861.8 3102.0 3226.1

( Nguồn: Biểu số liệu kèm theo báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội nhiệm

kì 1996 - 2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 tỉnhHà Tây )

Như vậy , ta thấy rằng giá trị sản xuất nông nghiệp trong thời gian

những năm qua là không ngừng tăng lên. Năm nào giá trị sản xuất của nông

nghiệp của Hà Tây cũng cao hơn năm trước nó( chỉ trừ năm 1997 là không

tuân theo xu hướng này ).Trong thời kì 1996 - 2000 ngành nông nghiệp tỉnh

Hà Tây có tốc đọ tăng trưởng khá cao với bình quân là 5.5 %. Như vậy ta thấy

phần nào được sự ảnh hưởng của những công cuộc đầu tư tới sản xuất nông

nghiệp. Tuy nhiên để thấy rõ hơn nữa hiệu quả của đầu tư trong nông nghiệp,

ngoài chỉ tiêu GO ,ta sử dụng chỉ tiêu GDP ngành nông nghiệp (theo giá hiện

hành) và tỉ trọng của GDP này trong tổng GDP của toàn tỉnh

Bảng 10. Bảng tổng sản phẩm ngành nông nghiệp ( GDP) tỉnh Hà Tây.

Giai đoạn 1996 -2000.

Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000

47.38

41.38

43.05

41.82

41.00

GDP nông nghiệp Tỉ đồng 2385.1 2172.3 2599.7 2808.0 3090

%

Tỉ trọng trong GDP toàn tỉnh

( Nguồn: Biểu số liệu kèm theo báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội nhiệm kì

1996 - 2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 tỉnhHà Tây ) Qua bảng GDP toàn tỉnh và GDP ngành nông nghiệp, ta thấy rằng năm

1997 là năm mà không chỉ ngành nông nghiệp mà toàn nền kinh tế Hà Tây đều

58

có giá trị thấp nhất.Đi sâu vào phân tích ngành nông nghiệp,năm 1997 có giá

trị thấp thì thấy trong bảng 4 năm 1997 có vốn đầu tư lớn trong khi đó năm

1996 các năm trước đó giá trị đầu tư cho nông nghiệp là rất thấp. Như vậy tại

năm 1997, vốn đầu tư của năm này chưa phát huy tác dụng( do đầu tư có độ

trễ ), còn các năm trước đó đầu tư kém và hiệu quả không cao. Các năm sau

đó do tỉnh kịp thời có các chính sách và biện pháp về đầu tư và khuyến khích

sản xuất nông nghiệp nên nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp tăng lên, từ đó

làm cho GDP ngành nông nghiệp các năm 1998 ,1999, 2000 tăng lên rõ rệt. Cụ

thể ,so với năm 1997; năm 1998 tăng 19.67 %, năm 1999 tăng hơn năm 1998 là

8.01 %, năm 2000 có tốc độ tăng so với năm 1999 là 10 % và năm có giá trị

cao nhất.

Còn xét về tỉ trọng trong GDP toàn nền kinh tế của tỉnh thì GDP ngành

nông nghiệp luôn chiếm một vị trí quan trọng, và chiếm phần lớn nhất, thể hiện

năm nào cũng chiếm tỉ trọng trên 40%. Tuy nhiên, tỉ trọng này có xu hướng

giảm dần theo thời gian, như năm 2000 có giá trị GDP cao nhất lại có tỉ trọng

thấp nhất trong GDP toàn tỉnh với 41%. Nền kinh tế tỉnh Hà Tây vẫn phụ

thuộc vào sản xuât nông nghiệp và đây vẫn là ngành kinh tế chính nhưng tỉnh

đã chú trọng đầu tư phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ để thúc đẩy phát

triển kinh tế. Đây là một tín hiệu không vui cho ngành nông nghiệp nhưng nếu

xét toàn nền kinh tế Hà Tây thì lại đáng mừng.

Tóm lại, nông nghiệp Hà Tây nhờ có những công cuộc đầu tư hiệu quả , kịp

thời nên nó đã có sự phát triển không ngừng trong thời gian qua. 1.3Tác động đến cơ cấu ngành nông nghiệp.

Nhìn vào cấu đầu tư theo lĩnh vực , đầu tư cho nông nghiệp tỉnh Hà Tây , đầu tư cho ngành thuỷ lợi chiếm tỉ trọng lớn, thuỷ lợi phát triển thì ngành trồng trọt sẽ có lợi hơn trong việc phát triển sản xuất. Tuy nhiên ngành

chăn nuôi cũng được đầu tư không kém và được tỉnh định hướng phát triển do

nó có tốc độ tăng trưởng cao nên ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong sản

xuất ngành nông nghiệp. Ta sẽ biết rõ hơn về kết quả đầu tư thông qua cơ cấu

ngành nông nghiệp.

Bảng 11.Bảng giá trị sản xuất nông nghiệp theo cơ cấu lĩnh vực.

59

1996 Đơn vị 1997 1998 1999 2000

Trồng trọt Tỉ đồng

1840 68.9 1777.8 66.7 1952.4 68.22 1980.3 66 2102.1 65.16 Tỷ trọng %

Chăn nuôi Tỉ đồng

774 28.9 828.1 31.1 853.3 29.8 961.6 32 1063.4 32.96 Tỷ trọng %

Dịch vụ Tỉ đồng

57 2.2 56.5 2.2 56.1 1.98 60.1 2 60.6 1.88 Tỷ trọng %

Tỉ đồng

2671 100 2662.4 100 2861.8 100 3102.0 100 3226.0 100 Tổng số Tỷ trọng %

( Nguồn: Biểu số liệu kèm theo báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội nhiệm kì

1996 - 2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 tỉnhHà Tây )

Như đã nói , giá trị sản xuất nông nghiệp tỉnh Hà Tây tăng khá. Trong

cả ngành nông nghiệp thì cả lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi đều có sự tăng

trưởng trong những năm qua. Nếu xét về cơ cấu thì tỉ trọng ngành chăn nuôi có

giá trị khá thấp so với ngành trồng trọt. Nhưng nó lại có vị trí ngày càng cao

trong giá trị sản xuất nông nghiệp. Như năm 1996, mới chiếm có 28.9 %, đến

năm 1999 là 32%, năm 2000 chiếm 32.9 %. Chăn nuôi chiếm tỉ trọng cao thể

hiện việc chú trọng đầu tư của tỉnh cho chăn nuôi: như đầu tư cho hệ thống

giống lợn, bò sữa, hệ thống bảo vệ thú y... là thành công cho kết quả tốt, và với

cơ cấu này chứng tỏ Hà Tây đang xây dựng cho mình một nền nông nghiệp

ngày càng hiện đại.

Ta sẽ xem xét kết quả cụ thể trong từng ngành

 Ngành trồng trọt. Nhìn chung ngành này có tốc độ tăng trưởng tương đối chậm, nhưng

cụ thể của từng loại cây trồng là khác nhau. Hệ thống kênh mương, trạm bơm,

giống những yếu tố cần thiết cho sản xuất nông nghiệp được tỉnh đầu tư

mạnh , sản xuất của ngành trồng trọt chịu tác động của những dự án đầu tư

này nên thu được những thành tựu khả quan .

Bảng 12.Bảng sản lượng lương thực qui thóc

Giai đoan 1996 - 2000

Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000

60

Triệu tấn Thóc

679.26 -7.25 692.26 1.91 823.97 34.77 876.6 4.68 877 0 Tốc độ tăng trưởng %

Triệu tấn Mầu

117.08 29.41 103.16 -11.88 93.86 -9.01 110.06 17.25 123 11.76 Tốc độ tăng trưởng %

Triệu tấn Tổng

796.34 -4.53 795.42 -0.12 917.83 15.39 986.66 7.5 1000 1.35 độ tăng % Tốc

trưởng

( Nguồn: Biểu số liệu kèm theo báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội nhiệm kì

1996 - 2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 tỉnhHà Tây )

Như vậy, sản lượng lương thực qui thóc của ngành là không ngừng tăng

lên, tốc độ tăng khá cao, với giá trị sản lượng lớn.Điều này cho thấy ngành

trồng trọt có một bước tiến khávà đảm bảo được nhu cầu vê lương thực cho

toàn tỉnh. Kết quả này cho thấy cây lúa không còn là cây độc canh mà tỉnh đã

đa dạng hoá cây trồng, với các loại cây khác đã từng bước khởi sắc.Cụ thể các

loại cây lương thực chủ yếu của tỉnh có sự thay đổi sau.

Bảng 13. Bảng sản lượng một số cây lương thực chủ yếu

Đơn vị: triệu tấn

Năm 1996 1997 1998 1999 2000

Sản lượng lúa 679.26 692.26 823.97 876.6 877

Sản lượng ngô 65.935 63.45 59.716 69.161 70.08

Sản lượng lạc 5.743 4.976 5.397 5.4 6.014

Sản lượng đâu 9.432 11.355 15.724 17.5 6.761

61

tương

( Nguồn: Biểu số liệu kèm theo báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội nhiệm kì

1996 - 2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 tỉnhHà Tây )

Qua bảng 13, ta thấy là các loại cây như ngô, lạc đậu tương.. đều tăng sản

lượng , chứng tỏ các công cuộc đầu tư có ảnh hưỏng mạnh tới sản xuất . Để cụ

thể hơn ta lấy cây lúa,sản lượng lúa không ngừng tăng lên; không những thế

năng suât lúa cũng tăng rõ rệt.. Năm 1996 năng suất chỉ là 41.61 tạ/ha, năm

1997 là 41.56 tạ.ha, và đã tăng lên tới 49.12 tạ/ha năm 1999, còn đến năm 2000

thì lên khá cao với 54.95 tạ/ha. Như thế , ta thấy hiệu quả lao động của người

nông dân tốt hơn trước.Có được kết quả như vậy là do tỉnh đầu tư cho hệ thống

tưới tiêu, cho việc phát hiện những loại giống mới.

Tóm lại, ngành trông trọt của tỉnh có những bước chuyển biến tích cực, cả

năng suất và chất lượng nhiều cây trồng đều tăng cho thấy đầu tư của tỉnh là

khá hiệu quả

 Ngành chăn nuôi Đây là ngành trong tương lai sẽ chiếm một vị trí then chốt trong sự phát

triển ngành nông nghiệp. Chăn nuôi tỉnh Hà Tây có những bước tiến dài và

vững chắc.

Bảng 14. Bảng số lượng gia súc gia cầm.

Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000

Đàn trâu Con

43274 -8.47 40425 -6.58 37149 -8.1 36211 -2.52 34000 -6.1 Tốc độ tăng trưởng %

Đàn bò Con 96585 96664 91247 89358 94000

62

0.98

0.08

-5.6

-2.07

5.19

Tốc độ tăng trưởng

Đàn lợn Con

716381 5.34 751437 4.89 800877 6.58 830757 3.73 900000 8.33 Tốc độ tăng trưởng %

Thịt lợn hơi suất Tấn 57317 63024 68693 75286 75300

Chuồng

11.78 9.96 8.99 9.6 0.018 Tốc độ tăng trưởng %

7700 Gia cầm Nghìn 6736 6880 7093 7405

con

15.96 2.14 3.09 4.4 3.98 Tốc độ tăng trưởng %

( Nguồn: Biểu số liệu kèm theo báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội nhiệm kì

1996 - 2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001- 2005 tỉnhHà Tây )

Số lượng các loại gia súc gia cầm của tỉnh thay đổi hàng năm và có sự

biến động theo xu hướng có lợi cho ngành nông nghiệp. Đàn trâu có số lượng

giảm là điều hợp lí bởi ngành nông nghiệp được cơ giới hoá nên không có nhu

cầu dùng sức kéo của con trâu . Tuy nhiên đàn bò lại thay đổi thất thường,

trong khi tỉnh Hà Tây rất thuận lợi cho chăn nuôi bò sữa, như vậy tỉnh chưa có

chính sách đầu tư thoả đáng.Nói chung, kết quả của đầu tư thể hiện qua đàn lợn

của tỉnh, giai đoạn này tỉnh khuyến khích nông dân nuôi lợn thịt, đồng thời đầu

tư cho trại lợn giống Thanh Hưng.. do vậy mà số lợn tăng, không những thế mà

khối lượng thịt xuất chuồng cũng tăng cao với bình quân là 8%. Tỉnh có đàn

lợn phát triển cho thấy nền nghiệp tỉnh có chuyển biến theo hướng tiến dần tới

sản xuất hàng hoá và khai thác hiệu quả những thế mạnh của mình.Kết quả này

chứng minh ngành chăn nuôi của tỉnh đã phát huy tốt vai trò của mình, là

ngành mũi nhọn.

Tóm lại , những tín hiệu đáng mừng của ngành nông nghiệp là minh chứng rõ

cho kết quả của những công cuộc đầu tư. Đầu tư vẫn là nhân tố quyết định cho

sự phát triển ngành nông nghiệp tỉnh Hà Tây

1.4 Đối với hệ thống thuỷ lợi.

Trong thời gian này ,có thể nói hệ thống thuỷ lợi là được tỉnh chú trong đầu tư nhất . Những kênh mương, trạm bơm không ngừng được nâng cấp và cải thiện. Thuỷ lợi phát triển sẽ đáp ứng nhu cầu tưới tiêu cho các vùng sản

63

xuất đồng thgời cũng giải quyết tình trạng ngập úng cho nhiều địa phương.Các

công cuộc đầu tư đã được thực hiện tốt và ngày càng hiệu quả đã giúp cho

ngành thuỷ lợi thực hiện được yêu cầu này

Bảng 15. Bảng diện tích tưới . Giai đoạn 1996 - 2000

Đơn vị: ha

Tưới 1996 1997 1998 1999 2000

Tưới chủ động 75430 78360 79150 79450 80010

Tưới chưa chủ động 8080 5270 4800 4500 4280

Tưới chưa có công trình 1520 1370 1050 1050 1030

(Nguồn : Báo cáo kết quả thực hiện XDCB nông nghiệp Hà Tây ( 1996 - 2000)

Trong giai đoạn 1996 -2000, diện tích tưới tiêu chủ động là ngày càng

tăng , nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng diện tích tưới cho ngành nông nghiệp.

Trong khi đó diện tích tưới chưa chủ động giảm đi và càng ngày càng ít những

diện tích tưới mà chưa có công trình .Như vậy ta thấy rõ ảnh hưởng của những

công cộng đầu tư tới sản xuất nông nghiệp thông qua diện tích tưới tiêu.

Trong những năm qua diện tích tưới chủ động tăng khá đều. Năm 1997 tăng

3.69 % so với 1996, 1998 tăng 1 % so với 1997. Đến năm 2000, diện tích tưới

chủ động là 80010 ha, tăng 0.7% so với năm 1999( diện tích tưới :79450 ha

).Như vậy tốc độ tăn diện tích tưới chủ động giảm dần do diện tích để trồng trọt

có hạn không thể tăng cao được, nhưng bù lại chất lượng tưới tiêu lại rất tốt và

kịp thời.

Bên cạnh hệ thống tưới tiêu hệ thống trạm bơm cũng giải quyết nạn ngập

úng ở nhiều vùng thấp trong tỉnh. Sản xuất nông nghiệp chỉ có thể đạt kết quả

cao khi không thiếu nước cũng như không được thừa nước. Các trạm bơm ,

kênh mương sẽ góp phần quan trọng trong việc tiêu thoát nước cho các nơi

thấp.

Bảng 16 .Bảng tình hình ngập úng của nông nghịêp Hà Tây( 1996 -2000)

Đơn vị:ha

64

1996 1997 1998 1999 2000

Lượng mưa 200-300 ly 20000 16000 10000 8000 7300

Lượng mưa 300-400 ly 45000 35000 30000 25000 22500

(Nguồn: Chương trình an toàn đê điều Hà Tây 1996-2000)

Ta thấy rằng tình hình ngập úng của tỉnh Hà Tây được cải thiện đáng kể

trong những năm vừa qua. Dù với lượng mưa nào thì với hệ thống thuỷ lợi tốt

và khá hiện đại ,diện tích bị ngập úng đều giảm đi rõ rệt, từ đó làm tăng diện

tích trồng trọt và góp phần quan trọng cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp.

Tóm lại, đầu tư đã làm cho hệ thống thuỷ lợi Hà Tây chủ động trong việc

tưới tiêu, ổn định lượng nước của từng vùng từng thời gian.

2. Hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp. Như đã trình bày, để tính hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp, ta có thể sử

dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau như: GDP /Vốn đầu tư, số việc làm tăng thêm,

lợi ích kinh tế xã hội...Tuy nhiên trong ngành nông nghiệp Hà Tây, việc thu

thập số liệu, và thống kê gặp rất nhiều khó khăn cho nên tính nhiều chỉ tiêu khó

thực hiện được hiện .Vì vậy để tính hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp tỉnh ta

sẽ sử dụng một số chỉ tiêu tiêu biểu sau để xem xét.

2.1 Chỉ tiêu GDP/ GO

Bảng 17.Bảng GO/GDP nông nghiệp

Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000

GO Tỉ đồng 2671.4 2662.5 2861.8 3102 3226.1

GDP Tỉ đồng 1945.9 1956.2 2116.9 2228.2 2351.2

GDP/GO lần 0.738 0.734 0.74 0.72 0.73

Trong đó: + GO: giá trị sản xuât nông nghiệp( theo giá cố định 1994)

+GDP: tổng sản phẩm ngành nông nghiệp( theo giá cố định 1994)

GDP = GO - chi phí trung gian Ta thấy rằng tỷ lệ GDP/ GO của tỉnh Hà Tây là tương đối cao, với mức

bình quân trên 0.7 lần. Về mặt lí thuyết , tỉ lệ này càng gần một càng tốt( tức

chi phí trung gian giảm tối thiểu), tỉ lệ GDP /GO của nông nghiệp Hà Tây như

65

vậy là rất tốt. Chứng tỏ các thành quả của công cuộc đầu tư tỉnh Hà Tây đã

phục vụ trực tiếp cho sản xuất, giảm được những chi phí trung gian không cần

thiết. Qua đó có thể nói rằng đầu tư nông nghiệp của tỉnh là khá hiệu quả

2.2Chỉ tiêu GDP / Vốn đầu tư

Bảng chỉ tiêu GDP/ Vốn đầu tư

Năm 1996 1997 1998 1999 2000

GDP/ vốn đầu tư 40.08 19.63 23.11 26.15 32.26

Trong đó:

+ GDP ngành nông nghiệp tính theo giá hiện hành

+ vốn đầu tư: tổng vốn đầu tư ngành nông nghiệp trong từng năm

Qua bảng ta có thể thấy rằng tỉ lệ GDP / vốn đầu tư của nông nghiệp Hà

Tây là tương đối cao . Nó cho biết tỉ lệ tương ứng giữa GDP và vốn đầu tư:

GDP gấp bao nhiêu lần vốn đầu tư của cùng năm đó và cũng cho biết mức độ

tiết kiệm của nền kinh tế và hiệu quả của đồng vốn đầu tư của tỉnh. Nếu tỉ lệ

tích luỹ và tiết kiệm của nền kinh tế cao(tức là mức tiết kiệm của nền kinh tế

bằng 30- 35 % GDP,nếu đảo ngược lại nghĩa là GDP gấp 3,4 lần mức tích luỹ

tiết kiệm(hay vốn đầu tư )). Như vậy ta thấy mức độ tiết kiệm trong nông

nghiệp của Hà Tây không cao, rất thấp .

2.3 Chỉ tiêu GDP tăng thêm/ Vốn đầu tư

1996 1997 1998 1999 2000 Năm

GDP tăng thêm / vốn 3.8 -1.9 3.8 1.94 2.94

đầu tư

Trong đó: (GDP nông nghiệp: tính theo giá hiện hành)

GDP tăng thêm = GDP năm sau - GDP năm trước nó Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn đầu tư tạo ra bao nhiêu đồng GDP. Chỉ

tiêu này của nông nghiệp Hà Tây biến đổi khá thất thường. Năm 1997, do nền

kinh tế tỉnh suy thoái so với năm 1996 nên GDP tăng thêm âm, nên chỉ tiêu

trên cũng có giá trị âm. Hai năm 1996,1998 , chỉ tiêu trên có giá trị khá cao,

66

còn năm 1999, 2000 lại giảm đi. Thông thường trong nền kinh tế Việt Nam, tỉ

lệ này là nhỏ hơn một. Với kết quả trên cho thấy nông nghiệp tỉnh Hà Tây thiếu

vốn đầu tư và thừa nhiều lao động. Có thể nói vốn đầu tư bỏ ra có hiệu quả lớn

, có tác động mạnh tới việc tăng sản phẩm của nông nghiệp tỉnh

2.4 Chỉ tiêu: sản lượng lương thực bình quân đầu người qui thóc

Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000

Bình quân đầu người Kg 342 338 387 414 414

( Nguồn: Biểu số liệu kèm theo báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội nhiệm kì

1996 - 2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 tỉnhHà Tây )

Qua trên ta thấy bình quân sản lượng lương thực đầu người qui thóc của

tỉnh Hà Tây là khá cao, năm thấp nhất 1997, với 338 kg/ người, năm cao nhất

71999,2000 với 414 kg/ người, và ngày càng tăng theo thời gian. Điều này cho

thấy nông nghiệp của tỉnh phần nào đã đáp ứng được sự an toàn về lương thực

và thực phẩm cho người dân tỉnh. Như vậy các công cuộc đầu tư trong nông

nghiệp đã thực sự có hiệu quả và đã có tác động mạnh tới sự tăng trưởng và

phát triển của nông nghiệp.

2.5 Hiệu quả lao động và thu nhập của nông dân.

Trong tỉnh Hà Tây ,lao động trong nông nghiệp vẫn là chủ yếu, giai

đoạn1996 -2000, lực lượng này nhìn chung không có sự biến đổi lớn về lượng.

Các dự án đầu tư nói chung do có sử dụng lao động địa phương nên đã tạo nhiều việc làm cho người dân địa phương trong thời gian nhàn rỗi. Nhưng ảnh hưởng quan trọng của các công cuộc đầu tư là đã làm tăng tính hiệu quả về thời

gian lao động cho người nông dân nghĩa là mức thu nhập của họ trong mộtthời

gain lao động là cao hơn trước. Như vậy có thể coi người nông dân trong nông

nghiệp có thêm việc làm. Ngoài ra các công cuộc đầu tư đã tạo điều kiện cho nhiều người dân làm giàu và thu nhập của họ tăng thêm rõ rệt. Ngày nay ở

nông thôn tỉnh Hà Tây đã có nhiêu gia đình nông dân đã có những thiết bị sinh hoạt hiện đại như Tivi, Tủ lạnh, xe máy, đài ...Điều này chứng tỏ đầu tư nông

67

nghiệp đã góp phần tạo không nhỏ công ăn việc làm vạo tăng thu nhập cho

nông dân

Ngoài chỉ tiêu có thể tính rõ này , ta cũng có thể rút ra được những hiệu

quả khác như đầu tư đã làm cho cơ cấu lao động trong nông nghiệp tỉnh thay

đổi rất tiến bộ, giảm sự vất vả cho người nông dân trong sản xuất mang lại

hiệu quả cao. Đồng thời mức thu nhập của người nông dân của tỉnh cũng được

nâng cao hơn trước, các công trình đầu tư còn mang lại nhiều lợi ích kinh tế xã

hội khác như góp phần cải thiện đời sống người dân tỉnh...

68

Chương III. Phương hướng và giải pháp cho đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây

I.Định hướng phát triển ngành nông nghiệp 1. Định hướng chung của Đảng và Nhà nước. Hà Tây là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, do vậy tuân theo những đường lối chung của Đảng và nhà nước là một điều tất yếu. Phương hướng phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây cũng chịu chi phối bởi các đường lối và chích sách của Đảng và nhà nước. Trên cơ sở những chích sách của Nhà nước mà trong cả Báo cáo trình đại hội IX của Đảng vừa qua, phương hướng phát triển nông nghiệp trong thời gian tới là: Tiếp tục đẩy mạnh và có ưu tiên phát triển ngành nông nghiệp; bên cạnh

quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước chúng ta phải tiến hành công

nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Chuyển dịch lại cơ cấu

ngành nghề , hình thành nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá phù hợp với cơ

chế thị trường và điều kiện sinh thái từng vùng . Tiếp tục cơ giới hoá nông

nghiệp, đưa máy móc áp dụng đại trà vào ngành nông nghiệp.

Xây dựng một cơ cấu nông nghiệp hợp lí theo đó tiếp tục phát triển ổn định

ngành trồng trọt và đẩy mạnh ngành chăn nuôi để biến ngành chăn nuôi sẽ là

ngành chính trong sản xuất nông nghiệp. Thông qua chúng ta tiếp tục ổn định

cây lúa, nâng cao giá trị và hiệu qua của việc xuất khẩu gạo. Còn trong ngành

chăn nuôi , phát triển và nâng cao chất lượng , hiệu quả chăn nuôi gia súc gia

cầm, áp dụng rộng rãi phương pháp nuôi công nghiệp

Sản phẩm nông nghiệp là những sản phẩm thô chưa qua chế biến do vậy có

giá trị thấp trên thị trường. Mặt khác nhiều vùng có khối lượng nông sản lớn,

việc tiêu thụ khó khăn và khó bảo quản lâu. Vì vậy trong tương lai cần gắn

công nghiệp chế biến đối với từng vùng sản xuất nông nghiệp. Mỗi vùng sẽ có

một số nhà máy công nghiệp chế biến phù hợp nhằm khai thác hết thế mạnh

của những nơi này

Tăng cường tiềm lực khoa học kĩ công nghệ cho nông nghiệp, nhất là công

nghệ sinh học trong lai tạo và sản xuất giống. Đây là lĩnh vực quan trọng đối với nông nghiệp, giống cây trồng ảnh hưởng rất nhiều tới kết quả sản xuất

69

nông nghiệp.Cùng với đó ,chúng ta đưa những công nghệ mới vào sản xuất,

thu hoạch, bảo quản nông sản và cả công nghệ sạch vào sản xuất rau quả.

Hoàn thiện và cải tạo hệ thống đê điều, thuỷ lợi ở các vùng kinh tế, đảm bảm

ổn định sản xuất và bảo đảm nước tưới cho các khu vực sản xuất nông nghiệp

Như vậy, định hướng phát triển nông nghiệp của Đảng là rất thiết thực và

phù hợp với ngành nông nghiệp Việt Nam. Điều này cho phép trong tương lai

nông nghiệp nước ta tiếp tục phát triển ổn định và bền vững.

2.Đường lối chính sách của tỉnh. Trên cơ sở đường lối chung của Đảng và nhà nước,tỉnh uỷ, UBND tỉnh

Hà Tây đã dựa trên tình hình thực tế sản xuất nông nghiệp và điều kiện cụ thể

của tỉnh đã đưa ra phương hướng phát triển nông nghiệp trong thời gian tới.

Không ngừng hoàn thiện và nâng cấp cơ sở hạ tầng ở nông hiệp như thuỷ

lợi, ( trong đó trung tâm là hoàn thành các chương trình kiên cố kênh mương)

.Cần tiếp tục nghiên cứu và áp dụng các giống cây trồng vật nuôi với năng suất

và chất lượng cao và phù hợp với điều kiện sinh thái của tỉnh. Tăng tỉ trọng

ngành chăn nuôi từ 33 % năm 2000 nên tới 40 % năm 2010, đảm bảo dần dần

chăn nuôi sẽ là ngành nông nghiệp chủ yếu.

 Đối với ngành trồng trọt

Tiền hành sản xuất tập trung những cây trồng mới theo hướng qui hoạch cụ

thể. Trong đó cây lúa được trồng ở cá huyện như Thường Tín, Chương Mĩ,

Thanh Oai..., còn các cây ăn quả tập trung dọc đường quốc lộ. Mục tiêu là đảm

bảo sản lượng lương thực tiếp tục ở mức trên 1 triệu tấn,bình quân lương thục

đầu nguời là 400 kg.Các cây ăn quả sẽ ngày càng chiếm vị trí cao . Cây công

nghiệp được ưu tiên phát triển theo đó tỷ trọng từ 12 % năm 2000 lên 20 %

năm 2010.

 Đối với ngành chăn nuôi

Không ngừng nâng cao giá trị sản xuất , áp dụng những giống vật nuôi mới và những kĩ thuật chăn nuôi tiên tiến. Cụ thể tiến hành chăn nuôi trên diện rộng

70

với bò sữa ở huyện Bà Vì và một số vùng phù hợp; với đàn lợn được chăn

nuôi trong mỗi gia đình, và nâng cao hơn nữa chất luợng thịt.

Cụ thể các chỉ tiêu chăn nuôi của tỉnh năm 2005 như sau:

+ Đàn lợn: 1 300 000 con

+ Đàn trâu: 28 000 con

+ Đàn bò: 95 000 con; trong đó bò sữa 3000 con

+ Đàn gia cầm 10 triệu con

+Sản lượng: 15 000 tấn

Có thể khẳng định rằng phương hướng và mục tiêu của tỉnh đối với sản xuất

nông nghiệp là rất phù hợp với đường lối chung của đất nướcđồng thời lại hợp

với khả năng của tỉnh. Chính điều này sẽ góp phần làm cho nông nghiệp của

tỉnh có thể phát triển hơn trong tương lai.

II. Những vấn đề tồn tại trong thời gian qua Bên cạnh những thành tựu đạt được, đầu tư nông nghiệp tỉnh Hà Tây trong

thời gian vừa qua vẫn còn một số tồn tại làm giảm kết quả và hiệu quả đầu tư .

Cụ thể:

+ Công tác lập kế hoạch đầu tư còn chưa thật sâu sát, chưa đúng hướng,

không sắp xếp một cạh khoa học các vùng các dự án cần ưu tiên đầu tư

+ Đầu tư còn bị dàn trải trên diện rộng, chưa có những trọng điểm trọng tâm

, vốn đầu tư có xu hướng phân bố đều theo vùng với một tỉ lệ nhất định mà

chưa chú ý tới điều kiện cụ thể của những địa điểm hay những nơi nào cần phải đầu tư nhiều hơn , chú ý hơn

+Đầu tư mạnh nhằm hiện đại hoá cho hệ thống thuỷ lợi là rất tốt nhưng lại ít chú ý đầu tư cho hệ thống giống , điều này sẽ tạo ra sự phát triển thiếu toàn diện, ngành nông nghiệp trong tương lai sẽ khó phát triển mạnh được và khó có

thể chuyển dịch cơ cấu theo mong muốn

+ Đầu tư chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi vẫn chưa

đạt được mục tiêu đề ra

+Việc huy động vốn đầu tư làm chưa thật hiệu quả, nguồn vốn của dân cư , doanh nghiệp chưa được khai thác sử dụng cho đầu tư một cách triệt để, vốn

71

đầu tư nước ngoài rất hiếm. Việc sử dụng vốn ngân sách còn nhiều lãng phí,

chưa thất hiệu quả

+Công tác quản lí dự án đầu tư còn lỏng lẻo, nhiều cơ quan có nhiệm vụ về

quản lí đầu tư còn có một số sai phạm cần khắc phục

+ Chưa có những chính sách thật phù hợp thuận lợi nhằm thu hút vốn đầu tư và

khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp: như chính sách về thuế nông nghiệp,

chính sách ruộng đất , chính sách khuyến nông, chính sách về giáo dục đào tạo

kiến thức cho người nông dân

...

Những tồn tại trên đã làm giảm tính hiệu quả của đầu tư phát triển ngành

nông nghiệp; vì vậy để phát huy hơn nữa vai trò của đầu tư , trong thời gian tới

cần có những giải pháp thiết thực.

III. Giải pháp cho đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây Dựa vào những phương hướng phát triển nông nghiệp và trên cơ sở

những vấn đề còn tồn tại trong đầu tư nông nghiệp thời gian qua. Ta có đưa ra

một số biện pháp chủ yếu cho đầu tư nông nghiệp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu

quả đầu tư nông nghiệp

1.Giải pháp về chính sách đầu tư. 1.1.Chính sách của các cấp chính quyền.

* Tiếp tục coi phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ quan trọng Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nướchiện nay, bên

cạnh việc chú trọng phát triển công nghiệp và dịch vụ , chúng ta không được coi thường việc phát triển nông nghiệp. Đây là vấn đề hết sức quan trọng cho sự ổn định và phát triển kinh tế đất nước.Bởi vì hiện nay nông nghiệp vẫn là

một ngành kinh tế chủ yếu, giá trị hàng xuất khẩu nông lâm thuỷ sản chiếm giá

trị không nhỏ trong tổng hàng xuất khẩu Việt Nam.Trong khi đó, nông nghiệp

và nông thôn, với hơn 70 % dân số là một thị trường giàu tiềm năng và chưa

được khai thác là mấy. Nước ta xuất khẩu nhiều nông sản nhưng theo nhiều nhà kinh tế nước ta chưa được an toàn hẳn về lương thực. Ví dụ như năm

72

1999, 2000 , tình trạng giảm phát ở nước ta là do một nguyên nhân khá quan

trọng là thu nhập của người nông dân giảm, sức tiêu thụ ở nông thôn giảm,

trong khi dân số nước ta lại có tới 70 % sống ở nông thôn và làm nông nghiệp,

kéo theo thị trường cả nước giảm theo và công nghiệp từ đó trì trệ và giảm sức

sản xuất.Trước tầm quan trọng đó của ngành nông nghiệp mà Đảng và nhà

nước cần tiếp tục chú trọng phát triển nông nghiệp, tiếp tục đầu tư để nhằm thu

hút các nguồn đầu tư khác cho ngành nông nghiệp . Có như vậy, nông nghiệp

phát triển hơn nữa từ đó thúc đẩy các ngành kinh tế khác đi lên.

Đối với tỉnh Hà Tây, là một tỉnh nông nghiệp nên trong thời gian tới vẫn

cần ưu tiên phát triển cho ngành nông nghiệp, tránh tư tưởng chủ quan do mình

đã có thành tích. Trong các chủ chương chính sách tỉnh cần tiếp tục nêu cao

ngọn cờ phát triển nông nghiệp và nông thôn bên cạnh những chính sách đầu tư

phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ. Có như thế một bộ phận dân chúng

của tỉnh mới cải thiện đời sống , nhiều ngành kinh tế và nhiều thành phần kinh

tế tăng trưởng theo, làm cho kinh tế cả tỉnh phát triển. Coi trọng và đầu tư cho

nông nghiệp phải năm trong kế hoạch phát triển tương lai của tỉnh.

* Chính sách đối với vốn đầu tư từ ngân sách.

Nguồn vốn từ ngân sách đóng góp không nhỏ cho sự phát triển

nông nghiệp Việt Nam nói riêng và phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây nói

riêng. Vì thế trong những năm tới nhà nước và tỉnh cần tiếp tục tăng số vốn

đầu tư cho nông nghiệp ( tỉ trọng có thể giảm). Nguồn vốn này cần đầu tư vào

các công trình trọng điểm hay các công trình có tầm quan trọng để thúc đẩy sản xuất hoặc nhằm thu hút các nguồn vốn khác đầu tư cho nông nghiệp khi

họ thấy nông nghiệp có lợi hoặc nhà nước góp vốn với các doanh nghiệp hoặc dân cư để đầu tư cho những dự án cần thiết.Vốn ngân sách tỉnh Hà Tây cũng nên đầu tư mạnh hơn nữa vào việc phát triển những giống mới , không nên

quá chú trọng đầu tư cho thuỷ lợi bởi những công trình này có thể kêu gọi sự

góp vốn của người dân.

* Về thuế nông nghiệp.

Thuế nông nghiệp ở đây gồm thuế đất ,thuế đánh vào kết quả sản xuất nông nghiệp...có thể nói thuế có ảnh hưởng rất lớn đối với đầu tư và việc sản

73

xuất của người dân. Đối với thuế sử dụng đất , bên cạnh thuế suất thấp như

hiện nay , các cơ quan chính quyền địa phương nên có mức thuế suất linh hoạt

đối với từng loại đất và tránh tình trạng cứng nhắc: tính chuẩn bình quân cả

năm gây cho các loại đất, sẽ gây thiệt hại cho những người nhân nơi đất

xấu.Các cơ quan thu thuế cũng cần ghi rõ ràng các khoản thu thuế và có hoá

đơn đói với người dân để họ có thể nộp thuận lợi , không bị gò ép.

Trong mức thuế đánh vào kết quả sản xuất và lao động của người dân, cần

giảm bớt mức thuế đối với những hộ nông dân nghèo. Thuế nông nghiệp nên là

công cụ để phân phối thu nhập chứ không nên là rào cản đối với việc làm giàu

của người dân. Thuế cũng không nên đánh vào những hộ nông dân có thu

nhập cao khi họ mới thành công trong việc sản xuất theo những mô hình kinh

tế mới . Ví dụ như thuế đánh vào các hộ nông dân có thu nhập cao,khi họ tiến

hành thành công việc sản xuất nông nghiệp theo mô hình kinh tế trang trại.

Đối với các miền gặp khó khăn nên có sự miễn giảm thuế nhiều hơn.

Nguồn thuế này nhà nước cũng cần trao lại cho địa phương để tái đầu tư cho

ngành nông nghiệp và nhà nước sẽ quản lí chặt qúa trình sử dụng. Thuế nông

nghiệp nên có mức hợp lí và không nên để nó là công cụ cản trở đối với sản

xuât nông nghiệp.

* Chính sách đối với đất nông nghiệp Ta biết rằng trong sản xuất nông nghiệp, đất là tư liệu sản xuât hàng đầu,

do vậy mọi sự thay đổi trong chính sachs của nhà nước về ruộng đất đều ảnh

hưởng đến việc đầu tư và sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn, hiện nay nhà nước có qui định giao đất cho nông dân với thời hạn 15- 20 năm là hợp lí đối với đất

đồng bằng, nhưng đối với các vùng đất mới khai hoang, nên có thời hạn sử dụng đất lâu hơn. Nhá nước cũng nên cho phép người nông dân trồng trọt các loại cây nông nghiệp hoặc phát triển nhiều loại hình khác trên những vùng đất

được giao miễn sao có hiệu quả, không nhất thiết qui định cứng nhắc một loại

cây nhất định. Nhưng nhà nước nên cấm các hộ nông dân , hoặc các gia đình

có ý định chuyển đất nông nghiệp thành đất xây dựng hoặc phục vụ cho mục

đích khác.

74

Tóm lại nếu thực hiện tốt các chính sách ưu tiên trên sẽ thúc đẩy đầu tư vào

nông nghiệp và góp phần nâng cao hiệu quả của nó.

1.2.Qui hoạch đầu tư trong nông nghiệp khoa học và hợp lí.

Qui hoạch tốt sẽ giúp cho đầu tư đúng hướng , đúng khu vực cần thiết

và góp phần thúc đẩy sản xuất.

* Tăng cường đầu tư cho chăn nuôi Trong thời gian tới , tỉnh Hà Tây nên có cơ cấu ngành nông nghiệp theo

đó ngành chăn nuôi sẽ chiếm tỷ trọng cao trong giá trị sản xuất nông nghiệp.

Việc đưa ra cơ cấu hợp lí này sẽ góp phần đưa nông nghiệp tỉnh đi lên.Việc

chọn ngành chăn nuôi làm trọng điểm sẽ làm nguồn vốn đầu tư của ngân sách

cho chăn nuôi sẽ gia tăng và toàn tỉnh đầu tư nhiều hơn vào giống vật nuôi ,

giúp cho nông dân có giống mới, và họ sẽ đầu tư vào chăn nuôi góp phần đưa

chăn nuôi tăng trưởng.Bên cạnh việc phát triển chăn nuôi, tỉnh vẫn cần ổn định

phát triển ngành trồng trọt , cần ưu tiên cho một số cây trồng hỗ trợ chăn nuôi

hoặc nên kết hợp cả chăn nuôi và trồng trọt trong một tổng thể chung cùng phát

triển .Việc đầu tư chăn nuôi góp phần đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của ngành

nông nghiệp, cải thiện đời sống cho người nông dân và ngoài ra có thể giúp

cho người dân có thể tiến hành chăn nuôi trên qui mô lớn được thuận lợi

* Đầu tư theo thứ tự ưu tiên Tỉnh Hà Tây không phải là một tỉnh giàu có , vốn đầu tư cho nông

nghiệp thì rất ít, trong khi đó nhiều công trình hạ tâng nông nghiệp đã xuống

cấp cần đầu tư, hoặc cần phải đầu tư trước...Vì vậy mà tỉnh nên có kế hoạch thật hợp lí khoa học để xếp các công trình dự án theo một thứ tự ưu tiên nhất

định: công trình nào cần thì đầu tư trước, ít cần thì đầu tư sau... như vậy không những giảm được nhu cầu vốn đầu tư quá lớn và tránh được sự lãng phí và hiện tượng đầu tư dàn trải trên diện rộng, đồng thời cũng nâng hiệu quả của các

đồng vốn đầu tư bỏ ra sớm phát huy tác dụng.Như đầu tư cho hệ thống giống

phải song song đi liền với hệ thống thuỷ lợi, và lượng vốn đầu tư cho giống

không nên thấp quá so vơi vốn cho thuỷ lợi . Hoặc như đầu tư vào hệ thống

kênh mương vùng nào còn sử dụng được nên tận dụng. Địa phương nào cần đầu tư cho thuỷ lợi nên đầu tư cho các kênh chính trước sau đó đầu tư các

75

kênh phụ như vậy sẽ sử dụng được đồng bộ các công trình. Việc qui hoạch thứ

tự các dự án là rất cần thiết đối với đầu tư trong ngành nông nghiệp tỉnh Hà

Tây.

* Đầu tư theo mô hình kinh tế trang trại Tỉnh Hà Tây là một địa phương có nhiều thế mạnh mà có khả năng phát

triển hiệu quả mô hình kinh tế trang trại.Bởi lẽ tỉnh có địa hình đa dạng, đồi nui

nhiều chưa được sử dụng, thời tiêt khá ổn định. Mặt khác mô hình kinh tế trang

trại còn giúp cho người dân gia tăng sản xuất , tăng thu nhập vàkhai thác những

tiềm năng của mình. Cho nên tỉnh cần có những chính sách ưu tiên và kêu gọi

người dân áp dụng mô hình này theo định hướng của tỉnh. Như khuyến khích

người dân thông qua việc cho vay vốn ưu đãi, không thu thuế trong thời gian

đầu, có thể giúp họ tiêu thụ nông sản nếu được mùa và trợ cấp khi khó khăn.

Hoặc tỉnh có các chương trình phổ biến kiến thức cho người dân về cách thức

làm trang trại và cách chăm sóc các cây trồng vật nuôi trong những trang trại

của mình. Phát triển trang trại là cách đi đúng,nó sẽ tạo điều kiện cho việc cơ

giới hoá nông nghiệp và hướng phát triển của nông nghiệp trong tương lai.

1.3.Đầu tư nông nghiệp đi liền với đầu tư cho công nghiệp chế biến

Một giải pháp nữa trong chính sách của nhà nước cho nông nghiệp và sẽ

làm cho đầu tư trong nông nghiệp thành công hơn là nó nên kết hợp với đầu tư

cho công nghiệp chế biến.. Ta biết rằng công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản là một lĩnh vực công nghiệp nhưng nó chính là động lực cho sự phát triển

ngành nông nghiệp và khai thác được những thành quả của đầu tư cho nông nghiệp. Đối với một tỉnh có vị trí gần thủ đô Hà Nội , lại nằm ở khu vực đông dân cư. Trong khi đó, nông nghiệp của tỉnh lại có tốc độ tăng trưởng khá

nhanh. do vậy tỉnh nên đầu tư xây dựng một số nhà máy chế biến qui mô vừa

phải nhằm chế biến các nông sản của tỉnh, từ đó nâng cao giá trị nông sản và

dễ dàng manh đi tiêu thụ ở thị trường lớn. Với sự đầu tư này không những giúp

cho nông nghiệp tỉnh phát triển nhanh mà còn kéo theo ngành công nghiệp phát triển theo góp phần vào việc công nghiệp hoá và hiện đại hoá quê nhà.

76

2.Vấn đề huy động vốn. Vốn đầu tư là rất cần đối với nông nghiệp, do vậy tỉnh cần phải có

những giải pháp nhằm huy động tối đa mọi nguồn vốn cỏ thể.

Trước hết tỉnh cần xây dựng một chương trình tổng thể để thu hút thu hút

mọi nguồn vốn đầu tư : vốn đầu tư trong nước, vốn đầu tư nước ngoài. Từ đó

phối hợp sử dụng các nguồn vốn này vào các công trình cụ thể. Ngoài ra , đối

với các công trình có thể huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau thì cần phải

sử dụng hợp lí các nguồn này. Còn đối với những nguồn vốn cụ thể cần phải có

những chích sách riêng phù hợp .

2.1 Đối với vốn đầu tư của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư trong

tỉnh:

Đây là nguồn vốn đầu tư có tiềm năng lớn nhưng chưa được khai

thác cho đầu tư nông nghiệp là mấy. Đối với vốn đầu tư của các doanh nghiệp

và vốn đầu tư của dân cư thì bên cạnh những chính sách của nhà nước thì tỉnh

cũng nên có những chính sách riêng của mình

* Đối với nguồn vốn từ các doanh nghiệp của tỉnh Tỉnh nên có những chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp của

tỉnh và các doanh nghiệp trương ương đóng trên địa bàn tỉnh bỏ vốn đầu tư vào

ngành nông nghiệp. Cụ thể tỉnh qui hoạch các cùng nhiều tiềm năng , đồng thời

tạo nhiều điều kiện thuận lợi để họ thấy đầu tư vào các vùng này là có lợi và

đem lại hiệu quả cao hoặc tỉnh có thể đầu tư ban đầu tạo ra những cơ sở hạ tầng tương đối tốt cho vùng này.Tỉnh cũng có thể khai phá phần nào hoặc hợp tác

với họ đê cùng khai thác như vây sẽ đảm bảo lợi ích đôi bên . Mặt khác tỉnh cũng nên có chính sách ưu đãi về thuế như đánh thuế thấp hoặc giảm thuế trong thời gian đầu. Tiến hành lập danh sách các công trình lĩnh vực ưu tiên

đầu tư để họ thấy xem có thể đầu tư được hay không. Thêm vào đó đối với

nhiều công trình dự án như đầu tư vào hệ thống thuỷ lợi tỉnh kêu gọi họ đầu tư

sau đó cho phép họ thu phí sử dụng các công trình này với một tỉ lệ phù hợp

để họ có thể thu được lợi hợp lí. Cũng nên cho họ vay vốn với lãi suất ưu đãi

77

và điều kiện vay rễ ràng. Chính quyền tỉnh cũng nên chủ động phát triển một

số mô hình kinh tế lớn có lợi cao để thúc đẩy đầu tư của các doanh nghiệp

Tóm lại thu hút được nhiều vốn tư các doanh nghiệp đầu tư cho nông nghiệp

không những tăng vốn đầu tư cho nông nghiệp mà còn làm tăng khả năng sản

xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

* Đối với nguồn vốn của dân cư(chủ yếu là nguồn vốn của nông dân.) Nhưng người nông dân tuy nghèo nhưng họ luôn sẵn sàng tham gia vào

quá trình đầu tư xây dựng những công trình đảm bảo cho sản xuất của họ được

thuận lợi: như thuỷ lợi ,giao thông nông thôn, điện...Để huy động nguồn vốn

này ,nên có những công trình đầu tư thiết thực cho nông nghiệp theo phương

thức nhà nước và nhân dân cùng làm. Theo đó nêu rõ và tuyên truyền ích lợi

của công trình cho họ, đồng thời nêu rõ kế hoạch sử dụng vốn đầu tư cho nông

dân.Việc thu tiền góp đầu tư của người nông dân phải đưoc công bố rõ ràng từ

trước, phải do những người có uy tín ở địa phương tiến hành. Trong quá trình

đầu tư nên tổ chức một cơ quan giám sát và có đại diện của dân tham dự. Đồng

thời ,khi công trình hoàn thành nên công bố rõ tài chính của dự án, chi phí của

từng hạng mục công trình cho người dân biết. Đặc biệt là phải chống sự tham ô

tham nhũng của một số cán bộ để dân tin và chính quyền. Có thực thi những

biện pháp như vậy mới có thể thu hút được nhiều vốn đầu tư từ dân. Còn đối

với những công trình thuỷ lợi do nhà nước làm , khi thu thuỷ lợi phí lên công

bố rõ mức thu , nên thu trong nhiều năm và phải có những kế hoạch sử dụng khoản tiền này minh bạch rõ ràng. Huy động được lớn nguồn vốn này sẽ góp

phần không nhỏ vào sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn.

2.2 Đối với nguồn vốn nước ngoài.

Bên cạnh các nguồn vốn đầu tư từ trong nước, nguồn vốn đầu tư từ nước

ngoài cũng rất quan trọng.

Đối với vốn FDI, nói chung các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài không có

hứng thú với lĩnh vực nông nghiệp; vì vậy họ thường ít bỏ vốn đầu tư vào nông nghiệp. Do vậy để thu hút vốn này nhà nước cần có những chính sách đầu tư

78

thông thoáng hơn nữa:về thủ tục pháp lí, thuế đối với kết quả đầu tư... bên cạnh

đó tỉnh nên có những chính sách thực sự hấp dẫn về đầu tư trong lĩnh vực nông

nghiệp ngoài ra tỉnh Hà Tây nên lập những chương trình chiến lượcđể kêu gọi

nguồn vốn đầu tư này như kêu gọi những nhà đầu tư vào lĩnh vực giống hoặc

phân bón, công cụ cho sản xuất nông nghiệp những lĩnh vực mà nhà đầu tư có

thể thu được nhiều lợi nhuận đồng thời cũng trợ giúp nông nghiệp phát triển .

Nhìn chung vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp tỉnh Hà Tây dưới

dạng vốn ODA(vốn hỗ trợ phát triển). Để thu hút được nhiều nguồn vốn này

tỉnh cần qui hoạch các vùng , các huyện cần hỗ trợ để trình lên chính phủ từ đó

nhà nước xem xét và giới thiệu các nguồn vốn ODA. Thông qua đó tỉnh tiến

hành đàm phán thoả thuận các điều kiện đầu tư để có thể nhận được nguồn vốn

này. Đối với một số huyện trong tỉnh đã được nhận vốn ODA nên sử dụng

vốn hiệu quả ,thiết thực để gây uy tín với các tổ chức quốc tế, các chính phủ

các nước để họ tiếp tục đầu tư, viện trợ cho tỉnh.

Trong quá trình nhận vốn đầu tư nước ngoài tỉnh cần tránh tình trạng bị lệ

thuộc vào nhà đầu tư hoặc chấp nhận mọi giá để có vốn đầu tư. Nếu thu hút

được đầu tư nước ngoài nông nghiệp của tỉnh sẽ có nhiều điều kiện để phát

triển mạnh hơn nữa.

2.3 Có những chính sách ưu tiên cho đầu tư và sản xuất nông nghiệp

Bên cạnh đó , tỉnh nên có các chính sách ưu tiên cho đầu tư và sản xuất

nông nghiệp. Ta biết rằng ngành nông nghiệp có nhiều thiệt thòi so với các

ngành kinh tế khác như:có ít nguồn vốn đầu tư, đầu tư lại có lợi nhuận thấp , rủi ro cao, có tốc độ tăng trưởng chậm...Vì vậy đầu tư trong nông nghiệp cần

nhận được sự giúp đỡ và hỗ trợ của nhà nước. Vốn đầu tư đối với ngành nông nghiệp là rất thiếu , ít không nhận được vốn đầu tư của các nhà đầu tư. Bởi lẽ như trên là đầu tư cho nông nghiệp nhiều

khi là phi lợi nhuận và thời gian thu hồi vố rất dài: như đầu tư cho hệ thống

thuỷ lợi...Trong những năm qua, bên cạnh đầu tư cho nông nghiệp ,nhà nước

đã giành một phần ngân sách cũng như các tổ chức ngân hàng cho vay đối với

các dự án nông nghiệp. Tuy vậy lãi suất này vẫn còn khá cao, điều kiện vay đối với các nhà đầu tư khá phức tạp, nhiều ngân hàng gây khó dễ. Do vậy các nhà

79

đầu tư gặp khó khăn trong vay vốn , đòi hỏi nhà nước cần có lãi suất ưu đãi

thấp hơn và các ngân hàng nên nhiệt tình và tạo thuận lợi cho nhà đầu tư vay

vốn. Còn đối với hộ nông dân vay vốn sản xuất , nhà nước nên hỗ trợ họ vốn

không trả lãi và cho vay một phần với lãi suất thật ưu đãi. Ngoài ra các ngân

hàng nên có chính sách đối với từng loại khách hàng cụ thể, tránh gây khó cho

những người muốn vay vốn ; đối với những người vay vốn lớn cần có sự ưu

đãi hơn về lãi suất và thời gian hoàn vốn .

Tóm lại lãi suất tín dụng ưu đãi dễ dàng sẽ thúc đẩy đầu tư cho ngành nông

nghiệp và cải thiện đời sống nhân dân.

3.Quản lí đầu tư. Hoạt động quản lí đầu tư sẽ góp phần không nhỏ vào việc thu hút vốn đầu

tư từ các nguồn cho sản xuât nông nghiệp cũng như sẽ làm tăng hiệu quả đầu

tư .Trong thời gian tới tỉnh nên có những giải pháp cụ thể quản lí chặt chẽ các

quá trình của một công cuộc đầu tư cũng như các đối tượng nhận đầu tư.

* Quản lí chặt công tác thẩm định, thực hiện dự án đầu tư Luôn quản lí chặt chẽ những khâu, những công đoạn của quá trình đầu tư.

Cụ thể trong việc lập kế hoạch đầu nên do những người có năng lực đảm

nhiệm, tỉnh uỷ ,UBND phải luôn sâu xát chỉ đạo kịp thời và theo dõi quá trình

thực hiện .Việc lập kế hoạch đầu tư phải thật khoa học tránh tình trạng đầu tư

dàn trải và không có trọng điểm rõ ràng. Nếu có những điều chưa hợp lí phải sữa chữa ngay để tránh đầu tư vô tổ chức và kém hiệu quả. Còn đối với công

tác thẩm định đầu tư thì luôn phải qua những bước cụ thể, đơn giản nhưng chặt chẽ ,tránh tình trạng làm qua loa cho xong việc. Mà việc thẩm định phải thật chính xác để loại bỏ những dự án kém hiệu quả, lạm dụng vốn ngân sách ( nếu

có). Còn trong các dự án trình duyệt càn nhiều chỗ chưa hợp lí thì cần troa đổi

với chủ đầu tư giúp họ sữa chưa để dự án tốt hơn. Cán bộ làm công tác thẩm

định phải có trách nhiệm cao, không được gây phiền hà về thủ tục cho các nhà

đầu tư hoặc cố tình trì hoãn dự án do những lí do không chính đáng. Làm tốt việc thẩm định dự án sẽ làm tăng vốn cho đầu tư và nâng cao hiệu quả của các

80

dự án. Việc thực hiện xây dựng các công trình đầu tư phải luôn được theo dõi,

mỗi công đoạn phải có báo cáo với cấp trên( đối với dự án lớn). Các chi phí

của từng hạng mục công trình phải hợp lí, chất lượng công rrình phải đảm bảo

so với tiêu chuẩn kĩ thuật đề ra. Ngoài ra trong việc sử dụng thành quả của đầu

tư phải đúng mục đích , đúng lúc và không làm tổn hại đến sản xuất và do một

cơ quan hoặc địa phương đảm nhiệm.

* Phối kết hợp tốt các cơ quan có liên quan đến đầu tư Mỗi công cuộc đầu tư trong nông nghiệp không chỉ liên qua đến riêng

ngành nông nghiệp mà quan hệ tới các ngành tài chính, xây dựng, ngân

hàng...Vì vậy để các dự án được thực hiện thuận lợi các ngành nên hợp tác

chặt chẽ với nhau và tỉnh cũng lên chỉ đạo thống nhất và phân phối việc cho

từng ngành. Nếu có giai đoạn nào gặp khó khăn , tỉnh nên giải quyết nhanh

chóng để dự án tiến hành thuận lợi. Không những kết hợp giữa các cơ quan

trong tỉnh mà chính quyền tỉnh cần phối hợp chặt chẽ với các bộ các ngành có

liên quan đến đầu tư trong nông nghiệp để giúp cho nông nghiệp có những dự

án lớn hơn. Chẳng hạn như công nghệ về giống thỉ một mình tỉnh sẽ khong

thực hiện được, do vậy nhà nước đầu tư sau đó cho phép tỉnh mang về áp dụng

cho địa phương mình.

*Quản lí chặt chẽ quá trình huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư dân cư: Đây là điều rất cần thiết đối với các công trình xây dựng trong nông nghiệp . Tỉnh nên chỉ rõ các công trình nào được phép thu tiền của dân, những

công trình nào không được để tránh tình trạng cán bộ địa phương thu bừa bãi, . Việc thu tiền này phải được ghi rõ vào những sổ sách nhất định và phải được tỉnh uỷ quyền cho phép. Trong việc phải nêu rõ số tiền là bao nhiêu và kế

hoạch chi tiêu số tiền này như thế nào. Tỉnh cũng phải thường xuyên thanh tra,

kiểm tra việc thu này và cả qua trình sử dụng vốn nếu có gì sai phải xử lí kịp

thời.

* Áp dụng đấu thầu với các dự án đầu tư:

81

Trong các công cuộc đầu tư của ngành nông nghiệp đôi khi còn xảy râ một số

tiêu cực: như làm thất thoát vốn, tăng chi phí xây dựng, cắt vốn đầu tư...gây

ảnh hưởng đến hiệu quả của đồng vốn đầu tư bỏ ra cũng như giảm sút khả năng

phát huy các kết quả đối với sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, một biện pháp tốt

để khắc phục những tiêu cực này là tỉnh nên có qui định các dự án đầu tư trong

nông nghiệp ở một mức vốn nào đó bắt buộc phải tiến hành đấu thầu.Có đấu

thầu thì các dự án sẽ tiết kiệm được vốn , các công trình sẽ có được nhà thi

công xây dựng tốt nhất và giúp các dự phát huy tác dụng. Đồng thời cùng với

đó ,tỉnh quản lí chặt chẽ công tác đấu thầu, để tránh các hiện tượng gian lận,

làm cho công tác đấu thầu đạt hiệu quả cao

*Đào tạo nghề và bồi dưỡng kiến thức cho người nông dân

Người nông dân là những người có trình độ tương đối thấp, họ không ngại

khó khăn , không ngại làm việc nhưng lại không có kiến thức để thực hiện làm

giàu.Do vậy trong công cuộc quản lí đầu tư tỉnh cần phải có những chủ trương

nhằm giáo dục đào tạo toàn diện những kiến thức cho người dân. Tỉnh nên

thường xuyên tổ chức các lớp giảng dạy về kiến thức trồng trọt chăn nuôi, cách

thức làm kinh tế . Đồng thời cũng nên cử một số chuyên gia ,một só cán bộ có

trình đọ về giảng cho người dân những kiến thức mới về nông nghiệp hay cách

thức làm các mô hình kinh tế mới.Mặt khấc nếu không có điều kiện , tỉnh nên

tạo điều kiện cho cán bộ ở cấp huyện hay cấp xã đi học các kiến thức mới về sản xuất nông nghiệp sau đó họ sẽ về hướng dân cho những người nông dân.

Đồng thời các đoàn thể của tỉnh nên có những sự giúp đỡ những người trong cùng một tập thể hoặc trợ giúp kiến thức cho họ khi cần. Ngoài ra mỗi địa phương cần có một tổ chức có thể tư vấn kiến thức cho người dân khi cần. Một

chương trình lâu dài hơn là tỉnh cần hoàn thiện hệ thống giáo dục đào tạo cho

con em nông dân với những chính sách ưu đãi ,để thế hệ sau có kiến thức và

giúp đỡ cha ông trong việc làm nông nghiệp. Tóm lại, nâng cao trình độ cho

người dân sẽ giúp họ cải thiện đời sống của mình mà còn từ đó thúc đẩy nông nghiệp đi lên.

82

Những giải pháp trên là chủ yếu và rất cần thiết cho đầu tư phát triển

nông nghiệp Hà Tây, những giải pháp này không thể bao gồm hết các lĩnh

vực của đầu tư mà chỉ là một đóng góp nhỏ nhằm nâng cao hiệu quả đầu

tư nông nghiệp trong tương lai

IV.Kiến nghị Để nhằm nâng cao hơn nưa hiệu quả của những công cuộc đầu tư phát triển

nồng nghiệp Hà Tây, bên cạnh những giải pháp cần thiết trên , tôi xin đưa một

vài kiến nghị đối với nhà nước ta + Nhà nước cần bàn hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thuận lợi cho

các nhà đầu tư cũng như tạo ra môi trường thông thoáng để thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước: giảm bớt các thủ tục phiền hà trong các cơ quan nhà nước.

+ Nhà nước nên có những qui định chặt chẽ trong quá trình thẩm định dự án

đầu tư, những tiêu chuẩn trong việc lập kế hoạch đầu tư cho các cơ quan có

thẩm quyền thực hiện. Hàng năm nên kiểm tra quá trình thực hiện các dự án

đầu tư.; đối với các dự án đầu tư do ngân sách nhà nước cấp thì nhà nước nên có cán bộ của mình theo dõi kiểm tra xem xét quá trình sử dụng vốn và quá

83

trình lập kế hoạch cũng như thựch iện đầu tư. Chống lại việc sử dụng sai vốn

nhà nước hoặc sự cắt xén tham ô của cán bộ cấp dưới.

+ Nhà nước nên qui định mức thuế nông nghiệp ở mức hợp lí đối với từng

vùng , từng địa phương. Bởi thuế nông nghiệp ảnh hưởng rất lớn tới kết quả và

hiẹu quả đầu tư trong nông nghiệp

+Nhà nước nên có các chính sách nhằm trợ giá nông sản cho người nông

dân trong những trường hợp cần thiết để tránh sự thiệt thòi cho họ. Nhà nước

cũng nên có những biện pháp mua nông sản cho người nông dân nếu họ được

mùa, trách cho người nông dân bị ép phải bán nông sản với giá thấp

+ Trích một phần ngân sách nhằm hỗ trợ vốn sản xuất cho những người

dân nghèo vay vốn giúp họ cải thiện đời sống

+ Hàng năm, bộ nông nghiệp và nông thôn nên mở các lớp bồi dưỡng kiến

thức cho các cán bộ nông nghiệp ở các địa phương

+Nhà nước nên đầu tư cho nhiều hơn cho những trung tâm nghiên cứu

giống nông nghiệp để những trung tâm này vừa có thể tạo ra những giống mới,

vừa có thể nghiên cứu tiếp nhận những giống tốt của nước ngoài nếu phù hợp

với nước ta

Kết Luận

Có thể nói trong thời gian vừa qua đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tay đã đạt nhiều thành công to lớn. Có được kết quả như vậy là do toàn tỉnh

Hà Tây thực hiện tốt các công tác đầu tư phát triển. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng đầu tư đã góp phần cực kì quan trong trong sự đi lên của nông nghiệp tỉnh, đóng góp không nhỏ vào công cuộc công nghiệp hoá nông nghiệp và nông

thôn. Trong tương lai ,để ngành nông nghiệp tiếp tục phát triển chúng ta phải

chú trọng đầu tư cho nông nghiệp và phải có những biện pháp nhằm nâng cao

hơn nữa hiệu quả đầu tư cho nông nghiệp. Trên cơ sở nghiên cứu tình hình đầu

tư phát triển nông nghiệp , bài viết này đưa ra một số giải pháp , ý tưởng nhằm đóng góp phần nào vào việc nâng cao hơn nữa hiệu quả của đầu tư nông nghiệp

84

tỉnh Hà Tây .Cũng có thể khẳng định rằng, đầu tư là đòi hỏi tất yếu của quá

trình phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây, không có đầu tư thì nông nghiệp

không thể phát triển.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX của Đảng. 2. Giáo trình kinh tế đầu tư. PGS . PTS Nguyễn Ngọc Mai. NXB giáo dục 3. Đầu tư trong nông nghiệp: Thực trạng và triển vọng Nguyễn Sinh Cúc ,

Nguyễn Văn .NXB Chính trị quốc gia

4. Giáo trình kinh tế phát triển. NXB thống kê 5. Nông nghiệp và nông thôn trong giai đoạn CNH- HĐH. NXB Khoa học xã

hội

6. Chính sách thương mại, đầu tư và sự phát triển một số ngành công nghiệp

chủ lực của Việt Nam.TS Võ Đại Lược. NXB Khoa học xã hội

7. Tạp chí con số và sự kiện các số :1+2, 4 ( năm 2001) 8. Tạp chí kinh tế và dự báo

85

9. Báo nông nghiệp Việt Nam 10. Báo Tài Chính : Số 5( 1998), 7( 1999) 11. Báo cáo kết qủa thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản nông nghiệp tỉnh Hà Tây.

!996 - 2000

12. Kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch vốn ngân sách tỉnh Hà Tây 1996 -

2000

13. Báo cáo thực hiện kinh tế xã hội nhiệm kì 1996 - 2000 và phương hướng

nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 - Đảng bộ tỉnh Hà Tây

14. Chương trình an toàn đê điều và giải quyết úng hạn. Sở nông nghiệp và phát

triển nông thôn

Mục lục

Trang

Lời nói đầu 1

Chương I. Những vấn đề về lí luận chung 3

I. Bản chất và vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế 3

1.Các khái niệm chung 2. Phân loại hoạt động đầu tư 3.Vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế

3.1Tác động tới tổng cung và tổng cầu 3 4 5 5

3.2 Ảnh hưởng hai mặt đến sự ổn định kinh tế 3.3 Tác động tới tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế 6 6

3.4 Nhân tố quan trọng tác động đến quá trình chuyển dịch

86

cơ cấu kinh tế 7

3.5 Nâng cao trình độ khoa học công nghệ và giải quyết

việc làm 8

4.Quản lí hoạt động đầu tư 9

4.1Khái niệm 9

4.2 Mục tiêu của quản lí đầu tư 9

4.3 Nguyên tắc 9

5.Kế hoạch hoá đầu tư 10

5.1 Nguyên tắc 10

5.2 Trình tự lập kế hoạch đầu tư 11

5.3 Điều kiện để dự án được ghi vào kế hoạch 11

II. Đầu tư- nhân tố quyết định đối với phát triển nông nghiệp 11

1.Giới thiệu về nông ngiệp 11

1.1.Khái niệm nông nghiệp 12

1.2Đặc điểm nông nghiệp nói chung 12

1.3Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam 15

1.4. Vai trò của nông nghiệp 17

2.Đầu tư- nhân tố quyết định đối với phát triển nông nghiệp 19

3. Đặc trưng đầu tư trong nông nghiệp 22

4. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp 24

Chương II. Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây 26

26 26 26 29 I.Những nguồn lực cho sự phát triển nông nghiệp Hà Tây 1.Giới thiệu các nguồn lực Hà Tây 1.1 Điều kiện tự nhiên 1.2 Dân số và lao động

30 2.Những thuận lợi và thách thức.

30 2.1Thuận lợi

31 2.2Thách thức

31 II.Tổng quan về tình hình đầu tư tỉnh Hà Tây (giai đoạn 1996 - 2000)

87

1.Theo nguồn vốn 31

2.Theo cơ cấu ngành kinh tế 34

3.Theo cấp quản lí 35

III. Tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây

( giai đoạn 1996- 2000) 1.Theo cơ cấu vốn đầu tư 37 37

1.1Vốn ngân sách nhà nước 39

1.2 Vốn từ thuế nông nghiệp 42

1.3 Vốn tự cân đối 46

1.4 Vốn tín dụng ưu đãi 48

2.Theo cơ cấu lĩnh vực đầu tư 49

3.Theo vùng lãnh thổ 52

IV. Kết quả và hiệu quả đầu tư vào nông nghiệp tỉnh Hà Tây 54

1.Kết quả đầu tư 54

1.1Ảnh hưởng chung tới sự phát triển kinh tế toàn tỉnh 54

1.2Đối với sản xuất nông nghiệp 56

1.3Tác động đến cơ cấu nông nghiệp 59

1.4Đối với hệ thống thuỷ lợi 63

2.Hiệu quả đầu tư 64

2.1Chỉ tiêu GDP/GO 64

2.2Chỉ tiêu GDP/Vốn đầu tư 65

2.3Chỉ tiêu GDP tăng thêm/ vốn đầu tư 2.4Chỉ tiêu Bình quân lương thực qui thóc 65 66

2.5 Chỉ tiêu Hiệu quả lao động 66

Chương III. Phương hướng và giải pháp cho đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây I.Định hướng phát triển nông nghiệp 1.Định hướng chung của Đảng và nhà nước 68 68 68

2.Định hướng phát triển nông nghiệp của tỉnh Hà Tây 69

II .Những vấn đề tồn tại trong thời gian qua III. Một số giải pháp cho đầu tư phát triển nông nghiệp 70 71

88

1 .Giải pháp về chính sách đầu tư 71

1 .1Chính sách của các cấp chính quyền ` 71

1. 2 Qui hoạch đầu tư trong nông nghiệp khoa học và hợp lí. 73

1. 3 Đầu tư nông nghiệp đi liền với đầu tư cho công nghiệp

chế biến 75

2.Giải pháp về huy động vốn 75

2.1 Đối với vốn đầu tư của doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư 76

2.2 Đối với nguồn vốn nước ngoài 77

2.3 Có những chính sách ưu tiên đối với đầu tư và sản xuất

78 trong nông nghiệp

79 3.Quản lí hoạt động đầu tư

82 IVKiến nghị

83 Kết luận

89