NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
35
NHỮNG ĐẶC TRƯNG
THẤM MĨ CỦA HỆ
THÔNG SỬ THỊ ANH
HÙNG TÂY NGUYÊN
PHẠM NHÂN THÀNH?)
3° chung, để tài chính của Sử thi
anh hùng là những xung đột tạo
nên các hình thái chiến tranh khác nhau.
Trước hết đó là những cuộc chiến giữa
con người với con người nhằm giải quyết
các mâu thuẫn về quyển lợi và mục đích
đối lập nhau. Trong cuộc chiến, thông
thường lực lượng có lí tưởng đấu tranh
phù hợp với qui luật phát triển của lịch
sử thì cuối cùng cũng giành được chiến
thắng trọn vẹn. Cùng với những cuộc
chiến này còn biết bao cuộc chiến đầy hi
sinh, gian khổ giữa con người với tự
nhiên để tồn tại và phát triển. Các cuộc
đấu tranh phản ánh một thời kì con
người dần dần thoát ra sự chỉ phối toàn
diện, tuyệt đối của tự nhiên bằng cách
từng bước chiếm lĩnh, chế ngự mặt nào
đó của giới tự nhiên.
1. Chiến tranh giữa các thế lực con
người với nhau trong Sử thi anh hùng là
cuộc chiến vì sự sống còn và hạnh phúc
của con người. Chiến tranh trở thành
phương tiện và động lực thúc đẩy lịch sử
phát triển chứ hoàn toàn không mang
- tính chất đồng hoá, nô dịch và bóc lột của
chiến tranh xâm lược. Ngay đến các trận
chiến phục thù cũng không đơn giản và
thuần tuý chỉ là sự thanh toán lẫn nhau
”' Nghiên cứu sinh Trường Đại học KHXH
& NV Thành phố Hồ Chí Minh.
giữa cá nhân với cá nhân..Những trận
đánh trả thù cho mẹ cha, bà con hay anh
em ruột thịt của nhân vật anh hùng đều
kéo theo sự hưng thịnh của cộng đồng
người chiến thắng và sự tiêu vong của
cộng đồng kẻ thất bại. Thực ra, sự trả thù
chỉ là nguyên nhân của hành động chiến
trận. Mục đích và ý nghĩa sâu xa của
chiến trận chính là sự khẳng định xu thế
tất thắng của một thế lực xã hội mới
trưởng thành nhưng mạnh mẽ và tiến bộ.
Đó là những thế lực vừa được hình thành
từ các điều kiện lịch sử tương ứng. Chính
nó sẽ vượt qua mọi trói buộc, cản trở của
nhiều lực lượng bảo thủ, lạc hậu bằng
xung đột vũ lực để trở thành lực lượng
tiên tiến, tiêu biểu cho một thời kỳ lịch
sử mới. Chiến trận trong Sử thi anh hùng
còn được bắt đầu từ nhiều nguyên nhân
như cướp đoạt phụ nữ hay khôi phục
danh dự khi bị đối phương xúc phạm.
Mặc dù xuất phát từ những nguyên nhân
khác nhau nhưng mọi chiến trận trong
Sử thi anh hùng đều có chung mục đích,
ý nghĩa là vì sự phát triển của đời sống
và sự tiến bộ của con người. Kết thúc Sử
thi bao giờ cũng bằng một âm hưởng ngợi
ca về một cộng đồng mới giàu mạnh: vật
chất dư thừa, cư dân đông đảo, đời sống
ấm no và hạnh phúc. Qua chiến tranh,
con người vừa khẳng định sự tổn tại và
phát triển của mình, vừa bộc lộ khát
vọng vươn đến một cuộc sống tốt đẹp và
tiến bộ hơn. Kết thúc chiến trận không để
lại những hậu quả nặng nể, đau xót:
không có cảnh tàn phá đữ dội, thây người
ngốn ngang, những cuộc tàn sát dã
man... Chiến trận trong Sử thi anh hùng
chỉ diễn ra giữa một số hạn chế nhân vật
chủ chốt. Khi các nhân vật này có người
chết thì chiến trận cũng chấm dứt. Hoàn
toàn không có tính chất huỷ diệt, chiễn
trận giữa các thế lực diễn ra như một sự
36
PHAM NHÂN THÀNH
—————
thanh toán cái xấu, cái lạc hậu ngăn cần
sự phát triển chung của loài người. Trong
Sử thi “Mahabharata”, chiến tranh phản
ánh quá trình xung đột các mâu thuẫn xã
hội sâu sắc và cuối cùng thì “tất cả các mâu
thuẫn dồn thành chiến tranh, chiến tranh
lan rộng và có sức tàn phá mãnh liệt làm
cho cả một nền văn minh dựa trên cơ sở
nền văn minh nô lệ đại thịnh vượng phải
chậm lại một thời gian”””. Tính chất chiến
tranh như thế không tìm thấy trong Sử thì
anh hùng Tây Nguyên. Trước hết, xã hội
thời kì Sử thi là xã hội chưa có sự phân hoá
giai cấp. Một xã hội tuy đã có sự phân biệt
giàu nghèo giữa các thế lực nhưng nó
không hình thành trên quan hệ đẳng cấp
và trên cơ sở bóc lột nô lệ. Mâu thuẫn để
dẫn đến chiến tranh trong Sử thi anh hùng
không phải là những mâu thuẫn nội bộ mà
là những mâu thuẫn giữa cái cũ — lạc hậu
và cái mới - tiên tiến, giữa các thế lực có
quyển lợi và mục đích phát triển khác
nhau Chiến tranh trong Sử thì
Mahabharata là chiến tranh chia rẽ nội bộ
dẫn đến tình trạng kẻ thắng thế nô dịch kẻ
thất bại. Còn chiến tranh trong Sử thi anh
hùng thì ngược lại. Đó là chiến tranh dẫn
đến sự hoà hợp, bình đẳng giữa các cộng
đồng cư dân khác nhau. Kết thúc Sử thi
thường là cảnh “ăn năm, uống tháng” của
một đời sống hoà hợp của các cư dân cộng
đồng đã sát nhập vào nhau. Trong khi đó,
ở Sử thi Mahabharata “những cảnh bì
thảm ở phần cuối tập Sử thi cho thấy tai
hoạ chiến tranh giáng xuống nhân 'dân
nô lệ”, Tất nhiên, chiến tranh nào cũng
có sự hy sinh, mất mát. Nhưng mức độ
chết chóc và huỷ diệt trong Sử thi anh
hùng không lớn lao và bi thăm như chiến
tranh trong các bộ Sử thi cổ điển. Trong
chiến tranh sự sống của cư dân được tôn
trọng, quyền lợi của mọi người được xác
lập và bảo vệ. Chiến tranh vì sự trưởng
thành và sự phát triển chứ không phải
chiến tranh để huỷ diệt và nô dịch. Chiến
tranh trong Sử thi anh hùng, vì thế, có
giá trị 0à ý nghĩa nhán uăn cao đẹp,
sâu sắc.
2. Như đã nói, bên cạnh những chiến
trận giữa con người với con người còn có
sự đấu tranh cũng đầy chết chóc và quyết
liệt như chiến trận thực thụ giữa con
người và các thế lực tự nhiên huyền bí và
hung dữ. Trong Sử thi anh hùng, các sức
mạnh của giới tự nhiên được hình tượng
hoá thành những quái vật kì dị. Về điều
này nhà Folklore học V.Guxep cũng từng
nhận định: “Trí tưởng tượng dân gian
gán cho những hình tượng này những
kích thước “vũ trụ”, những bề ngoài kì
quái kết hợp dưới một dạng nghịch dị
(Grotesque) một số nét thực tại của thú
vật, chim và người”, Rõ ràng là để giải
quyết nhu cầu vật chất ngày càng cao của
cuộc sống, con người không chỉ có một
con đường tiến hành các cuộc chiến tranh
chiếm đoạt mà còn bằng các biện pháp
khác. Một trong các biện pháp đó là
chiếm hữu giới tự nhiên để khai thác
những tiểm năng có ích cho đời sống.
Trong những điều kiện vô cùng hạn chế,
quá trình chiếm hữu tự nhiên của con
người thời cổ đại cũng nguy hiểm, ác liệt
không kém gì chiến tranh. Đó thực sự là
một cuộc chiến không cân sức giữa con
người với những công cụ thô sơ trước sức
mạnh khủng khiếp của tự nhiên. Sự
chiến thắng của con người, do đó cũng vô
cùng oanh liệt và anh dũng. Hơn nữa
những con người đã dũng cảm chiến
thắng trong công cuộc chỉnh phục tự
nhiên không phải chỉ vì lợi ích cá nhân
mà vì quyền lợi và sự sống còn của đông
đảo dân cư cộng đồng. Chiến công của họ
lập được đã tạo ra sự ngưỡng mộ sâu sắc
đối với con người. Sự ngưỡng mộ có tác
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
37
“=——————————————— CC“
dụng củng cố niềm tin vào bản thân và
kích thích con người lòng dũng cảm, say
mê lập chiến công. Nhân vật anh hùng
trong cuộc chiến đấu với giới tự nhiên,
nói như V.M.Jirmunxkl, được Sử thi diễn
tả “theo qui mô của lí tưởng hoá anh
hùng”””. Họ được nâng đến tầm “những
qui mô đồ sộ của phẩm chất người anh
hùng”. Những phẩm chất này ít nhiều có
thể có ở những tù trưởng tài giỏi. Nhưng
qua sự cường điệu và phóng đại của nghệ
thuật Sử thi, phẩm chất của người anh
hùng là phẩm chất của những quan niệm
nghệ thuật về con người của tác giả Sử
thi. Phẩm chất của người anh hùng là kết
tỉnh trọn vẹn sức mạnh thể chất, mục
đích và lí tưởng của tập thể cộng đồng.
Chiến công của họ vừa là kết quả của
hành động cá nhân vừa mang ý nghĩa
toàn dân sâu sắc. Cho nên sự chiến thắng
các quái vật kì dị vừa được biểu hiện là
chiến công kì vĩ của người anh hùng, vừa
mang ý nghĩa khẳng định sự lón mạnh,
trưởng thành của cư dân cộng đồng trong
quá trình chế ngự những sức mạnh tự
nhiên. Và một khi được sự cổ vũ của bao
nhiêu chiến công có trước, con người được
kích thích phải hành động để lập nhiều
thành tích to lớn hơn, mới mẻ hơn. Trong
xã hội Sử thi, chiến công của nhân vật
anh hùng trước các hiện tượng tự nhiên
kì bí đã được hình tượng hoá thành quái
vật thật sự là những chiến công mang
tính toàn dân sâu sắc và mang tầm
UÓC của cái cao ca trong hành động...
3. Sử thi anh hùng là những sáng tác
nghệ thuật nên xã hội trong Sử thi anh
hùng không phải là xã hội có thật hoàn
toàn. Đó là xã hội của những quan niệm
về một thời kì lịch sử nhất định của các
dân tộc miền núi Tây Nguyên. Xã hội này
chưa có sự phân hoá đẳng cấp mạnh mẽ
nên quan hệ giữa vị thủ lĩnh cộng đồng
(là những nhân vật anh hùng) với tôi tớ
và mọi cư dân khác trong cộng đồng rất
bình đẳng. Mặc dù người anh hùng là
một cá nhân phi thưởng nhưng họ “không
đóng vai một cái gì cô lập ở trong bản
thân mình mà y là một thành viên của
gia đình mình, của bộ lạc mình”””, Tính
thuyết phục của người anh hùng đối với
cư dân và gia đình không chỉ vì họ có
những phẩm chất đặc biệt mà còn ở thái
độ chân tình, chan hoà của họ trong mọi
. công việc thường ngày. Nhân vật anh
hùng cũng tham gia cùng mọi người từ
việc chơi bời, bắt cá, đi làm rẫy, buôn bán
cho đến những hành động chiến trận
nguy hiểm. Sự giàu có của nhân vật anh
hùng phần lớn nhờ vào việc đóng góp
công sức của mọi người và cũng vì sự
giàu sang ấy mà mọi người sống no đủ,
hạnh phúc. Người anh hùng không có đời
sống riêng tư tách biệt hay đối lập với tất
cả cư dân. Mọi sản phẩm được thu lại từ
lao động hay chiến đấu cũng được phân
phối đều cho mọi người. Quan hệ hoà hợp
giữa cá nhân anh hùng với tập thể vì vậy
không chỉ biểu hiện ở tính lí thuyết về
đạo đức, ở sự phân phối sản phẩm mà
quan trọng là mối quan hệ đó có nguồn
gốc sâu xa từ sự sống và cái chết của mọi
thành viên cộng đồng. Bởi vì thông
thường sự sống chết của nhân vật anh
hùng kéo theo sự phát triển hay tiêu
vong của một cộng đồng. Ngược lại, quá
trình tổn tại và lớn mạnh của cư dân
cộng đồng cũng là điều kiện duy trì sự
tồn tại của cá nhân anh hùng.
Quan hệ giữa nhân vật anh hùng với
cư dân cộng đồng tốt đẹp, bình đẳng cũng
là điều dễ hiểu. Nhưng ngay với cư dân của
cộng đồng thù địch thì tính chất quan hệ
vẫn là quan hệ hoà hợp, nhân đạo. Trong
chiến trận giữa các thế lực với nhau, cư dân
của đôi bên không phải là đối tượng để tiêu
điệt và nô dịch mà là đối tượng để thu
BIc
PHẠM NHÂN THÀNH
phục. Chiến trận chỉ thực sự diễn ra
quyết liệt giữa các thành viên đứng đầu
cộng đồng. Khi một vị thủ lĩnh bị chết thì
mọi cư dân của họ đều được bảo toàn
mạng sống và quyền lợi vật chất chứ không
bị tàn sát đã man. Lực lượng thất bại
không bị trả thù, không bị biến thành nô lệ
suốt đời, không bị tước đoạt mọi tài sản
riêng. Trái lại, họ được phép lựa chọn sống
tự do hay gia nhập vào cộng đồng của người
chiến thắng. Một khi trở thành thành viên
mới của cộng đồng, họ cũng được hưởng
những quyển lợi ngang bằng các thành
viên cũ. Trong môi trường và điều kiện
sống mới, họ không những không bị đối xử
phân biệt mà tính mạng và đời sống của họ
còn được bảo đảm như mọi người. Quan hệ
giữa cá nhân anh hùng và tập thể nói
chung, giữa người chiến thắng và người bại
trận rõ ràng là mỗi quan hệ hoà hợp,
bình đẳng Uud rhán di. Có lẽ vì tính chất
tốt đẹp của mỗi quan hệ này mà sự hợp
nhất của cộng đồng trỏ nên rất bền vững.
4. Xã hội Sử thi anh hùng không phải
là xã hội cố giai cấp nhưng trong đời sống
chung đã xuất hiện sự phân biệt giàu
nghèo. Có điều sự giàu sang không bắt
nguồn từ bóc lột. Nó là kết quả của quá
trình lao động tập thể trên cơ sở tự nguyện
và hứng thú. Sự giàu nghèo chỉ thực sự
được phân biệt giữa cộng đồng này với cộng
đồng khác chứ không phải giưã cá nhân với
cá nhân trong cùng một cộng đồng. Quan
hệ của mọi người bình đẳng, của cải được
phân bố công bằng. Xã hội Sử thi không có
bóc lột, lừa đảo, thống trị giữa cá nhân với
cá nhân, giữa chủ và tôi tớ hoặc giữa các
thành viên xã hội khác nhau trong cộng
đồng. Đó là một xã hội lí tưởng đúng như
nhận xét của Ănghen: “Với tất cả tính
chất phác và giản dị của nó, tổ chức thị
tộc đó quả là một chế độ tốt đẹp. Không
có quân đội hiến binh, cũng không có
cảnh sát, không có quí tộc, vua chúa,
cũng không có tổng đốc, không có quan
cai trị, cũng không cố quan toà, không có
nhà tù, không có kiện tụng”),
Xã hội Sử thi đã có nô lệ nhưng nếu nói
theo cách nói hiện đại thì “quyền làm
người” của nô lệ căn bản vẫn được tôn
trọng. Trong chiến trận, họ không phải là
“vật hi sinh”, không phải là đối tượng tiêu
diệt của bất cứ kẻ tham chiến nào. Trong
sản xuất, săn bắn họ cũng không bị cưỡng
bức lao động nặng nhọc. Trong hội hè, đình
đám họ cũng vui vẻ, bận rộn như tất cả mọi
cư dân khác. Trong đời sống chung, không
có cá nhân nào hưởng riêng những đặc
quyền, đặc lợi to lớn. Ngay đến vị thủ lĩnh
cộng đồng cũng không có ngoại lệ. Họ chỉ là
người tổ chức các hành động và khi hành
động đó diễn ra, họ cũng lại là người xông
xáo, tham gia một cách nhiệt tình, sôi nổi
như mọi thành viên khác. Xã hội Sử thị, vì
vậy, là xã hội phát triển và phồn thịnh của
thời đó. Chiến tranh hay lao động, buôn
bán hay sản xuất cũng vì mục đích cao đẹp
là sự tiến bộ của con người. Sự mất mát,
chết chóc có xây ra trong chiến tranh và
trong công cuộc chiếm hữu tự nhiên nhưng
không dã man và bị luy quá mức. Con
người trong xã hội Sử thi có thể phải luôn
đề phòng, lo sợ mọi hiểm hoạ của tự nhiên
và xã hội nhưng điều đó không khuất phục
được họ; không biến họ thành những sinh
thể nhỏ bé, mất khả năng phản kháng. Trái
lại, môi trường sống càng khắc nghiệt họ
lại càng mạnh mẽ, kiên cường để thích nghi
và tiến tới chỉnh phục. Họ gắn bó, thắt chặt
lại trên cơ sở tình cảm, đạo đức, quyền lợi
thành một sức mạnh tổng hợp để có thể
chiến thắng mọi thế lực; vượt qua những
đau thương, mất mát nhằm thiết lập và
khẳng định sự sống vĩnh hằng, cao đẹp
của mình. Mọi cư dân đều biết sống hoà
hợp, hạnh phúc và lạc quan trong những
(Xem tiếp trang 49 )
NGÔ VĂN DOANH
(Tiếp theo trang 38)
điều kiện, môi trường sống còn rất hạn
chế, khó khăn nhiều mặt. Không khí bao
trùm lên toàn bộ đời sống Sử thi là không
khí hào hứng, phấn chấn của sức mạnh
và niềm tin thắng lợi. Đó là sự đông vui,
nô nức của cảnh “trăm người đi trước,
nghìn người đi sau” trong các hoạt động
săn bắn, buôn bán, sản xuất...Đó còn là
cảnh sung sướng “ăn năm, uống tháng”
để mừng chiến thắng. Là sự tấp nập,
phấn khởi trong hội hè, lễ tiệc của những
cộng đồng đông đúc cư dân. Có thể khẳng
định xã hội Sử thi là một xã hột lí
tưởng, hạnh phúc uà tiến bộ.
Tóm lại, vì những đặc trưng thẩm mĩ
này mà Sử thi anh hùng đã và sẽ còn lưu
truyền lâu dài trong đời sống tỉnh thần
cua mọi thế hệ. Thực tế chứng minh việc
nghe diễn kể Sử thi của các dân tộc Tây
Nguyên là một hình thức sinh hoạt văn
hoá hấp dẫn và cần thiết. Có lẽ vì đời
sống vật chất của các dân tộc ít người
phát triển cao đến đâu chăng nữa thì nhu
cầu thưởng thức Sử thi của họ vẫn còn là
nhu cầu thường xuyên và thiết yếu. Cố
nhiên là nhu cầu ấy có được đáp ứng hay
không còn phụ thuộc vào nhiều vấn đề
trong đó có vấn đề bảo tồn và lưu truyền
Sử thi qua sự chuyển tiếp các thế hệ
nghệ nhân diễn kể như thế nào ? Song
nhu cầu thưởng thức Sử thi vẫn là nhu
cầu cố thực cần được chú trọng hơn
nữa.
ELNT
(1) và (2) Mahabharata. Nxb KHXH.
H. 1979 (đời giới thiệu của Cao Huy Đỉnh)
(3)và(4) V. Guxep. Mĩ học Folklore. Nxb
Đà Nẵng, 1999
(5) Hegel...MI học (tập 2). Nxb Văn
học. H, 1999
. (6) Enghen. Nguồn gốc của gia đình, của
n độ tư hữu và cua nhà nước. Nxb, Sư thật,
, 1973