ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––

SOMPHOU KEOBOUAKHAM

ĐẶC ĐIỂM DÂN SỐ VÀ DÂN CƯ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

Chuyên ngành: Địa lý học Mã số: 60.31.05.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. DƯƠNG QUỲNH PHƯƠNG

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi thực hiện dưới

sự hướng dẫn của PGS.TS. Dương Quỳnh Phương. Các tài liệu tham khảo có xuất

xứ rõ ràng và được trích dẫn hợp pháp. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là

trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, thá ng 04 năm 2016

Tá c giả luận văn

i

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

SOMPHOU KEOBOUAKHAM

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng và chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Ban

giám hiệu, Phòng Đào tạo, Phòng Khoa học và HTQT, Ban chủ nhiệm khoa

Địa lí, các thầy, cô giáo khoa Địa lí, Trường đại học Sư Phạm Thái Nguyên đã

tận tình chỉ bảo, đào tạo, cung cấp những kiến thức cẩn thiết để tôi có đủ trình

độ của một thạc sĩ địa lí.

Tôi xin bảy tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành cảm ơn PGS.TS.

Dương Quỳnh Phương đã chỉ bảo, hướng dẫn và hết lòng giúp đỡ tôi rất tận

tình trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.

Tôi xin cảm ơn Bộ kế hoạch và Đầu Tư, Tổng cục điểu tra dân số

nước CHDCND Lào , các cơ quan, cá nhân đã giúp đỡ tôi trong thời gian

thực địa làm luận văn tại địa phương, cảm ơn về nguồn tư liệu phục vụ cho

việc nghiên cứu đề tài.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, các học viên cao học Địa Lí K22, đã tạo

điều kiện thuận lợi, ủng hộ, giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên

cứu hoàn thành luận văn của mình.

Thái Nguyên, thá ng 06 năm 2016

Tá c giả luận văn

ii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

SOMPHOU KEOBOUAKHAM

MỤC LỤC

Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

Danh mục các chữ viết tắt .................................................................................. iv

Danh mục các bảng .............................................................................................. v

Danh mục các hình ............................................................................................. vi

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................... 4

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 4

5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 5

6. Dự kiến đóng góp luận văn .............................................................................. 7

7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 7

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẶC ĐIỂM DÂN

SỐ, DÂN TỘC .................................................................................................... 8

1.1. Cơ sở lí luận .................................................................................................. 8

1.1.1. Các vấn đề về dân số ................................................................................. 8

1.1.2. Những vấn đề về dân tộc ......................................................................... 17

1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 20

1.2.1. Khái quát về dân cư, dân tộc ở Châu Á ................................................... 20

1.2.2. Khái quát về dân cư, dân tộc của khu vực Đông Nam Á ........................ 21

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 24

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM DÂN SỐ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ

NHÂN DÂN LÀO ............................................................................................ 25

2.1. Khái quát chung về nước Lào ..................................................................... 25

2.1.1. Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ .............................................................. 25

2.1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên .......................................... 27

2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội ........................................................................ 34

iii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

2.2. Đặc điểm dân số của nước Lào................................................................... 36

2.2.1. Quy mô dân số ......................................................................................... 36

2.2.2. Gia tăng dân số ........................................................................................ 38

2.2.3. Cơ cấu dân số ........................................................................................... 43

2.2.4. Phân bố dân cư......................................................................................... 46

2.2.5. Chất lượng dân số .................................................................................... 48

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 50

Chương 3: ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ

NHÂN DÂN LÀO ............................................................................................ 51

3.1. Thành phần dân tộc và đặc điểm phân bố .................................................. 51

3.1.1. Chia theo nhóm ngôn ngữ ....................................................................... 51

3.1.2. Chia theo địa bàn cư trú, phong tục tập quán và nguồn gốc các dân tộc ....... 54

3.2. Bản sắc văn hóa của các dân tộc Lào ......................................................... 59

3.2.1. Tập quán sinh hoạt ................................................................................... 59

3.2.2. Tập quán sản xuất .................................................................................... 66

3.2.3. Các lễ hội truyền thống ............................................................................ 70

3.2.4. Nghệ thuật ................................................................................................ 79

Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 80

Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH DÂN

SỐ VÀ BẢO TỒN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN

TỘC NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO .......................... 81

4.1. Quan điểm, mục tiêu và định hướng .......................................................... 81

4.1.1. Quan điểm ................................................................................................ 81

4.1.2. Mục tiêu phát triển ................................................................................... 83

4.1.3. Định hướng phát triển .............................................................................. 83

4.2. Một số giải pháp nhằm ổn định dân số, gìn giữ và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc ......................................................................................................... 86

4.2.1. Nhóm các giải pháp về ổn định dân số .................................................... 86

4.2.2. Nhóm các giải pháp về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc ..... 89

Tiểu kết chương 4 .............................................................................................. 96

iv

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 97

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CHDCNND Lào : Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

CBR : Tỷ suất sinh thô

CDR : Tỷ suất chất thô

TFR : Tổng tỷ suất sinh

GFR : Tỷ suất sinh chung

GDP : Tổng thu nhập quốc nội

D.S : Dân sinh

D.T : Diện tích

HDI : Chỉ số phát triển con người

WB : Ngân hàng thế giới

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

iv

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Đảng NDCM Lào : Đảng nhân dân cách mạng Lào

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Dân số của các nước khu vực Đông Nam Á năm 2012 .................... 22

Bảng 2.1. Một số đỉnh núi cao của Lào ............................................................. 28

Bảng 2.2. Các con Sông có chiều dài lên tới 100 km tại Lào ........................... 33

Bảng 2.3. Dân số nước Lào qua các thời kì ....................................................... 36

Bảng 2.4. Tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên của nước Lào ..................................... 38

Bảng 2.5. Tỉ lệ tử của nước Lào giai đoạn 2005 – 2015 ................................... 40

Bảng 2.6. Bảng thống kê số dân nhập cư hợp pháp vào nước Lào tính đến

năm 2015 ........................................................................................... 41

Bảng 2.7. Cơ cấu dân số chia theo nhóm tuổi giai đoạn 2010 - 2015 ............... 43

Bảng 2.8. Cơ cấu dân số theo giới năm giai đoạn 2005-2015 ........................... 44

Bảng 2.9. Cơ cấu dân số theo lao động nước Lào năm 2015 ............................ 45

Bảng 2.10. Dân số và mật độ dân số nước Lào theo các đơn vị hành chính,

giai đoạn 2005 – 2015 ....................................................................... 46

v

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Bảng 3.1. Dân số chia theo các nhóm dân tộc của nước Lào năm 2012 ........... 51

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1. Quy mô dân số nước Lào qua các năm ................................................. 37

Hình 2.2. Biểu đồ tử lệ gia tăng dân số tự nhiên của nước Lào qua các năm ... 38

Hình 2.3. Biểu đồ cơ cấu dân số theo giới tính của nước Lào năm 2005 và

năm 2015 .................................................................................................. 45

vi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hình 3.1. Cơ cấu các nhóm dân tộc của nước Lào ............................................... 52

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nước Lào nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam

Châu Á, không có biển, bao quanh là lục địa; có đường biên giới tiếp giáp với

Việt Nam ở phía Đông, Campuchia ở phía Nam, Thái Lan ở phía Tây, Myanma

và Trung Quốc ở phía Bắc. Đây là một quốc gia có quy mô dân số nhỏ nhưng

phát triển nhanh, phân bố không đều và mật độ dân số thấp; chất lượng dân số

và nguồn nhân lực tăng lên nhưng chưa cao. Theo Cục Thống kê Lào, năm

2009, tổng dân số của nước này là 6.127.910 người, xếp thứ 105 trong tổng số

206 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Dân số Lào đang tăng nhanh, nếu với

tốc độ như hiện nay, dân số Lào sẽ tăng gấp đôi trong khoảng 28 - 30 năm tới.

Nước Lào đất rộng, dân không đông nhưng lại gồm nhiều dân tộc, bộ tộc

(49 dân tộc). Nhân dân Lào có nhiều phong tục tốt đẹp được hình thành trong

quá trình lịch sử. Nước Lào nằm sâu trong lục địa châu Á nơi giao tiếp giữa hai

nên văn minh cổ đại là Ấn Độ và Trung Hoa. Bởi vậy trong quá trình lịch sử,

nhân dân Lào còn tiếp thu các trào lưu văn hóa tràn qua các vùng này, ảnh

hưởng sâu sắc nhất là Phật giáo và văn hóa Ấn Độ.

Về tập quán sản xuất, tuy cùng sinh sống bằng nghề nông nhưng trình độ

sản xuất không đồng đều nên phong tục tập quán ở mỗi miền có sự khác biệt.

Vì thế mà phong tục tập quán ở Lào rất đa dạng thể hiện rõ trình độ sản xuất

sinh hoạt của mỗi nhóm dân tộc, bộ tộc.

Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước Lào đã có những bước phát

triển và đạt được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên, so với các nước khác

trong khu vực, Lào vẫn là một quốc gia có nền kinh tế phát triển ở mức độ thấp

hơn, đời sống của nhiều dân tộc vẫn ở mức độ thấp, sự gia tăng dân số chưa

tương xứng với sự phát triển kinh tế - xã hội. Do vây, trong Báo cáo Chính trị

tại Đại hội IX của Đảng NDCM Lào đã xác định: phát triển tài nguyên con

1

người là một trong bốn đột phá nhằm đưa Lào ra khỏi tình trạng nước kém phát

triển. Để thực hiện khâu đột phá phát triển tài nguyên con người cần có nhiều

giải pháp xử lý hài hòa mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng dân số, nguồn

nhân lực, phát huy bản sắn văn hóa các dân tộc trong phát triển kinh tế.

Xuất phát từ những lí do có tính cấp thiết trên, tôi đã lựa chọn hướng

nghiên cứu “Đặc điểm dân số, dân tộc nước công hòa dân chủ nhân dân Lào”.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Trên thế giới

Dân số và dân tộc luôn là vấn đề không chỉ có các nhà khoa học, các

chuyên gia mà ngay cả các chính phủ đều rất quan tâm, không chỉ ngày nay mà

ngay cả trước kia, không chỉ đối với nước Lào mà tất cả các nước trên thế giới

đều quan tâm. Sự quan tâm đó không chỉ vì sức ép của bùng nổ dân số mà cả vì

sức mạnh của quốc gia, không chỉ quan tâm hạn chế mà cả khuyến khích phát

triển dân số.

Cách đây trên 200 năm giáo sư người Anh Thomas Malthus lần đầu

tiên đã đề cập đến vấn đề này một cách rõ ràng và có hệ thống nhất trong quyển

“ Bàn về nguyên tắc dân số’’ trong lúc dân số thế giới chưa đầy 1 tỷ người.

Ông đưa ra nhiều quan điểm về mối quan hệ giữa gia tăng và sinh tồn. Điều

này được thể hiện qua bài luận “Luận về nguyên tắc dân số như nó tác đông

đến việc cải thiện xã hội”.Ông cho rằng, dân số sẽ đạt được sự cân bằng thông

qua tác động hủy diệt của chiến tranh, nạn đói và bệnh tật. Đối lập với tư tưởng

của Malthus là quan điểm của Karl Max và Engels. Hai ông có lý giải nguyên

nhân mất cân bằng giữa gia tăng dân số và sinh tồn là do nền kinh tế kém phát

triển và từ đó rút ra việc phát triển hệ thống sản xuất tốt hơn.

Dân số thế giới tăng với tốc độ nhanh, đặc biệt là ở các nước đang phát

triển. Vì thế, khi dân số thế giới đạt mốc 5 tỉ người (năm 1987), Ủy ban dân số

của Liên hiệp quốc đã lấy ngày 11.7 hàng năm là ngày dân số thế giới. Theo

bản báo cáo năm 2006 của Ủy ban dân số Liên Hợp Quốc, dân số thế giới sẽ

2

đặt mức 9,2 tỉ người vào năm 2050, cao hơn ước tính 9,1 tỉ của năm 2004. Xu

hướng tăng dân số diễn ra rất khác nhau giữa các nước. Vì vậy, cho đến nay,

vấn đề dân số vẫn đang tiếp tục nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều

nhà khoa học và nhiều tổ chức khác nhau trên thế giới.

Ở Việt Nam từ những năm cuối của thập kỉ 80 đến nay đã có nhiều công

trình nghiên cứu của các cơ quan Trung ương như: Trung tâm thông tin khoa

học và xã hội thuộc Bộ Lao động thương binh và xã hội, các Viện khoa học,

các cơ quan nghiên cứu quy hoạch chuyên ngành thuộc các Bộ, ngành, Ủy ban

quốc gia DS- KHHGĐ. Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học như:

GS.TS. Lê Thông, PGS.TS. Nguyễn Minh Tuệ, GS.TS. Nguyễn Viết Thịnh,

PGS.TS. Nguyễn Đình Cử, TS Trần Cao Sơn…về mối quan hệ giữa dân số và

các vấn dề kinh tế - xã hội – môi trường. Ngoài ra, đây cũng là vấn đề nóng

hổi và là đề tài của nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành.

2.2. Ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

Trong mấy thập kỳ gần đây, các tác giả người Lào cũng đã soạn thảo và

xuất bản một số công trình nghiên cứu dân số, văn hóa . Trong công trình này,

chúng tôi đã sử dụng một số tư liệu, trong đó có tư liệu gốc từ một số công

trình dưới đây:

- Báo cáo Chính trị tại Đại hội IX của Đảng NDCM Lào (2011)

- “Số liệu điều tra dân số và nhà ở của Lào”, Tổng cục thống kê đất nước

Lào (2005)

- Maha Xila. Phông xavadan “Dã sử Lào”

- Ma Nhu Li Ngầu Xạ Vắt “văn hóa xã hội Lào”

- Kham Bang chăn Na Vong “Hịt xíp xỏng khong xíp xi” (phong tục

tập quán)

- Hùm Phăn Lắt Ta Nạ “Văn hóa Lào”

- Chăn Phon Vong Xạ “Những giá trị văn hóa nghệ thuật của chùa Xiêng

Thong ở Luổng Phạ Bang”

3

- Humphanh Rattanavong “Lễ hội lảy phay và lễ hội xuồng hưa Lào”

- Dr. Suneth Phothisane “Tiến trình Phật giáo ở Lào”.

- Ma ha khămphan Vilachit “Đạo phật ở Lào”.

Những công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến một vài khía cạnh về

dân số và các dân tộc của nước Lào. Việc tác giả nghiên cứu Đặc điểm dân số,

dân tộc nước công hòa dân chủ nhân dân Lào sẽ là một công trình nghiên

cứu có hệ thống và toàn diện về các vấn đề dân số, dân tộc.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn về đặc điểm dân

số và dân tộc của nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, đề xuất một số giải

pháp nhằm phát triển dân số phù hợp, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các

dân tộc, hướng tới mục tiêu chung là phát triển bền vững.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của đặc điểm dân

số, dân tộc.

- Phân tích đặc điểm dân số, dân tộc của nước cộng hòa dân chủ nhân

dân Lào

- Đánh giá những mặt mạnh và những tồn tại của vấn đề dân số và dân

tộc nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

- Nghiên cứu định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển

dân số phù hợp với phát triển kinh tế và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá các

dân tộc nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Nghiên cứu các khía cạnh về đặc điểm dân số và các khía

cạnh liên quan đến dân tộc (chủ yếu tập trung nghiên cứu văn hóa truyền thống

của một số dân tộc).

- Về không gian: Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

4

- Về thời gian nghiên cứu: Sử dụng số liệu thống kê và số liệu điều tra

trong khoảng thời gian từ năm 2004 – 2014.

- Về đối tượng nghiên cứu: Nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào có 49

dân tộc (còn được gọi là bộ tộc), nhưng vì thời gian nghiên cứu có hạn nên tác

giả chỉ lựa chọn nghiên cứu những vẫn đề chung về đặc điểm dân tộc của nước

cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và phân tích đặc điểm văn hóa truyền thống

của dân tộc Lào (Dân tộc đa số).

5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu

5.1. Quan điểm nghiên cứu

5.1.1. Quan điểm hệ thống

Tính hệ thống làm đề tài trở nên lô gic, thông suốt và sâu sắc trong đề

tài này việc nghiên cứu đặc điểm dân số - Dân tộc của nước cộng hòa dân chủ

nhân dân Lào liên quan đến vấn đề quan trọng nhất là những biến động dân số

trong quá trình sinh, tử, chuyển cư đồng thời vấn đề gìn giữ bản sắc văn hóa và

cấu trúc cộng đồng của các đồng bào dân tộc của nước cộng hòa dân chủ nhân

dân Lào và chịu tác động của các nhân tố tự nhiên – Kinh tế xã hội, chính sách

dân số, lịch sử khai thác lãnh thổ.

Vì vậy cần phải tìm hiểu các mối quan hệ qua lại, các tác động ảnh

hưởng giữa các yếu tố để đánh giá chính xác vấn đề nghiên cứu.

5.1.2. Quan điểm tổng hợp

Nghiên cứu đặc điểm dân số, dân tộc của nước cộng hòa dân chủ nhân

dân Lào cần phải dựa trên cơ sở xem xét tác động tổng hợp của các nhân tố tự

nhiên, kinh tế xã hội, chính sách về dân số, dân tộc, bên cạnh đó cần đề cập đến

tác động trở lại của dân số, dân tộc với các nhân tố này.

5.1.3. Quan điểm lịch sử

Mỗi một hiện tượng địa lý kinh tế xã hội đều tồn tại trong một thời gian

nhất định. Nói cách khác các hiện tượng này có quá trình phát sinh, phát triển

và suy vong. Trong quá trình nghiên cứu khi xem xét hay đánh giá cần đứng

5

trên quan điểm lịch sử. Biến động về dân số, bản sắc văn hóa dân tộc cũng vậy

đều diễn ra trong những điều kiện địa lý nhất định và trong thời gian nhất định

với xu hướng từ quá khứ, hiện tại tới tương lai đều có mối quan hệ nhân quả và

diễn ra trong chu trình khép kín.

Việc quán triệt quan điểm lịch sử yêu cầu không chỉ nghiên cứu các

nhân tố trình tự liên tục về không gian mà còn vạch ra xu hướng phát triển dân

số trong lịch sử và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, cấu trúc cộng đồng các

dân tộc. Khi nghiên cứu cần tính đến những nét tiêu biểu do đặc điểm của từng

giai đoạn lịch sử gây ra.

5.1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững

Nghiên cứu vấn đề dân số, dân tộc phải dựa trên quan điểm sinh thái và

phát triển bền vững. Con người được coi là chủ thể trong hoạt động sản xuất và

tiêu dùng nhằm đạt được hiệu quả nhất đinh trong sản xuất và đời sống. Vì thế

vấn đề dân số và bản sắc văn hóa các dân tộc cũng có những tác động nhất định

đến tự nhiên một cách trực tiếp hoặc gián tiếp và ngược lại. Đồng thời bảo vệ

và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, chống gây ô nhiễm môi trường, kết hợp hài

hòa giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội nhằm nâng cao chất

lượng cuộc sống của con người.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

5.2.1. Phương pháp thu thập tài liệu

Để phân tích, đánh gía đặc điểm dân số, dân tộc của một lãnh thổ cần

phải thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau một cách có chọn lọc. Cụ thể

bằng văn bản và dữ liệu không gian (bản đồ) từ nhiều nguồn khác nhau như

báo cáo, các văn kiện, văn bản chính thức, niên giám thống kê và có sự thống

nhất về thời gian.

5.2.2. Phương pháp chuyên gia

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ tiến hành trao đổi thông tin, tham

khảo ý kiến trong lĩnh vực địa lý: Dân số, Dân tộc học, văn hóa…Từ đó có sự

bổ sung, điều chỉnh kịp thời trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.

6

5.2.3. Phương pháp bản đồ, GIS

Đây là phương pháp quan trọng và từ lâu đã trở thành phương pháp

truyền thống của ngành địa lý. Sử dụng phương pháp này giúp các vấn đề được

cụ thể, trực quan và toàn diện hơn. Các hình trong đề tài được thành lập bằng

các phần mềm hiện đại, cụ thể sẽ xây dựng một số biểu đồ, tháp dân số năm

2004-2014, bản đồ phân bố dân cư, dân tộc dựa trên các dữ liệu đã được thu

thập và xử lý.

5.2.4. Phương pháp dự báo

Phương pháp này là một phần không thể thiếu khi nghiên cứu vấn đề liên

quan đến đặc điểm dân số - Dân tộc trong chiến lược phát triển, mục tiêu, định

hướng và giải pháp phát triển trong tương lai.

6. Dự kiến đóng góp luận văn

- Kế thừa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về đặc điểm dân số,

dân tộc.

- Phân tích được đặc điểm dân số của nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

- Phân tích được đặc điểm dân tộc của nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,

đặc biệt là phân tích được những nét văn hóa truyền thống của dân tộc Lào.

- Đánh giá được mặt mạnh, mặt tồn tại trong vấn đề dân số, dân tộc của

nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

- Đề xuất được một số giải pháp trên các phương diện: phát triển dân số

phù hợp với phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và gìn giữ, phát

huy bản sắc văn hoá các dân tộc.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về đặc điểm dân số, dân tộc

Chương 2: Đặc điểm dân số nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

Chương 3: Đặc điểm dân tộc nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

Chương 4: Định hướng và một số giải pháp ổn định dân số và gìn giữ,

phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

7

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẶC ĐIỂM DÂN SỐ, DÂN TỘC

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Các vấn đề về dân số

1.1.1.1. Khái niệm dân số

Dân số là một tập hợp người sống trên một lãnh thổ được đặc trưng bởi

quy mô, cơ cấu, mối quan hệ qua lại với nhau về mặt kinh tế, bởi tính chất của

sự phân công lao động và cư trú theo lãnh thổ [3].

Dân số luôn luôn biến động theo thời gian và không gian. Những biến

động về dân số có ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi các nhân, gia đình và toàn

xã hội. Nhằm đảm bảo sự kiểm soát nhất định đối với vấn đề dân số, thì một

quốc gia thường có những cuộc điều tra dân số để làm cơ sở đánh giá, nhân

định và đưa ra những chính sách đối với vấn đề dân số của mình.

1.1.1.2. Quy mô dân số

Quy mô dân số được hiểu là số lượng người sống trên một lãnh thổ (xã,

huyện, tỉnh, quốc gia, vùng…) tại một thời điểm xác định [7].

Quy mô dân số là chỉ tiêu dân số học cơ bản. Thông tin về qui mô dân số

được dùng để tính só dân bình quan và nhiều tiêu chí khác. Nó là đại lượng không

thể thiếu được trong việc xác định các thước đo chủ yếu về mức sinh, chết, di dân.

Đồng thời nó còn được sử dụng để so sánh với các tiêu chí kinh tế xã hội nhằm lí

giải nguyên nhân của tình hình và hoạch định chiến lược phát triển.

Để nghiên cứu quy mô dân số, người ta sử dụng các thước đo sau:

a. Số dân thời điểm: là tổng số dân sinh sống trong một vùng lãnh thổ

nhất định vào những thời điểm xác định (có thể là đầu năm, cuối năm, giữa

năm hoặc thời điểm t bất kì nào đó…).

Các kí hiệu thường dùng như:

+ p0: Số dân đầu năm (hoặc đầu kì);

+ p1: Số dân cuối năm (hoặc cuối kì);

+ pt: Số dân tại thời điểm t.

8

Thông tin về qui mô dân số thời điểm được sử dụng để tính tốc độ tăng

hay giảm dân số theo thời gian [17].

b. Số dân trung bình (kí hiệu thường dùng ) là số dân trung bình cộng

của các dân số thời điểm.

Khi có số dân đầu năm và cuối năm, hoặc đầu và cuối một thời kì ngắn,

nếu số dân biến động tăng hoặc giảm tương đối đề đặn, không có những biến đổi

mang tính chất đột biến ta có công thức tính dân số trung bình như sau:

=

Trong đó:

P0: số dân đầu năm (hoặc đầu kì)

P1: số dân cuối năm (hoặc cuối kì)

Trong trường hợp không đủ số liệu để tính toán, người ta cũng có thể lấy

số dân vào thời điểm giữa năm (1/7 hàng năm) làm số dân trung bình của năm

đó [6].

1.1.1.3. Cơ cấu dân số

Cơ cấu dân số là một khái niệm dùng để chỉ tập hợp những bộ phận

hợp thành dân số của một lãnh thổ (nhóm nước, từng nước, từng vùng…) được

phân chia dựa trên những tiêu chuẩn nhất định [17].

Bên cạnh những đặc điểm chung của con người là cùng chung sống

trong một lãnh thổ, họ còn có những đặc điểm riêng về giới tính, độ tuổi… Do

vậy, để hiểu biết chi tiết hơn về dân số, chúng ta cần phân chia dân số thành

những vấn đề khác nhau theo một kiến thức nào đó. Sự phân chia các nhóm gọi

là cơ cấu dân số.

- Cơ cấu dân số theo tuổi: Đây là việc phân chia tổng dân số của một

lãnh thổ thành những nhóm dân số có tuổi hoặc khoảng tuổi khác nhau tại một

thời điểm nào đó [17].

- Cơ cấu dân số theo giới tính: Nếu chia toàn bộ dân số nam và dân số nữ

thì ta có cơ cấu dân số theo giới tính. Các chỉ tiêu thường dùng là tỉ lệ hoặc tỉ số

9

giới tính. Nếu kí hiệu pm và pf lần lượt là dân số nam và dân số nữ thì tỉ số giới(

SR) được xác định như sau:

SR= [3].

- Cơ cấu dân số theo thành thị và nông thôn: Là việc chia tổng dân số

của một lãnh thổ thành dân cư sinh sống ở thành thị và dân cư sinh sống ở nông

thôn thì ta được cơ cấu dân số theo thành thị và nông thôn [5].

- Cơ cấu theo lao động: cơ cấu dân số theo lao động có liên quan đến

nguồn lao động và dân số hoạt động theo khu vực kinh tế [17].

+ Về lao động có dân số hoạt động kinh tế và dân số khong hoạt động

kinh tế.

+ Cơ cấu dân số theo khu vực kinh tế: số dân làm việc trong 3 khu vực:

(-) Khu vực 1: nông – lâm- ngư nghiệp

(-) Khu vực 2: công nghiệp – xây dựng

(-) Khu vực 3: dịch vụ,

- Cơ cấu dân số theo dân tộc – tôn giáo: là tập hợp những bộ phận hợp

thành dân số của một quốc gia được phân chia theo thành phần dân tộc (tộc

người) [17].

- Cơ cấu theo trình độ văn hóa: cơ cấu này phản ánh trình độ dân trí, học

vấn của dân cư một quốc gia, một vùng hay toàn thế giới thể hiện qua:

+ Tỉ số người lớn biết chữ đó là những người đủ 15 tuổi trở lên biết

đọc, hiểu và viết những câu ngắn gọn, đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

với số dân.

+ Tỉ lệ nhập học của cấp giáo dục tiểu học, trung học và đại học.

Có rất nhiều tiêu thức khác nhau để phân chia tổng dân số, mỗi tiêu thức

phục vụ cho một lợi ích nghiên cứu khác nhau và có ý nghĩa vô cùng to lớn

trong việc phân tích, đánh giá và điều chỉnh quá trình dân số theo hướng có lợi

cho quá trình phát triển kinh tế- xã hội lâu dài và ổn định.

10

1.1.1.4. Biến động dân số

a. Biến động dân số tự nhiên

Sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người gắn liền với sự vận động tự

nhiên và xã hội của con người. Sự vận động đó chính là quá trình sinh, chết và

di dân. Nó vừa là kết quả vừa là nguyên nhân của sự phát triển. Do đó, việc

nghiên cứu nhằm tác động một cách có khoa học vào sự vận động có ý nghĩa to

lớn tới sự phát triển của xã hội loài người.

* Mức sinh và các thước đo đánh giá mức sinh:

- Mức sinh: Phản ánh mức độ sinh sản của dân số, nó biểu thị số trẻ em

sinh sống mà một phụ nữ có được trong suốt cuộc đời sinh sản của mình. Mức

sinh phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố sinh học, tự nhiên và xã hội (Sự sinh

sống là sự kiện đứa trẻ tách khỏi cơ thể mẹ và có dấu hiệu của sự sống như

hơi thở, tim đập, cuống rốn rung động hoặc những cử động tự nhiên của bắp

thịt) [7].

- Các thước đo cơ bản: Để đánh giá mức sinh có rất nhiều thước đo khác

nhau và mỗi thước đo đều chứa đựng những ưu điểm riêng biệt. Sau đây là một

số thước đo cơ bản.

+ Tỷ suất sinh thô (CBR): Biểu thị số trẻ em sinh ra trong một năm so

với 1000 dân số trung bình năm đó, đơn vị phần nghìn.

CBR= x 1000

Trong đó:

B: Số trẻ em sinh sống trong năm nghiên cứu.

: Dân số trung bình của năm nghiên cứu.

Đây chỉ là chỉ tiêu "thô" về mức sinh bởi lẽ mẫu số bao gồm toàn bộ dân

số, cả những thành phần dân số không tham gia vào quá trình sinh sản như: đàn

ông, trẻ em, người già hay phụ nữ vô sinh [5].

+ Tỷ suất sinh chung: Biểu thị số trẻ em sinh ra trong một năm so với

một nghìn phụ nữ trong độ tuổi có khả năng sinh đẻ.

11

Trong đó:

GFR: Tỷ suất sinh chung.

B: Số trẻ em sinh ra trong năm.

W15-49: Số lượng phụ nữ trung bình có khả năng sing đẻ trong năm.

Tỷ suất sinh chung đã một phần nào loại bỏ được ảnh hưởng của cấu trúc

tuổi và giới - nó không so với 1000 dân nói chung mà chỉ so với 1000 phụ nữ

trong độ tuổi có khả năng sinh sản. Tuy nhiên cách tính này vẫn chịu ảnh

hưởng của sự phân bố mức sinh trong thời kỳ sinh sản của phụ nữ, tình trạng

hôn nhân [21].

+ Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi: Đối với các độ tuổi khác nhau , mức

sinh đẻ của phụ nữ cũng khác nhau. Do vậy cần xác định mức sinh theo từng

độ tuổi của phụ nữ.

Công thức:

Trong đó:

ASFRx: Tỷ suất sinh đặc trưng của phụ nữ ở dộ tuổi X

Bfx: Số trẻ em sinh ra trong một năm của những phụ nữ ở độ tuổi X

Wx : Số phụ nữ ở độ tuổi X trong năm.

Để xác định được ASFRx cần có hệ thống số liệu chi tiết, hơn nữa mặc

dù mức sinh ở các độ tuổi khác nhau là khác nhau, nhưng đối với các độ tuổi

gần nhau, mức sinh không khác nhau nhiều. Do vậy, trong thực tế người ta

thường xác định tỷ suất sinh đặc trưng cho từng nhóm tuổi. Thường toàn bộ

phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được chia thành 7 nhóm mỗi nhóm 5 tuổi [21]

+ Tổng tỷ suất sinh là số con trung bình mà một phụ nữ có thể sinh ra

trong suốt cuộc đời của mình, nếu như người phụ nữ đó trải qua tất cả các tỷ

suất sinh đặc trưng theo tuổi của năm đó. Công thức tính như sau:

12

TFR= 5. [21]

Trong đó:

TFR: Tổng tỷ suất sinh

ASFRx: Tỷ suất sinh đặc trưng cho từng nhóm tuổi ( 5 năm)

* Mức chết và các thước đo chủ yếu:

- Mức chết: Chết là một trong những yếu tố của quá trình tái sản xuất

dân số, là hiện tượng tự nhiên, không thể tránh khỏi đối với mỗi con người.

Nếu loại bỏ sự biến động cơ học, tăng tự nhiên dân số bằng hiệu số sinh và

số chết. Vì vậy, việc tăng hay giảm số sinh hoặc số chết đều làm thay đổi

quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng tự nhiên của dân số. Đồng thời trong quá trình

tái sản xuất dân số, các yếu tố sinh và chết có mối quan hệ tác động qua lại

lẫn nhau. Sinh đẻ nhiều hay ít, mau hay thưa, sớm hay muộn đều có thể làm

tăng hoặc giảm mức chết. Ngược lại mức chết cao hay thấp sẽ làm tăng hoặc

giảm mức sinh.

Chính vì vậy việc giảm mức chết là nghĩa vụ và trách nhiệm thường

xuyên của mọi nước, mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương. Giảm mức chết vừa

có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc.

Chết là sự mất đi vĩnh viễn tất cả những biểu hiện của sự sống ở một thời

điểm nào đó [17].

Để đánh giá mức độ chết cần dùng các thước đo. Có nhiều thước đo khác

nhau. Mỗi thước đo phản ánh một khía cạnh này hay khía cạnh khác của mục

đích nghiên cứu và mỗi thước đo có những ưu điểm, nhược điểm riêng.

- Các thước đo chủ yếu:

+ Tỷ suất chết thô (CDR): Biểu thị số người chết trong một năm trong

một ngàn người dân trung bình năm đó ở một lãnh thổ nhất định.

Công thức:

13

Trong đó:

D: Số người chết trong năm của một lãnh thổ nào đó.

: Dân số trung bình trong năm của lãnh thổ đó [17].

+ Tỷ suất chết đặc trưng theo tuổi (ASDRx): Biểu thị số người chết trong

năm ở một độ tuổi nào đó so với 1000 nghìn người trung bình ở độ tuổi đó

trong năm tại một nơi nào đó.

Công thức:

Trong đó:

ASDRx: Tỷ suất chết đặc trưng ở tuổi X

Dx: Số người chết trong năm ở độ tuổi X

x: Dân số trung bình trong năm ở độ tuổi X.

+ Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi: Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi biểu thị

mối quan hệ giữa số trẻ em chết dưới 1 tuổi trong năm so với tổng số trẻ em được

sinh ra còn sống trong cùng năm, được tính trên cùng địa bàn lãnh thổ [5].

Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi được tính theo đơn vị phần nghìn và tính

theo công thức như sau:

Trong đó:

IMR: Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi.

D0: Số trẻ em dưới một tuổi chết trong năm

B: Số trẻ em sinh sống trong cùng năm.

* Tỷ suất gia tăng tự nhiên

Dân số của một lãnh thổ trong từng thời kì tăng hay giảm. trước hết là

kết quả của mối tương quan giữa số sinh và số chết.Sự biến động này gọi là gia

tăng dân số tự nhiên [7].

14

Tỷ suất gia tăng dân số tự nhiên được xác định bằng hiệu số giữa tỷ suất

sinhthô và tỷ suất chết thô trong một khoảng thời gian xá định, trên một đơn vị

lãnh thổ nhất định [3].

NIR = (Đơn vị: %)

Trong đó:

NIR: tỷ suất gia tăng tự nhiên

CBR: tỷ suất sinh thô

CDR: tỷ suất chết thô

Tỷ suất gia tăng tự nhiên còn có thể xác định bằng hệ số giữa số sinh và

số chết trong năm so với dân số trung bình ở cùng thời điểm, đơn vị tính bằng

phầm trăm(%) [3]

NIR =

Trong đó:

NIR: tỷ suất gia tăng tự nhiên

B: số trẻ em sinh ra trong năm còn sống

D: số người chết trong năm

P: dân số trung bình ở cùng thời điểm

Tỷ suất gia tăng tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến tình hình biến động dân

số và được coi là động lực phát triển dân số.

b. Biến động dân số cơ học

Biến động dân số cơ học (chuyển cư hoặc di cư) là sự thay đổi chỗ ở của

dân số, nói chính xác hơn là sự di chuyển của dân số qua một biên giới xác

định của một vùng lãnh thổ nhằm mục đích thiết lập một nơi ở mới. Cùng với

sinh, chết (biến động tự nhiên dân số), chuyển đi, chuyển đến (biến động cơ

học của dân số) cấu thành các thành phần biến động dân số [5]

15

*Tỷ suất nhập cư

Tỷ suất nhập cư là tương quan giữa số ngwoif nhập cư đến một vùng

lãnh thổ trong năm so với dân số trung bình ở cùng thời điểm, đơn vị tính bằng

phầm nghìn ( ) [17].

IR= x 1000

Trong đó:

IR: tỷ suất nhập cư

I: Số người nhập cư đến vùng trong năm

P: dân số trung bình của vùng trong năm

*Tỷ suất xuất cư

Tỷ suất xuất cư là tương quan giữa số người xuất cư khỏi một vùng lãnh

thổ trong năm so với dân số trung bình ở cùng thời điểm, đơn vị tính bằng phần

nghìn ( ) [17].

OR= x 1000

Trong đó:

OR: tỷ suất xuất cư

O: số người xuất cư khỏi vùng trong năm

P: dân số trung bình của vùng trong năm.

* Tỷ suất gia tăng cơ học( tỷ suất chuyển cư thực)

Tỷ suất gia tăng cơ học( tỷ suất chuyển cư thực) biểu thị số chênh lệch

giữa tỷ suất nhập cư và tỷ suất xuất ở một lãnh thổ trong một thời gian nhất

định được tính như sau:

NMR= (Đơn vị:%)

Trong đó:

NMR: tỷ suất chuyển cư thực

IR: tỷ suất nhập cư

OR: tỷ suất xuất cư

16

Hay là tương quan giữa số người nhập cư và xuất cư trong năm so với

dân số trong bình ở cùng thời điểm, đơn vị tính bằng phần trăm ( %).

NMR= x 100

Trong đó:

NMR: tỷ suất gia tăng cơ học

I: số người nhập cư đến vùng trong năm

O: số người xuất cư khỏi vùng trong năm

P: dân số trung bình năm

c. Tốc độ gia tăng dân số

Tốc độ gia tăng dân số (r) là một số tương đối biểu thị nhịp độ tăng giảm

quay mô dân số trong khoảng một thời gian nhất định, thường là một năm [3].

Công thức tính:

r =

Trong đó:

- r: tốc độ gia tăng dân số

- p1: số lượng dân ở cuối kì (cuối năm)

p0 : số dân ở đầu kì (đầu năm)

1.1.2. Những vấn đề về dân tộc

1.1.2.1. Khái niệm dân tộc

Thuật ngữ dân tộc được bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp cổ "ethnos" dùng để

chỉ những cộng đồng người hình thành và phát triển trong quá trình tự nhiên -

lịch sử. Mỗi cộng đồng tộc người được đặc trưng bởi những dấu hiệu như :

cùng chung tiếng nói, lãnh thổ, lối sống văn hoá và ý thức tự giác dân tộc.

Trong một số trường hợp, những dấu hiệu cùng chung lãnh thổ có thể đóng vai

trò kém quan trọng hơn [6].

Một số nhà dân tộc học Việt Nam cho rằng, cộng đồng tộc người hay dân

tộc phải được coi là đơn vị cơ bản để tiến hành xác minh thành phần các dân

17

tộc. Tại nhiều hội thảo khoa học về dân tộc học hầu hết ý kiến đều tán thành

các chỉ tiêu xác định thành phần dân tộc là : tiếng nói, đặc điểm văn hoá và ý

thức tự giác dân tộc. Về nguyên tắc phân loại cộng đồng các dân tộc, các nhà

dân tộc học đều thống nhất rằng : các cộng đồng dân tộc khác nhau không phải

theo một đặc trưng nào đó, mà theo tổng thể các đặc trưng, đó là [12] :

- Cùng nói một ngôn ngữ hay nói cách khác mỗi dân tộc đều có tiếng nói

riêng của mình. Ngôn ngữ không chỉ đơn thuần là một phương tiện để giao lưu

mà còn là một phương tiện để phát triển các hình thái quan trọng nhất đối với

đời sống văn hoá tinh thần của họ. Chỉ có ngôn ngữ mẹ đẻ được tiếp nhận từ

thời thơ ấu mới có thể giúp họ biết được những sắc thái tinh vi nhất của đời

sống tinh thần, cho phép họ hiểu biết nhau thấu đáo. Ngôn ngữ liên quan mật

thiết đến bản sắc tộc người, không phải ngẫu nhiên mà phần lớn các tên gọi dân

tộc lại trùng lặp với ngôn ngữ của họ.

- Một trong những dấu hiệu quan trọng để phân định các dân tộc là đặc

điểm văn hoá. Văn hoá là cái mà mỗi dân tộc xây dựng nên trong quá trình phát

triển lịch sử của mình được lưu truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Vì thế

mỗi dân tộc đều có đặc điểm văn hoá riêng; các yếu tố văn hoá đặc thù thường

trở thành biểu tượng của bản sắc dân tộc. Khi nói đến đặc điểm văn hoá có

nghĩa là nói đến những thành tựu văn hoá dân tộc đó đã đạt được, những tri

thức mà họ đã tích luỹ được, những đóng góp của họ vào kho tàng văn hoá

nhân loại.

- Ý thức dân tộc hay sự tự giác dân tộc, suy cho cùng là cái quyết định để

xác định thành phần dân tộc. Nó được xuất hiện khi con người trong cùng một

cộng đồng, sử dụng một tộc danh thống nhất và cũng là kết quả của sự tác động

lẫn nhau của các yếu tố cơ bản hình thành nên cộng đồng dân tộc. Điều quan

trọng của ý thức dân tộc là tính độc lập cao hơn hẳn so với nguyên nhân hình

thành nó.

- Cùng cư trú trên một phạm vi lãnh thổ nhất định. Lãnh thổ như một

điều kiện vật chất, cơ bản để hình thành các cộng đồng dân tộc. Để giao

18

tiếp được với nhau, con người thường phải sống gần nhau, thậm chí các

nhóm người khác nhau về ngôn ngữ, về xuất xứ, nếu sinh sống trong cùng

một vùng lãnh thổ, họ có thể tạo thành một cộng đồng thống nhất.

1.1.2.2. Dân tộc đa số, dân tộc thiểu số

Trên thế giới hiện nay người ta thường dùng các thuật ngữ: Dân tộc bản

địa (Thổ dân, Dân bản xứ), Dân tộc thiểu số bản địa, bộ lạc, bộ tộc, sắc tộc, tộc

người, dân tộc thiểu số, dân tộc ít người... Sự tồn tại nhiều thuật ngữ đó, do

những nguyên nhân gắn liền với sự phát triển của các dân tộc trên thế giới và

sự xáo trộn của mỗi nước qua các thời kỳ biến thiên lịch sử. Những khái niệm

trên không đơn giản chỉ là học thuật mà là vấn đề có nội dung chính trị của nó.

- Dân tộc đa số là dân tộc có số người đông nhất trong cộng đồng các dân

tộc, dùng thuật ngữ này là nói trên phạm vi của một nước chứ không là nói trên

địa bàn vùng hoặc địa phương nào đó.

- Dân tộc thiểu số, thuật ngữ này không đồng nghĩa với dân tộc chậm

phát triển, càng không phải là dân tộc lạc hậu, khái niệm đó là chỉ những dân

tộc có số người ít hơn so với dân tộc đa số.

Trên thực tế, khái niệm “dân tộc thiểu số” chỉ có ý nghĩa biểu thị tương

quan về dân số trong một quốc gia đa dân tộc. Như vậy, khái niệm “dân tộc

thiểu số” dùng để chỉ những dân tộc có số dân ít, chiếm tỷ trọng thấp trong

tương quan so sánh về lượng dân số trong một quốc gia đa dân tộc. Khái niệm

“dân tộc thiểu số” cũng không có ý nghĩa biểu thị tương quan so sánh về dân số

giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực và thế giới. Một dân tộc có thể

được quan niệm là “đa số” ở quốc gia này, đồng thời có thể là “thiểu số” ở

quốc gia khác.

1.1.2.3. Bản sắc văn hoá

Thuật ngữ "Bản sắc" chỉ tính chất, màu sắc riêng tạo thành phẩm chất đặc

biệt của một sự vật. Thuật ngữ "Bản sắc" nhấn mạnh cái riêng tạo thành phẩm cách,

tài năng.

19

"Bản sắc văn hoá " là những đặc điểm riêng biệt, có giá trị cao, gồm những giá

trị vật chất và tinh thần được tích luỹ và phát triển trong tiến trình đi lên của một dân

tộc; nó quy định vị trí riêng biệt về mặt xã hội của một dân tộc. Những giá trị đó có

thể ở mọi dân tộc, song từng dân tộc có bản sắc văn hoá được biểu hiện đậm nét, sâu

sắc và đặc biệt hơn [16].

Việc nghiên cứu bản sắc văn hoá dân tộc nhằm mục đích tìm đến cái nét

riêng biểu hiện ở các mặt : nhận thức, thái độ, hành vi của nhân cách. Đồng

thời, bản sắc văn hoá dân tộc còn được xem xét từ các góc độ : cái đúng, cái

hay, cái tốt (chân, thiện, mỹ) có ở mỗi dân tộc, song nó được thể hiện ở dân tộc

nào đậm nét, sâu sắc sẽ trở thành cái riêng của dân tộc ấy. Ở góc độ giá trị tinh

thần xã hội, bản sắc văn hoá dân tộc thể hiện ở lối sống, cách ứng xử, cách thể

hiện ở nếp sinh hoạt, ngôn ngữ, giao tiếp... một cách đặc biệt, khó có thể trộn

lẫn với dân tộc khác; xét theo trên cơ sở xã hội, đó là các giá trị được biểu lộ

vững bền mà không phụ thuộc vào biến đổi lịch sử.

Bản sắc văn hóa dân tộc là một vấn đề rất nhạy cảm liên quan mật thiết đến

sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Bản sắc văn hóa dân tộc là giá trị

cốt lõi nhất của nền văn hóa, thể hiện tâm hồn, cốt cách, tình cảm, lý trí, sức

mạnh của dân tộc, tạo nên chất keo kết nối các cộng đồng người gắn bó, đoàn

kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Những giá trị của bản sắc văn hóa

dân tộc là một trong những động lực to lớn đảm bảo sự ổn định và phát triển

bền vững của quốc gia dân tộc. Do đó vấn đề gìn giữ, bảo vệ và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của các quốc gia.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Khái quát về dân cư, dân tộc ở Châu Á

Châu Á là lục địa có dân số đông nhất với các nền văn hóa lớn vô cùng

đa dạng. Lịch sử văn minh ở đây trải qua hàng chục ngàn năm. Đô thị và chữ

20

viết phát triển trong mối liên hệ chặt chẽ và được xuất hiện trước tiên ở Châu

Á. Hiện nay, Châu Á chiếm 2/3 dân số trên thế giới, tập trung ở vùng đông và

nam lục địa. Bảy trong mười nước đông dân nhất thế giới cũng nằm ở Châu Á

trong đó Trung Quốc và Ấn Độ được xếp đầu danh sách.

Phần lớn dân số Châu Á là nông dân sống ở nông thôn, tuy nhiên dân cư

sống ở các thành phố cũng đang tăng lên nhanh chóng. Những thành phố lớn nhất

Châu Á hiện nay có số dân trên 10 triệu người. Và trong tương lai, thậm chí nhiều

thành phố còn tăng nhanh hơn vì dân nông thôn tiếp tục đổ ra thành thị.

Những vùng đất rộng lớn ở Trung Đông và Trung Á rất hoang vu và

không có dân cư sinh sống do khí hậu quá nóng hoặc quá lạnh. Hầu hết dân cư

chỉ tập trung ở các thung lũng sông phì nhiêu và vùng đất thấp miền Duyên Hải

ở Nam và Đông Á. Ngoại trừ Hồng Kông và Singapore, Bangladesh là nước có

mật độ dân số cao nhất Châu Á: 965 người/km²

Châu Á là cái nôi của tất cả các tôn giáo chính trên thế giới, bao gồm đạo

Hindu, đạo Phật, đạo Do Thái, Cơ đốc và đạo Hồi. Ngày nay tín ngưỡng tôn

giáo vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến con người. Các tôn giáo thường khuyên

chúng ta không nên ham muốn vật chất và nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt

động từ thiện để đạt được phần thưởng tinh thần nhiều hơn là lợi ích cá nhân.

Những nền văn minh sớm nhất thế giới ra đời ở các vùng thung lũng sông

thuộc Châu Á, thường được gọi là vùng đất lưỡi liềm phì nhiêu, trải dài từ vịnh

Ba Tư đến Địa Trung Hải. Nhiều thành phố ở đây có lịch sử phát triển đền vài

nghìn năm.

1.2.2. Khái quát về dân cư, dân tộc của khu vực Đông Nam Á

Đông Nam Á là khu vực nằm ở phía Đông Nam của Châu Á với diện tích

4,523,000 km² bao gồm có 11 quốc gia nằm ở phía Nam Trung Quốc, phía

Đông Ấn Độ và phía Bắc của Úc.

21

Bảng 1.1. Dân số của các nước khu vực Đông Nam Á năm 2012

Mật độ dân số STT Quốc gia Dân số (người) (người/km²)

1 Indonesia 251.160.124 124,5

2 Philippines 105.720.644 88,7

3 Vietnam 92.477.857 130,5

4 Thái Lan 67.448.120 263,4

5 Myanmar 55.167.330 83,9

6 Campuchia 15.205.539 124,5

7 Lào 6.318.284 26,7

8 Malaysia 14.154.948 78,2

9 Singapore 5.076.700 74,9

10 Brunây 408.786 67,3

11 Đông Timor 1.124.000 71,1

Nguồn: gso.gov.vn

Khu vực Đông Nam Á từ xưa, trong các sách cổ của Ấn Độ đã được nói

đến với những cái tên như Đất vàng, Đảo vàng, người Trung Hoa thì gọi là

Nam Dương, tương tự người Nhật Bản củng dùng từ Nan Yo để chỉ Đông Nam

Á, tức Nam Dương như Trung Hoa, người Ả Rập gọi là Zabag, còn người Hy

Lạp, La mã từ giữa thế kỷ II TCN cũng gọi là Chryse (đất vàng).

Như vậy là từ xa xưa, thế giới đã biết đến khu vực văn hóa Đông Nam

Á. Sở dĩ như vậy là vì tầm quan trọng về mặt vị trí địa lý của khu vực Đông

Nam Á, vốn đã được chú ý đến từ rất lâu. Đông Nam Á thường được gọi là

“ngã tư đường”, “hành lang” hay “cầu nối” giữa thế giới Đông Á với Tây Á và

Địa Trung Hải.

Ngay từ buổi bình minh của lịch sử, Đông Nam Á đã là một trong những

cái nôi hình thành loài người, đây là địa bàn hình thành của đại chủng phương

Nam (Australoid). Vào khoảng 10.000 năm trước (thời đại đồ đá giữa), có một

22

dòng người thuộc đại chủng Mongoloid từ phía dảy Himalaya thiên di về

hướng Đông Nam, tới vùng Đông Nam Á thì dừng lại và hợp chủng với cư dân

Melanesien bản địa (thuộc đại chủng Australoid), dẫn đến sự hình thành chủng

Indonesien (cổ Mã Lai _ Đông Nam Á tiền sử).

Ở Đông Nam Á có đến hằng trăm dân tộc khác nhau, vì thế phong tục,

tập quán rất đa dạng, tạo nên một bức tranh đa sắc. Mặc dù rất đa dạng, song

những tập tục ấy vẫn có nét gần gủi, tương đồng nhau, là mẩu số chung quy tụ,

giao thoa trên nền tảng của cơ sở văn hóa bản địa Đông Nam Á - Một nền tảng

văn minh nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là cách ăn mặc với một bộ trang

phục chung là Sàrông (váy), khố, vòng đeo tai, vòng đeo cổ,… Đó là tục ăn

uống với các thức ăn chính là cơm, rau, cá và hoa quả (hiện nay, thịt ngày càng

quan trọng trong cuộc sống hiện đại). Đó là tục ăn hỏi trước khi tổ chức đám

cưới linh đình. Tục chôn theo người chết những thứ cần thiết cho cuộc sống mà

khi còn sống họ thường ưa thích. Đó là tục nhai trầu, cưa và nhuộm răng đen,

xăm mình; rồi đến cả các trò vui chơi giải trí như thả diều, thi chọi gà, bơi

thuyền,… Trong cách ăn ở, ngôi nhà chung của các dân tộc Đông Nam Á là

nhà sàn “cao cẳng” thích hợp với mọi địa hình của khu vực và phù hợp với khí

hậu nóng ẩm của khu vực Đông Nam Á. dân tộc mùa nào, tháng nào trong năm

củng có lể hội. Nếu thống kê con số lể hội thì chắc chắn sẽ có đến con số hàng

trăm. Tất nhiên, trong sự đa dạng ấy, các lể hội ở Đông Nam Á chủ yếu tập

trung vào ba hình thức chính: Lễ hội nông nghiệp (Như lễ xuống đồng của

người Việt, lễ mở đường cày đầu tiên của người Thái, lễ dựng chòi cày của

người Chăm,…), lễ hội tôn giáo (như lễ hội chùa Keo, chùa Hương ở Việt

Nam,…), lễ tết (như tết nguyên đán, tết phật,…).

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cùng sinh ra và lớn lên trong một khu

vực địa lí, văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước. Tín ngưỡng bản địa Đông Nam

Á dù hết sức đa dạng, nhiều vẽ nhưng vẫn thuộc về ba loại chính: Tín ngưỡng

sùng bái tự nhiên (Các cư dân Đông Nam Á như ở Việt Nam, Lào, Campuchia,

23

Myanma, Indonesia,… thờ cả hạc, rùa, rắn, voi, cá sấu,…), tín ngưỡng phồn

thực (thờ sinh thực khí tượng trưng cho cơ quan sinh dục nam, nữ; các tục tóe

nước, tục cầu mưa, tục đánh đu,…), tín ngưỡng thờ cúng người đã mất (tục thờ

cúng tổ tiên, ông bà). Cái chung đó xuất phát từ thuyết vạn vật hữu linh, tức

thuyết mọi vật đều có hồn.

Đông Nam Á có có một bản sắc văn hóa riêng và ngày càng tiến bộ. Đông Nam

Á hiện nay đang phát triển kinh tế, đất nước hết sức nhanh chóng và mạnh mẽ.

Mà văn hóa là động lực quan trọng nhất của của sự phát triển một nước, một

khu vực. Với bề dày văn hóa mang bản sắc chung, đặc sắc, các quốc gia Đông

Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ tiến xa hơn nửa, đạt được nhiều

thành tựu mới trong tương lai, Đông Nam Á sẽ trở thành một khu vực hòa bình,

ổn định, một khu vực phát triển, thịnh vượng của thế giới.

Tiểu kết chương 1

Đặc điểm dân số, dân tộc của mỗi quốc gia, mỗi khu vực chịu ảnh

hưởng của nhiều yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã hội. Những thay đổi diễn ra

trong quá trình sinh, tử và chuyển cư, đã tạo nên những đặc điểm dân số và

trong mỗi quốc gia bao giờ cũng có nhiều dân tộc cùng cư trú. Việc tìm hiểu

các cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về dân số, dân tộc có vai trò vô cùng quan

trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đây cũng là cơ sở quan trong

để đánh giá đúng thực trạng dân số, dân tộc trong mối quan hệ với các vấn đề

tài nguyên – môi trường, chất lược cuộc sống, từ đó đề xuất các giải pháp phát

triển bền vững phù hợp với từng quốc gia.

24

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM DÂN SỐ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

2.1. Khái quát chung về nước Lào

2.1.1. Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ

Nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào nằm sâu trong lục địa thuộc khu

vực Đông Nam châu Á giữa vĩ tuyến 14 và 25,5 độ bắc. Với diện tích 236.000

km2, toàn bộ lãnh thổ Lào chạy dài theo sông Mê-kông, có đường biên giới

chung với 5 nước. Phía Đông giáp Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phía

Tây có đường biên giới chung với vương quốc Thái Lan khoảng 1.600km,

trong đó có hai dải đất nằm bên hữu ngạn sông Mê-kông là tỉnh Xay-nhạ-bu-li

ở cực Bắc và một huyện thuộc tỉnh Chăm-pa-sắc ở cực Nam. Đường biên giới

Lào – Thái hiện nay là do sự phân chia thuộc địa giữa thực dân Anh – Pháp vào

giữa năm 90 của thế kỷ XIX. Từ năm 1902 đến trước năm 1945 lại qua nhiều

lần điều chỉnh giữa thực dân Pháp và Thái Lan. Phía Đông Bắc giáp vùng đồi

núi Vân Nam Trung Quốc. Phía Nam giáp Cam-pu-chia, có đường biên giới

chạy dài từ dãy núi Đăng-rếch đến gần Trường Sơn. Lào bao gồm 3 miền :

Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam.

- Bắc Lào gồm 8 tỉnh: Oudomxay, Xayabury, Xiengkhuang, Huaphanh,

Bokeo, Phongsaly, Luangnamtha, Luangprabang.

- Trung Lào gồm 6 tỉnh thành: Thủ đô Viêng Chăn, tỉnh Viêng Chăn,

Borikhamxay, Khammuane, Sava nakhet, khet phi set xay som bun

- Nam Lào gồm 4 tỉnh: Attapeu, Saravane, Sekong, Champasack

Lào chia thành 18 tỉnh, 148 huyện, 8,514 làng và một thủ đô Viêng

Chăn. Các tỉnh lại chia thành các huyện (muang). Thành phố Viêng Chăn chia

thành các quận.

25

26

2.1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên

Nước Lào có địa hình đa dạng, gồm núi đồi, cao nguyên, thung lũng và

đồng bằng. Núi đồi, cao nguyên chiếm ¾ diện tích cả nước và tập trung phần

lớn ở phía Bắc. Từ sông Nậm-kạ-đinh trở lên là địa phận Bắc Lào, nơi có

những dãy núi lớp lớp trùng điệp, có đỉnh Phu-bia cao nhất nước (2.817m). Từ

vùng biên giới phía Đông Bắc và Tây Bắc nước Lào có hai dãy núi lớn chạy

theo hướng Đông Bắc-Tây Nam và Tây Bắc-Đông Nam rồi hạ thấp dần xuống

hình thành một chuỗi cao nguyên Hủa-phăm, Cánh đồng Chum ở phía Bắc đến

tận cao nguyên Bô-lô-ven ở phía Nam. Từ sông Nậm-kạ-đinh trở xuống là

miền Trung và Nam Lào, địa hình thoai thoải về phía Tây. Như vậy, địa hình

nước Lào hình thành hai chiều dốc Bắc-Nam ở phía Bắc, Đông-Tây ở phía

Nam. Độ dốc trên quyết định hướng chảy của toàn bộ hệ thống sông suối và

cũng là một trong những nguyên nhân gây ra không ít trở ngại cho giao thông

trong nước nhất là ở phía Bắc.

Bảng 2.1 dưới đây là một số đỉnh núi (phu) cao nhất ở Lào. Hầu hết

chúng ở trên dãy Trường Sơn (Xai phu luang) hoặc ở vùng Bắc Lào.

Nằm giữa hai dãy núi phía Đông và Tây ở miền Bắc là cao nguyên Cánh

đồng Chum có độ cao từ 1.200 đến 1.500m so với mặt biển. Đây là cao nguyên

lớn nhất nước Lào, cả ba phía Đông, Tây, Bắc đều có núi bao bọc. Trên cao

nguyên có những khu rừng rậm, rừng thông, đồng cỏ rộng lớn. Giữa cao

nguyên có một số cánh đồng nhỏ đất đai màu mỡ như Cánh đồng Chum, bản

Ban, mường Pẹc…Những chum đá, mộ đá khổng lồ còn lại đến tận ngày nay ở

Cánh đồng Chum là những minh chứng tại đây xưa kia đã hình thành một trung

tâm dân cư và có thời kỳ văn hóa sớm phát triển. Cao nguyên Cánh đồng Chum

là nguồn nước quan trọng của các phụ lưu sông Mê-kông. Trong lòng cao

nguyên chứa nhiều loại khoáng sản quý như sắt, đồng…chưa được khai thác.

Cánh đồng Chum thuộc tỉnh Xiêng-khoảng, nơi đây đã diễn ra nhiều cuộc đọ

sức quyết liệt nhất giữa quân nhân Lào với các thế lực phản động cùng với

27

không quân Mỹ. Có thể nói Cánh đồng Chum – Xiêng khoảng là một trong

những địa danh lẫy lừng nhất gắn liền với lịch sử đấu tranh giải phóng của nhân

dân các dân tộc Lào.

Bảng 2.1. Một số đỉnh núi cao của Lào

Núi

STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 Phu bia Phu xai lay lanh Phu xamxum Phu xao Phuthaut Phumieng Phu huat Phu xảng Phuleuy Phunongpanay Phuhaokor Phungocpan Phupave Phu sane Phu san sát Phudaichiakung Phulaove Phupanyer Phu hom chăn Phu khaomieng Phu phá khao Phu doychy Phule Phu chaputao Phukate Phupasak Phu khaokhuai Tỉnh Xiengkhoang Xiengkhoang Xiengkhuang Xiengkhoang Sekong Viengchan Huaphanh Xayyabuly Huaphanh Attapeu Khammeun Attapeu Xiengkhoang Xiengkhuang Viêng chăn Luongnamtha Luongphabang Hủa Phăn Xiêng khoảng Xayabury Oudomxay Phongsaly bỏ li khăm say Luangnamtha Salavanh Champhasak Vientiane

Độ cao 2.820 2.717 2.620 2.590 2.500 2.455 2.452 2.330 2.275 2.259 2.256 2.251 2.221 2.218 2.218 2.099 2.079 2.079 2.038 2.007 1.870 1.812 1.761 1.588 1.583 1. 430 1.026 Nguồn: [14]

28

Miền Trung Lào có hai cao nguyên thấp hơn cao nguyên Cánh đồng

Chum là Khăm-muộn và Xạ-vẵn-nạ-khệt. Cao nguyên Khăm-muộn nằm giữa

hai con sông Nặm-kạ-đinh và Sê-nọi (chỉ lưu của sông Sê-băng-phay) cao từ

700 đến 800m, còn được gọi là cao nguyên đá voi, có nhiều núi, lèn dựng đứng

lởm chởm, nhiều hang động nổi tiếng, có mạch nước chảy ngầm tưới cho các

cánh đồng màu mỡ của miền Trung như Ma-hả-xay, Nhôm-mạ-lạt, Khăm-cợt.

Cao nguyên Khăm-muộn có những khu rừng rậm nhiệt đới nổi tiếng có nhiều

loại gỗ quý như ở dọc sông Nặm-thơn, Na-cay. Cao nguyên Khăm-muộn còn

có trữ lượng lớn về các loại quặng thiếc, chì, đồng…(mỏ thiếc Bò-neng, Phôn-

tịu đã được khai thác).

Nằm giữa cao nguyên đá vôi Khăm-muộn với cao nguyên Bô-lô-ven ở phía

Nam là cao nguyên Xa-vẵn-nạ-khệt. Đây là cao nguyên thấp nhất ở Lào có độ cao

từ 200 đến 400m, có nhiều vùng đá ong khô cằn, những cánh rừng thưa với nhiều

loại gỗ chất lượng thấp phát triển. Chỉ ở những khu lòng chảo đất đai ẩm ướt mới

xuất hiện những cánh rừng rậm nhiệt đới và những bản làng cư dân đông đúc,

vườn cây tốt tươi như mường Sê-pôn, mường Phìn, Phạ-lan, Đôông-hến.

Đi xuống phía Nam là cao nguyên đất đỏ Bô-lô-ven có độ cao từ 800 đến

1.000 so với mặt biển, đột khởi lên giữa đồng bằng miền Nam Lào. Đất đai

màu mỡ, khí hậu mát mẻ, mưa nắng thuận hòa, cao nguyên Bô-lô-ven là một

vùng lý tưởng để trồng tỉa các loại cây công nghiệp như café, chè, cao su, canh-

ki-na và các loại cây có quả khác. Trên cao nguyên có nhiều khu rừng rậm,

những cánh đồng cỏ rộng lớn như ở Tha-teng, Xa-la-văn…quanh năm xanh tốt,

nơi đây là sào huyệt của các loại thú rừng miền Nam Lào, đặc biệt là hươu, nai.

Cao nguyên Bô-lô-ven còn là nơi trữ nước và nguồn nước của hai con sông lớn

ở Nam Lào là Sê-đôn, Sê-kong và các chỉ lưu.

Thung lũng, đồng bằng là loại địa hình thứ ba ở Lào. Diện tích tuy không

lớn bằng núi đồi, cao nguyên nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong quá trình

hình thành và phát triển của nhân dân các dân tộc ở Lào. Đây là những vùng

29

dân cư tập trung đông đúc, sản xuất nông nhiệp phát triển. Hầu hết các trung

tâm kinh tế, văn hóa, lịch sử của Lào đã sớm hình thành ở các miền đều thuộc

loại địa hình này. Dọc sông Mê-kông, suốt từ cực Bắc đến phía Bắc Viêng-

Chăn là một chuỗi đồng bằng châu thổ nhỏ hẹp nằm giữa những chân núi và

cửa các con sông lớn nhỏ như Mường xỉnh, Huội-sai, Pạc-thà, Pạc bèng, Pạc

lai, Xay-nhạ-ba-li, Nặm-khàn…

Từ Viêng-Chăn trở xuống, dãy đồng bằng được mở rộng dần từ phía

Đông đến sát bờ sông Mê-kông. Rộng lớn nhất là đồng bằng Viêng-Chăn, bao

gồm toàn bộ châu thổ từ sông Nặm-xẵng đến sông Nặm-măng. Nổi tiếng nhất

là vùng châu thổ Nặm-ngừm, Nặm ton hoặc những vùng trũng quanh Viêng-

Chăn như Sả-la-kham, Nong-veng, Sỉ-thản-tạy…hằng năm cứ sau mỗi mùa

nước lũ, đất đai lại được phủ một lớp phù sa màu mỡ. Đồng bằng Viên-Chăn là

vựa lúa của miền Bắc Lào, một vùng giàu cả về lâm sản, thủy sản. Từ lâu, bông

vải, thuốc lá vùng Nặm-ngừm Viêng-Chăn đã nổi tiếng trong cả nước Lào.

Lui dần xuống phía Nam có các dãy đồng bằng châu thổ phù sa đá vôi

như Pạc-kạ-đinh, Pạc-hỉn-bun, Ma-hả-xay. Đấy là những châu thổ hẹp bị chia

cắt bởi những dãy núi thấp hoặc do núi đá chạy dài sát bờ sông Mê-kông. Từ

Nam tỉnh Khăm-muộn trở xuống đến sông Sê-đôn, các giải đồng bằng mới mở

rộng dần về phía Đông với những vùng trũng đất đai phì nhiêu như Xỏng-khỏn,

Kẹng-kọoc. Từ sông Nặm-mun trở xuống là đồng bằng Nam Lào xòe rộng ra

như bao quanh cao nguyên đất đỏ Bô-lô-ven. Phía tả ngạn từ cao nguyên Bô-lô-

ven đến bờ sông Mê-kông đến tận biên giới Lào-Thái nơi có chiều rộng Đông

Tây lớn nhất nước Lào. Đây là giải đồng bằng lớn nhất, với những cánh đồng

phì nhiêu chạy suốt từ Chăm-pa-sắc đến sông Sê-khăm-phô, Sê-piền như Phôn-

thong, Sụ-khu-ma, Mun-lạ-pạ-mộôc. Trên sông Mê kông ở vùng này còn có

hàng trăm cù lao lớn nhỏ, đất đai màu mỡ, góp phần làm cho miền Nam nước

Lào trở thành vựa lúa của cả nước. Xưa kia lúa gạo ở Nam Lào không những

được chuyển đến nhiều vùng trong nước mà còn được xuất khẩu sang Cam-pu-

30

chia, Thái Lan. Miền Nam Lào còn giàu về lâm sản, khoáng sản. Bản làng miền

Nam Lào dân cư thường đông đúc, hình thành trên các trục giao thông quan

trọng hoặc bên bờ các con sông lớn xuôi ngược thuận lợi như sông Sê-băng-

hiêng, Sê-đôn, Sê-kong…

Do cấu tạo địa chất, lượng mưa nắng nhiều nên các hệ thực vật ở Lào

phát triển hết sức phong phú. Hầu hết các loại địa hình núi đồi, cao nguyên,

đồng bằng đều có rừng cây bao phủ. Suốt từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang

Tây đến đâu cũng có rừng, rừng chiếm từ 80-85% diện tích cả nước. Rừng ở

ngay cửa ngỏ các đô thị. Do đặc điểm của địa chất, địa hình, khí hậu của từng

miền khác nhau nên rừng Lào cũng có nhiều loại như rừng rậm nhiệt đới, rừng

thưa đá vôi sa thạch, rừng tre nứa. Nhưng phổ biến nhất vẫn là rừng rậm nhiệt

đới. Trừ một số khu rừng gỗ tếch (giả tỵ) ở phía Tây Bắc, còn hầu hết là rừng

tự nhiên. Ngoài các loại gỗ quý có tỷ lệ khá cao, rừng ở Lào còn có nhiều loại

cây có giá trị kinh tế như quế, cánh kiến trắng, cây có nhựa, cây có sợi. Rừng

Lào còn nổi tiếng về các loại thú như voi, hươu, hổ, báo…Phải chăng xưa kia

trong rừng Lào có nhiều voi nên khi dựng nước vua Pha-Ngừm đã đặt tên là nước

Lào lạn-xạng (Lào triệu voi). Đối với nhân dân các dân tộc Lào, rừng có vị trí đặc

biệt trong tâm tư tình cảm của mỗi người. Cùng với sông suối, rừng là nguồn thực

phẩm, vật liệu xây dựng, dược liệu, nơi nương tựa mỗi khi mùa màng thất bát, là

nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ trong sáng tác văn học nghệ thuật.

Để bảo vệ rừng, một nguồn lợi lớn của đất nước, Chính phủ Cộng hòa

Dân chủ nhân dân Lào đã đề ra nhiều biện pháp tích cực nhằm bảo vệ rừng, kết

hợp giữa khai thác và trồng rừng, vận động giúp đỡ nhân dân ở miền núi xuống

làm ruộng, hạn chế đốt rừng làm nương rẫy, từng bước khôi phục lại hàng vạn

héc-ta rừng bị không quân Mỹ tàn phá bằng chất độc hóa học.

Tương tự như một số nước nằm trong khu vực Đông Nam châu Á nhiệt

đới gió mùa, khí hậu ở Lào nói chung nóng và ẩm. Mỗi năm có hai mùa, mùa

mưa và mùa khô rõ rệt. Từ tháng tư đến tháng mười là mùa mưa và nóng, có

31

gió mùa Tây Nam. Thông thường vào tháng bảy tháng tám là hai tháng có

lượng mưa nhiều nhất, ở miền núi và cao nguyên hay có những trận mưa tầm tã

kéo dài, có khi đến hàng tuần, thậm chí cả nửa tháng. Mùa khô và lạnh từ tháng

mười một đến tháng ba, có gió mùa Đông Bắc. Trên núi, cao nguyên ở miền

Bắc về mùa khô thường có sương mù dày đặc, đến trưa lại có nắng, về chiều

mát mẻ và tối lại trở lạnh. Miền Nam do gần xích đạo nên nhiệt độ cao hơn

miền Bắc. Ở miền núi, cao nguyên nhiệt độ thấp hơn ở đồng bằng, thường mát

mẻ hơn về mùa mưa, giá lạnh hơn về mùa khô.

Nước Lào có hệ thống sông suối dày đặc, hầu hết đổ về cái trục lớn nhất

là sông Mê-kông. Phần sông Mê-kông chảy qua nước Lào dài khoảng 1.800km,

đây là con sông dài, rộng nhất nước. Sông Mê-kông cùng phụ lưu, chi lưu của

nó trở thành hệ thống giao thông đường thủy quan trọng nối liền Nam-Bắc,

Đông-Tây. Sông suối ở Lào có rất nhiều cá, nổi tiếng nhất là các con sông Mê-

kông, Nặm-ngừm, Nặm-thơn…Ở phía Bắc, sông Mê-kông có một hệ phụ lưu

lớn, hầu hết nằm ở phía tả ngạn như sông Nặm-thà, Nặm u, Nặm xương, Nặm

nghiệp, Nặm bèng, Nặm khàn. Hướng chảy của hệ thống phụ lưu trên đều theo

độ dốc của địa hình, nghĩa là theo chiều Bắc-Nam, trừ ba con sông Nặm-mã

(sông Mã), Nặm săm (sông Chu) và Nặm Nơn (sông Cả) là hướng chảy từ Tây

Bắc sang Đông Nam. Ở miền Trung và Nam Lào, sông Mê-kông cũng có một

số phụ lưu lớn nằm ở phía tả ngạn như các con sông Nặm-kạ-đinh, Nặm-Hỉn-

bun, Sê-băng-phay, Sê-băng-hiêng, Sê đôn, Sê-kong. Các phụ lưu trên đều chảy

theo hướng Đông Tây. Hệ thống sông suối ở Lào có vị trí quan trọng trong đời

sống nhân dân các dân tộc Lào như trong sản xuất nông nghiệp, giao lưu giữa

các vùng khi đường bộ chưa phát triển, nguồn thực phẩm tươi sống trong bữa

ăn hàng ngày của mỗi gia đình. Ngoài ra, các con sông lớn ở Lào còn có một số

đặc điểm rất thuận lợi để xây dựng thủy điện. Đây là một thế mạnh của đất

nước được thiên nhiên ưu đãi.

32

Bảng 2.2. Các con Sông có chiều dài lên tới 100 km tại Lào

Tên sông

TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 Nặm Mê kông Nặm Uo Nặm Ngeum Nặm Xe băng hiêng Nặm Ka đing Nặm Tha Nặm Xe kong Nặm Xe don Nặm Xe băng phay Nặm Khan Năml Lịc Nặm Xương Nặm Nghiệp Nặm Xe chăm phon Nặm Hin buon Nặm Beng Nặm Sun Nặm Xe kạ mán Nặm Xe noy Nặm Mạ Nặm Neun Năm Săm Chiều dài km 1.865 390 350 300 265 290 236 195 190 175 155 150 140 140 130 125 115 110 110 110 110 100

Nguồn: [14]

Lào có tài nguyên khí hậu và cảnh quan bao gồm các yếu tố về thời tiết khí

hậu khí áp, nhiệt độ, ẩm độ, bức xạ Mặt trời, lượng mưa địa hình, không gian

trống, cảnh đẹp thiên nhiên. Lào có nhiệt độ trung bình mỗi năm 25oC – 26oC và

có mưa trung bình 1.000 mm/năm , có 2 mùa như: mùa khô và mùa mưa

- Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Khí hậu mùa rõ rệt, nhiệt độ trung

bình 28oC – 30oC/năm, dành cho miền trung và miền nam, lượng mưa trung

bình năm 2000-2500 mm/mùa. Tháng 7- 8 có mưa nhiều vì vậy ở vùng Phak

33

song lượng mưa lên tới 3000 - 4000 mm/năm. Ngược lại ở phia Bắc lại ít

mưa, lượng mưa trung bình 1000 mm/năm tỉnh Hủa phăn, Xiêng khoảng,

Phông sa ly…

- Mùa khô mát từ tháng 11 đến tháng 4; nhiệt độ ở Viêng Chăn có thể

xuống đến hơn Khí hậu hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11,

lượng mưa trung bình năm 1.979mm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm

sau. Nhiệt độ trung bình cả năm 27,5ºC, không có mùa đông. Hoạt động du lịch

thuận lợi suốt 12 tháng; các vùng núi cao có lúc nhiệt độ xuống rất thấp đến

mức có băng giá, Xiengkhuang, Phongsaly, Hủa Phăn, Luong pha bang và

Udomxay vào khoảng tháng12 - 1 có năm nhiệt độ thấp xuống đến 10 - 0oC,

giống như miền Bắc của Việt Nam. Mùa khô nóng từ tháng 3 đến tháng 4.

Vùng ven sông Mê kông ở Hạ Lào vào mùa khô nóng có thể có lúc nhiệt độ lên

tới 40oC.

2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội

Lào là nước nằm sâu trong lục địa, không có đường thông ra biển và chủ

yếu là đồi núi trong đó 47% diện tích là rừng. Có một số đồng bằng nhỏ ở vùng

thung lũng sông Mê Kông hoặc các phụ lưu như đồng bằng Viêng Chăn,

Champasack...45 % dân số sống ở vùng núi. Lào có 800.000 ha đất canh tác

nông nghiệp với 85% dân số sống bằng nghề nông.

Lào có nguồn tài nguyên phong phú về lâm nghiệp, nông nghiệp, khoáng

sản và thuỷ điện. Nhìn chung kinh tế Lào tuy phát triển song chưa có cơ sở bảo

đảm ổn định.

Nền kinh tế trong những năm gần đây có nhiều tiến bộ. Các mục tiêu kinh

tế-xã hội do các kỳ đại hội và các chương trình kế hoạch 5 năm được triển khai

thực hiện có hiệu quả. Lào đang nắm bắt thời cơ, đang tạo nên những bước đột

phá và đang có những tiền đề cho một thời kỳ tăng tốc.

Tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8%, năm 2008 đạt 7,9%. Thu nhập bình

quân đầu người tăng dần, năm 2000 đạt 298USD/người/năm; năm 2006 đạt

34

546USD/người/năm, năm 2007 đạt 678USD/người/năm, năm 2008 đạt

841USD/người/năm, năm 2014 đạt 1.500 USD người/năm 2015 đạt 1,692

USD/người/năm. Đến năm 2020, Lào phấn đấu đạt GDP bình quân đầu người

tăng gấp 2-3 lần hiện nay, khoảng 1.200-1.500 USD/năm.

Kinh tế đối ngoại: đến năm 2007, Lào có quan hệ thương mại với 60 nước,

ký Hiệp định thương mại với 19 nước, 39 nước cho Lào hưởng quy chế GSP.

Hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là khoáng sản và gỗ.

Đại hội đảng Nhân dân Cách mạng Lào lần thứ VIII tháng 3 năm 2006 đề

ra mục tiêu đến năm 2020: xây dựng vững chắc hệ thống chính trị dân chủ nhân

dân, trong đó Đảng là hạt nhân lãnh đạo, giữ vững ổn định chính trị, an ninh

trật tự an toàn xã hội; đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển; kinh tế

phát triển dựa trên sự phát triển nông nghiệp vững chắc và lấy phát triển công

nghiệp làm cơ sở, tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo

chuyển biến cơ bản về chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực; phát

triển nhịp nhàng các thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước

và kinh tế tập thể được củng cố và phát triển vững mạnh. GDP tăng gấp 3 lần

năm 2000; chủ động mở rộng hợp tác quốc tế.

Lào - một trong số ít các nước cộng sản còn lại - đã bắt đầu dỡ bỏ việc

kiểm soát tập trung hóa và tăng cường phát triển doanh nghiệp tư nhân vào năm

1986. Kết quả từ một xuất phát điểm thấp là rất ấn tượng. Tỷ lệ tăng trưởng

trung bình hàng năm đạt 7% trong các năm 1988-2001 ngoại trừ một khoảng

thời gian tụt xuống do cuộc khủng hoảng tài chính châu Á bắt đầu năm 1997.

Mặc dù tốc độ tăng trưởng cao nhưng Lào vẫn còn là một đất nước với cơ

sở hạ tầng lạc hậu. Tại đây đã có tuyến đường sắt nối thủ đô Vientiane (Lào)

đến tỉnh Nong Khai (Thái Lan), hệ thống đường bộ mặc dù đã được cải tạo

nhưng vẫn đi lại khó khăn, hệ thống liên lạc viễn thông trong nước và quốc tế

còn giới hạn, điện sinh hoạt chỉ mới có ở một số khu vực đô thị.

Sản phẩm nông nghiệp chiếm khoảng một nửa tổng sản phẩm quốc nội

(GDP) và sử dụng 80% lực lượng lao động. Nền kinh tế vẫn tiếp tục nhận được

35

sự trợ giúp của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các nguồn quốc tế khác cũng như

từ đầu tư nước ngoài trong chế biến sản phẩm nông nghiệp và khai khoáng.

2.2. Đặc điểm dân số của nước Lào

2.2.1. Quy mô dân số

Quy mô dân số của CHDCND Lào nhỏ nhưng tăng khá nhanh, phân bố

không đều và mật độ dân số thấp; chất lượng dân số và nguồn nhân lực tăng lên

nhưng chưa cao.

Bảng 2.3. Dân số nước Lào qua các thời kì

Dân số (người) Năm

1912 650.000

1920 813.900

1960 1.900.000

1970 3.000.000

1985 3.584.803

2009 6.127.910

2015 6.492.400

Nguồn: Tổng cục thống kê

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, trong lịch sử Lào đã có điều tra dân số

Lào lần đầu tiên vào năm 1377, lúc đó có vương Lào tên là : “ Pha Chau Xam

San Thai ” nói rằng dân số Lào có khoảng 300 000 người. Đến 1912 dân số

tăng lên 650.000 người đến năm 1920 gia tăng 813.900 người có nghĩa là

trong thời gian 20 năm dân số đã tăng cấp đôi. Đến năm 1960 dân số Lào tăng

lên 1.900.000 người cò thể thấy rằng dân số gia tăng cấp đôi trong tròn 40 năm.

Gia tang của dân số Lào đã bắt đầu tăng nhanh hơn, vì vậy đến cuối năm 1970

dân số tăng lên 3.000.000 người .

Theo điều tra dân số trong năm 1985 cho biết cả nước có dân số 3.584.803

người trong đó có nữ 1.827.688 người và đến điều tra dân số năm 1995 tổng

mức tăng dân số 4.581.258 người, nữ có 2.315.931 người và gia đoạn điều tra

36

dân số, tỷ lệ phát huy của dân số 2,6% trên năm. Đến điều tra dân số năm 2005

có 5.621.982 người, nữ có 2.821.432 người, nam có 2.800.551 người ,tỷ lệ tăng

là 2,1%.

Theo Cục Thống kê Lào, năm 2009, tổng dân số của nước này là

6.127.910 người, xếp thứ 105 trong tổng số 206 nước và vùng lãnh thổ trên thế

giới, năm 2015 dân số tăng lên là 6.492.400 người. Dân số Lào đang tăng

nhanh, và nếu với tốc độ như hiện nay, dân số Lào sẽ tăng gấp đôi trong

khoảng 28 - 30 năm tới: Mật độ dân số ở Lào thấp, chỉ có 28 người/km2, xếp

thứ 158/206 nước và vùng lãnh thổ, nhưng dân số phân bổ rất không đồng đều:

tại Thủ đô Viêng-chăn là 209 người/km2, trong khi đó, các tỉnh Phong-sa-lì,

Xê-kông, A-ta-pơ chỉ có 11 - 12 người/km2 (năm 2015).

Hình 2.1. Quy mô dân số nước Lào qua các năm

Thực tế cho thấy, khả năng hoạt động kinh tế, nói chung, chỉ gắn với bộ

phận dân số có đủ sức khỏe và trí tuệ, trong một khoảng tuổi nhất định, thường

tính từ 15 đến 64 tuổi. Số dân có khả năng hoạt động kinh tế của Lào tăng

mạnh và nhanh hơn mức tăng của tổng dân số nói chung. Đây là một lợi thế của

Lào trong quá trình phát triển. Hơn nữa, dân số Lào có thể bước vào giai đoạn

37

có “cơ cấu vàng” trong khoảng 20 năm nữa, nếu thực hiện phương án mức sinh

giảm nhanh.

2.2.2. Gia tăng dân số

2.2.2.1. Gia tăng dân số tự nhiên

Gia tăng tự nhiên do 2 nhân tố quyết định: sinh đẻ và tử vong. Tỉ suất sinh

thô là tương quan giữa số trẻ em được sinh ra trong năm so với số dân trung

bình ở cùng thời điểm, còn tỉ suất tử thô là tương quan giữa số người chết trong

năm so với số dân trung bình cùng thời điểm.

Bảng 2.4. Tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên của nước Lào

Đơn vị: %

2005

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Năm

2,5 2,4 2,4 2,3 2,2 2,2 2,1 2,1 2,0 1,9 1,9

Tỷ lệ gia tăng tự nhiên

Nguồn: Tổng cục thông kê

Việc CHDCND Lào chưa thoát khỏi nhóm các nước nghèo xuất phát từ

nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề dân số. Một trong những đặc điểm nổi

bật hiện nay ở Lào là mức sinh vẫn còn cao.

Hình 2.2. Biểu đồ tử lệ gia tăng dân số tự nhiên của nước Lào

qua các năm

38

Năm 2005, tỷ suất sinh thô (CBR) ở mức 34,7‰ và tổng tỷ suất sinh

(TFR), tức số con trung bình của một phụ nữ tính đến hết tuổi sinh đẻ, là 4,5

con. Mức sinh ở nhiều tỉnh còn cao hơn nhiều, như Hủa-phăn, Say-som-bon:

6,4 con/phụ nữ, (ở Việt Nam, năm 2005, con số này là 2,11). Mặt khác, phụ nữ

Lào thường bắt đầu sinh sớm, ngay từ tuổi vị thành niên và kết thúc sinh đẻ ở

tuổi cao. Tỷ lệ sinh đẻ ở phụ nữ từ 15 - 19 tuổi lên tới 110‰, đối với phụ nữ

nhóm tuổi 40 - 44 tỷ lệ đó là 40‰. Các tỷ lệ tương ứng ở Việt Nam (năm 2009)

là 24‰ và 10‰. Kết quả điều tra ở cả Lào cho thấy, mức sinh cao tác động tiêu

cực đến tất cả các thành tố của HDI, thể hiện ở những phân tích dưới đây:

Thứ nhất, giữa mức sinh và tỷ số phụ thuộc có mối quan hệ chặt chẽ, mức

sinh càng cao, tỷ lệ phụ thuộc càng lớn. Ở Lào, năm 1995, khi TFR = 5,6 thì tỷ

số phụ thuộc là 100. Năm 2005, các chỉ tiêu tương ứng là 4,5 và 76. Mức sinh

càng cao thì số trẻ em càng nhiều, tỷ số phụ thuộc trẻ, vì thế, tăng lên, làm cho

tỷ lệ phụ thuộc chung cũng tăng lên. Tỷ số phụ thuộc cao sẽ hạn chế cả tiêu

dùng và tích lũy, khả năng đầu tư thấp làm chậm quá trình phát triển kinh tế -

xã hội.

Thứ hai, mức sinh cao làm giảm tốc độ tăng GDP bình quân đầu người.

Về mặt lý thuyết có thể chứng minh được rằng:

Tỷ lệ gia tăng GDP bình quân đầu người ≈ Tỷ lệ gia tăng GDP - Tỷ lệ gia

tăng dân số

Công thức trên cho thấy: dân số tăng nhanh ở các nước nghèo là bất lợi

cho tăng trưởng kinh tế, làm chậm quá trình nâng cao đời sống của người dân.

Ở Lào, mặc dù GDP năm 2009 tăng 5,78% so với năm 2008, nhưng do dân số

tăng tới 2,07%, nên GDP bình quân đầu người chỉ tăng được 3,63%. Như vậy,

dù GDP có tăng trưởng mạnh, nhưng dân số tăng nhanh thì đời sống của người

dân vẫn chậm được cải thiện. Khi mức sinh cao, quy mô hộ gia đình sẽ lớn

(năm 2005, trung bình mỗi hộ gia đình ở Lào có tới 5,8 người), quy mô hộ gia

đình càng lớn thì thu nhập, tiêu dùng bình quân đầu người càng thấp.

39

Thứ ba, mức sinh cao hạn chế việc nâng cao chất lượng dân số. Số liệu

thống kê cho thấy, những tỉnh có mức sinh từ 4,7 con/phụ nữ trở xuống, không

có tỉnh nào có “tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi” cao hơn mức chung của cả nước.

Ngược lại, phần lớn các tỉnh có mức sinh cao từ 4,8 con/phụ nữ trở lên có “tỷ lệ

chết trẻ em dưới 1 tuổi” vượt quá mức chung của cả nước. Những tỉnh có mức

sinh thấp, từ 4,7 con/phụ nữ trở xuống đều có tuổi thọ của nam và nữ cao hơn

mức trung bình toàn quốc và phần lớn những tỉnh có mức sinh cao đều có tuổi

thọ thấp.

Giữa mức sinh và tỷ lệ người lớn biết chữ có tương quan tỷ lệ nghịch.

Thực tế cho thấy, những tỉnh có mức sinh cao (5 con/phụ nữ trở lên) thường là

những tỉnh có tỷ lệ người biết chữ thấp hơn mức trung bình toàn quốc, 4 tỉnh có

mức sinh thấp nhất là 4 tỉnh có tỷ lệ người lớn biết chữ cao nhất. Giữa mức

sinh và tỷ lệ hộ nghèo có tương quan tỷ lệ thuận: những tỉnh có mức sinh thấp

nhất (từ 4,2 con trở xuống) là các tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất, chỉ bằng một

nửa tỷ lệ chung của toàn quốc. Ngược lại, những tỉnh có mức sinh cao (trên 5

con/phụ nữ) là những tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất. Như vậy, mức sinh cao

có tác động mạnh mẽ và theo hướng tiêu cực đối với sự phát triển của

CHDCND Lào nói riêng, cũng như các nước nghèo nói chung. Một số khuyến

nghị để phát triển tài nguyên con người ở Lào.

Bảng 2.5. Tỉ lệ tử của nước Lào giai đoạn 2005 – 2015

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011

2012 2013 2014

2015

Tỉ lệ

9,8

9,4

9,1

8,1

8,4

8,0

7,7

7,4

7,0

6,8

6,5

(%0)

Nguồn: Tổng cục thông kê

Bảng thống kê trên cho thấy tỉ lệ tử vong của nước Lào còn khá cao, tuy

nhiên đang có xu hướng giảm dần. Năm 2005, tỉ lệ tử của nước Lào là 9,8%0

nhưng đên năm 2015, sau 10 năm tỉ lệ tử của nước Lào giảm xuống còn 6,5

%0. Điều này cho thấy trình độ y tế, đời sống của người dân Lào đã được cải

thiện nên tuổi thọ đợc nâng cao hơn, tỉ lệ tửu vong giảm xuống. Đang là một

40

trong những thành tựu quan trong trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội

của nước Lào.

2.2.2.2. Gia tăng cơ học

Khi phân tích về gia tăng cơ học của nước Lào qua các thời kì thì có một

điểm đặc biệt, đó là số người Lào di cư sang các nước rất ít (không đáng kể), số

người từ các nước khác đến Lào thì vẫn tiếp tục gia tăng, do Lào là một đất

nước có diện tích rộng, có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế trong khi dân

số lại ít. Hiện nay nước Lào đang có khoảng 11.926 người nước ngoài đang

định cư, làm ăn sinh sống tại Lào. Phần lớn là từ các nước châu Á, trong đó

đông nhất là người Việt Nam.

Bảng 2.6. Bảng thống kê số dân nhập cư hợp pháp vào nước Lào

tính đến năm 2015

Quốc gia Nữ Tổng Nam

Việt Nam 4 473 8 795 4 322

Campuchia 471 979 508

Thái Lan 372 986 614

Mianma 73 154 81

Trung Quốc 73 154 81

Các nước ASEAN khác 70 127 77

Các nước châu Âu 78 191 113

Hoa Kỳ 175 401 226

Các nước Mĩ la tinh 9 19 10

Autraylia 8 16 8

Các nước khác 42 84 42

Tổng 6 082 5 884 11 926

Nguồn: Tổng cục thông kê

Cộng đồng người Việt ở Lào hình thành cách đây khoảng 100 năm và hiện

có khoảng 25 – 30 nghìn người Lào gốc Việt và người Việt Nam đang định cư

41

và làm ăn tại Lào. Phần lớn bà con tập trung sống ở Thủ đô Viêng Chăn và các

thành phố lớn như Champasak, Savannakhet, Khăm Muộn...

Kiều bào Việt Nam ở Lào hiện có được một mái nhà chung là Tổng

hội Người Việt Nam tại Lào, đặt dưới sự quản lý của Trung ương Mặt trận Lào

xây dựng đất nước. Những năm qua, cộng đồng người Việt tại Lào luôn phát

huy bản chất cần cù, khéo léo vốn có trong sản xuất, đồng thời thúc đẩy hoạt

động kinh doanh. Ở một số địa phương có đông người Việt, hoạt động kinh

doanh xuất nhập khẩu đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Nhiều doanh nghiệp của

kiều bào Việt đã trở thành những đơn vị kinh tế chủ lực của một số tỉnh, thành

phố, có nhiều hoạt động xã hội giúp địa phương xóa đói, giảm nghèo, được các

cấp chính quyền tin cậy và hoan nghênh.

Người Việt ở Lào vốn rất nặng lòng với quê hương, luôn tự hào về nền

văn hóa truyền thống dân tộc nên ngoài việc xây nhiều Trường Việt, duy trì

sinh hoạt trong gia đình theo tập quán Việt Nam, họ còn xem chùa chiền là

điểm văn hóa tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày. Chùa chiền

là nơi giáo dục truyền thống yêu thương đùm bọc nhau, làm việc thiện, hướng

về Tổ quốc rất hiệu quả, nhất là với lớp trẻ. Thống kê cho thấy hiện ở Lào có

11 ngôi chùa Việt, tập trung ở Thủ đô Viêng Chăn, Luông Prabang,

Savannakhet và Champasak. Có thể kể ra những cái tên như chùa Bảo Quang,

chùa Diệu Giác ở Savannakhet; chùa Long Vân, chùa Trang Nghiêm ở Pak Sế,

Champasak; chùa Bàng Long, chùa Phật Tích ở Viêng Chăn..

Nếu tính số lao động của các nước trong khu vực châu Á và một số khác

thuộc châu Âu, châu Mĩ hiện đang ở Lào thì chỉ tính riêng ở thủ đô Vientiane

đã có khoảng 7.500 lao động. Nhiều lao động nước ngoài đang là chủ các cửa

hàng bán lẻ và bán buôn, tiệm may hay các trang trại chăn nuôi ở Lào.

Theo ước tính của Bộ Lao động và phúc lợi Lào, hiện Lào thiếu khoảng

90.000 lao động có tay nghề. Trong những năm gần đây, nguồn vốn đầu tư

nước ngoài đổ vào Lào ngày một nhiều. Đi cùng với đó là lượng người lao

động nước ngoài tại Lào cũng tăng lên.

42

2.2.3. Cơ cấu dân số

Lào là một đất nước có cơ cấu dân số trẻ, Tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi rất

cao, trên 35%, tỉ lệ người già thấp. Tình trạng dân số trẻ là do mức sinh cao

trong những năm trước đó. Số lượng trẻ em đông tạo ra nguồn dự trữ lao động

dồi dào, bảo đảm lực lượng lao động để phát triển kinh tế cho đất nước. Tuy

nhiên, hàng loạt vấn đề đang được đặt ra mà xã hội phải giải quyết như nhu cầu

về giáo dục, chăm sóc sức khoẻ cho thế hệ trẻ, sức khoẻ sinh sản vị thành niên,

phát triển kinh tế để tạo việc làm cho số người bước vào độ tuổi lao động nhằm

hạn chế tình trạng thất nghiệp...

Bảng 2.7. Cơ cấu dân số chia theo nhóm tuổi giai đoạn 2010 - 2015

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

2010

2011

2012

2013

2014

2015

Tổng

6.309.600

6.460.600

6.616.300

6.776.400

6.940.700

7.108.900

0-4

970.300

997.600

1.025.400

1053.200

1.080.800

1.107.800

5-9

685.600

720.800

763.200

814.100

875.300

949.200

10-14

740.000

730.200

720.700

710.100

696.400

676.800

15-19

752.500

756.900

754.000

746.000

735.700

925.500

20-24

626.300

651.200

676.400

699.600

718.100

730.200

25-29

490.800

509.400

530.200

522.600

576.200

600.100

30-34

408.100

418.100

428.200

439.300

452.400

468.100

35-39

343.300

350.000

538.900

369.200

380.000

390.300

40-44

315.200

319.600

321.600

322.500

324.300

328.300

45-49

254.000

263.000

273.600

248.600

294.200

301.400

50-54

214.600

219.900

224.200

228.300

233.400

240.000

55-59

163.900

171.400

178.600

185.500

191.900

197.600

60-64

113.700

118.600

124.700

131.500

138.500

145.300

65-69

87.800

88.700

89.400

90.400

92.200

95.100

70-94

81.400

62.500

63.900

65.400

66.700

67.800

75-79

40.900

41.300

41.500

41.500

41.700

42.100

80+

41.200

41.400

41.800

42.400

42.900

43.200 Nguồn: Tổng cục thông kê

43

Về cơ cấu dân số theo giới, luôn có biến động theo thời gian và khác nhau

giữa các nhóm nước, khu vực, giữa thành thị và nông thôn. Ở các nước phát

triển, nữ nhiều hơn nam (châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản...). Ngược lại, những

nước có số nam trội hơn thường là những nước đang phát triển. Tuy nhiên, đối

với nước Lào, một đất nước đang phát triển, cơ cấu dân số theo giới lại luôn có

số lượng nữ giới nhiều hơn nam giới, theo số liệu năm 2015, nam chiếm

49,86%, nữ 50,14%.

Bảng 2.8. Cơ cấu dân số theo giới năm giai đoạn 2005-2015

STT Năm Dân số Nữ Nam

2005 1 5.621.982 2.821.431 2.800.551

2006 2 5.747.587 2.883.133 2.864.454

2007 3 5.873.616 2.945.050 2.928.566

2008 4 6.000.379 3.007.339 2.993.041

2009 5 6.127.910 3.090.013 3.057.897

2010 6 6.256.197 3.133.059 3.123.138

2011 7 6.385.057 3.196.392 3.188.665

2012 8 6.514.432 3.259.980 3.254.452

2013 9 6.769.727 3.400.055 3.369.672

2014 10 6.809.054 3.389.000 3.405.090

2015 11 6.492.400 3.254.800 3.237.600

Nguồn: Tổng cục thông kê

44

Hình 2.3. Biểu đồ cơ cấu dân số theo giới tính của nước Lào

năm 2005 và năm 2015

Bảng 2.9. Cơ cấu dân số theo lao động nước Lào năm 2015

Số liệu

Lĩnh vực lao động Công chức – viên chức Doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp tư nhân Công – tư hợp doanh Lao động tự do Tổng Số lượng (người) 168 388 11 446 27 056 121 786 2 410 577 2 738 893 Nữ (%) 31 33 32 40 71 50 Nam (%) 69 67 68 60 29 50

Nguồn: Tổng cục thông kê

45

Về cơ cấu dân số theo lao động, theo số liệu thống kê hiện nay nước Lào

có khoảng 80% dân số sống bằng nghề nông. Số lượng lao động công chức,

viên chức chiếm số lượng không nhiều, 168388 người (năm 2015), trong khi đó

số lượng lao động tự do là 2 410 577 (năm 2015).

2.2.4. Phân bố dân cư

Theo kết quả điều tra dân số lần thứ IV năm 2015 của Chính phủ, dân số

Lào có 6.492.400 người trong đó tập trung đông nhất ở các tỉnh thành: Sa văn

na khét, Chăm pha sắc, Thủ đô Viêng Chăn, Luong pha bang…

Bảng 2.10. Dân số và mật độ dân số nước Lào theo các đơn vị hành chính,

giai đoạn 2005 – 2015

Năm 2005 Năm 2015

Mật độ

Mật độ

TT Tỉnh

D.S

D.T

D.S

D.T

(ng/km2

(ng/km2

1 Thủ đô

698.318

3.920

178,1

3,920

209

820.900

2

Phông sa ly

165.947

16.270

10,2

178.000

16,270

11

3 Luong năm tha

145.310

9.325

15,6

175.700

9,325

19

4 U dôm xay

265.179

15.370

17,3

307.600

15,370

20

5 Bỏ keo

145.263

6.196

23,4

179.300

6,196

29

6 Luong pha bang

407.093

16.875

24,1

431.900

16,875

26

7 Hủa phăn

280.938

16.500

17,0

289.400

16,500

18

8 Xaya bu ly

338.669

16.389

20,7

381.300

16,389

23

9 Xiêng khoảng

229.596

15.880

14,5

244.700

15,880

17

10 Viêng Chăn

388.895

18.726

21,0

419.100

18,726

27

11 BoLy khăm xay

225.301

14.863

15,2

273.700

14,863

18

12 Khăm muon

337.390

16.315

20,7

393.100

16,315

24

13 Sa văn na khét

825.902

21.774

37,9

967.700

21,774

45

14 Sa la văn

324.327

10.691

30,3

397.00

10,691

37

15 Xê kong

84.995

7.665

11,1

113.200

7,665

15

16 Chăm pha sắc

607.370

15.415

39,4

694.000

15,415

45

17

At ta phư

112.120

10.320

10,9

139.600

10,320

14

18 Xay sôm buon

39.423

4.506

8,7

85.200

4,506

10

27

Tổng

5.621.982

236.800

23,7

6.492.400

236.800

Nguồn: Tổng cục thông kê

46

47

Tỉnh Sa Văn Na Khét đông dân nhất (chiếm 15% dân số cả nước), tỉnh

có dân số ít nhất tỉnh Xay Som Boun (chiếm 1% của dân số cả nước). Thủ đô

Viêng Chăn chiếm 13% dân số cả nước.

2.2.5. Chất lượng dân số

Để đánh giá “chất lượng dân số”, người ta thường sử dụng chỉ số phát

triển con người (HDI). Để tính HDI, người ta dựa vào các chỉ tiêu: Tuổi thọ

trung bình; tỷ lệ biết chữ; tỷ lệ nhập học chung và GDP bình quân đầu người.

Theo đó, có thể thấy chất lượng dân số và nguồn nhân lực của Lào có một số

đặc điểm sau:

Thứ nhất, tuổi thọ trung bình của người dân Lào tăng nhanh nhưng vẫn

còn ở mức thấp. Năm 1995, tuổi thọ của nam giới là 50 tuổi, đến năm 2005(1),

đã tăng lên tới 59 tuổi. Đối với nữ, các con số tương ứng là 52 và 63. Như vậy,

chỉ sau 10 năm, tuổi thọ của nam giới tăng thêm 9 năm, còn tuổi của nữ giới

tăng thêm tới 11 năm. Tuy nhiên, tuổi thọ trung bình của dân số Lào vẫn ở mức

thấp, cụ thể là, tuổi thọ của cả nam và nữ đều xếp thứ 154/206 nước và vùng

lãnh thổ trên thế giới. Ở nhiều tỉnh, chỉ tiêu này đặc biệt thấp, như Xê-kông: 54

tuổi, A-ta-pơ: 55 tuổi, Khăm-muội, Luang-nam-tha và Sa-ra-van: 56 tuổi (2).

Một trong những yếu tố ảnh hưởng mạnh đến tuổi thọ trung bình là tỷ lệ chết

trẻ em dưới 1 tuổi (IMR) và tỷ lệ chết trẻ em dưới 5 tuổi còn khá cao. Trên

phạm vi toàn quốc, vào năm 2005, các tỷ lệ tương ứng là 70‰ và 97,6‰. Ở

nhiều tỉnh như Xê-kông, A-ta-pơ, Sa-ra-van, Khăm-muội, tỷ lệ chết trẻ em dưới

1 tuổi lên tới hơn 100‰. Những số liệu trên cho thấy, tình trạng sức khỏe của

dân số nói chung cũng như của nguồn nhân lực nói riêng tuy đã được cải thiện

nhưng vẫn chưa tốt.

Thứ hai, hệ thống giáo dục, đào tạo đạt nhiều thành tựu nhưng trình độ

phát triển còn thấp. Tỷ lệ mù chữ của nhóm dân số từ 15 tuổi trở lên mặc dù

giảm rất mạnh, từ 30% (năm 1995) giảm xuống còn 20% (năm 2005), nhưng

vẫn là mức khá cao. Đối với nhóm tuổi trẻ (6 - 19 tuổi), tỷ lệ chưa bao giờ đến

48

trường chiếm khoảng 16,5%; tỷ lệ đang đi học không cao, đặc biệt là nữ.

Khoảng 2/3 thanh, thiếu niên là nữ ở độ tuổi từ 15 - 19 tuổi đã bỏ học hoặc

chưa bao giờ đến trường. Tình trạng này dẫn đến chỗ họ lấy chồng, sinh đẻ

sớm nên không có hoặc có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp. Nhóm dân số 30

- 59 tuổi chiếm 52% dân số trong độ tuổi lao động, nhưng hơn 25% số này

chưa bao giờ đến trường và cơ hội học tập của họ trong hệ thống giáo dục hầu

như rất thấp (chưa đến 0,5% đang theo học tại các trường). Điều này cho thấy,

nhu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là rất lớn nhưng khó thực hiện

được qua hệ thống giáo dục chính quy.

Đối với hệ đào tạo chuyên nghiệp, số lượng sinh viên các hệ còn ít và có

dấu hiệu ngày càng mất cân đối. Năm 2009, có 129.175 học sinh đang được

đào tạo chuyên nghiệp, chiếm 9,7% tổng số dân trong độ tuổi 15 - 24. Hệ đại

học đang chiếm ưu thế và tăng lên, còn ở các hệ cao đẳng, trung cấp, tỷ lệ học

sinh theo học thấp và có dấu hiệu giảm sút. Do hệ thống đào tạo chuyên nghiệp

chưa phát triển nên tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật còn khá

thấp. Theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 2005, trong số 3.404.043 người từ

15 tuổi trở lên, có 87.091 người có trình độ chuyên môn sơ cấp, chiếm 2,6%;

trung cấp: 104.542 người, chiếm 3,1%; đại học: 47.202 người, chiếm: 1,4% và

sau đại học: 7.024 người, chiếm: 0,2%. Như vậy, chỉ có 7,3% lực lượng lao

động ở Lào được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật từ sơ cấp trở lên.

Thứ ba, GDP của Lào trong những năm qua tuy tăng mạnh, nhưng Lào

vẫn chưa thoát khỏi nhóm các nước nghèo. Dân số Lào chủ yếu sống ở nông

thôn. Năm 2005, tỷ lệ dân số nông thôn là 72,8%, nhưng tỷ lệ lao động làm

nông nghiệp lên tới 78,5%. Tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật

thấp nên năng suất lao động cũng thấp. Do vậy, mặc dù kinh tế tăng trưởng liên

tục, trong5 năm (2006 - 2010), tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 7,9%/năm,

nhưng GDP bình quân đầu người năm 2009 - 2010 mới đạt khoảng 1.069 USD.

Năm 2011, Ngân hàng Thế giới (WB) vẫn xếp Lào vào nhóm nước có thu nhập

49

thấp và GDP bình quân đầu người đứng thứ 128 trên tổng số 168 nước so

sánh(3).

Do các chỉ tiêu thành phần về sức khỏe, giáo dục và kinh tế còn thấp nên

HDI của Lào (theo cách tính mới của Liên hợp quốc áp dụng từ năm 2010) tuy

tăng lên không ngừng, nhưng năm 2010 cũng mới chỉ đạt 0,497, xếp thứ 122

trong số 169 nước có số liệu so sánh.

Tiểu kết chương 2

So với các nước trên thế giới, Lào là một đất nước có quy mô dân số

nhỏ, tuy nhiên tốc độ tăng dân số khá cao, hiện nay vẫn ở mức 1,9 %, cơ cấu

dân số trẻ. Trong những năm gần đây, chất lượng cuộc sống của người dân Lào

đã được cải thiện, tuổi thọ trung bình đã được nâng lên, tỉ lệ tử giảm xuống.

Đây là một trong những thành tựu quan trọng của nước Lào. Về nguồn lao

động, hiện tại số lao động làm nghề nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao, lao

động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ chiếm tỉ trong thấp. Lào vẫn đang

có những chính sách thu hút người lao động ở nước ngoài có trình độ đến làm

việc và sinh sống tại quốc gia này.

50

Chương 3

ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

3.1. Thành phần dân tộc và đặc điểm phân bố

3.1.1. Chia theo nhóm ngôn ngữ

Dân số nước Lào trên 6 triệu người, gồm nhiều dân tộc, bộ tộc trình độ

phát triển không đồng đều. Nếu chia theo các nhóm dân tộc theo ngôn ngữ thì

đông nhất là nhóm Lào – Tày, chiếm 64,9 dân số, sau đó là nhóm Môn – Khơ

Me chiếm 22,6% dân số.

Bảng 3.1. Dân số chia theo các nhóm dân tộc của nước Lào năm 2012

Nhóm dân tộc Tổng dân số Nữ (người)

Lào - Tày 3.646.838 1.830.803

Môn - Khơ Me 1.269.276 639.650

Trung Quốc -Tây Tạng 479.395 237.831

Hmông - Iu Miên 159.298 79.465

Các dân tộc khác 67375 33702

Nguồn: Tổng cục thống kê

* Nhóm ngôn ngữ Lào - Tày: có 8 dân tộc, dân số 3.646.833, gồm:

- Tộc người Lào . Tên gọi là theo tiếng địa phương: Lào, Phuôn, Ka Liêng, Bo,

Dôi, Yo, Thay Phộng, Thay Sam, Thay Dương, Thay Lan, Thay Cha, Thay

Mắt, Thay Ô, Tay Lăng, I Sản.

- Tộc người Tay. Tên gọi theo tiếng địa phương: Tay đăm, Tay đeng, Tay

khảo, Tay mịa, Tay mèn, Tay thẻng, Tay ẹt, Tay Xổm.

- Tộc người Phu Tay. Tên gọi theo địa phương: Phủ thay, Thay Ang khăm,

Thay ka tạ Bong, Thay Xảm Cạu.

- Tộc người Lự. Tên gọi theo địa phương: Lự, Khỉn (khơn)

-Tộc người Duôn. Tên gọi theo tiếng địa phương: Duôn, ka Lom, Ngiệu

- Tộc người Dăng. Tên gọi theo tiếng địa phương: Dăng.

- Tộc người Xẹc. chiếm 0,1% dân số. Tên gọi theo tiêng địa phương: Xẹc, Cọi.

51

- Tộc người Thay Nửa. Tên gọi theo tiếng địa phương: Thay Nửa.

Hình 3.1. Cơ cấu các nhóm dân tộc của nước Lào

* Nhóm ngôn ngữ Mon- khơmer : có 32 tộc người, dân số 1.269.276

người, gồm:

- Tộc người Khơ Mụ. Tên gọi theo địa phương Kăm mụ, khạ mụ, ka xắc

Kim mu u, Kim mu duôn, kim mu Lự, Kim mu khạ rong, Kim mu hoc,

Kim mu Khoẻn, Kim mu mê, kim mu chương, Kim mu ăn, Mốc bay, Mốc pạ

rang,Mốc tàng chạc, Mốc cốc, Mộc tụ, Kạ ri, Dum pạ ri, Lạp ri, Tong lưởng.

-Tộc người Bay rạ. tên gọi theo tiếng địa phương: Thìn, Li vạ, lao, mày, phay

- Tộc người Xing Mun. Tên gọi theo tiếng địa phương: Phuộc , Lao máy

- Tộc người phọng. Tên gọi theo tiếng địa phương: Phọng, Khạ niêng, Phọng

biệt, Phọng lan, Phọng phẻn, Phọng Chạ buông.

- Tộc người Thèn. Tên gọi theo tiếng địa phương: Thèn, Thay Thèn.

- Tộc người Ơ Đu. Tên gọi theo tiếng địa phương: Ơ đu, Thay rạt

- Tộc người Bít. Tên gọi theo tiếng địa phương: Bít.

- Tộc người La Mét. Tên gọi theo tiếng địa phương : La Mét.

- Tộc người Xảm Tào. Tên gọi theo tiếng địa phương: Xảm Tào, Đoi.

52

- Tộc người Kạ Tang. Tên gọi theo tiếng địa phương : Pạ ru, Kạ tang. Phạ Kẹo.

- Tộc người Mạ Kong. Tên gọi theo tiếng địa phương: Pa ru, Mạ kong, Tịu,

Phịu, Ma họi, Ta rong.

- Tộc người Ta Ri. Tên gọi theo tiếng địa phương: Pạ tu ri.

- Tộc người Do ru. Tên gọi theo tiếng địa phương: Lạ Vên, Xu, Do Ru kong ,

Du ru đac.

- Tộc người Ta Liêng. Tên gọi theo tiếng địa phương: Ta Liêng.

- Tộc người. Ta Ôi. Tên gọi theo tiếng địa phương: Ta Ôi, Ra đông, In.

- Tộc người Dẹ. Tên gọi theo tiếng địa phương: De.

- Tộc người Brâu. Tên gọi theo tiếng địa phương: La Vê, Lui vê, Kạ vệt, Ra lang.

Tộc người Kạ Tu. Tên gọi theo tiếng địa phương: ka Tu, Ta riu, Đạc kang

(Băng đeng)

- Tộc người Ha rắc. Tên gọi theo tiếng địa phương: A lắc

- Tộc người Ôi. Tên gọi theo tiếng địa phương: Ôi, xạ Buổn, xọc, In thì, Mê Kạ

long, Mê ri yao.

- Tộc người Kạ Riêng. Tên gọi theo tiếng địa phương: Ngọ, Chạ tong.

- Tộc người Chẹng. Tên gọi theo tiếng địa phương: Chieengj.

- Tộc người Kạ Đang. Tên gọi theo tiếng địa phương: Xê đang, Kạ Dong, Ka

Đang Đuôn.

- Tộc người Xuồi. Tên gọi theo tiếng địa phương: Xuồi.

- Tộc người Nha hớn. Tên gọi theo tiếng địa phương: Tăng cọ, Hón yo.

- Tộc người Lạ Vi. Tên gọi theo tiếng địa phương: Lạ Vi.

- Tộc người Pa Kộ. Tên gọi theo tiếng địa phương: Pạ Kọ, Ka đô, Ka nay.

Tộc người Khơ Me. Tên gọi theo tiếng địa phương: Khơ Me, Khọ.

- Tộc người Tụm. Tên gọi theo tiếng địa phương: Tụm, Li ha, Thay chăm,

Thay phọng, Thay pụn, Mọi.

- Tộc người Nguổn. Tên gọi theo tiếng địa phương: Nguổn.

- Tộc người Moi. Tên gọi theo tiếng địa phương: Mọi, Mương.

53

- Tộc người Kri. Tên gọi theo tiếng địa phương: Xạ lang, Alêm, Ma leng,

Tong, Lương.

* Nhóm ngôn ngữ Trung Quốc - Tây Tạng : có tổng dân số 159.298

người, gồm:

- Tộc người A Kha. Tên gọi theo tiếng địa phương: Ko, Ô ma, Khi, Mu Tơn,

Chi cho, Pu li, Ba na, Ko phê, Nu kui, Lu ma, Ê pa, Chi bia, Mu chi,

Ya ê, không xạt, Phu xang.

-Tộc người Sing Si li. Tên gọi theo tiếng địa phương: Phu nọi, Bi xu, phu yot,

Ta bạt, Băng tăng, Cha Ho, Lào Xenng, Phay (phông xa ly), Lao ban,

Phông Cu, Phong xẹt.

- Tộc người La Hủ. Tên gọi theo tiếng địa phương: Mu xi, Mu đăm, Mu xi

khảo, Kùi xủng, Kùi luổng.

- Tộc người Xi La. Tên gọi theo tiếng địa phương: Xi La.

- Tộc người Hà Nhì. Tên gọi theo tiếng địa phương: Hà Nhì.

- Tộc người Lô lô. Tên gọi theo tiếng địa phương: A lu.

- Tộc người Hõ. Tên gọi theo tiếng địa phuơng: Hõ.

* Nhóm ngôn ngữ Hmông – Iu Mien: tổng dân số 479.395 người, có 2 tộc người:

- Tộc người Mông. Tên gọi theo tiếng địa phương Mông đi, Mông lằng, Mông

xi, Mông dụa, Mông đụ.

- Tộc người Iu Miên. Tên gọi theo tiếng địa phương: Yạo, Lòa nọi, Lan,

Ten, Yạo khảo, Yạo phôm mày đeng.

* Nhóm tộc người khác chiếm 0,2% dân số

3.1.2. Chia theo địa bàn cư trú, phong tục tập quán và nguồn gốc các dân tộc

Nếu chia theo nhóm ngôn ngữ, các dân tộc của Lào xếp theo 4 nhóm

ngôn ngữ (bảng 3.1). Tuy nhiên dựa vào địa bàn cư trú, phong tục tập quán và

nguồn gốc các dân tộc thì các tộc ở Lào được xếp thành 3 nhóm với tên gọi

như: Lào lùm (các tộc người Lào cư trú ở các vùng thấp), Lào thơng (các tộc

người Lào cư trú ở các vùng trên), Lào xủng (các tộc người Lào cư trú ở các

vùng rẻo cao).

54

3.1.2.1. Nhóm Lào lùm

Nhóm này bao gồm các tộc sinh sống ở các vùng thấp thuộc ngữ hệ Lào-

Thay. Dân số trên 2 triệu người, gồm các tộc: Lào, Thay, Phuôn, Lự, Phu-lay,

Duôn, trong đó có người Lào đông nhất, khoảng 1,8 triệu người. Tuy có nhiều

tộc với tên gọi khác nhau nhưng nhìn chung nhóm Lào lùm có nhiều đặc điểm

giống nhau. Hầu hết các tộc thuộc nhóm Lào lùm đều lập bản mường ở vùng

đồng bằng, dọc sông Mê-kông, các phụ lưu, thung lũng, những vùng trũng trên

cao nguyên như Mường xinh, Luổng-nặm-thà, cao nguyên Xiêng-khoảng, Xạ-

vẵn-nạ-khệt, Bô-lô-ven. Bản làng người Lào lùm thường có 40-50 nóc nhà,

vùng có mật độ dân số cao như đồng bằng Viêng-chăn, Xạ-vẵn-nạ-khệt, Chăm-

pa-sắc, nhiều bản làng có tới 200-300 nóc nhà, bản được dựng bên bờ sông

suối, đầm hồ lớn quanh năm nước không cạn. Bản lớn được chia thành xóm gọi

là “khũm”.

Người Lào lùm sinh sống bằng nghề nông, làm ruộng nước, cấy lúa nếp,

một số vùng kết hợp làm rẫy nhưng ruộng vẫn là chủ yếu. Tuy chưa có hệ

thống thủy lợi hoặc hồ lớn chứa nước để làm vụ chiêm nhưng người Lào lùm

làm nương phai nhỏ hoặc guồng dẫn nước vào ruộng. Việc cải tạo đất, sử dụng

phân bón, nông dân Lào lùm chưa quan tâm, có thể là do đất đai vẫn màu mỡ

nhờ phù sa bồi đắp hàng năm cùng với những gốc rạ mục nát từ vụ trước để lại.

Chọn giống lúa là khâu người nông dân Lào lùm hết sức chú trọng, do đó ở mỗi

địa phương thường có nhiều loại giống lúa phù hợp với đất đai trong vùng.

Ngoài ruộng rẫy, mỗi hộ nông dân Lào lùm còn có mảnh vườn rộng lớn chuyên

trồng các loại rau, cây ăn quả như dừa, chuối, xoài, nhãn, cam…

Nghề thủ công trong vùng người Lào lùm cũng khá phát triển. Phổ biến

nhất là dệt vải, đan lát, gốm, nấu đường, muối, rèn, khai thác lâm thổ sản, chăn

nuôi gia súc gia cầm. Trâu từng đàn hàng trăm con được thả rong trên các đồng

cỏ. Vùng đồng bằng dọc các con sông Mê-kông, Nặm-ngừm, Sê-băng-phay,

Sê-băng-hiêng nghề đánh bắt cá làm mắm phát đạt và trở thành nguồn thu nhập

55

lớn. Trồng bông, trồng dâu nuôi tằm dệt vải đối với người Lào lùm không

những để tự túc mà còn là sản phẩm để trao đổi với các nhóm tộc khác chưa dệt

được vải. Những nghề thủ công trên tuy có phát triển trong nhóm người Lào

lùm nhưng vẫn còn phân tán, tự cấp tự túc, chưa tách khỏi nông nghiệp.

Các tộc thuộc nhóm Lào lùm có nền văn hóa chung phong phú đa dạng

và phát triển. Đáng chú ý nhất là kho tàng văn học dân gian, văn học thành văn

được sưu tầm và bảo vệ đến ngày nay. Người Lào lùm đều dùng chữ phổ

thông, cùng nói một thứ tiếng, chỉ khác nhau ít nhiều về thổ âm. Hầu hết người

Lào lùm theo đạo Phật tiểu thừa gọi là Hỉn-nạ-nhan. Cùng với đạo Phật, người

Lào lùm vẫn duy trì các hình thức tín ngưỡng cổ xưa, điển hình là thở thần linh,

thờ “phỉ” (ma). Với nền kinh tế nông nghiệp tự túc tự cấp nhưng nhóm Lào lùm

có trình độ sản xuất cao hơn, đời sống sung túc hơn các nhóm Lào thơng, Lào

xủng, họ chiếm đa số và giữ vai trò chủ yếu về chính trị, kinh tế, văn hóa trong

quá trình dựng nước và giữ nước ở Lào.

3.1.2.2. Nhóm Lào thơng

Nhóm Lào thơng thuộc ngữ hệ Môn-Khơ-me, gồm trên 20 tộc sinh sống

trên những vùng sườn đồi, núi, cao nguyên. Dân số khoảng 1 triệu người, có

các tộc như: Khơ-mú, Khơ-bít, Phọong, Puộc, Kạ-tang, Pa-cô, Tạ-ôi, Lạ-vên,

Lạ-ve, Xẹc, Nha-hớn, Kạ-tu, A-lắc…trong đó tộc Khơ-mú đông nhất trên

300.000 người. Các tộc thuộc nhóm Lào thơng cư trú rải rác trên địa bàn rộng

lớn suốt từ Bắc xuống Nam tại các miền rừng, triền núi, cao nguyên dọc theo

các con sông suối nhỏ. Bản làng người Lào thơng nhỏ hơn bản làng người Lào

lùm, vùng cư dân đông đúc như La-vên, A-lắc, bản làng tương đối lớn cũng chỉ

có 30-40 nóc nhà. Người Lào thơng cũng ở nhà sàn, cột gỗ thưng phên tre nứa

hoặc gỗ nhưng thấp hơn nhà sàn người Lào lùm. Làm nương rẫy là nguồn sống

chủ yếu của người Lào thơng. Ngoài lúa nếp, trên nương rẫy của người Lào

thơng còn trồng tỉa một số rau quả thiết yếu cho cuộc sống mỗi gia đình như ớt,

cà, bí, thuốc lá, bông…Một số vùng của tộc Khơ-mú, Puộc, Phọong ở Bắc Lào,

56

Xồ, Xẹc ở Trung Lào, La-ven, Suồi ở Nam Lào làm thêm ruộng hoặc chuyển

sang làm ruộng là chủ yếu. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tại

các vùng giải phóng, được sự giúp đỡ của chính quyền nhân dân các cấp, nhiều

tộc thuộc nhóm Lào thơng chuyển sang làm ruộng nước. Công cụ sản xuất của

người Lào thơng trước đây còn thô sơ như rìu, dao, gậy bằng gỗ hoặc tre đẽo

nhọn, dùng cày chìa vôi bằng gỗ hoặc xương trâu, bò. Đến mùa thu hoạch, ở

một số vùng còn tuốt lúa bằng tay, giã gạo bằng cối gỗ, chày tay. Do ở xa các

con sông, suối lớn nên người Lào thơng chưa biết đánh bắt cá bằng các loại

lưới, mà chỉ dùng lờ, đơm, đó đánh bắt trên các suối nhỏ. Trừ một số tộc xuống

làm ruộng, học được nghề dệt vải với người Lào lùm còn đại bộ phận người

Lào thơng chưa biết dệt vải hoặc dệt còn thô sơ. Người Lào thơng thường trao

đổi với người Lào lùm vải mặc hoặc một số hàng thiết yếu khác như muối,

mắm, đường. Vật phẩm để trao đổi, chủ yếu là lâm thổ sản, bởi vậy việc khai

thác lâm thổ sản có vị trí quan trọng đối với người Lào thơng. Những năm mùa

màng thất bát, hoặc những tháng giáp hạt, các loại củ rừng trở thành nguồn

lương thực quan trọng của người Lào thơng.

Người Lào thơng xuất hiện khá sớm trên đất Lào. Tại một số vùng đồng

bằng nhiều bản làng người Lào thơng hình thành xen kẽ với bản mường người

Lào lùm nên có ảnh hưởng qua lại về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Người

Lào thơng không có chữ viết riêng, trước đây một số tộc ở vùng Nam Lào có

dùng chữ “khỏm” nhưng không phổ biến. Sau cách mạng năm 1945, người Lào

thơng học chữ Lào. Xã hội Lào thơng còn tồn tại nhiều tàn tích của thời bộ tộc,

thị tộc, trình độ sản xuất phát triển còn chậm.

3.1.2.3. Nhóm Lào xủng

Nhóm Lào xủng gồm những tộc cư trú trên những rẻo cao, đỉnh núi,

thuộc ngữ hệ Mẹo-Dao, Tạng-Miến, dân số khoảng 400.000 người gồm có các

tộc: Hmông, Dao, Lô-lô, Hà-nhì, trong đó tộc Hmông đông nhất, gần 250.000

người. Tuy đã cư trú trên địa bàn Lào hàng thế kỷ nhưng theo lịch sử Lào thì

57

nhóm Lào xủng xuất hiện sau nhóm Lào lùm, Lào thơng. Tuy nhiên trong quá

trình sinh sống bên nhau trong một lãnh thổ đã tạo nên mối quan hệ mật thiết

giữa các nhóm tộc, đặc biệt sau ngày tuyên bố độc lập, rồi qua hai cuộc kháng

chiến trường kỳ chống xâm lược, tình đoàn kết gắn bó ngày càng được củng cố

và phát triển mạnh mẽ thành ý thức quốc gia dân tộc thống nhất.

Người Lào xủng thường sống trên những ngọn núi cao từ 1000m trở lên,

nơi khí hậu mát mẻ về mùa nóng, giá rét về mùa khô, nguồn nước tuy không

sẵn nhưng có đất đai rộng lớn để khai phá. Người Lào xủng sống tập trung ở

các dãy núi phía Bắc Lào thuộc các tỉnh Xiêng-khoảng, Luổng-phạ-bang, Xăm-

nửa và Bắc Viêng-chăn. Do ở trên những ngọn núi cao nên người Lào xủng

làm nhà sàn thấp, bốn bề thưng ván để che gió. Bản làng được dựng trên những

mỏm núi cheo leo, mỗi bản chỉ có khoảng 10-15 nóc nhà. Mỗi bản tuy cách

nhau không xa nếu tính theo đường chim bay nhưng đường bộ đi lại rất khó

khăn, phải vượt đèo leo dốc mất nhiều giờ mới tới. Phương tiện đi lại, vận

chuyển không có gì khác ngoài ngựa.

Người Lào xủng sinh sống bằng nương rẫy, trồng ngô, lúa. Trên rẫy còn

trồng bông, rau quả, bí đỏ…Trồng bông để tự túc một phần về mặc, còn ngô, bí

đỏ để chăn nuôi, chủ yếu là nuôi lợn, bò, dê, ngựa. Người Lào xủng có kinh

nghiệm nuôi lợn, giống lợn to béo hơn giống lợn ở vùng đồng bằng. Ngoài

trồng, ngô, lúa, chăn nuôi người Lào xủng trước đây còn trồng cây thuốc phiện,

một nguồn thu nhập quan trọng của mỗi gia đình. Về tiểu thủ công, người Lào

xủng có nghề rèn, dệt…nghề dệt còn thô sơ chỉ tự túc được một phần, phải dựa

vào việc trao đổi với nhóm người Lào lùm, nhất là muối ăn hàng ngày. Nghề

rèn của người Lào xủng cũng khá phát triển, một nghề có truyền thống nên các

công cụ sản xuất, đặc biệt súng kíp rất tốt. Thanh niên Lào xủng rất thông thạo

về săn bắn trên những vùng núi cao nhưng lại ít kinh nghiệm đánh bắt dưới

sông suối.

Người Lào xủng cũng thờ đa thần, cúng tổ tiên, một số vùng còn thờ vật

tổ nhưng chỉ ở mức kiêng kỵ không ăn và không giết mổ. Trước kia nhóm

58

người Lào xủng chưa có chữ viết, đến năm 1960 mới có chữ viết riêng. Xã hội

Lào xủng cũng phát triển chậm, nhiều tập tục của các tôn giáo cổ xưa vẫn còn

đậm nét ở một số tộc. Tù tộc trưởng, thầy cúng, thợ rèn có địa vị cao trong xã

hội. Tệ tảo hôn, đa thê còn phổ biến trong các gia đình chức dịch, giàu có.

Người phụ nữ phải lao động hết sức nặng nhọc, vất vả nhưng lại ở địa vị thấp

kém. Ngoài ra còn nhiều hình thức kiêng kỵ khác ảnh hưởng đến sản xuất.

3.2. Bản sắc văn hóa của các dân tộc Lào

3.2.1. Tập quán sinh hoạt

3.2.1.1 Ẩm thực

Cây lương thực chủ yếu ở Lào là lúa nếp và lúa tẻ. Trên nương rẫy hoặc

trong vườn còn trồng ngô, khoai sắn…nhưng đó chỉ là loại lương thực phụ.

Trước đây diện tích lúa tẻ chiếm tỷ lệ không đáng kể và gạo tẻ chỉ để dùng làm

bún, bánh trong những ngày lễ hội. Sau cách mạng năm 1945 diện tích gieo

trồng lúa tẻ có tăng lên nhưng hầu như người Lào ưa thích ăn gạo nếp. Ở nông

thôn, xôi thường được ăn vào bữa trưa để những người đi lao động ngoài

ruộng, trên nương rẫy mang theo tiện lợi. Bữa ăn không cần canh riêu, xào nấu,

chỉ khúc cá nướng, gỏi “chèo” (ớt nướng bóc vỏ giã với cá nướng hoặc với

mắm cà), quả chuối hoặc ít quả me chín ngọt. Cá, ốc, ếch, lươn, tôm, tép…là

thức ăn được người Lào ưa thích và trở thành phổ biến trong các bữa ăn của

hầu hết các gia đình. Hệ thống sông suối, ao hồ dày đặc ở Lào là nguồn tôm cá

vô tận để nhân dân Lào đánh bắt. Thịt thú rừng cũng là nguồn thực phẩm quan

trọng như hươu, nai, thỏ, kỳ đà, chim, sóc,…trong đó đặc biệt là rắn, trút, dũi

đất (ỗn, tùn) được người Lào ưa thích. Thịt trâu, thịt bò được xếp hàng đầu

trong các loại gia súc gia cầm, thịt lợn xếp sau cùng. Ở vườn, đất rất rộng

nhưng người Lào không trồng nhiều rau xanh như nhân dân một số quốc gia

lân cận. Ngoài số rau ít ỏi trong vườn, trên nương rẫy, người Lào còn dựa vào

nguồn ra quả hái lượm ở trong rừng. Cùng với măng rừng, nấm, mướp, bầu, bí

người Lào còn rất thích ăn các loại rau quả có vị đắng, chua, chát. Các loại gia

59

vị được trồng phổ biến ở vườn, nương rẫy như các loại rau thơm, hành, tỏi,

sả…đặc biệt là ớt. Ớt là loại gia vị không thể thiếu trong bữa ăn của người Lào.

Trên nương rẫy, gò đất ở đồng ruộng đều được trồng ớt. Ớt chín, phơi khô đem

gác bếp để ăn quanh năm.

3.2.1.2. Nhà ở

Giống như nhân dân nhiều nước ở khu vực Đông Nam Á, việc dựng nhà,

chuyển đến nhà mới xưa nay ở Lào được coi là việc hệ trọng và có một số tập

quán được mọi nhà tự nguyện tuân thủ một cách nghiêm chỉnh. Theo quan

niệm của người Lào, ngôi nhà là nơi nương tựa suốt cả một đời người. Cuộc

sống ấm no, hạnh phúc lúc vui buồn của mỗi gia đình đều diễn ra dưới mái nhà

sàn gỗ đơn sơ của mình.

Để dựng một ngôi nhà sàn gỗ, dù lớn hay nhỏ, người Lào thường tiến

hành theo trình tự: tìm cột, chuẩn bị tre, gỗ, chôn cột, dựng nhà, làm lễ chuyển

nhà mới, trải chiếu…Thực hiện các bước trên, xưa nay người Lào thường dựa

vào sức mạnh của tập thể bản mường. Đối với các thành viên trong bản mường

coi sự giúp đỡ lẫn nhau là nghĩa vụ, là tình nghĩa đối với xóm giềng. Theo

truyền thống, mỗi hộ trong bản vào dịp này, thường phát huy tinh thần đoàn kết

tương trợ để xóm giềng có được ngôi nhà khang trang, mát mẻ thuận tiện cho

sinh hoạt. Yếu tố quyết định độ bền vững của ngôi nhà sàn gỗ ở Lào trước đây

là cây cột. Cột được chôn xuống đất, thường xuyên tiếp xúc với độ ẩm dễ bị

mối mọt…nên phải lựa loại gỗ tốt. Gia chủ chuẩn bị cơm nước cùng xóm giềng

vào rừng tìm cột. Những cây gỗ tốt, thẳng, ít mắt thường được chọn. Không

may chọn phải gỗ xấu làm cột nhà, người Lào xưa kia cho rằng sẽ ảnh hưởng

không tốt đến chủ nhân sau này như bệnh tật, đau ốm…Khi đã chọn được cây

gỗ như ý, trước khi chặt, gia chủ thường đi quanh ba vòng từ trái sang phải, rồi

vịn vào thân cây đọc những lời cầu khẩn mọi sự tốt lành. Khi chặt, gia chủ phải

lựa hướng sao cho cây gỗ đổ ngay xuống đất. Nếu xung quanh cây rậm có thể

vướng, thường phải phát quang trước khi chặt. Chặt hạ xong, cột được chuyển

60

về bản, dùng lửa đốt để bóc vỏ, đục lỗ. Trước đây chưa có các loại đinh, người

Lào thường dùng con xỏ (lĩn-toọc) bằng gốc tre. Việc tính toán kích thước của

ngôi nhà do một người thợ cả đảm nhận. Họ dùng nắm tay, gang tay, khuỷu tay

và sải tay để đo gọi là “căm, khựp, xoọc, va). Các con số 6, 8, 9 được coi là

những số may mắn.

Sau khi chuẩn bị đầy đủ các vật liệu, các già bản tính toán chọn một ngày

lành, tháng tốt, gia chủ thông báo cho bà con xóm giềng biết ngày dựng nhà.

Theo tập quán ở Lào, hộ nào cũng cử người đến giúp. Nếu nhà không có nam

giới thì phụ nữ đi thay. Vì ngoài công việc dựng nhà, gia chủ còn chuẩn bị cơm

nước mời bà con đến giúp. Phụ nữ đi giúp bà con dựng nhà thường có tục mang

theo mắm, muối ớt, lá chuối, thuốc lá cuốn…và giúp nấu nướng chuẩn bị bữa

ăn. Còn nam giới chỉ cần mang theo con dao dựa hoặc chiếc rìu là hai dụng cụ

chủ yếu để làm nhà trước đây ở Lào. Theo tập quán của bản mường thì mọi

công việc từ đào lỗ chôn cột, dựng nhà, thưng ván, lợp, giải giát sàn…đều phải

làm xong trong ngày. Bởi vậy bà con xóm giềng thường đến sớm, đông đủ và

lao động với tinh thần khẩn trương dưới sự điều khiển của người thợ cả. Người

Lào lùm thường dựng nhà quay về hướng Bắc, lưng tựa vào hướng Nam hoặc

chếch đôi chút. Nếu quay về hướng khác hoặc nhà cắt ngang hướng Đông-Tây

là điều kiêng kỵ. Bước đầu tiên của việc dựng nhà là chôn cột. Theo tập quán

người Lào thường làm nhà ba gian nên có tám cột. Khi đào, phải đào hố chôn

cột ở phía Nam trước gọi là “xảu hẹc”. Tiếp theo phải đào hố chôn cột phía

Đông gọi là “xảu khoẳn”. Sau đó có thể đào chôn cột nào tiếp cũng được. Khi

dựng cột nhà cũng phải dựng hai cột ở phía Nam và phía Đông trước. Trước

khi dựng cột thường lót lá chuối tươi hay đổ cát, sỏi xuống trước. Trên đỉnh

mỗi cột buộc các cành lá tươi bằng chỉ trắng hoặc tơ tằm. Với nghi thức và

trình tự trên, người Lào tin rằng hạnh phúc sẽ đến với gia chủ, cuộc sống lao

động sản xuất sẽ gặp nhiều may mắn.

Dựng xong ngôi nhà, trước khi lên nhà mới, ở Lào cũng có tục làm lễ

chuyển đến nhà mới (khựn hươn mày). Tham gia làm lễ lên nhà mới cũng gồm

61

các thành viên trong bản mường, trong đó các già bản có vai trò quan trọng.

Trước kia lễ chuyển đến nhà mới thường được chuẩn bị công phu, mất thời

gian và tốn kém. Ngày nay chỉ còn hình thức làm lễ cầu may đến nhà mới gọi

là “xù-khoẳn hươn mày” với sự tham gia của bà con xóm giềng.

3.2.1.3. Trang phục trang sức

Từ lâu trong mỗi bản mường, nhân dân có khả năng tự túc được các loại

chăn, vải. Khi chưa có thuốc nhuộm, người Lào dùng các loại quả rừng, củ

rừng. Các cô gái thích mặc vải hoa, vải kẻ có màu đậm, tươi tắn như màu cỏ

cây hoa lá tự nhiên trong rừng núi bao la trùng điệp của quê hương mình. Kiểu

áo quần, màu sắc cũng được chú ý sao cho tiện lợi, phù hợp với từng mùa, từng

hoàn cảnh cụ thể khi đi lao động sản xuất, dự lễ hội, cưới xin, ma chay…

Thanh niên Lào thường cắt tóc ngắn, mặc áo cổ tròn tay ngắn, quần đùi,

bên ngoài quấn chiếc khăn gọi là “phạ-xà-rông” màu, kẻ ô vuông. Khi đi lao

động ngoài ruộng rẫy, nam giới mặc quần đùi hoặc quần dài nhuộm chàm.

Những ngày lễ hội trang trọng, nam giới mặc y phục dân tộc. Đó là chiếc áo sơ

mi cổ tròn, khuy vải, cài về phía tay trái. Bên ngoài chiếc quần đùi giản dị, các

chàng trai Lào quấn chiếc khăn dài rộng gọi là “phạ nhạo nếp tiêu” màu sắc sặc

sỡ (rộng hơn phạ-xạ-rông, khi mặc cuốn qua háng rồi nhét vào cạp sau). Gia

đình khá giả mặc loại toàn tơ tằm. Một số thanh niên còn quàng loại khăn màu

chéo qua ngực gọi là “phạ-biềng”. Đi dự những ngày lễ hội trong bản mường

người thanh niên có thể mặc bộ y phục dân tộc cũ nhưng nếu mặc áo quần ngắn

thì bị dân bản đánh giá thiếu sự tôn trọng cộng đồng, phong tục truyền thống

của dân tộc. Trong lễ hội cũng như lúc bình thường, nam giới ở Lào hay đeo

nhẫn, một số địa phương ở Nam Lào còn đeo dây chuyền. Trong cuộc sống lao

động hàng ngày, người Lào còn thường dùng một loại khăn gọi là “phạ-phe”

(giống khăn rằn ở miền Nam). Ở Lào khăn rằn được sử dụng một cách phổ biến

trong cả nước, ở mọi lứa tuổi. Chiếc khăn vải kẻ ô vuông màu trang nhã thường

được dùng làm khăn tắm, trùm đầu che nắng che sương, quàng cổ khi trời giá

62

rét. Đi lao động ngoài ruộng rẫy, đi đường xa “phạ-phe” dùng để gói bộ quần

áo thắt ngang lưng rất gọn gàng. Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống

Pháp các chiến sĩ Pa-thêt Lào dùng “phạ-phe” thay ba-lô trong các cuộc hành

quân bôn tập. Phạ-phe còn dùng làm dây trói tù binh trong những trận thắng

lớn. Cùng với chiếc “phạ-phe” một con dao nhọn dắt trong bao gỗ xinh xắn

cũng là một vật không thể thiếu đối với nam giới ở Lào, đặc biệt là ở nông

thôn. Một cuộc hành trình dài ngày, đi sản xuất ngoài ruộng rẫy, đi săn bắt,

người thanh niên Lào dù ở lứa tuổi nào cũng luôn mang bên mình con dao đánh

bằng loại thép quý và thường xuyên được mài rất sắc. Trong những năm kháng

chiến chống Pháp cũng như chống Mỹ xâm lược, các chiến sĩ Quân giải phóng

nhân dân Lào, quân tình nguyện Việt Nam cũng không thể thiếu con dao nhọn.

Con dao trở thành vật có tác dụng vạn năng đối với người nông dân Lào cũng

như các chiến sĩ hoạt động ở vùng rừng núi.

Lúc còn nhỏ, phụ nữ Lào để tóc hoặc hớt tóc. Trên mười tuổi thường búi

tóc, một số địa phương như ở Luổng-pha-bang có tục búi tóc lệch hoặc thẳng

để phân biệt giữa các cô gái có chồng và chưa có chồng. Ngoài năm mươi tuổi,

phụ nữ Lào thường hay cắt tóc ngắn với quan niệm đã về già cần ăn mặc giản

dị, gọn gàng, làm gương cho con cháu. Xưa kia cũng như ngày nay phụ nữ Lào

thường mặc váy. Theo tập quán cổ truyền, phụ nữ Lào mặc váy có cạp, có gấu,

không quá ngắn hoặc quá dài. Ai không mặc như trên hoặc dùng vải quá mỏng,

quần chẽn bó lấy thân bị coi là không đứng đắn, trái với cách ăn mặc truyền

thống của phụ nữa Lào. Các em bé gái dưới mười tuổi có thể châm chước trong

cách ăn mặc nhưng vẫn kỵ mặc đảo ngược gấu váy lên trên. Đi lao động ngoài

ruộng rẫy như gặt hái, làm cỏ, hái lượm trong rừng, phụ nữ mặc áo tay dài

nhuộm màu chàm hoặc đen. Người lớn tuổi hay quấn trên đầu chiếc khăn rằn

(phạ-phe). Đi dự lễ hội, phụ nữ Lào ăn mặc theo truyền thống dân tộc. Đó là

váy toàn tơ, chân váy có những đường hoa văn mang màu sắc dân tộc, chiếc áo

tay ngắn được may cầu kỳ hơn, có những đường viền hoặc thêu hình hoa lá,

63

chim muông. Có cô gái mặc áo đính bằng khuy đồng hay khuy bạc, quàng chéo

trước ngực chiếc khăn “phạ-biềng” màu. Bó sát lưng làm nổi thân hình thon thả

của các cô gái là chiếc dây thắt lưng bằng đồng hay bạc gọi là “khểm-khắt”. Đi

dự các ngày lễ hội các cô gái Lào thích đeo đồ trang sức như hoa tai, dây

chuyền, nhẫn bằng vàng hay bạc. Nhưng phổ biến nhất là đôi bông tai và chiếc

thắt lưng, đó là những vậy kỷ niệm của người con gái được cha mẹ sắm cho từ

thưở nhỏ.

3.2.1.4. Quan hệ gia đình, họ hàng, xóm giềng

Các bản mường ở Lào thường có một số dòng họ. Mỗi họ có nhiều gia

đình. Các gia đình này gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt truyền thống, tình cảm

và kinh tế. Về họ hàng, người Lào có họ cha, họ mẹ và họ nhà chồng, nhà vợ.

Gửi rể là tập quán phổ biến ở nông thôn Lào. Một số địa phương có tục gửi rể

một thời gian nhất định, khi vợ chồng ra ở riêng sẽ được hưởng một phần tài

sản do cha mẹ vợ chia cho. Tùy mỗi nhóm dân tộc, mỗi địa phương, quyền lực

trong gia đình thuộc người chồng hay người vợ. Đương nhiên, với chế độ tiểu

gia đình phụ quyền thì quyền lực sẽ thuộc về người chồng. Song, nhìn chung

người phụ nữ Lào vẫn có một số quyền hành nhất định, chứ không hoàn toàn ở

vào vị trí thấp kém trong gia đình cũng như xã hội. Trong gia đình, con gái có

quyền lợi ngang với con trai. Con gái được tự do đi dự lễ hội, múa hát dưới ánh

trăng cùng bè bạn, kể cả bạn trai. Trong những ngày lễ hội của bản mường, con

gái không bị ngăn cản mà còn được công nhận như một thành viên chính thức.

Các cô gái Lào có thể tự do kéo sợi, dệt vải, may chăn màn, làm nệm, thêu gối

chuẩn bị cho ngày cưới của mình. Khi bố mẹ chia tài sản, con gái cũng được

hưởng một phần ngang với con trai. Riêng giai cấp phong kiến Lào xưa nay

không công nhận vai trò của người phụ nữ, luật pháp của vương quốc Lào

trước đây quy định người phụ nữ không phải làm nghĩa vụ đối với Nhà nước.

Người Lào rất quý con, dù trai hay gái. Tất nhiên, những vùng có tục gửi

rể, con gái được quý hơn. Xưa nay, người Lào cũng có tâm trạng phiền muộn,

64

cảm thấy thiếu hạnh phúc khi vợ chồng lấy nhau lâu mà không có con. Người

Lào thường nói “Không có mèo chuột cắn khung cửi, không có con, họ hàng

coi khinh”.

Ở Lào, gia đình một vợ một chồng là phổ biến. Con chú con bác hay con

cô con cậu ở Lào không được lấy nhau. Nhưng trong hoàng tộc, không những

con cô con cậu mà chú có thể lấy cháu. Anh em ruột, anh em họ hay bà con họ

hàng thường có quan hệ gắn bó với nhau trong cuộc sống hàng ngày.

Cách xưng hô của người Lào cũng tự nhiên và đơn giản. Tuy có ý thức

rõ về anh em họ hàng, trên dưới nhưng thông thường khi giao tiếp ai lớn tuổi

hơn thì được gọi là anh, là chị. Nhiều địa phương ở Lào có tục không gọi tên

thật lúc còn nhỏ, mà con gái thường được gọi là “bặc e” tương tự như cái đĩ,

thằng cu. Các cô gái 15, 16 tuổi trước cái tên thường dùng của mình còn có

thêm tiếng “sảo”, con trai mười tám đôi mươi chưa có vợ gọi là “ai-bào” để

hiểu họ là gái chưa chồng, trai chưa vợ. Vợ chồng lấy nhau đẻ con đầu lòng

được đặt tên là gì thì cha mẹ được dân bản gọi vợ chồng bằng tên ấy và phía

trước có thêm tiếng bố hoặc mẹ. Chẳng hạn đứa con gái đầu lòng đặt tên là Bua

thì người cha, người mẹ được gọi là “phò Bua, mẹ Bua”. Khách nước ngoài

đến Lào không khỏi ngạc nhiên khi thấy người được gọi là cha là mẹ còn quá

trẻ. Thực ra, cách gọi đó chỉ có nghĩa là bố mẹ của đứa con đó mà thôi. Cặp vợ

chồng lấy nhau lâu năm không có con thì dân bản gọi là “phò pàu-mẹ pàu” (bố

không, mẹ không).

Ngoài họ hàng bà con ra, mỗi thành viên trong bản làng còn có mối quan

hệ với xóm giềng. Dù không cùng chung huyết thống nhưng lại có rất nhiều

mối quan hệ ràng buộc với nhau trong cuộc sống, lao động sản xuất. Có thể nói,

họ đã biết dựa vào nhau, đùm bọc nhau trong cuộc đấu tranh để sinh tồn. Khi

trình độ sản xuất còn thấp kém, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu thì những việc

như làm ruộng, phát rẫy, đắp mương, rồi thiên tai địch họa…đều phải dựa vào

sức lao động của cả cộng đồng. Có thể nói xưa nay, mỗi gia đình trong bản có

65

công việc hệ trọng như: bệnh tật đau ốm, sinh nở, cưới xin, ma chay, tu

hành…đều có sự hỗ trợ to lớn của xóm giềng, bản làng. Các thành viên trong

bản coi việc giúp đỡ lẫn nhau là nghĩa vụ, là đạo lý làm người, không ai nghĩ

rằng mình sẽ được trả ơn sau này. Về mối quan hệ xóm giềng, bản làng các già

bản thường dùng những câu tục ngữ để khuyên răn con cháu như: “gỗ một cây

rào dậu không kín”, lúc thiếu thốn thì “con cá nhỏ bằng ngón tay út cũng chia

đôi”, gặp khó khăn trở ngại thì “nặng giúp nhau gánh, dai giúp nhau kéo”.

Đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là tập quán tốt đẹp của người Lào

được duy trì qua nhiều thế hệ. Nhưng sau này có nơi đã bị bọn phong kiến,

quan lại lợi dụng để bóc lột những người nông dân lao động cần cù chất phác,

phá hoại sự chân tình, vô tư trong sáng một truyền thống tốt đẹp của bản

mường. Ngày nay, tập quán tốt đẹp trên được kế thừa và phát huy để phát triển

sản xuất, xây dựng cuộc sống mới và bảo vệ bản làng.

Với tập quán đoàn kết, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau khi có tai biến, lúc

mừng vui không có nghĩa là trong các bản mường không có những mâu thuẩn,

va chạm, tranh chấp với nhau trong cuộc sống, nhất là khi sản xuất chưa phát

triển, trình độ dân trí còn nhiều hạn chế. Nhưng từ thưở xa xưa, người Lào vốn

yêu chuộng cuộc sống hiền hòa, êm ái. Và đây cũng là một trong những bản sắc

của dân tộc Lào. Đứng trước mâu thuẫn, xích mích, người Lào thường có sự

kiềm chế rất lớn, với quan niệm “chín lần nhịn sẽ được thỏi vàng”. Hơn thế

nữa, người Lào còn rất kỵ cách xử thế “ăn cho thỏa đói, nói cho thỏa giận”. Do

đó mà trong các bản mường, kể cả đô thị, nơi tập trung như chợ búa, bến tàu,

bến xe thường rất ít xảy ra cãi cọ, chửi bới, xô xát lẫn nhau. Mọi sự tranh chấp

đều được hòa giải một cách êm thấm có lý có tình thông qua các già bản, trong

đó không thể không kể đến sự nhân nhượng, phục thiện của mỗi bên. Cãi nhau,

chửi nhau đối với người Lào là điều xa lạ, còn đánh nhau là một tội lỗi.

3.2.2. Tập quán sản xuất

Việc phân công lao động trong gia đình người Lào ở mỗi nhóm dân tộc,

mỗi miền có khác nhau đôi chút, song về căn bản đều theo giới và lứa tuổi. Sự

66

phân công lao động phản ánh khá rõ nền kinh tế nông nghiệp, tự cấp tự túc,

trong đó mỗi gia đình là một đơn vị kinh tế hầu như khép kín. Từng gia đình

phải sản xuất tự túc tất cả mọi nhu cầu của đời sống từ lúa, bông, vải, mắm…,

đến rau quả, thuốc hút. Phần còn lại nhờ vào sự trao đổi với xóm giềng hoặc

các bản mường lân cận.

Trong gia đình, người chồng thường làm những công việc nặng nhọc như

cày bừa, phát nương, đắp mương phai, săn bắt, sữa chữa nhà cửa. Các em trai

trên mười tuổi làm công việc nhẹ hơn như chăn trâu, bò, trông coi ruộng rẫy,

đan lát, theo cha để tập sự các công việc của nam giới. Do gắn bó với núi rừng

sông suối, lại được rèn luyện từ nhỏ nên thanh niên Lào rất thành thạo việc săn

bắt trên sông suối và núi rừng. Có nhiều hình thức đánh bắt trên sông suối, đầm

hồ tùy theo mùa nước, loại cá. Chẳng hạn như câu cá có cầu phao, câu chìm,

câm cắm, câu quăng. Vào rừng vào mùa khô gặp một vũng nước có nhiều cá,

người thanh niên Lào chỉ dùng một loại vỏ cây trong rừng gọi là “khưa-hay”

đập dập thả xuống một lúc là cá phải nổi lên. Từ xa xưa, người Lào đã nổi tiếng

về săn bắn thú rừng bằng vũ khí thô sơ và biệt tài đi rừng. Người Lào có thể

ngắm hướng băng rừng đi đến một điểm đã định trước mà không cần địa bàn.

Với tài nghệ vượt núi băng rừng, nghĩa quân Lào yêu nước trước kia, các chiến

sĩ quân giải phóng nhân dân Lào trong những năm kháng chiến chống xâm lược

vừa qua đã nhiều phen giáng cho quân thù những đòn bất ngờ choáng váng.

Để săn bắt thú rừng, trước đây người Lào dùng các hình thức gài chông,

bẫy, bắn nỏ bằng tên tẩm thuốc độc…khi chế tạo được súng kíp, thuốc súng thì

việc săn bắn chủ yếu bằng súng. Súng săn hiện đại chỉ mới xuất hiện thời gian

gần đây, chủ yếu ở vùng đồng bằng ven đô thị. Còn ở hầu hết các bản mường

vùng nông thôn vẫn sử dụng hình thức săn bắn theo truyền thống của mình.

Bằng các loại vũ khí thô sơ tự tạo nhưng với tinh thần dũng cảm, mưu trí, các

chàng trai Lào vẫn diệt được các loại thú dữ như hổ, gấu, voi…Các địa phương

ở Nam Lào có truyền thống dụ voi về thuần dưỡng. Đây là một nghề hết sức

67

công phu, nguy hiểm đòi hỏi lòng dũng cảm, thông minh. Người Lào có nghệ

thuật bẫy chim, gà, công…rất độc đáo, có hiệu quả và phổ biến khắp các bản

mường từ Bắc xuống Nam. Có thể nói các chàng trai Lào có biệt tài săn bắt, chỉ

cần đem theo con dao, cái nỏ, dăm ba cái bẫy, ít lưỡi câu là có thể có cá, chim,

sóc, gà rừng, đem về sau một ngày lao động ngoài ruộng rẫy. Khi súng kíp ra

đời thì bản làng nào cũng có hàng chục cây súng và dăm ba người săn bắn nổi

tiếng. Giống một số dân tộc khác ở khu vực, việc săn bắt ở Lào cũng có một số

kiêng kỵ. Chẳng hạn, người đi săn không cho biết trước hướng đi và kết quả

mình mong muốn. Súng đạn được giữ gìn cẩn thận, để ở những nơi cao ráo,

tránh những vật ô uế. Thành tích săn bắn của mỗi người được lưu lại bằng

những chuỗi nanh vuốt, răng thú dữ treo ở một góc nhà. Đối với cây nỏ thì lớp

lớp máu dày khô quánh ở thân nỏ, tượng trưng cho tài nghệ của chủ nhân.

Từ lâu việc săn bắn ở Lào không đơn thuần để giải quyết thực phẩm cho

bữa ăn hàng ngày mà còn là cuộc đấu tranh khá quyết liệt để bảo vệ sản xuất,

nhất là ở vùng rừng núi. Xung quanh ruộng rẫy ở Lào phải có lớp rào vững

chắc, bên ngoài bờ rào còn có chông, bẫy gọi là “kạ-tầm, kạ-thíp”. Khi lúa chín

bên trong rẫy còn gài thêm các loại bẫy để đề phòng khỉ, lợn rừng vượt rào vào

phá hoại. Gần ngày thu hoạch, nhà nào cũng có người ngủ lại ruộng rẫy để

canh giữ. Người Lào thường ví “voi vào ruộng như quan nha vào bản”. Không

chỉ đề phòng thú dữ, thú lớn mà các loại muông thú khác tuy nhỏ nhưng với số

lượng lớn cũng là mối đe dọa mùa màng như chim, khỉ, chuộc, châu chấu…Ở

Lào có tục săn bắn tập thể gồm nhiều tay súng và hàng chục người tham gia.

Đó là các cuộc săn bắn hươu, nai, hoẵng…Qua vết chân, một thành viên giàu

kinh nghiệm phát hiện con mồi còn quanh quẩn trong khu rừng nào đó, lập tức

cả bản đổ ra bủa vây, gõ mõ, hò la để đuổi con mồi chạy về hướng có các tay

súng mai phục sẵn. Nhiều nhà còn dùng cả chó săn ra lùng sục để uy hiếp con

mồi. Cuộc săn bắn rầm rộ tưởng chừng như đơn giản nhưng thực ra được tổ

chức, phối hợp rất chặt chẽ, đòi hỏi người sử dụng súng phản ứng nhạy bén và

68

tỉnh táo. Kết quả thu được trong cuộc săn bắn tập thể được chia theo phần, tùy

theo công sức của mỗi người. Chẳng hạn người phát hiện con mồi được phần

thỏa đáng. Con mồi bị trúng cùng lúc hai phát đạn, nhưng người nào bắn trúng

chỗ hiểm thì được phần nhiều hơn. Nếu phụ nữ có thai cũng tham gia thì được

chia hai phần.

Những việc được coi là nhẹ hơn như gặt hái, trông nom vườn tược, chăn

nuôi, hái lượm, nấu nướng, may vá, dệt vải và chăm sóc con cái đều do người

phụ nữ đảm nhiệm. Với sự phân công như trên, người phụ nữ Lào lao động khá

vất vả. Có thể nói người phụ nữ Lào chỉ được nhàn rỗi, tự do bay nhảy cùng bè

bạn trong các ngày lễ hội khi còn con gái, đến khi lấy chồng có con, thường

phải lo toan công việc gia đình bận rộn quanh năm. Các em bé gái cũng sớm

tham gia lao động giúp đỡ mẹ công việc nội trợ. Được mẹ kèm cặp từ nhỏ nên

các cô gái Lào rất khéo tay, đảm đang công việc nội trợ, dạy dỗ con cái. Đối

với các cụ già ở Lào chỉ làm những công việc vặt phù hợp trong nhà, dạy dỗ

con cháu và trông nom chùa tháp. Ở Lào có tục tôn trọng người già cả, nhất là

các cụ là trưởng họ hoặc có công với bản mường, các thành viên trong bản

quan niệm người già là những người có công với con cháu, bản mường, có kinh

nghiệm trong đấu tranh, lao động sản xuất, tích được nhiều phúc đức, con cháu

phải noi theo. Dường như dân tộc nào cũng kính trọng người già nhưng riêng ở

Lào các cụ già có vị trí đặc biệt quan trọng gắn với tập tục truyền thống. Bởi

vậy, trong những ngày lễ hội, cưới xin, ma chay, giải quyết các tranh chấp giữa

các thành viên trong bản, mâu thuẫn trong gia đình, không thể thiếu các già

bản. Sau ngày lễ cưới, cô dâu chú rễ phải đến lễ các già bản gọi là “xẳm-ma”

trước khi về thăm cha mẹ, họ hàng. Cùng với sư thầy, già bản là trung tâm đoàn

kết của bản mường. Vai trò của các già bản cũng được khẳng định trong kho

tàng ca dao tục ngữ: “Không nghe lời người già ba lần sẽ khó, nghe lời người

già tốt hơn nghe lời thầy bói”.

69

3.2.3. Các lễ hội truyền thống

3.3.2.1. Lễ hội té nước ở Lào

Là một quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á, Lào có Tết cổ truyền Bun pi

may với những phong tục in đậm bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Tết năm

mới là dịp để người dân đất nước này thể hiện niềm tin yêu, sự tôn kính, ý thức

trách nhiệm đối với việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống.

Theo truyền thống, Tết Lào diễn ra trong suốt tháng thứ năm Phật lịch,

bắt đầu từ ngày thứ sáu của tháng thứ năm và kết thúc vào ngày thứ năm của

tháng thứ sáu, trong đó ngày lễ chính Wun Salong được tổ chức vào dịp trăng

tròn. Hiện nay, Tết Lào được tổ chức từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 4 dương

lịch hàng năm, khi bầu trời thanh cao, các dòng sông lớn đều dồi dào nước

tượng trưng cho một năm mới nhiều lộc.

“Nét độc đáo của Tết Bun-pi-may là tục té nước vào nhau (vì thế Bun-

pi-may còn được gọi là Bun-hốt-nậm, tức Lễ hội té nước). Điều này bắt nguồn

từ quan niệm của người Lào là chỉ có nước mới đem lại sự sống và nước sẽ gột

rửa hết mọi ưu phiền xấu xa để hồi sinh, đem đến sự sạch sẽ, thanh khiết. Bởi

vậy, vào ngày đầu tiên của Tết năm mới, người Lào thường quét dọn nhà cửa

sạch sẽ, chuẩn bị nước thơm và hoa, sau đó, rước tượng Phật ra một gian riêng

và mở cửa để mọi người có thể vào tắm Phật. Mọi người còn té nước vào các

nhà sư, chùa và cây cối xung quanh chùa. Để tỏ lòng tôn kính, người trẻ tuổi té

nước những người lớn tuổi để chúc sống lâu và thịnh vượng; bạn bè té nước

vào nhau. Không chỉ té nước vào người, người ta còn té nước vào nhà cửa, đồ

thờ cúng, súc vật và công cụ sản xuất. Người Lào tin rằng nước sẽ giúp gột rửa

điều xấu xa, bệnh tật và cầu chúc năm mới sống lâu, mạnh khỏe.”

Có nhiều quan niệm giải thích về nguồn gốc Lễ hội té nước song có

thể hiểu sự ra đời của lễ hội gắn với đời sống sản xuất nông nghiệp trồng

lúa nước, đồng thời, nó cũng xuất phát từ những truyền thuyết mang đậm

màu sắc tôn giáo.

70

Theo quan niệm của cư dân nông nghiệp, Lễ hội té nước xưa kia nhằm

đưa tiễn mùa khô và cầu mưa xuống. Tục té nước đón năm mới có lẽ vốn là

một phần của nghi lễ phồn thực nhằm cầu mong mưa thuận gió hoà đem lại sự

sinh sôi nảy nở cho vạn vật.

Phong tục té nước của người Lào còn gắn với một truyền thuyết đậm tinh

thần nhân văn. Truyện kể rằng: “Thời xa xưa, từ trước khi Phật giáo ra đời, có

một chàng trai con nhà phú nông tên là Thammabane rất nhanh trí và hiểu được

tiến chim. Thammabane thường đi khắp nơi để truyền dạy kiến thức. Thời gian

đó người dân vẫn coi Kabinlaphom, thần của bầu trời là người thông thái nhất.

Khi biết tin dưới trần gian có Thammabane là một người rất hiểu biết,

Kabinlaphom muốn thi tài với Thammabane. Ông ta đặt ra ba câu hỏi để

Thammabane trả lời, nếu Thammabane trả lời được thì Kabinlaphom sẽ phải

dâng đầu mình và ngược lại. Ba câu hỏi đó là:

Thần sắc con người tập trung ở đâu vào buổi sáng?

Thần sắc con người tập trung ở đâu vào buổi chiều?

Thần sắc con người tập trung ở đâu vào buổi tối?

Thammabane không thể trả lời ngay, nhưng anh xin Kabinlaphom thêm

9 ngày nữa. Thammabane ra sức suy nghĩ nhưng vẫn không tìm được đáp án.

Ba ngày trôi qua, đã quá mỏi mệt, anh ngủ gật dưới gốc cọ thì nghe hai vợ

chồng đại bàng nói chuyện trên đầu mình. Đại bàng vợ hỏi: “Ngày mai chúng

ta sẽ ăn gì đây?”. Đại bàng chồng trả lời: “Đừng lo, chúng ta sẽ ăn thịt

Thammabane, vì anh ta sẽ không thể trả lời được 3 câu hỏi của Kabinlaphom

và sẽ bị giết”. Khi đại bàng vợ hỏi về câu trả lời, đại bàng chồng đã nói:

Thần sắc con người vào buổi sáng tập trung ở khuôn mặt, vì vậy buổi

sáng con người phải rửa mặt

Thần sắc con người vào buổi chiều tập trung ở ngực, vì vậy con người

thường tắm vào buổi chiều

Thần sắc con người vào buổi tối tập trung ở tay và chân, vì vậy con

người thường rửa chân tay trước khi đi ngủ

71

Nhờ biết được tiếng chim, Thammabane nghe rõ ba câu trả lời và sau đó

trở lại gặp Kabinlaphom. Theo cam kết, Kabinlaphom phải chặt đầu mình. Tuy

nhiên, trước khi chặt đầu, Kabinlaphom dặn bảy cô con gái của mình giữ gìn

cái đầu cẩn thận, vì nếu đầu ông ta rơi xuống đất sẽ xảy ra hỏa hoạn, ném lên

trời sẽ gây ra hạn hán còn ném xuống biển thì biển sẽ khô cạn. Bảy con gái của

Kabinlaphom đặt đầu cha trên một cái đĩa vàng và thờ ở động Khanthoumali,

núi Phoukhaokailat. Hàng năm, các cô lần lượt đến đây tưới nước, rửa sạch đầu

cha và đặt trở lại vào động.”

Tục té nước của người Lào bắt đầu từ đó. Hình ảnh hạn hán, hỏa hoạn

trong truyện là dấu ấn của đặc điểm khí hậu khô nóng, còn chi tiết 7 cô gái

dùng nước để tưới lên đầu vị thần Kabinlaphom là thể hiện nhận thức ”hồn

nhiên, ngây thơ” của người Lào xưa về tầm quan trọng của nước trong cuộc

sống. Với niềm tin vào một thế giới đa thần, vạn vật hữu linh cùng với trí

tưởng tượng bay bổng, người Lào xưa đã lí giải tục té nước bằng một truyện kể

vô cùng độc đáo, hấp dẫn. Dù tin vào thế giới đa thần và chưa thể lí giải nguồn

gốc của nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội, song người xưa vẫn tin vào khả năng

của con người. Khẳng định và ngợi ca con người đó chính là tinh thần nhân văn

cao cả của Thmmaphala. Vẻ đẹp nhân văn làm cho huyền thoại này cùng với

tục té nước mãi trường tồn với thời gian.

Ngoài tục té nước, trong dịp Tết Bunpimay người Lào còn thực hiện

nhiều nghi lễ khác như: buộc chỉ cổ tay, xây tháp cát, phóng sinh…với tất cả sự

tôn kính.

3.2.3.2. Lễ hội Thạt Luổng

Là đất nước mà đạo Phật được coi là Quốc đạo, hàng năm tại Lào, hầu

như tháng nào cũng có lễ hội; trong đó, Hội Thạt Luổng là lễ hội truyền thống

đặc sắc, đậm nét văn hoá Lào nhất và thu hút được sự quan tâm của đông đảo

người dân các bộ tộc Lào trên cả nước cùng nhân dân các tỉnh Đông Bắc Thái

Lan, cũng như khách quốc tế. Lễ hội Thạt Luổng diễn ra vào những ngày sát

72

rằm tháng 12 Phật lịch, kéo dài một tuần và kết thúc vào đúng ngày rằm của

tháng. Có tới hàng nghìn gian triển lãm hàng hoá là sản phẩm từ các ngành

nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của các ngành, địa phương

trong cả nước, của các nước láng giềng.

Tương truyền, Thạt Luổng là một trong số ít những chùa chiền đạo Phật

trên thế giới được lưu giữ xá lợi của Đức Phật Thích Ca Mầu Ni khi người

nhập Niết Bàn. Các thư tịch cổ của ngôi chùa ghi lại rằng, tại khu vực này vào

năm 236 Phật lịch, tức năm 307 trước Công nguyên, người ta đã xây dựng một

ngôi chùa.

Khi đạo Phật trở thành quốc đạo và Vientiane thành kinh đô mới, cùng

với việc xây dựng thành quách, lâu đài, cung điện, chùa chiền, nhà Vua

Xệtthảthilạt đã cho tu bổ lại Thạt Luổng bằng cách xây bọc lên ngôi tháp cũ

bằng một tháp mới to, đẹp hơn và kiến trúc ấy giữ nguyên cho đến ngày nay.

Tháp có bệ hình vuông, phía Bắc và Nam mỗi bề rộng 68m, phía Đông

và Tây mỗi bề rộng 69m, xung quanh được trang trí bởi 332 hình lá bồ đề cách

điệu. Ngoài tháp chính cao 45m, còn có 30 tháp nhỏ biểu tượng cho Đức Phật

Thích ca với 30 năm tu hành gian khổ của người để trở thành Phật. Trên các

tháp nhỏ này có đắp những hàng chữ Bali nổi ghi các lời răn của đức Phật.

Một trong những nét chính của phần lễ Thạt Luổng là lễ rước Phạ Sạt

Phơng (lễ rước tháp) từ chùa Mẹ Xỉ Mương tới Thạt Luổng. Phạ Sạt Phơng là

một mô hình kiến trúc đền thờ được làm bằng chất liệu xốp, xung quanh gắn

hoa làm bằng sáp ong màu vàng rực rỡ. Trên chóp cắm 9 bông hoa sen trắng,

xung quanh tháp có các tua dây kết hoa hoặc tiền bạc có ý nghĩa giống như tập

tục đốt nhà cửa, tiền bạc… cho người đã khuất của người Việt Nam.

Khi đến Thạt Luổng, những người rước sẽ khiêng Phạ Sạt Phơng đi vòng

quanh Thạt Luổng ba vòng trước khi dừng lại ở hậu sảnh dâng lễ và được sư

thầy tiếp nhận lễ vật với hình thức trang trọng, nghiêm cẩn, thành kính. Theo

tục lệ, mỗi gia đình, bản hoặc một nhóm người… đều có thể chung nhau cúng

một Phạ Sạt Phơng.

73

Ngày lễ chính sẽ bắt đầu từ chiều ngày 31/10 và kéo dài liên tục cho tới

hết ngày 2/11 (15/12 Phật lịch) nhằm cầu phước an lành cho tất cả mọi người,

sự giao hòa giữa trời đất, núi sông và thần thánh. Một trong những nét chính

của phần lễ Thạt Luổng là lễ rước Phạ Sạt Phơng (lễ rước tháp) từ chùa Mẹ Xỉ

Mương tới Thạt Luổng. Khi đến Thạt Luổng, những người rước sẽ khiêng Pha

Sạt Phơng đi vòng quanh Thạt Luổng ba vòng trước khi dừng lại ở hậu sảnh

dâng lễ và được sư thầy tiếp nhận lễ vật với hình thức trang trọng, nghiêm cẩn,

thành kính. Theo tục lệ, mỗi gia đình, bản hoặc một nhóm người…đều có thể

chung nhau cúng một Phạ Sạt Phơng.

Sáng ngày 15/12 Phật lịch diễn ra lễ Tắc bạt (dâng lễ cho các nhà sư),

hàng nghìn nhà sư từ khắp cả nước Lào sẽ đổ về Thạt Luông, kê bàn ngồi dọc

hai bên đường vào để Phật tử thập phương về dâng lễ gồm tiền, bánh kẹo,

xôi… Phần Hội là những trò vui chơi, giải trí văn nghệ, văn hóa, thể thao, mua

bán hàng hóa, triển lãm. Đêm cuối của lễ hội sẽ diễn ra lễ rước nến khi hàng

nghìn Phật tử cầm trên tay ngọn nến đã được thắp sáng, đi vòng quanh thảm cỏ

bên trong khuôn viên Thạt Luổng, tạo nên một cảnh sắc đến huyền ảo, tăng

thêm không khí liêng thiêng cho khu vực vốn đã ẩn chứa nhiều huyền bí của

đất nước Triệu Voi.

3.2.2.3. Lễ “Cầu yên” và lễ buộc chỉ cổ tay

Ở Lào có một nghi lễ đơn giản nhưng thiêng liêng, trang trọng phổ biến

trong nhân dân các bản mường gọi là “xù-khoẳn”. Thật vậy, chỉ cần cây nến,

bông hoa, bát gạo, sợi chỉ trắng là có thể làm lễ “xù-khoẳn”. Lễ “xù-khoẳn” trở

thành nghi lễ rất phổ biến từ nông thôn đến thành thị. Theo ngôn ngữ Lào thì

“xù-khoẳn” có nghĩa là “vía trở lại”, mâm lễ để “xù-khoẳn” gọi là “pha-khoẳn”,

người làm lễ gọi là “mỏ-khoẳn” và nội dung cầu mong trong lễ gọi là “xụt-

khoẳn”. Xưa nay, người Lào có tập quán làm lễ “xù-khoẳn” trong cả hai trường

hợp may và rủi trong cuộc đời mỗi người. Cưới vợ, chuyển nhà mới, sinh con

đầu lòng, thoáng khỏi một tai nạn, gặp lại bạn thân, khách quý, đi đường xa đến

74

đích an toàn, kết nghĩa bạn bè, anh em, hoàn thành một việc hệ trọng…đối với

người Lào đều coi là sự may mắn. Còn các trường hợp như làm ăn thua lỗ,

không làm xong một việc đã định trước, toàn gặp những điều trục trặc đau ốm,

cha hay mẹ chết…đều là những rủi ro trong cuộc sống. Khi gặp toàn những

điều may mắn như trên, người Lào cũng làm lễ “xù-khoẳn” để thể hiện sự biết

ơn, niềm phấn khởi tư tưởng và cầu mong mọi sự được tốt đẹp hơn nữa. Còn

gặp những rủi ro, người Lào làm lễ “xù-khoẳn” cầu mong sự may mắn, để an ủi

động viên con người vững tin ở cuộc sống và hành động của mình.

Không chỉ đối với con người, ở Lào còn có tục làm lễ “xù-khoẳn” cho

các loại gia súc trực tiếp phục vụ cho sản xuất như trâu, bò, ngựa…các loại

nông cụ quan trọng như cày, bừa, xe trâu, kho để thóc lúa. Chẳng hạn, trước và

sau khi cày bừa xong, người nông dân Lào thường chuẩn bị cỏ non, nước ướp

hoa thơm để làm lễ “xù-khoẳn” cho trâu- nguồn sức kéo chủ yếu trong mỗi vụ

sản xuất. Trong buổi lễ gia chủ đọc những lời cầu mong sao cho loài vật ngày

càng sinh sôi nảy nở, tránh được các loại dịch bệnh, thuần tính, kéo cày bừa

khỏe góp phần làm ra nhiều lúa gạo. Hàng năm, trước và sau khi sử dụng chiếc

xe trâu – phương tiện vận chuyển quan trọng ở nông thôn Lào xưa kia, chủ

nhân cũng làm lễ “xù-khoẳn”. Họ cầu mong chiếc xe được vững chắc, sử dụng

luôn được an toàn. Trước lúc chuyển lúa mới lên kho cất giữ, đa số nông dân

Lào làm lễ “xù-khoẳn” cho cái kho đó. Trong buổi lễ, gia chủ thành tâm cầu

mong kho luôn được an toàn và quanh năm không lúc nào vơi cạn.

Nhân dân Lào còn làm lễ “xù-khoẳn” trong trường hợp có người thân

bỗng nhiên bị ngớ ngẩn, sợ sệt hoặc như người mất hồn, hoảng loạn do vừa trải

qua sự việc ghê rợn cận kề cái chết như đi rừng gặp hổ, qua sông thuyền bị

lật…Theo tín ngưỡng cổ, người Lào cho rằng mỗi con người đang sống có một

linh hồn (vin-nhan) và nhiều vía (khoẳn). Linh hồn luôn tồn tại gắn liền với cơ

thể con người, nếu nó tách ra thì con người chết, còn vía thì lúc hợp lúc tan, khi

nó rời cơ thể thì con người không còn khôn ngoan như lúc bình thường. Người

75

ta phải làm mọi cách để giữ nó luôn ổn định trong con người, hình thức hiệu

nghiệm nhất là làm lễ “xù-khoẳn”. Trong những trường hợp này, lễ “xù-khoẳn”

có nét giống lễ cầu vía và đúng với tên gọi của nó. Còn trong nhiều trường hợp

khác, lễ “xù-khoẳn” không đơn thuần là lễ cầu vía như tên gọi của nó. Có thể

nói thực chất của “xù-khoẳn” là lễ cầu may mắn, yên lành. Phải chăng đó là

niềm mong ước lớn lao của người nông dân Lào xưa kia khi trình độ sản xuất

còn thấp kém, phụ thuộc vào thiên nhiên.

Tại các bản mường, nhân dân Lào còn có tục làm một nghi lễ khác có nội

dung giống “xù-khoẳn” nhưng gọi là lễ “phục-khẻn” nghĩa là lễ buộc chỉ cổ

tay. Hình thức buộc chỉ cổ tay là một nghi thức quan trọng trong lễ “xù-khoẳn”.

Căn cứ vào nội dung và hình thức của lễ “phục-khẻn”, có thể coi đây cũng là

một hình thức của lễ “xù-khoẳn” nhưng nó đơn giản ít tốn kém và qui mô nhỏ

hơn. Với lễ buộc chỉ cổ tay, chỉ quả trứng luộc hoặc quả chuối chín, nắm gạo

và sợi chỉ trắng là có thể làm lễ. Sau khi đặt quả trứng luộc lên bàn tay trái của

người chủ lễ, người làm lễ lấy sợi chỉ trắng cuốn một vòng quanh cổ tay rồi đọc

nội dung cầu nguyện trước khi thắt nút vòng chỉ. Những người cùng dự đưa tay

vịn tay người làm lễ với thái độ chân thành, thận trọng và tin tưởng.

Còn lễ “xù-khoẳn” có quy mô lớn hơn lễ buộc chỉ cổ tay, cần có một thời

gian chuẩn bị nhất định. Muốn làm lễ “xù-khoẳn”, gia chủ phải chuẩn bị nến,

hương hoa, các loại bánh trái, rượu, thuốc lá đặt trên mâm lễ gọi là “pha-

khoẳn”. Một số địa phương còn có cả gạo, tiền trên mâm lễ - quy mô của mâm

lễ tùy thuộc hoàn cảnh, khả năng của mỗi gia đình. Đối với những gia đình khá

giả ở chốn đô thị, trên mâm lễ còn có một số tư trang quý cho chủ nhận lễ như

nhẫn, dây chuyền vàng cùng với những đài hoa kết thành hình tháp. Mâm lễ

còn được đặt trên một tấm vải đỏ hoặc màu sặc sỡ. Bà con đến dự lễ thường

đem theo một khay lễ, một cân gạo hoặc hoa tươi. Các vị sư ở ngôi chùa bản

cũng được mời đến dự lễ “xù-khoẳn”, đứng ra làm lễ thường là một cụ già cao

niên có uy tín trong bản. Mỗi mâm lễ “xù-khoẳn” có thể lớn nhỏ khác nhau

76

song nội dung cũng như hình thức đều giống nhau, nhất là không khí thiêng

liêng trang trọng. Người chủ mâm lễ luôn tỏ ra thành tâm tin tưởng, người đến

dự lễ biểu thị sự nhiệt tình, chân thành.

Khi những người dự lễ đến đông đủ, khói hương trên mâm lễ bốc nghi

ngút thì cụ già làm lễ đến ngồi xếp chân bên mâm lễ theo hướng đã định. Ngồi

sát mâm lễ là người chủ lễ, tay phải vịn vào mâm lễ, tay trái đưa lên, bàn tay để

ngửa như chờ đón mọi sự yên lành. Người làm lễ bắt đầu đọc những lời cầu

nguyện với giọng nghiêm trang tha thiết. Mỗi lễ “xù-khoẳn” có nội dung mục

đích khác nhau nên cũng có những lời cầu nguyện thích hợp. Ở Lào những lời

cầu nguyện (xụt-khoẳn) được sưu tầm in thành sách, nhìn chung nội dung cầu

nguyện trong lễ “xù-khoẳn” phù hợp với từng trường hợp có thể và lòng mong

ước cũng không quá cao xa với cuộc sống thực tại. Sau khi đọc xong lời cầu

nguyện, người làm lễ lấy một sợi chỉ trắng trên mâm lễ buộc một vòng lên cổ

tay trái người chủ mâm lễ. Tiếp theo bà con dự lễ lần lược buộc những vòng chỉ

trắng lên cổ tay trái người chủ mâm lễ. Đến đây, lễ “xù-khoẳn” coi như kết thúc

trong không khí cởi mở, vui tươi. Mọi người ăn uống trò chuyện mừng cho chủ

mâm lễ vừa được dón nhận những vòng chỉ nhiệt thành báo trước mọi sự tốt

lành sắp đến. “Xù-khoẳn” là một nghi lễ rất phổ biến ở Lào. Do tính đơn giản

của nó, dù giàu hay nghèo, sang hay hèn hộ nào cũng có thể tổ chức lễ “xù-

khoẳn”. Và bất kỳ người Lào, dù trai hay gái trong cuộc đời của mình đều trải

qua hàng chục, hàng trăm lần làm lễ “xù-khoẳn”. Cùng với thời gian, lễ “xù-

khoẳn” không ngừng được biến đổi để thích ứng với sự phát triển của xã hội.

Chẳng hạn, nó hòa nhập với đạo Phật khi tôn giáo này được truyền bá và phát

triển rộng rãi ở Lào, nhưng “xù-khoẳn” vẫn giữ được cái cốt lõi của một tín

ngưỡng cổ, đó là tính đơn giản, thiêng liêng và quan trọng. Nội dung cầu

nguyện trong lễ “xù-khoẳn” được bổ sung phong phú hơn, về hình thức cũng

được trau chuốt bóng bẩy, giàu nhạc điệu khi đọc có sức hấp dẫn hơn trước.

Tóm lại lễ “xù-khoẳn” đã vượt quá khuôn khổ của một nghi lễ bình thường, trở

77

thành một tình cảm, niềm tin và nguồn động viên lớn về mặt tinh thần đối với

người Lào trong cuộc sống, lao động sản xuất.

3.2.2.4. Lễ Khuất thực

Ở Lào, mỗi buổi sáng, khoảng 6h, các nhà sư tập trung tại ngôi chùa lớn

Wat Luang ở đầu cầu Pakse. Sau khi ổn định vị trí, các nhà sư bắt đầu khuất

thực quanh phố. Đi đầu là các “hủa chua” (những sư tu lâu năm) và các “a

chang” (sư thầy), sau đó là các sư trẻ, tì kheo, sa di. Tất cả đều không mang

dép, đi bình thường, không nhanh không chậm. Đến mỗi ngã tư, ngã ba, đoàn

khất thực lại chia nhỏ để tỏa về các xóm. Theo truyền thống của Phật giáo Nam

tông, mỗi buổi khuất thực các sư không đi quá bảy nhà, lần lượt thứ tự mà đi,

không phân biệt khu vực giàu nghèo, thức ăn ngon dở; không bỏ sót nhà nào,

không ngó qua ngó lại, không được mở miệng nói chuyện, không đứng trước

cửa chợ. Bình bát thường làm bằng gốm sứ tráng men, không được làm bằng

các kim loại quá như vàng bạc. Người dân quỳ bên đường chờ sẵn hoặc đặt lễ

vật lên một chiếc bàn nhỏ trước cửa mỗi nhà để dâng lễ vật (gọi là “xăng cà

vai”). Họ thường khoác “cà piêng” (một tấm vải mang chéo qua người, thêu

hoa văn rất đẹp) và không mang dép để thể hiện lòng thành kính. Lễ vật thường

là xôi, trái cây bánh các loại, nước lọc, hoặc các thức ăn chín để các sư độ nhật

trong ngày. Không được dâng các lễ vật sống, các thức ăn chiên xào và tiền.

Các sư thầy đến nhận đồ khất thực và không quên cầu nguyện, ban phước cho

mọi người. Nước dâng lễ được tạt xuống đất hoặc vào cây cối như gửi tới

người đã khuất những lời thỉnh nguyện an lành. Đi đủ một vòng quanh phố, các

sư tập trung về các chùa dùng bữa sáng. Vật phẩm khất thực thường được chia

ra làm bốn phần: một phần nhường cho các sư đồng tu nếu họ không có hay ít

có, một phần dành cho người nghèo, một phần dành cho con vật sống chung

như chó, mèo và phần còn lại của người khất thực dùng. Từ đó cho đến trưa

hôm sau, các sư thầy tham gia các hoạt động thiền định, lễ bái, học tập, rèn

luyện thân thể mà không được ăn uống, kể cả sữa; chỉ uống nước lọc, có thể

78

ngậm kẹo nhưng không được nhai. Ngày đầu tháng, các sư không đi khất thực

mà người dân vào chùa dâng lễ (gọi là “kò vạt”). Mỗi người mang vật dâng lễ

trong một chiếc bát lớn, thắp nhang đèn đặt trước mặt cùng cầu nguyện với các

sư. Trước khi vào chánh điện, họ chỉnh đốn lại trang phục và nhất thiết phải

mặc “cà piêng”. Các cao tăng tọa thiền tại vị trước chánh điện, người dân dâng

lễ vật trực tiếp cho các vị ấy. Các sư trẻ đặt bình bát trên một chiếc bàn dài,

người dâng lễ xếp thành hàng, lần lượt bỏ các vật phẩm vào từng bình bát. Sau

buổi lễ, các sư trẻ tự xuống lấy bình bát của mình.

Khất thực là một trong nhiều hình thức tu tập của người theo đạo Phật có

từ khi Phật Thích Ca khai sáng. Ở Lào, khất thực trở nên một nếp sinh hoạt

quen thuộc với mỗi người dân. Đây là một nét văn hóa độc đáo của đất nước

Phật giáo hiền hòa, yên bình này.

3.2.4. Nghệ thuật

Nhân dân các dân tộc Lào rất thích ca múa, đặc biệt là các làn điệu dân

ca truyền thống. Không chỉ trong những ngày lễ hội, vui chơi hợp quần…

người Lào còn hay ca hát trong sản xuất ngoài ruộng nương, đi hái lượm trong

rừng, xuôi ngược trên các dòng sông.

Dân ca Lào rất phong phú, giàu âm điệu, mang đậm bản sắc dân tộc được

phổ biến rộng rãi trong nhân dân từ nông thôn đến thành thị. Người có công lớn

trong việc sưu tầm, phổ biến và nâng cao các làn điệu dân ca là các “mỏ-lăm”

(ca sĩ), “mỏ khen” (nhạc công, thổi khèn bè). Đội ngũ “mỏ lăm, mỏ khen” ngày

càng phát triển trước yêu cầu thưởng thức ca múa của nhân dân ở các bản

mường, trong đó có nhiều nghệ sĩ tài ba nổi tiếng vừa có thể sáng tác vừa biểu

diễn được đông đảo nhân dân ưu ái, mến mộ. “Mỏ lăm” ở Lào có vị trí thật đặc

biệt trong xã hội. Họ sống gần gũi nhân dân, đi đến bản làng nào cũng được

đón tiếp nồng nhiệt. Họ am hiểu sâu sắc cuộc sống, xã hội Lào, nắm bắt được

tình cảm, ước mơ của các tầng lớp nhân dân. Có thể nói, họ là một tri thức, một

nghệ sĩ của nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng.

79

Dân ca của Lào có nhiều loại như lăm, khắp, xỡng, kạp, ăn nẳng-xử…

Mỗi loại lại mang sắc thái riêng của từng miền, từng dân tộc, từng địa phương.

“Lăm” sử dụng nhiều thể loại thơ nhất được quần chúng ưa thích nhất và phổ

biến trong cả nước.

Tiểu kết chương 3

Lào là một quốc gia có thành phần các dân tộc rất đa dạng, trong số các

dân tộc đó, bên cạnh những dân tộc bản địa thì cũng có nhiều dân tộc di cư từ

các quốc gia khác đến. Trong quá trình sinh sống và phát triển, các dân tộc đã

cùng nhau xây dựng đất nước Lào và tạo nên một bức tranh về văn hóa các dân

tộc Lào vô cùng đặc sắc. Văn hóa Lào được các nước biết đến đó là đó là nền

văn hóa Phật giáo. Đạo phật đã ăn sâu vào tư tưởng của người Lào, ảnh hưởng

này được phản ánh trong ngôn ngữ và nghệ thuật, tạo nên một dân tộc Lào rất

riêng. Lào là đất nước của bốn mùa lễ hội, tạo nên những bản sắc riêng cho đất

nước Triệu voi.

80

Chương 4

ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH DÂN SỐ VÀ

BẢO TỒN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC

NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

4.1. Quan điểm, mục tiêu và định hướng

4.1.1. Quan điểm

Lào là một nước ở Đông Nam châu Á, có quan hệ gắn bó, truyền thống

hữu nghị tốt đẹp với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam từ lịch sử xa

xưa đến hiện nay. Mối quan hệ anh em đoàn kết đặc biệt, tình hữu nghị trong

sáng thủy chung đó luôn được vun đắp ngày càng bền vững và là nhân tố góp

phần đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo về đất nước.

Đồng thời, đất nước Lào có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế trong

tương lai như: lực lượng lao động cần cù, chăm chỉ trong sản xuất, tài nguyên

thiên nhiên phong phú đa dạng, vị trí địa lý tương đối thuận lợi, điều kiện chính

trị - xã hội ổn định,... Lào cũng là nước có đường biên giới đất liền tiếp giáp với

5 nước trong đó có Trung Quốc là một thị trường lớn nhất trên thế giới.

Với những điều kiện thuận lợi trên, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

IX Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã đề ra đường lối phát triển kinh tế - xã hội

đất nước theo định hướng XHCN. Để triển khai đường lối của Đảng vào thực

tiễn, Chính phủ CHDCND Lào đã xây dựng và vạch ra chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 xác định các phương hướng, mục tiêu cơ

bản, lâu dài, những nhiệm vụ kinh tế - xã hội tầm vĩ mô, dài hạn phát triển đất

nước, đồng thời cũng xác định những phương tiện, biện pháp để thực hiện

thành công các phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ đó.

Mục đích chung của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020

là xây dựng đất nước Lào trở thành một nước ổn định vững chắc về chính trị,

an ninh, an toàn về xã hội, đảm bảo giữ vững tốc độ phát triển kinh tế liên tục,

nâng cao đời sống của nhân dân gấp 3 lần so với hiện nay, đưa đất nước thoát

81

khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2020. Chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội giai đoạn 2011 - 2020 tiếp tục thực hiện một số quan điểm chiến lược giai

đoạn trước (2001 - 2010), nhất là quan điểm về thực hiện các khâu đột phá đưa

đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Đồng thời, nắm chắc những chủ

trương, đường lối, chính sách của Đại hội IX của Đảng NDCM Lào, làm căn cứ

xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia đến 2020 bao gồm 2 chiến

lược lớn:

(1). Chiến lược phát triển nhằm xây dựng và phát triển đưa đất nước

thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Để đạt được mục tiêu đó phải tập trung

vào phát triển các ngành kinh tế sao cho vừa có tốc độ phát triển cao vừa bền

vững, phát triển nguồn nhân lực, giảm bớt những vấn đề bất ổn, mất cân đối về

kinh tế.

(2). Chiến lược phát triển nhằm phát triển những ngành ưu tiên như: Phát

triển và giữ vững ngành nông - lâm nghiệp để đảm bảo về lương thực và đáp

ứng nguyên liệu cho các ngành sản xuất khác; Phát triển vững chắc một số

ngành công nghiệp lớn, công nghiệp trọng yếu làm tiền đề cho công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế đất nước; Quy hoạch khu vực phát triển bao

gồm: khu vực công nghiệp; khu vực kinh tế đặc biệt - riêng - biên giới; khu vực

trung tâm kinh tế với việc xây dựng thủ đô Viêng Chăn trở thành trung tâm

chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội của cả nước, trung tâm dịch vụ quốc tế và

các địa điểm du lịch liên kết với quốc tế; Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông

vận tải nối liền nội địa và khu vực; Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội với mạng

lưới giáo dục ở tất cả các bản làng, tất cả các huyện và tất cả các tỉnh thành

trong cả nước, trong đó tập trung nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo

Để thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên, nước Lào

luôn xác định: Dân số là cơ sở và chủ thể của nền sản xuất xã hội. Điều này

82

được khẳng định trong mọi thời kỳ lịch sử. Dân số vừa là chủ thể sản xuất, vừa

là khách thể sử dụng những thành quả đó. Hay nói cách khác dân số vừa là lực

lượng sản xuất vừa là tiêu dùng, nên dân số có vai trò quyết định trong sản xuất

xã hội.

Tái sản xuất dân số có bản chất kinh tế xã hội. Thật vậy tất cả mọi sự vật

hiện tượng đều có sự vận động và phát triển. Và dân số cũng là một trong

những hiện tượng tuân theo quy luật đó. Khi kinh tế, xã hội phát triển, đòi hỏi

một lực lượng số dân phát triển để dáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Chính vì

vậy mà dân số có vai trò thúc đẩy và tạo sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và

lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, quy mô và tốc độ gia tăng dân số có ảnh hưởng

nhất định đến trình độ phát triển kinh tế-xã hội. Vì vậy mà nhà nước cần có sự

điều tiết phù hợp.

4.1.2. Mục tiêu phát triển

Đẩy mạnh truyền thông thay đổi hành vi. Qua điều tra nghiên cứu đã

phát hiện một số hành vi có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng dân số và nguồn

nhân lực, như kết hôn sớm, hôn nhân cận huyết, đẻ nhiều, đẻ dày, đẻ muộn, sử

dụng nhiều rượu, bia, thuốc lá và các chất gây nghiện, không tiêm phòng vắc-

xin cho trẻ em, chưa quan tâm nhiều đến việc học tập của con cái... Thực trạng

đó cho thấy, xây dựng và thực hiện mạnh mẽ chương trình truyền thông thay

đổi hành vi, nhằm cung cấp thông tin, kiến thức khoa học, để người dân có thái

độ tích cực và cuối cùng là thay đổi hành vi nhằm nâng cao chất lượng dân số,

nguồn nhân lực là quan trọng và cấp thiết.

Tăng cường công tác thống kê, nghiên cứu về dân số và nguồn nhân lực.

Để xây dựng được chính sách phát triển nguồn lực con người thích hợp, hiệu

quả, cần có hệ thống thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ và kiến thức sâu về

dân số, nguồn nhân lực cả trên phương diện số lượng và chất lượng.

4.1.3. Định hướng phát triển

Để đưa đất nước đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến

năm 2020, Đại hội IX Đảng Nhân dân cách mạng (NDCM) Lào đã đề ra 4 đột

phá, trong đó có “đột phá mạnh mẽ về mặt phát triển tài nguyên con người”.

83

Quy mô dân số của CHDCND Lào nhỏ nhưng phát triển nhanh, phân bố

không đều và mật độ dân số thấp; chất lượng dân số và nguồn nhân lực tăng lên

nhưng chưa cao. Thực tế cho thấy, khả năng hoạt động kinh tế, nói chung, chỉ

gắn với bộ phận dân số có đủ sức khỏe và trí tuệ, trong một khoảng tuổi nhất

định, thường tính từ 15 đến 64 tuổi. Số dân có khả năng hoạt động kinh tế của

Lào tăng mạnh và nhanh hơn mức tăng của tổng dân số nói chung. Đây là một

lợi thế của Lào trong quá trình phát triển. Hơn nữa, dân số Lào có thể bước vào

giai đoạn có “cơ cấu vàng” trong khoảng 20 năm nữa, nếu thực hiện phương án

mức sinh giảm nhanh.

Lào là một quốc gia thống nhất gồm 49 dân tộc, trong đó đồng bào các

dân tộc thiểu số có khoảng 2 triệu người, chiếm trên 39,2% dân số của cả nước.

Đồng bào các dân tộc thiểu số thường cư trú phân tán, xen kẽ nhau, phần lớn

sinh sống ở vùng miền núi, biên giới đất liền, vùng sâu, vùng xa. Đây là địa bàn

có tiềm năng về kinh tế nhưng chưa được khai thác tốt và có vị trí chiến lược

rất quan trọng về chính trị, quốc phòng, an ninh của đất nước.

Nước Lào là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống

trên đất nước Lào đều bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ... Chính sách dân tộc

của chúng ta là nhằm thực hiện sự bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc để

cùng nhau phát triển đối với kinh tế-xã hội. Vì vậy, Trung ương Đảng và

Chính phủ, mà trực tiếp là các cấp uỷ đảng, các uỷ ban địa phương... phải làm

sao nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào các dân tộc. Kế thừa

và phát triển tư tưởng Kai Son Phom Vi Han về vấn đề dân tộc và đoàn kết các

dân tộc, những năm qua, Đảng và Nhà nước Lào đã ban hành nhiều nghị quyết,

chỉ thị, nghị định, quyết định cùng với nhiều văn bản qui phạm pháp luật để

lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện tốt chính sách

dân tộc và công tác dân tộc, nhằm mục tiêu đưa miền núi tiến kịp miền xuôi.

Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 - 9 tiếp tục xác

định: " Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,

đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Lào. Các dân tộc

84

trong đại gia đình Lào bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát

triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào . Kiên quyết đấu tranh với mọi âm

mưu chia rẽ dân tộc. Từ những nguyên tắc, định hướng trên, Nhà nước ta đã cụ

thể hoá thành các chính sách, chương trình, dự án... đồng thời có các giải pháp

cụ thể để giúp đồng bào các dân tộc ở miền núi đẩy mạnh phát triển sản xuất,

nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa

miền núi với miền xuôi. Nhờ đó, Đảng và Nhà nước ta đã động viên và phát

huy được sức mạnh to lớn của các dân tộc, tạo nên những chuyển biến quan

trọng về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh. Đến nay đã xây đường,

trạm y tế, trường tiểu học, trường phổ thông nọi trú được hình thành ở cấp

tỉnh, huyện tới cụm xã, thu hút phần lớn con em đồng bào các dân tộc thiểu số

tới trường. Hệ thống trạm y tế được xây dựng tới tận cơ sở, việc khám chữa

bệnh cho người dân được quan tâm hơn. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội được giữ vững. Sức mạnh quốc phòng, an ninh được tăng cường.

Khối đạ đoàn kết toàn dân được củng cố, phát triển ngày càng vững chắc.

Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng

đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt, phải tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các

Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng-

an ninh trên địa bàn chiến lược, nhất là những địa bàn có vị trí quan trọng về

quốc phòng-an ninh, đông đồng bào dân tộc như vùng miền Bắc, vùng miền

trung, vung miền Nam, vùng biến giới, vùng nông thôn... Trong đó từng địa

phương cần phải xác định được giải pháp, hệ thống giải pháp sát thực, phù hợp

với đặc điểm, tình hình nhiệm vụ nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng, thế mạnh

cho sự nghiệp phát triển toàn diện của địa phương, phấn đấu từng bước thu hẹp

khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các vùng và các dân tộc. Coi trọng

đầu tư, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng như giao thông, thuỷ lợi, điện lưới,

thông tin liên lạc, trường học, trạm xá, nước sinh hoạt... tạo nền tảng, cơ sở vật

chất để cho đồng bào các dân tộc phát huy nội lực, khai thác tiềm năng, thế

85

mạnh của từng vùng, đẩy mạnh phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất

và văn hoá. Tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo

hướng phát triển kinh tế hàng hoá; đổi mới cơ chế đầu tư, quản lý cho thích

hợp với từng vùng, từng địa phương; có chính sách ưu đãi, hỗ trợ vốn cho các

tỉnh miền núi phát triển khoa học và chuyển giao công nghệ ở các vùng trên địa

bàn. Tăng cường hoạt động khuyến lâm, khuyến nông, tích cực đưa cán bộ

khoa học- kỹ thuật xuống các thôn, bản để hướng dẫn, giúp cho bà con các dân

tộc biết cách áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Tiếp

tục thực hiện có hiệu quả các chương trình xoá đói giảm nghèo, trong đó có

chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, nhằm rút ngắn

khoảng cách giữa các vùng, các dân tộc. Đẩy mạnh việc giao đất, khoán rừng,

quan tâm giải quyết và cấp đủ đất ở, đất canh tác, đất tái định cư cho đồng bào để

họ yên tâm tập trung đầu tư, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống. Rà soát lại qui

hoạch và kế hoạch phát triển vùng, sắp xếp lại một số địa bàn dân cư, nhất là ở các

xã vùng biên giới, giải quyết tốt tình trạng tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào dân

tộc thiểu số, nhất là vùng trọng điểm, không để xảy ra các "điểm nóng" trên địa

bàn. Tiếp tục đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí, giữ gìn và phát

huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.

Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; mở rộng, phát triển các mô hình dạy

nghề, dạy văn hoá, tạo điều kiện cho đồng bào tiếp thu kiến thức mới và ứng dụng

khoa học- công nghệ vào sản xuất và đời sống để tự lực vươn lên xây dựng một

cung cách làm ăn khoa học, một lối sống mới năng động, nhạy bén của những

người sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường.

4.2. Một số giải pháp nhằm ổn định dân số, gìn giữ và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc

4.2.1. Nhóm các giải pháp về ổn định dân số

4.2.1.1. Xây dựng và thực hiện chương trình kế hoạch hóa gia đình

Xây dựng và thực hiện chương trình kế hoạch hóa gia đình. Đây là vấn

đề hoàn toàn cần thiết xét ở cả cấp độ xã hội và cấp độ gia đình. Tuy nhiên,

86

cũng có ý kiến cho rằng, do dân số Lào ít, mật độ dân số thấp nên cần duy trì

mức sinh cao để tăng nhanh số dân, đáp ứng nhu cầu về lao động. Song trên

thực tế, rất nhiều nước có số dân và mật độ dân số tương tự, thậm chí thấp hơn

Lào, nhưng trình độ phát triển kinh tế - xã hội rất cao. Ngược lại, nhiều nước có

số dân rất lớn, mật độ dân số rất cao nhưng vẫn trong tình trạng kém phát triển.

Vấn đề là, sự phát triển của đất nước phụ thuộc vào chất lượng chứ không phải

số lượng dân số, nguồn nhân lực.

Đẩy mạnh chính sách di dân. Việc tập trung các bản là chủ trương đúng

đắn của Đảng và Nhà nước Lào, bởi nếu điểm dân cư không đạt quy mô dân số

cần thiết sẽ khó có thể phát triển được sự nghiệp y tế, giáo dục và các dịch vụ

điện, nước, thông tin, liên lạc...

Coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, xây dựng “xã hội học

tập”, đa dạng hóa hệ thống giáo dục. Đảng NDCM Lào đặt giáo dục và đào tạo

ở vị trí rất cao trong những giải pháp để phát triển. Báo cáo Chính trị tại Đại

hội IX của Đảng NDCM Lào chỉ rõ, trong những năm trước mắt sẽ “lấy phát

triển hệ thống giáo dục quốc dân và đào tạo con người làm trung tâm và là

nhiệm vụ trọng tâm trong bước đột phá”. Với chủ trương đó, rất cần xây dựng

và thấm nhuần quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, trong đó,

việc xây dựng xã hội học tập đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Một xã hội học

tập chỉ có thể thành hiện thực khi hệ thống giáo dục được đa dạng hóa. Một là,

đa dạng hóa về hình thức. Bên cạnh hệ thống trường phổ thông, trường đại học,

cao đẳng, trung cấp, các trường dạy nghề dành cho nhóm dân số trẻ tuổi (6 - 24

tuổi), cần đa dạng hóa và phát triển các hình thức giáo dục, đào tạo khác dành

cho nhóm dân số lớn tuổi. Đó có thể là trường, lớp bổ túc văn hóa, đào tạo từ

xa, những khóa học ngắn ngày do các cơ quan khuyến nông, khuyến lâm,

khuyến ngư, các hội nghề nghiệp tổ chức, hoặc các chương trình dạy sản xuất,

kinh doanh, ngoại ngữ, tin học... trên truyền hình, đài phát thanh. Cần xác định

giáo dục và đào tạo là một trong những chức năng quan trọng của hệ thống

87

truyền hình, truyền thanh Trung ương và địa phương. Đây là thành phần của hệ

thống giáo dục quốc dân không cần trường, lớp nhưng lại có khả năng vượt qua

rào cản về địa hình, khoảng cách, sự nghèo khó, dân số thưa thớt, để mang kiến

thức, ánh sáng khoa học đến cho toàn dân.

4.2.1.2. Xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển tài nguyên con người

Xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển tài nguyên con người. Phát

triển tài nguyên con người là một sự nghiệp quan trọng, phức tạp và lâu dài, vì

vậy, để cụ thể hóa chủ trương này, cần xây dựng chiến lược quốc gia trong đó

đánh giá đúng thực trạng “tài nguyên con người” của CHDCND Lào hiện nay,

nêu rõ quan điểm về phát triển tài nguyên con người, đề ra mục tiêu cụ thể cho

từng giai đoạn (khoảng 10 năm), xác định rõ các giải pháp huy động, phối hợp

và sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu này. Sau

khi có chiến lược cần tiếp tục xây dựng các chương trình để đạt được các mục

tiêu cho từng giai đoạn ngắn hơn (khoảng 5 năm) và các dự án cụ thể để thực

hiện mục tiêu của chương trình.

4.2.1.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Hiện nay Đảng NDCM Lào đang triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội

IX của Đảng và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 7 (giai đoạn

2011-2015) và định hướng phát triển đến năm 2020, trên tinh thần thực hiện

“bốn đột phá” (nhận thức tư duy; phát triển nguồn nhân lực; giải quyết cơ chế,

chính sách, cải cách thủ tục hành chính nhà nước; giải quyết xóa đói giảm

nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng) để đời sống nhân dân ngày càng tốt hơn, đưa

đất nước thoát khỏi tình trạng nước chậm phát triển vào năm 2020. Để thực

hiện được nhiệm vụ cao cả đó, cùng với việc thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp

về công tác cán bộ, Đảng NDCM Lào coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ lãnh đạo, quản lý và xem đây là một trong những nhân tố có tính quyết

định đến xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ trình độ, năng lực để thực hiện thắng

lợi công cuộc đổi mới. Thực hiện chủ trương này, trong những năm qua, Đảng

88

và Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ lãnh đạo, quản lý cả trong và ngoài nước. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn ngày

càng sâu, thích nghi với cơ chế thị trường, tích lũy được nhiều kinh nghiệm

trong triển khai các chủ trương, đường lối, hoạch định chính sách, là nhân tố

quyết định tới những thành tựu của CHDCND Lào.

Trong những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đào tạo, bồi dưỡng

cho hàng ngàn cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ làm công tác đảng, đoàn thể và

chuyên môn nghiệp vụ của CHDCND Lào với các cấp bậc, loại hình đào tạo

như tiến sỹ, thạc sỹ, cử nhân chính trị, cao cấp lý luận chính trị; bồi dưỡng

chuyên ngành tổ chức, kiểm tra, tuyên huấn, đối ngoại, bồi dưỡng giảng viên

cho các trường đảng… Cùng với hợp tác trong đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ,

những năm qua Việt Nam và Lào đã tăng cường tổ chức các lớp cán bộ cấp cao

nghiên cứu, trao đổi chuyên đề và phối hợp trao đổi kinh nghiệm chuẩn bị đại

hội đảng ở mỗi nước. Trong 3 năm (2013-2015), Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh đã mở 7 lớp nghiên cứu, trao đổi chuyên đề dành cho cán bộ cấp

cao của Đảng NDCM Lào (244 học viên), 1 lớp bí thư cấp uỷ cấp huyện và

tương đương (50 học viên). Nội dung nghiên cứu, trao đổi dành cho đối tượng

cán bộ cấp cao có 10 chuyên đề và đối với bí thư cấp ủy cấp huyện có 12

chuyên đề.

Trong thời gian tới, nước CHDCND Lào sẽ tiếp tục đẩy mạnh hợp tác

với Việt Nam trong mọi lĩnh vực, trong đó có vấn đề bồi dưỡng và phát triển

nguồn nhân lực.

4.2.2. Nhóm các giải pháp về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc

4.2.2.1. Tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi văn hóa dân tộc

Thực tiễn cho thấy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc

luôn đồng hành - gắn liền với việc phát triển kinh tế và gìn giữ bản sắc văn hóa

dân tộc. Văn hóa dân tộc là tài sản của quốc gia, của mọi giai tầng xã hội do

89

vậy việc tôn trọng sự tham gia của các thành phần xã hội khác nhau trong việc

bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa phục vụ cho phát triển kinh tế là rất cần thiết.

Nhân dân Lào có nhiều phong tục tốt đẹp được hình thành trong quá

trình lịch sử. Những phong tục tập quán ấy trở thành lệ làng, nhân dân Lào gọi

là “hít bản không mường”, được các thành viên trong bản mường thừa nhận và

tự giác thực hiện. Thành viên nào làm trái lệ làng sẽ bị phạt, hình thức phạt do

các già bản và tập thể bản mường quyết định. Hầu hết các phong tục tập quán

tốt đẹp của nhân dân có cội nguồn từ bản sản xuất nông nghiệp. Còn bản

mường Lào là cái nôi nuôi dưỡng và bảo vệ một cách có hiệu quả các phong

tục tập quán cổ truyền của dân tộc. Dù có những biến đổi trong mỗi giai đoạn

lịch sử, sự khác biệt về hình thức giữa các địa phương, song những phong tục

cổ truyền của nhân dân Lào vẫn là tấm gương phản chiếu một phương thức sản

xuất, một hình thái sinh hoạt nhất định của xã hội.

Nước Lào nằm sâu trong lục địa châu Á, nơi giao tiếp giữa hai nền văn

minh cổ đại nổi tiếng Ấn Độ Và Trung Hoa. Bởi vậy trong quá trình lịch sử,

nhân dân Lào còn tiếp thu các trào lưu văn hóa tràn qua vùng này, ảnh hưởng

sâu sắc nhất là Phật giáo và văn hóa Ấn Độ. Việc đạo Phật được truyền bá rộng

rãi ở Lào là bước ngoặt quan trọng đối với nền văn hóa cũng như phong tục tập

quán của Lào. Sự giao lưu văn hóa của các nước láng giềng cũng tác động ít

nhiều đến tập quán của nhân dân Lào. Nhưng những yếu tố khách quan đó càng

làm cho bản sắc dân tộc thêm đậm đà, phong phú, giàu sức sống để vượt qua

những thử thách quyết liệt gần hai thế kỷ, trước chính sách đồng hóa dân tộc

của phong kiến Khơ-me, Xiêm và thực dân Pháp.

Nước Lào đất rộng, dân không đông lại gồm nhiều dân tộc, bộ tộc. Tuy

cùng sinh sống bằng nghề nông nhưng trình độ sản xuất không đồng đều nên

phong tục tập quán ở mỗi miền có sự khác biệt, thậm chí trong một tỉnh cũng

không hoàn toàn đồng nhất. Vì thế mà phong tục tập quán ở Lào rất đa dạng thể

hiện rõ trình độ sản xuất sinh hoạt của mỗi nhóm dân tộc, bộ tộc. Nhưng ở đây

90

chỉ đề cập đến những tập quán chủ yếu có tính phổ biến của hệ Lào-Thay nhóm

dân tộc của chủ thể, tức là người Lào lùm.

Trong bối cảnh giao thoa và hội nhập hiện nay, nước Lào cần giữ gìn

những nét văn hóa truyền thống, đồng thời giới thiệu rộng rãi hơn về văn hóa

của đất nước để biến những yếu tố đó thành lợi thế để phát triển kinh tế.

4.2.2.2. Đầu tư xây dựng các làng văn hóa

Trong chuyến công tác tại Việt Nam, Đoàn đại biểu cấp cao của Ủy ban

Trung ương Mặt trận Lào xây dựng đất nước do đồng chí Vôngchăn

PHÔMSẠVĂT, Phó Chủ tịch dẫn đầu đã đến thăm Làng Văn hóa - Du lịch các

dân tộc Việt Nam, đồng chí Vôngchăn PHÔMSẠVĂT, đã bày tỏ sự vui mừng,

ấn tượng khi tới thăm Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Đồng chí

gửi lời cảm ơn tới Lãnh đạo Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc

Việt Nam đã tổ chức tiếp đón chu đáo, tình cảm và khẳng định, “sẽ mang

những kinh nghiệm thực tế trao đổi được với các đồng chí trong Ban Quản lý

Làng Văn hóa về nghiên cứu và vận dụng trong việc khôi phục, gìn giữ truyền

thống bản sắc văn hóa của nhân dân các bộ tộc Lào”, chúc cho mối quan hệ

truyền thống, tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt - Lào mãi mãi xanh tươi, đời

đời bền vững.

Hiện nay, đã có một số xây dựng làng văn hóa đã được triển khai ở Lào,

như: Dự án xây dựng Làng Văn hóa ba dân tộc Lào-Việt Nam-Thái Lan tại

bản Phanhoth, huyện Khamkeut, tỉnh Bolikhamxay của Lào đã được khởi công

xây dựng trên diện tích 197ha.

Dự án được thực hiện theo thỏa thuận giữa ba nước Lào, Việt Nam và

Thái Lan. Đối tác tham gia dự án này là tám tỉnh biên giới cùng sử dụng đường

số 8B (gồm Bolikhamxay và Khammouan của Lào; Nghệ An, Hà Tĩnh và

Quảng Bình của Việt Nam; Nong Khai, Sakon Nakhon và Nakhon Pathom của

Thái Lan). Mỗi tỉnh sẽ được dành riêng từ 1-2ha đất để xây dựng các căn nhà

truyền thống, câu lạc bộ, công viên, phòng triển lãm... Các căn nhà truyền

91

thống trong Làng Văn hóa sẽ mô phỏng các mô hình kiến trúc đặc trưng của

mỗi nước, tượng trưng cho các kiểu kiến trúc, lối sống truyền thống của các

nhóm bộ tộc khác nhau trong vùng.

Trong thời gian tới, nước CHDCND Lào sẽ tiếp tục triển khai xây dựng và

phát triển các làng văn hóa, gắn với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.

4.2.2.3. Khôi phục các lễ hội dân gian

Nhân dân các dân tộc Lào vốn có truyền thống yêu nước, cách mạng đoàn

kết tương thân, tương ái, đức tính lao động cần cù, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường,

vươn lên xóa đói giảm nghèo xây dựng cuộc sống, xây dựng quê hương.

Mỗi dân tộc Lào đều có một nền văn hóa dân gian cổ truyền riêng biệt,

độc đáo mang tính đặc thù của vùng Tây Bắc. Với một kho tàng văn hóa dân

gian vô cùng phong phú và hết sức quý giá, đặc biệt là lễ hội dân gian. Xuất

phát từ trình độ nhận thức, kiến thức trong đời sống kinh tế xã hội thể hiện ở

trình độ canh tác còn yếu kém, người dân sản xuất còn phù thuộc vào thiên

nhiên, trông chờ vào số phận, vào sự che chở phù hộ của đất trời, tổ tiên. Bởi

vậy lễ hội có tác dụng rất lớn, hướng con người đi tới niềm tin, với ước mong

về một cuộc sống tốt lành, một sức khỏe vô biên, một vụ mùa bội thu. Từ ý

nghĩa nhân sinh đó, các tộc người Lào, từ lâu đã để lại trong đời sống tinh thần

của họ một vốn quý văn hóa thể hiện qua các lễ hội truyền thống. Chính vì

nhận thức được vai trò to lớn của lễ hội trong đời sống cộng đồng các dân tộc

Lào cho nên trong quá trình triển khai xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, Lào

luôn coi trọng công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của

các dân tộc.

Nói đến văn hóa Lào khổng thể không nói dến lễ hội, bởi vì lễ hội Lào là

hiện tượng văn hóa xã hội hết sức đặc sắc, mang đậm bản sắc riêng của cư dân

Lào. Nười Lào gọi phong tục làm việc lễ hội của mình là Hít Xíp Xỏng, nghĩa là

12 tháng, 12 hội. Hít xíp xỏng, chỉ vài từ ngân gọn đó, bao hàm tất cả lễ hội trong

năm của người Lào, theo đó mỗi tháng người lào phải làm một lễ hội. Nhưng

92

trong thực tế, số lễ hội trong năm của người Lào còn nhiều hơn, có nhưng tháng

người ta làm đến 2 hoặc 3 lễ hội. Người Lào gọi các lễ hội là (bun).

Điều lý thú nhất là các lễ hội của người Lào trước hết gắn liền với nền

nông nghiệp từ xa xưa. Bên cạnh đó, lễ hội Lào còn gắn với nhưng tín ngưỡng

cổ của nhân dân như tục tống tiễn dịch bệnh, tục thờ Phỉ, thờ Nác và khi phật

giáo dược du nhập vòa Lào thì lễ hội phật giáo đã trở thành những lễ hội quan

trọng mà nhân dân Lào luôn tham gia đông đảo.

Trải qua hàng ngàn năm trên đất nước Lào, ngày nay người Lào vẫn tiếp

túc làm việc lễ theo phong tục cũ của ông cha. Nhưng ngọn gió toàn cầu hóa đã

thổi đến đất nước Lào và lễ hội Lào, một sinh hoạt văn hóa quan trọng vào bậc

nhất của đất nước này cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng nhất.

Cho dù, việc thực hiện, các lễ hội cũng là những hoạt động mà người

Lào luôn gìn giữ để bảo tồn bản sắc văn hóa của mình.

Sau đây là lịch lễ hội trong một năm của người Lào:

- Tháng giêng có bun phi phạ phi then (lễ cũng các Phi ma trên trời), bun

khẩu cẳm.

- Tháng hai có bun khun khẩu (hội mùa)

- Táng ba bun Ma khạ bu xa (Lễ hội mừng ngày Phật đặc đạo) và bun

khẩu chi (hội xôi nướng).

- Tháng tư có bun Pha Vẹt

- Tháng năm bun Phi mày (lễ hội mừng năm mới).

- Tháng sáu có bun Bẳng phay, bun Vi xa kha bu xa, bun liêng phi và lễ

hội đánh cá Pa boc trên sông Mè nặm khong.

- Tháng bảy có bun Xẳm hạ (lễ hội tống tiến dịch bệnh) đồng thời có

thêm hội

Đóng cột mốc Bản Mường và tốt lành cho Bản Mường.

- Tháng tám có bun khẩu phăn xả (lễ hội vào chay của sư).

- Tháng chín có bun Khẩu pha đặp đin (lễ cũng vong hồn người chết – vu

han Lào) và bun Láy hưa phay (thả thuyền nến trên sông).

93

- Tháng 10 có bun Hỏ khẩu xạc (hội chúng sinh).

- Tháng 11 có bun Oc phăn xả (lễ ra chay), bun xuồng hưa (lễ hội đua thuyền).

-Tháng 12 có bun Ka thin ( dâng vải và thức ăn vật dụng cho sư) và bun

Thạt Luổng.

Nhìn vào lịch lễ hội dày dặc như tên trong một năm của người Lào, chúng

ta thấy có đầy đủ các loại lễ hội: lễ hội cũng Phi, lễ hội Kỷ niệm thần Nác, lễ hội

nông nghiệp, lễ hội phật giáo đan xen nhau tróng các tháng của mỗi năm.

4.2.2.4. Quảng bá văn hóa bản địa của các dân tộc với các nước trong xu thế

hội nhập

Nền Ngoại giao của bất kỳ nước nào cũng đều chịu ảnh hưởng ít nhiều

bởi nền văn hóa dân tộc của quốc gia đó, ngoại giao văn hóa nhằm làm cho thế

giới hiểu biết hơn về đất nước, con người và văn hóa Lào, tăng cường xây dựng

lòng tin với các quốc gia trên thế giới, đưa quan hệ giữa Lào với các đối tác đi

vào chiều sâu, ổn định và bền vững, qua đó nâng cao vị thế đất nước trên

trường quốc tế, tạo điều kiện hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội. Các hoạt động

ngoại giao văn hóa cũng góp phần tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm

phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn hóa truyền thống của đất nước,

góp phần xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Trong xu thế hội nhập với thế giới ngày càng sâu rộng và thời đại toàn

cầu hóa hiện nay, ngoại giao văn hóa giữ một vị trí quan trọng trong chính sách

đối ngoại. Cùng với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa

ngày nay đã "trở thành một trong ba trụ cột của ngoại giao toàn diện, hiện đại,

vừa là nền tảng, vừa là biện pháp và mục tiêu của chính sách đối ngoại Lào".

Ba trụ cột này gắn bó, tác động lẫn nhau, ngoại giao chính trị có vai trò định

hướng, ngoại giao kinh tế là nền tảng vật chất và ngoại giao văn hóa là nền

tảng tinh thần của hoạt động đối ngoại.

Thực tiễn cho thấy, giao lưu văn hóa đã trở thành nhịp cầu nối liền giữa

các quốc gia và có vai trò to lớn trong việc hòa giải dân tộc, đẩy lùi các cuộc

94

xung đột, chiến tranh về sắc tộc, tôn giáo; đồng thời thúc đẩy các nước tăng

cường tình đoàn kết, hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau, cùng hợp tác và phát triển.

Nhận thức sâu sắc điều đó, những năm qua, chúng ta đã ngày càng chủ động

hơn trong việc triển khai thực hiện các hoạt động ngoại giao văn hóa. Những

thành tựu của công cuộc đổi mới, môi trường chính trị ổn định, đất nước hòa

bình, con người thân thiện, nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, nhiều di sản văn

hóa dân tộc, nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc, các buổi biểu diễn nghệ thuật và

trình diễn thời trang, ẩm thực, triển lãm sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc thù

Lào thu hút được sự quan tâm của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới

thông qua hoạt động thông tin, tuyên truyền, quảng bá. Bên cạnh đó, các khu di

tích đã được UNESCO công nhận là di sản Thế giới như thành phố Luong Pha

Bang; Vắt Phu tỉnh Chăm Pa Sắc ; Tháp Luong Vieng Chăn... trong kho tàng văn

hóa Lào các loại hình nghệ thuật như múa Lăm vông, múa Đọc Chăm Pha.. có hát,

hát đọc Chăm Pha, hát Sạ La Văn, khăp Sầm nưa, Lăm Phu thay, Lăm phơn, Lăm

long, Lăm Tắt, Lăm tăng bai…trong quá trình hội nhập quốc tế, văn hóa đóng vai

trò là kênh truyền tải "về hình ảnh một dân tộc văn hiến, yêu chuộng hòa bình,

một đất nước Lào đổi mới, năng động và không ngừng phát triển".

Hiểu rõ vai trò của văn hóa đối ngoại, thực hiện đường lối, chủ trương

của Đảng và Nhà nước, Lào đã tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế, thúc đẩy

các hoạt động ngoại giao văn hóa tại các địa bàn, trọng tâm là các nước láng

giềng như tăng cường hợp tác với Đại sứ quán các nước tại Lào như Đại sứ

quán Việt Nam, Căm Phu Chia, Thai Land, trung Quốc, … nhằm tăng cường sự

hiểu biết lẫn nhau, quảng bá hình ảnh nước Lào đến với bạn bè thế giới, góp

phần duy trì, giữ vững và thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Lào với

các nước khác, nâng cao vị thế của đất nước Lào trong khu vực và trên trường

quốc tế. Với sự phối hợp chặt chẽ của các sở, ban, ngành, hoạt động Ngoại giao

văn hóa của Lào đã từng bước nâng lên góp phần tiếp thu văn hóa nhân loại,

làm phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc,

đẩy mạnh hơn nữa công tác đối ngoại nói chung cũng như thu hút đầu tư, viện

95

trợ với các hình thức thông tin, tuyên truyền phong phú, đa dạng như: Thông

qua các tổ chức quốc tế, các nhà đầu tư đến thăm và làm việc tại Lào; các đoàn

cán bộ của tỉnh đi công tác, học tập, nghiên cứu, giao lưu tại nước ngoài; gửi

tặng sách nhân kiến giao văn hóa Việt Nam - Lào; xây dựng tờ gấp cung cấp

thông tin hoạt động đối ngoại; giao lưu gặp gỡ với Liên hiệp các tổ chức hữu

nghị Lào; tổ chức buổi gặp mặt với đại sứ, trưởng cơ quan đại diện của lào mới

bổ nhiệm làm đại sứ ở nước ngoài; gửi thư chúc mừng các Đại sứ quán nước

ngoài tại Lào nhân dịp lễ Giáng sinh và tết dương lịch... Ngoài ra công tác phát

triển du lịch đã được gắn với công tác quản lý các di tích và danh thắng của

nước Lào. Hoạt động xúc tiến du lịch đã được tập trung triển khai bằng nhiều

hình thức như tăng cường các tin, bài trên các trang thông tin điện tử trong và

ngoài tỉnh, phát hành các ấn phẩm, tờ rơi, tờ gấp, băng đĩa hình, tham gia các

hội chợ, hội thảo, tổ chức Liên hoan Nghệ thuật quần chúng... Qua đó giới

thiệu, quảng bá những nét văn hóa đặc sắc, đặc trưng các dân tộc của địa

phương, các làn điệu dân ca, dân vũ, những danh lam thắng cảnh đẹp của địa

phương, từ đó đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa các dân tộc.

Tiểu kết chương 4

Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, nước CHDCND Lào cần

phải có chiến lược phát triển dân số phù hợp với mục tiêu, định hướng phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để ổn định, nâng cao chất lượng dân số và

giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, trong thời gian tới nước Lào

cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp: đào tạo, nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, thực hiện tốt chính sách dân số, tuyên truyền và giới thiệu về

văn hóa của các dân tộc, xây dựng và phát triển các làng văn hóa kết hợp với

việc phát triển du lịch, tăng cường hợp tác và giao lưu văn hóa với các nước

trong khu vực và trên thế giới.

96

KẾT LUẬN

Từ kết quả nghiên cứu và phân tích các số liệu về đặc điểm dân số, dân

tộc nước Lào chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:

1. Nước Lào có quy mô dân số không đông nhưng gia tăng dân số tự

nhiên cao hơn so với mức trung bình của thế giới và nhiều nước trong khu vực.

Nguyên nhân chủ yếu là do dân cư có nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số. Do

trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán cũng có những ảnh hưởng không nhỏ

đến mức sinh, nên mức sinh vẫn còn cao.

2. Trong thời gian qua, nước Lào đã đạt được những thành tựu nhất định

trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Cùng với sự phát triển của đất

nước dân số có những biến động theo chiều hướng tích cực, đó là chất lượng

cuộc sống và chất lượng dân số đã được nâng cao.

3. Quá trình biến động dân số trong thời gian qua diễn ra khá mạnh và

chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Biến động về quy mô dân số, biến động về

dân số nhập cư và hiện nay nước Lào vẫn có chính sách thu hút những nguồn

nhân lực chất lượng cao từ các quốc gia khác.

4. Nước Lào là quốc gia đa dân tộc. Nhìn chung, các dân tộc vẫn giữ được

những nét văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Mỗi dân tộc đều có những

nét văn hóa đặc sắc, tạo nên bức tranh văn hóa muôn mầu, đa dạng và phong

phú. Đây cũng là lợi thế để đất nước Lào có thể phát huy để phát triển du lịch.

5. Mục tiêu đặt ra là tập trung mọi nỗ lực để tiếp tục nâng cao chất lượng

dân số, cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản, duy trì mục tiêu ổn định mức sinh

bền vững, giảm sức ép của sự gia tăng dân số, sớm ổn định qui mô dân số ở

mức hợp lí, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số và phân bố dân số, đô

thị hóa, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước và cải thiện chất lượng cuộc sống dân cư. Giải pháp cơ bản là thực

hiện tốt và đồng bộ chương trình DS-KHHGĐ, phối kết hợp với các giải pháp

về kinh tế, xã hội và môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững.

97

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hà Thị Biên (2011), Biến động dân số tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 1999- 2009,

Luận văn thạc sĩ.

2. Bộ Giáo Dục (2010), Sách địa lý lớp 12 của Lào.

3. Nguyễn Đình Cử chủ biên (1997), Giáo trình dân số và phát triển, NXB

Nông nghiệp, Hà Nội.

4. Nguyễn Dược (2003), Sổ tay thuật ngữ địa lí, NXB Giáo dục.

5. Tống Văn Đường, Nguyễn Nam Phương (2007), Giáo trình dân số và phát

triển, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

6. Lê Sỹ Giáo (Chủ biên), (1998), Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7. Nguyễn Kim Hồng (2001), Dân số học đại cương, NXB Giáo dục.

8. Vũ Việt Hùng (2010), Xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi

mới,http://www.cpv.org.vn/

9. Đồng Duy Khánh, Nghiên cứu sự biến động dân số tỉnh Thái Nguyên giai

đoạn 1999- 2009 – luận văn thạc sĩ năm 2012.

10. Ma Ha Kham Phoun PHI LA VONG (2009), văn hóa và phong tục Lào

11. Nội dung Đại Hội lần thứ IX của Đảng cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

(2011) ,thủ đô Viêng Chăn.

12. Dương Quỳnh Phương (2011), Cộng đồng các dân tộc với việc sử dụng tài

nguyên thiên nhiên vì mục tiêu phát triển bền vững, Nxb Văn hóa dân tộc

Hà Nội, 200tr.

13. Dương Quỳnh Phương, Vũ Như Vân (2014), Văn hoá của các dân tộc: Tiếp

biến trong sự tương tác không gian lãnh thổ giữa các dân tộc vùng Trung

du và miền núi Bắc Bộ Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin.

14. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội (2013-2014), Bộ Quy hoạch và đầu

tư Thủ đô Viêng Chăn 2013.

98

15. Hồ Bá Thâm (2012), Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa

Thông tin.

16. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

17. Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ (1996), Dân số học và Địa lí dân cư, Hà Nội.

18. Lô Quốc Toản, Quan niệm về “dân tộc thiểu số” và “cán bộ dân tộc thiểu

số” hiện nay, http://www.mattran.org.vn/home/TapChi.

19. Tổng cục thống kê đất nước Lào (2015), Số liệu điều tra dân số và nhà ở

của Lào

20. Trung tâm mặt trận Lào Xây dựng đất nước Lào (2008), Các dân tộc trong

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

21. Nguyễn Minh Tuệ (2008), Giáo trình giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản,

Quỹ dân số LHQ thông qua dự án VNM 7PG009 – Bộ GD ĐT.

22. Nguyễn Minh Tuệ, Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông (2010), Địa lí kinh tế -

xã hội đại cương, NXB Đại học Sư phạm.

99