intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặc điểm thành phần loài và phân bố của họ cá bống trắng (gobiidae) trong các rạn san hô ở vịnh Nha Trang

Chia sẻ: Hân Hân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

61
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu các đặc trưng cơ bản về đặc điểm thành phần loài và phân bố của họ cá bống trắng (Gobiidae) được tiến hành tại 18 trạm rạn phân bố rộng khắp các đảo và vùng ven bờ trong vịnh Nha Trang, trong đó 8 trạm được khảo sát và thu mẫu vào tháng 5/2002 bằng rotenone và 10 trạm vào tháng 4-5/2015 bằng quả bồ hòn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặc điểm thành phần loài và phân bố của họ cá bống trắng (gobiidae) trong các rạn san hô ở vịnh Nha Trang

Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2015, tập 21, số 2: 124-135<br /> <br /> ĐẶC ĐIỂM THÀNH PHẦN LOÀI VÀ PHÂN BỐ CỦA<br /> HỌ CÁ BỐNG TRẮNG (GOBIIDAE) TRONG CÁC RẠN SAN HÔ<br /> Ở VỊNH NHA TRANG<br /> 1<br /> <br /> Đỗ Thị Cát Tường, 2Nguyễn Văn Long<br /> 1<br /> Khoa Sinh học, Đại học Đà Lạt<br /> 2<br /> Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam<br /> Tóm tắt<br /> <br /> Nghiên cứu các đặc trưng cơ bản về đặc điểm thành phần loài và phân bố của<br /> họ cá bống trắng (Gobiidae) được tiến hành tại 18 trạm rạn phân bố rộng<br /> khắp các đảo và vùng ven bờ trong vịnh Nha Trang, trong đó 8 trạm được<br /> khảo sát và thu mẫu vào tháng 5/2002 bằng rotenone và 10 trạm vào tháng<br /> 4-5/2015 bằng quả bồ hòn. Kết quả phân tích đã xác định được 34 loài thuộc<br /> 16 giống của họ cá bống trắng. Trong đó có 1 loài lần đầu tiên ghi nhận cho<br /> Việt Nam là Fusigobius humeralis (Randall, 2001). Nhìn chung những khu<br /> vực rạn gần bờ và xa bờ có số lượng loài thấp hơn so với các rạn thuộc đảo ở<br /> giữa vịnh.<br /> <br /> SPECIES COMPOSITION AND DISTRIBUTION OF THE FAMILY GOBIIDAE<br /> IN CORAL REEFS IN THE NHA TRANG BAY<br /> 1<br /> <br /> Do Thi Cat Tuong, 2Nguyen Van Long<br /> Faculty of Biology, University of Da Lat<br /> 2<br /> Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology<br /> 1<br /> <br /> Abstract<br /> <br /> Studies on species composition and distribution of the gobies (Gobiidae)<br /> were widely conducted at 18 sites locating at the islands and the coastal reefs<br /> in the Nha Trang bay, of which 8 sites were sampled in May 2002 using<br /> rotenone and 10 sites in April-May 2015 using soapberry/chinaberry. A total<br /> of 34 species belonging to 16 genera of the gobies were found, in which<br /> Fusigobius humeralis (Randall, 2001) was newly recorded for Vietnam. In<br /> general, the coastal and offshore sites supported lower number of species<br /> than those in the middle sites of the bay.<br /> <br /> I. MỞ ĐẦU<br /> Nghiên cứu rạn san hô trên thế giới được<br /> tiến hành từ rất sớm nhưng những nghiên<br /> cứu về các đặc trưng phân bố và sinh học<br /> của quần xã cá rạn san hô mới chỉ được<br /> quan tâm nghiên cứu từ những năm cuối<br /> của thế kỷ 20, trong đó có họ cá bống trắng<br /> (Gobiidae). Cho đến nay số lượng loài của<br /> họ cá bống trắng trên toàn thế giới có<br /> <br /> khoảng 1.703 loài với 251 giống (Froese và<br /> Pauly, 2015). Các công trình nghiên cứu cá<br /> rạn theo từng khu vực riêng lẻ đã xác định<br /> vùng vịnh Thái Lan có 28 loài<br /> (Satapoomin, 2000), vịnh Milne (Papua<br /> New Guinea) có 90 loài (Allen và Werner,<br /> 2002), quần đảo Anambas và Natuna có 26<br /> loài (Adrim và cs., 2004).<br /> Tại Việt Nam, các nghiên cứu về họ cá<br /> bống trắng (Gobiidae) chủ yếu được lồng<br /> <br /> 124<br /> <br /> ghép vào các đề tài dự án nghiên cứu về cá<br /> rạn. Nguyễn Nhật Thi (2000) đã tập hợp<br /> các tài liệu từ những nghiên cứu trước đó<br /> và công bố 60 loài thuộc họ cá bống trắng<br /> trong vùng biển Việt Nam. Kết quả nghiên<br /> cứu tại một số khu vực nhỏ hơn đã ghi nhận<br /> có 4 loài của họ cá này ở đảo Ba Mùn,<br /> Quảng Ninh (Nguyen Van Quan, 2006), 8<br /> loài ở quần đảo Cô Tô và Cát Bà (Đỗ Văn<br /> Khương và cs., 2005), 3 loài ở vịnh Hạ<br /> Long (Nguyễn Văn Quân, 2005), 3 loài ở<br /> vùng ven bờ Phú Yên (Nguyễn Văn Long,<br /> 2013), 15 loài ở vùng ven bờ Nam Trung<br /> Bộ (Nguyễn Văn Long, 2009), 3 loài ở Côn<br /> Đảo (Nguyễn Hữu Phụng và Nguyễn Văn<br /> Long, 1997) và 13 loài ở vùng biển Trường<br /> Sa (Nguyễn Nhật Thi và Nguyễn Văn<br /> Quân, 2004). Riêng vùng biển Phú Quốc,<br /> Nguyễn Hữu Phụng và Nguyễn Văn Long<br /> (1996) đã công bố 135 loài cá rạn nhưng<br /> không có loài nào của họ cá bống trắng<br /> được ghi nhận.<br /> Vịnh Nha Trang có 12 đảo lớn nhỏ và<br /> dải bờ biển dài trên 15 km được giới hạn từ<br /> mũi Kê Gà ở phía Bắc và mũi Cù Hin ở<br /> phía Nam với diện tích khoảng 403,41 km2.<br /> Vịnh là khu vực có tính đa dạng sinh học<br /> khá cao, trong đó rạn san hô được xem là hệ<br /> sinh thái quan trọng và nổi bật nhất (Võ Sĩ<br /> Tuấn và cs., 2005). Một số nghiên cứu về<br /> họ cá bống trắng trên các rạn san hô cũng<br /> đã được tiến hành trong những năm qua và<br /> đã thống kê được 11 loài (Nguyễn Văn<br /> Long, 2009).<br /> Như vậy có thể nhận thấy dù đã có một<br /> số nghiên cứu về thành phần loài họ cá<br /> bống trắng ở Việt Nam và vịnh Nha Trang,<br /> song chủ yếu sử dụng phương pháp lặn và<br /> quan sát trực tiếp, có rất ít nghiên cứu tiến<br /> hành thu mẫu nên số lượng loài của họ cá<br /> này đã được xác định còn thấp hơn nhiều so<br /> với thực tế. Vì vậy, việc thực hiện nghiên<br /> cứu này là nhằm nắm được các đặc trưng cơ<br /> bản của họ cá bống trắng trong các rạn san<br /> hô nói riêng, đồng thời góp phần bổ sung và<br /> cung cấp đầy đủ hơn các tư liệu liên quan<br /> đến tính chất đa dạng thành phần sinh vật<br /> trong các rạn san hô ở vịnh Nha Trang, tỉnh<br /> Khánh Hòa nói chung.<br /> <br /> II. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> Nguồn tư liệu sử dụng trong nghiên cứu<br /> này được phân tích dựa trên bộ mẫu đã<br /> được thu thập tại 8 trạm vào tháng 5/2002<br /> (Bãi Tiên, Hòn Rùa, Hòn Chồng 1, Hòn<br /> Tằm, Hòn Một, Bãi Lận, Hòn Mun và Hòn<br /> Nọc) và 10 trạm (Hang Dơi, Hòn Chồng 2,<br /> Sông Lô, Đông và Nam Hòn Miễu, Bàn<br /> Than 1 và 2, Bãi Sạn, Bãi Bàng và Hòn Hố)<br /> vào tháng 4 - 5/2015 (Hình 1).<br /> Tại mỗi trạm, người thợ lặn dùng 200<br /> gram rotenone (đợt thu mẫu năm 2002)<br /> hoặc 200 gram bột bồ hòn đã được giã<br /> nhuyễn gói trong vải mùng (đợt thu mẫu<br /> năm 2015), vừa bơi vừa vò mạnh để<br /> rotenone/bồ hòn hòa tan và phát tán đều<br /> xung quanh khối san hô đã chọn trong<br /> phạm vi diện tích khoảng 10 - 15m2. Sau đó<br /> chờ 10 - 15 phút cá bị ngạt và chết, lúc này<br /> tiến hành thu thập toàn bộ cá bị chết nằm<br /> trên bề mặt nền rạn san hô. Mẫu vật sau khi<br /> thu xong được đếm số lượng, cho vào túi<br /> nilon và bảo quản trong thùng xốp lạnh<br /> chứa nhiều đá để giữ cho mẫu luôn tươi<br /> nguyên. Tất cả các mẫu cá được chuyển về<br /> phòng thí nghiệm của Phòng Nguồn lợi<br /> Thủy sinh vật, Viện Hải dương học để xử lý<br /> và định loại.<br /> Định loại mẫu theo phương pháp phân<br /> tích so sánh hình thái dựa theo các tài liệu<br /> định loại của Nguyễn Nhật Thi (2000),<br /> Randall và cs. (1990), Myers (1991), Allen<br /> và Adrim (2003) và cơ sở dữ liệu cá thế<br /> giới Fishbase năm 2015 (Froese và Pauly,<br /> 2015).<br /> Việc xác định loài mới được tiến hành<br /> thông qua đối chiếu danh mục thành phần<br /> loài của nghiên cứu này với các danh mục<br /> đã công bố như Danh mục cá nước ngọt và<br /> cá biển của Việt Nam - A check list of the<br /> marine and freshwater fishes of Vietnam<br /> (Orsi, 1974), Danh mục cá biển Việt Nam Tập IV (Nguyễn Hữu Phụng, 1997), Danh<br /> sách cá rạn san hô biển Việt Nam (Nguyễn<br /> Hữu Phụng, 2002; Nguyễn Nhật Thi và<br /> Nguyễn Văn Quân, 2005), Danh sách thành<br /> phần loài cá rạn san hô vùng biển ven bờ<br /> Nam Trung Bộ (Nguyễn Văn Long, 2009),<br /> <br /> 125<br /> <br /> Danh sách thành phần loài cá rạn san hô<br /> vùng biển ven bờ Phú Yên (Nguyễn Văn<br /> Long, 2013), Danh sách cá rạn san hô vịnh<br /> Nha Trang (Nguyễn Hữu Phụng và cs.,<br /> 2001), Danh mục các loài cá ghi nhận trên<br /> vùng triều Ninh Hải (Nguyễn Thành Huy<br /> và Nguyễn Văn Long, 2013) và các danh<br /> mục cá rạn ở Ba Mùn, Cô Tô - Cát Bà, vịnh<br /> Hạ Long như đã được liệt kê ở trên.<br /> Việc so sánh tính đa dạng loài giữa các<br /> khu vực khảo sát được thực hiện theo 3<br /> <br /> nhóm trạm theo phân bố không gian từ bờ<br /> ra khơi gồm gần bờ, giữa vịnh và xa bờ.<br /> Thống kê và xử lý số liệu bằng phần<br /> mềm Microsoft Office Excel 2010. Việc<br /> tính toán các chỉ số đa dạng của quần xã<br /> giữa các trạm thu mẫu được thực hiện trên<br /> phần mềm Primer 6.0. Xử lý hình ảnh cá<br /> được tiến hành bằng phần mềm photoshop<br /> CS5 và ImageJ.<br /> <br /> Hình 1. Vị trí các trạm thu mẫu trên rạn san hô trong vịnh Nha Trang<br /> Fig. 1. Location of sampling sites of coral reefs in the Nha Trang bay<br /> <br /> III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> 1. Thành phần loài<br /> <br /> hô ở vịnh Nha Trang. Trong đó có 1 loài<br /> lần đầu tiên được ghi nhận cho Việt Nam là<br /> Fusigobius humeralis (Phụ lục 1 & 2).<br /> Các loài Bathygobius hongkongensis và<br /> Cryptocentrus caeruleomaculatus chiếm ưu<br /> thế về số lượng cá thể.<br /> Trong 16 giống đã xác định, giống<br /> Cryptocentrus và Priolepis có số lượng loài<br /> nhiều nhất với 4 loài (chiếm 11,76%), tiếp<br /> đến là giống Callogobius và Trimma: 3 loài<br /> (chiếm 8,82%). Các giống Bathygobius,<br /> Ctengobiops, Eviota, Fusigobius, Gnatholepis, Gobiodon và Istigobius mỗi giống<br /> có 2 loài (chiếm 5,88%). Các giống Exyrias<br /> <br /> Qua 2 đợt khảo sát vào năm 2002 và 2015,<br /> chúng tôi thu thập được tổng cộng 151 mẫu<br /> cá tại 13 trạm (Hang Dơi, Hòn Rùa, Hòn<br /> Chồng 1, Sông Lô, Đông Hòn Miễu, Hòn<br /> Tằm, Hòn Một, Bãi Lận, Hòn Mun, Bãi<br /> Sạn, Bãi Bàng, Hòn Nọc và Hòn Hố) và<br /> không thu được mẫu nào của họ cá bống<br /> trắng tại 5 trạm khác (Bãi Tiên, Hòn Chồng<br /> 2, Bàn Than 1 & 2, Tây Nam Hòn Miễu).<br /> Kết quả phân tích các mẫu này đã xác định<br /> được 34 loài thuộc 16 giống của họ cá bống<br /> trắng (Gobiidae) phân bố trong các rạn san<br /> 126<br /> <br /> và Gobiopsis chỉ có một loài (chiếm 2,94%)<br /> (Hình 2).<br /> So sánh kết quả này với một số khu vực<br /> khác trong vùng ven bờ Việt Nam cho thấy<br /> thành phần loài của quần xã cá bống trắng ở<br /> vịnh Nha Trang đa dạng hơn nhiều so với<br /> Côn Đảo, Trường Sa, ven bờ Phú Yên và<br /> vịnh Hạ Long (Bảng 1). Sự cao hơn về<br /> thành phần loài của họ cá bống trắng trong<br /> các rạn san hô vịnh Nha Trang so với các<br /> khu vực khác tại Việt Nam có thể do sự<br /> khác nhau về vị trí địa lý và phương pháp<br /> nghiên cứu. Trong cả 4 công trình nghiên<br /> <br /> cứu tại Côn Đảo, quần đảo Trường Sa, vịnh<br /> Hạ Long và Phú Yên, các tác giả đều sử<br /> dụng phương pháp lặn và quan sát cá trực<br /> tiếp dưới nước, phương pháp này còn hạn<br /> chế vì không bắt gặp các loài sống trong<br /> hang hốc và khó quan sát hoặc kích thước<br /> nhỏ. Còn dùng rotenone/bồ hòn làm cá chết<br /> ngạt, nên thu được các cá thể trong hang,<br /> khe hở của rạn, do đó việc thu mẫu đạt hiệu<br /> quả cao hơn, số lượng loài ghi nhận được<br /> trong nghiên cứu này cao hơn rất nhiều so<br /> với các khu vực khác và với các nghiên cứu<br /> trước đây tiến hành tại vịnh Nha Trang.<br /> <br /> Hình 2. Số lượng loài theo giống của họ cá bống trắng trên các rạn san hô ở vịnh Nha Trang<br /> Fig. 2. Number of species in genera of the gobies at coral reefs in the Nha Trang bay<br /> <br /> Bảng 1. So sánh số loài của họ cá bống trắng giữa một số khu vực<br /> trong vùng biển Việt Nam và một số khu vực lân cận<br /> Table 1. Comparison of number of species of the gobies<br /> between areas in Vietnam and adjacent regions<br /> Khu vực<br /> Vịnh Nha Trang<br /> Quần đảo Trường Sa<br /> Vịnh Hạ Long<br /> Côn Đảo<br /> Phú Yên<br /> Vịnh Thái Lan<br /> Quần đảo Anambas và Natuta<br /> Đảo Weh<br /> <br /> Số loài<br /> 34<br /> 13<br /> 9<br /> 3<br /> 3<br /> 28<br /> 26<br /> 53<br /> <br /> Nguồn tham khảo<br /> Nghiên cứu này<br /> Nguyễn Nhật Thi và Nguyễn Văn Quân (2004)<br /> Nguyễn Văn Quân (2005)<br /> Nguyễn Hữu Phụng và Nguyễn Văn Long (1997)<br /> Nguyễn Văn Long (2013)<br /> Satapoomin (2000)<br /> Adrim và cs. (2004)<br /> Allen và Werner (2002)<br /> <br /> 127<br /> <br /> So với một số khu vực khác trên thế giới<br /> thì số loài ghi nhận được trên các rạn san hô<br /> ở vịnh Nha Trang cao hơn so với vịnh Thái<br /> Lan, quần đảo Anambas và Natuta nhưng<br /> lại kém đa dạng hơn so với đảo Weh<br /> (Indonesia) khi sử dụng cùng phương pháp<br /> thu mẫu (Bảng 1). Điều này cho thấy rằng<br /> vịnh Nha Trang có tính đa dạng loài của họ<br /> cá bống trắng khá cao so với nhiều khu vực<br /> khác trên thế giới có diện tích rạn san hô<br /> tương đương hoặc thậm chí lớn hơn rất<br /> nhiều lần.<br /> 2. So sánh đặc điểm và tính chất đa dạng<br /> của quần xã cá bống trắng giữa các khu<br /> vực<br /> 2.1. Số lượng và tính chất thành phần loài<br /> So sánh tính đa dạng loài của quần xã họ cá<br /> <br /> bống trắng cho thấy có sự chênh lệch khá<br /> lớn về số loài giữa các trạm nghiên cứu,<br /> trong đó Hòn Mun có số loài cao nhất với<br /> 15 loài, tiếp đến là Bãi Lận (14 loài), Hang<br /> Dơi, Đông Hòn Miễu, Bãi Bàng, Bãi Sạn và<br /> Hòn Hố mỗi khu vực chỉ thu được 1 loài<br /> (Hình 3). Nếu xét theo không gian từ bờ ra<br /> khơi, số lượng loài thu được ở nhóm trạm<br /> gần bờ (Hang Dơi, Hòn Chồng 1, Hòn Rùa,<br /> Sông Lô và Đông Hòn Miễu) có 10 loài<br /> (trung bình: 2,4 ± 1,5 loài/trạm) tương<br /> đương nhóm trạm xa bờ (Bãi Sạn, Hòn<br /> Nọc, Bãi Bàng và Hòn Hố) có 7 loài (trung<br /> bình: 1,8 ± 1,5 loài/trạm) nhưng lại thấp<br /> hơn rất nhiều so với nhóm trạm giữa vịnh<br /> (Hòn Tằm, Hòn Một, Bãi Lận, Hòn Mun)<br /> có đến 27 loài (trung bình: 10,4 ± 4,8<br /> loài/trạm).<br /> <br /> Hình 3. Số lượng loài ghi nhận tại các trạm nghiên cứu ở vịnh Nha Trang<br /> Fig. 3. Number of species recorded at the study sites in the Nha Trang bay<br /> <br /> Kết quả phân tích nhóm của quần xã cá<br /> bống trắng ghi nhận có sự khác biệt lớn về<br /> tính chất thành phần loài giữa các trạm<br /> nghiên cứu với mức độ giống nhau rất thấp<br /> (7 - 45%) (Hình 4). Trong đó, Hòn Mun và<br /> Bãi Lận có mức độ giống nhau cao nhất<br /> (45%); Hòn Tằm, Bãi Lận, Hòn Mun, Hòn<br /> Nọc, Hòn Một, Hòn Rùa, Đông Hòn Miễu,<br /> <br /> Hang Dơi và Sông Lô có mức độ tương<br /> đồng chỉ 10%; Bãi Bàng và Hòn Hố chỉ đạt<br /> khoảng 7%. Điều này cho thấy tính chất<br /> phân bố của quần xã họ cá bống trắng trên<br /> rạn san hô trong vịnh Nha Trang có sự khác<br /> biệt tương đối lớn giữa các trạm hoặc giữa<br /> khu vực gần bờ, giữa vịnh và xa bờ.<br /> <br /> 128<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1