ĐẶC ĐIỂM MÔI TRƯỜNG NƯỚC BIỂN ĐẢO PHÚ QUỐC,<br />
KIÊN GIANG<br />
Đào Hương Giang 1<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Phú Quốc là một trong ba đặc khu hành chính - kinh tế của Việt Nam. Môi trường nói chung và môi<br />
trường nước trên đảo và biển ven đảo nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển bền vững đặc<br />
khu.<br />
Hiện trạng môi trường nước của đặc khu này cho đến hiện nay về cơ bản có chất lượng tốt: Nồng độ trong<br />
nước của các yếu tố thủy hóa (DO, COD, BOD, pH, Eh…), kim loại nặng và vật chất hữu cơ còn nằm trong<br />
giới hạn an toàn cho phép theo Quy chuẩn môi trường nước Việt Nam. Tuy nhiên, tại đây đã xuất hiện các dị<br />
thường âm của pH và F với nồng độ rất thấp, hoặc dị thường dương nồng độ các kim loại nặng (Zn, Mn, Cd,<br />
Pb…) với nồng độ cao đột biến, mặc dù chưa vượt ngưỡng. Những dị thường dương và âm này tạo nên các<br />
nguy cơ ô nhiễm môi trường nước vùng nghiên cứu.<br />
Từ khóa: Biển đảo Phú Quốc, môi trường nước, đặc khu kinh tế - hành chính, nguy cơ ô nhiễm môi trường nước.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1. Mở đầu tại các lưu vực sông suối; tập trung tại các khu vực cửa<br />
Biển đảo Phú Quốc bao gồm diện tích đảo Phú sông, nơi tập trung nhiều hoạt động nhân sinh. Nước<br />
Quốc và biển ven đảo đến độ sâu 30m nước. Phú Quốc ngầm được lấy tại các khu vực giếng khoan dân sinh và<br />
là đảo ngọc của Việt Nam, là đảo có diện tích lớn nhất tiến hành khoan lấy mẫu ở một số vị trí trên đảo.<br />
Việt Nam (574 km2), gần tương đương với diện tích - Các mẫu nước biển ven đảo: Lấy mẫu nước để<br />
quốc đảo Singapo (719,9 km²). Ngày nay, Phú Quốc phân tích Eh, pH, độ muối, các ion, kim loại nặng<br />
đã trở thành một trong ba đặc khu hành chính - kinh (As, Hg, Sb, Pb…). Các mẫu nước biển được chọn lựa<br />
tế của Việt Nam. Các hoạt động phát triển kinh tế - nhằm đảm bảo tính đại diện cho toàn bộ môi trường<br />
xã hội đặc biệt là hoạt động du lịch, nghỉ dưỡng, dịch nước mặt trên biển vùng nghiên cứu. Khảo sát và lấy<br />
vụ, nghề cá, nuôi trồng thủy hải sản, giao thông vận mẫu theo sơ đồ mạng lưới thiết kế sẵn (theo các tuyến<br />
tải biển, cầu cảng biển… tác động tiêu cực đến môi vuông góc với đường bờ), tại các trạm khảo sát và lấy<br />
trường nói chung và môi trường nước nói riêng; đã mẫu đều được định vị tọa độ và xác định độ sâu.<br />
làm cho môi trường này ngày càng có nguy cơ ô nhiễm 2.2. Phương pháp phân tích mẫu<br />
và tất yếu sẽ bị ô nhiễm nếu chúng ta không có giải - Phân tích nhanh tại thực địa các chỉ tiêu thủy hóa<br />
pháp BVMT tích cực hơn. pH, Eh, DO, độ muối, nhiệt độ bằng thiết bị đo nhanh<br />
2. Phương pháp nghiên cứu (máy đo TOA của Mỹ).<br />
- Phân tích trong phòng thí nghiệm các chỉ tiêu:<br />
2.1. Phương pháp khảo sát, lấy mẫu ngoài thực địa<br />
BOD bằng phương pháp chai đo BOD Oxitop; COD<br />
Tại vùng nghiên cứu, chúng tôi khảo sát và tiến bằng tác nhân ôxy hoá; các kim loại nặng, bằng các<br />
hành lấy mẫu nước trên cả phần đất liền trên đảo phương pháp hấp thụ nguyên tử; dầu bằng phương<br />
(nước mặt và nước ngầm) và vùng biển đến độ sâu 30 pháp đo quang phổ (hồng ngoại, cực tím và huỳnh<br />
m nước (nước mặt). quang, sắc ký khí và sắc ký khí - khối phổ) tại các<br />
- Các mẫu nước phần đất liền: Nước mặt được lấy phòng thí nghiệm trọng điểm cấp Nhà nước.<br />
<br />
<br />
1<br />
Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân<br />
<br />
<br />
62 Chuyên đề II, tháng 6 năm 2018<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC<br />
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ<br />
<br />
<br />
<br />
2.3. Phương pháp tính toán xử lý số liệu trong natri. Chỉ gặp nước mặn ở một vài dải hẹp ven biển<br />
phòng như khu Rạch Đầm, phía Bắc xã Hàm Ninh, Bãi Bủng,<br />
Kết quả phân tích được tính toán, xử lý và đánh giá tổng khoáng hóa 1,33 g/l - 8,17 g/l. Thành phần hóa<br />
mức độ ô nhiễm môi trường nước vùng nghiên cứu học nước là clorua - natri. Kết quả phân tích mẫu nước<br />
dựa vào Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng cho thấy, tầng chứa nước lỗ hổng có chất lượng khá<br />
nước biển (QCVN 10: 2015/BTNMT) và Quy chuẩn tốt. Hầu hết các chỉ tiêu phân tích đều đạt tiêu chuẩn<br />
quốc gia về chất lượng nước mặt (QCVN 08:2015/ nước uống, riêng chỉ tiêu pH và flo thấp so với tiêu<br />
BTNMT), Quy chuẩn quốc gia về chất lượng nước chuẩn cho phép.<br />
ngầm (QCVN 09:2015- MT/BTNMT, QCVN 01:2009/ Nước khe nứt phần lớn có tổng khoáng hóa < 0,1<br />
BYT). Tính toán, xử lý số liệu xác định: g/l, độ cứng thấp, ít có dấu hiệu nhiễm bẩn bởi các hợp<br />
- Mức độ ô nhiễm môi trường nước bởi các yếu tố chất nitơ, hàm lượng sắt có trong nước không đáng<br />
thủy hóa, kim loại nặng và dầu; rác thải công nghiệp kể. Nước phần lớn có thành phần hóa học bicarbonat<br />
và dân sinh. clorua - natri caxi. Tầng chứa nước khe nứt có chất<br />
lượng khá tốt, bảo đảm để cung cấp nước cho ăn uống,<br />
- Mức độ nguy cơ ô nhiễm theo dị thường thủy địa<br />
sinh hoạt. Hầu hết các chỉ tiêu phân tích đều đạt tiêu<br />
hóa.<br />
chuẩn nước uống. Tuy nhiên cũng giống như nước lỗ<br />
3. Kết quả nghiên cứu hổng, độ pH và thành phần flo rất thấp. Cần có biện<br />
3.1. Đặc điểm môi trường nước trên đảo Phú pháp xử lý bổ sung hàm lượng flo và làm tăng độ pH.<br />
Quốc 3.2. Đặc điểm môi trường nước biển đến độ sâu<br />
a. Chất lượng nước mặt 30 m nước<br />
Theo kết quả nghiên cứu của các công trình khác a. Nguy cơ ô nhiễm các yếu tố thủy hóa<br />
nhau và của tác giả bài báo cho thấy, nhìn chung, nước Môi trường nước biển tại đây có độ muối tương đối<br />
mặt trên đảo có chất lượng khá tốt, hầu hết có tổng cao so với khu vực lân cận, mang tính đặc trưng bởi ba<br />
khoáng hóa < 0,1g/l; độ cứng < 300mg/l; các hợp chất kiểu môi trường: Môi trường kiềm yếu và ôxy hóa yếu<br />
nitơ, sắt có trong nước rất ít. Các chỉ tiêu phân tích đều ở khu vực ven đảo từ 0 - 30 m nước; môi trường trung<br />
đạt tiêu chuẩn nước sinh hoạt, riêng độ pH thấp (pH = tính, ôxy hóa yếu ở khu vực cửa sông Dương Đông và<br />
5,0 - 6,8). Phần lớn là nước hỗn hợp Cl- HCO3/Na+ và một số khu vực cửa sông cửa biển khác; môi trường<br />
Cl SO4-/ Na+. Phần hạ lưu của một số sông chính lưu axit yếu, ôxy hóa yếu ở khu vực suối Lớn, suối Thay và<br />
thông với biển bị ảnh hưởng trực tiếp của thủy triều, cửa Cạn. Môi trường nước chưa bị ô nhiễm bởi COD<br />
nước sông bị nhiễm mặn. Ngoài ra, một số sông rạch và BOD, tuy nhiên, đã hình thành một số các dị thường<br />
nhỏ khác chảy trong vùng bưng trũng, rừng tràm tái nồng độ cao các yếu tố thủy hóa tại một số vị trí. Đây<br />
sinh, nước có màu nâu vàng. là các vị trí có nguy cơ ô nhiễm.<br />
Nước mặt tại một số khu vực cửa sông suối như b. Nguy cơ ô nhiễm bởi các anion<br />
Cửa Cạn, Dương Đông, Dương Tơ, Hàm Ninh có<br />
Các anion bao gồm: Sulphat (SO42-) với nồng độ dao<br />
nồng độ BOD, các anion NO3-, CO3-2 và nguyên tố như<br />
động 5 - 2.291mg/l, đạt giá trị trung bình là 2.000,19<br />
As, Cd, Pb, Cu, Zn, Mn, Hg khá cao, nhưng chưa vượt<br />
mg/l, Nitrat (NO3-) nồng độ dao động trong khoảng<br />
quá Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước<br />
0,44 - 1,8 mg/l; đạt giá trị trung bình là 0,68 mg/l,<br />
mặt. Tuy nhiên, các chất này đã hình thành nên các dị<br />
Carbonat (CO3-2) nồng độ dao động trong khoảng 0<br />
thường và điểm dị thường có nguy cơ gây ô nhiễm tại<br />
- 12,8 mg/l, đạt giá trị trung bình là 5 mg/l. Với giá trị<br />
các khu vực này.<br />
nồng độ trên, môi trường nước biển chưa bị ô nhiễm,<br />
Ngoài hệ thống sông rạch tự nhiên nguồn nước mặt tuy nhiên, đã xuất hiện các dị thường nồng độ anion<br />
tại Phú Quốc hiện nay còn được bổ sung thêm bằng cao tại một số vị trí trong khu vực tạo nguy cơ ô nhiễm.<br />
các hồ chứa nước. Hồ chứa lớn nhất là hồ Dương Đông<br />
(được hoàn thành tháng 9/2002); chất lượng nước hồ c. Nguy cơ ô nhiễm các kim loại nặng<br />
tốt. Nhìn chung, sự phân bố nồng độ các kim loại Mn,<br />
Cu, Pb, Zn, Cd, Sb, Hg, As, Mg trong nước biển vùng<br />
b. Chất lượng nước ngầm<br />
nghiên cứu tương đối đồng đều, tuy nhiên, chúng cũng<br />
Hầu hết diện tích đảo Phú Quốc có tầng chứa nước đã tạo nên các dị thường nồng độ cao, mang tính cục<br />
lỗ hổng là nước nhạt, tổng khoáng hóa