intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi - một số vấn đề cần nghiên cứu và hoàn thiện

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

9
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bài viết này, tác giả sẽ phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong TTHS.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi - một số vấn đề cần nghiên cứu và hoàn thiện

  1. ĐẢM BẢO QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI – MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU VÀ HOÀN THIỆN Phạm Thị Linh Trang Tóm tắt: Người dưới 18 tuổi với đặc trưng hình thái tâm lý chưa hoàn thiện, dễ bị tổn thương, được xem là một chủ thể đặc biệt trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, bao gồm pháp luật về Tố tụng hình sự. Hơn hết, với tư cách là bị can, bị cáo trong vụ án hình sự, người dưới 18 tuổi rất dễ bị ảnh hưởng, tác động tiêu cực. Hệ thống pháp luật Việt Nam được xây dựng với tinh thần nhân đạo, đề cao việc bảo vệ quyền con người nói chung và quyền của người dưới 18 tuổi nói riêng. Kế thừa và phát huy tinh thần trên, pháp luật TTHS đã có những quy định để hiện thực hóa việc đảm bảo quyền của người dưới 18 tuổi. Trong đó, “quyền bào chữa” là một trong các quyền cốt lõi, có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ quyền của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong Tố tụng hình sự. Trong bài viết này, tác giả sẽ phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong TTHS. Từ khóa: quyền bào chữa, bị can, bị cáo, người dưới 18 tuổi. 1. Một số vấn đề lý luận về quyền bào chữa Quyền bào chữa là một quyền Hiến định, được quy định tại Điều 31 của Hiến pháp Việt Nam – văn bản pháp lý có giá trị cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, các Nhà lập pháp Việt Nam đã xây dựng nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội cũng được xây dựng với tư cách là một trong 27 nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, nhằm hướng đến xây dựng một môi trường tố tụng khách quan, công bằng và nhân đạo. Tất cả những điều trên đã phản ánh phần nào tính công bằng, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà Nhà nước Việt Nam luôn hướng đến. Hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào có quy định thống nhất về khái niệm của quyền bào chữa. Tuy nhiên, dựa trên các đặc trưng của quyền bào chữa, nhiều tác giả đã xây dựng khái niệm về quyền bào chữa trong nhiều công trình nghiên cứu. Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội thì: “Quyền bào chữa là tổng thể các quyền pháp luật quy định cho phép người bị buộc tội sử dụng nhằm bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với họ”1. Trong khi đó, tại một văn bản khác, khái niệm quyền bào chữa được ghi nhận như sau: “Quyền bào chữa đó là việc người bị buộc tội và người bào chữa áp dụng các biện pháp và thực hiện các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định để chống lại sự  Chuyên viên pháp lý Công ty Luật TNHH MTV AMI. Email: trangptl0610@gmail.com. 1 PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn (Chủ biên), Giáo trình “Luật tố tụng Hình sự Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, năm 2018. 43
  2. buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”2. Tuy mỗi khái niệm được xây dựng bằng các chất liệu ngôn từ khác nhau nhưng đều khẳng định mục đích mà quyền bào chữa hướng đến là giúp người bị buộc tội chống lại sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Qua đó, dựa trên quy định của pháp luật và sự tiếp thu có chọn lọc các khái niệm quyền bào chữa được nêu trong các công trình nghiên cứu có liên quan, có thể hiểu “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi là tất cả các quyền của bị can, bị cáo và người bào chữa mà pháp luật quy định cho phép áp dụng các hoạt động tố tụng để làm sáng tỏ những tình tiết chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”. Thông qua khái niệm trên và các quy định pháp luật hiện hành, tác giả nhận thấy quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi có những đặc điểm chính dưới đây: - Chủ thể thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, bao gồm: bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi và người bào chữa. Trong đó, bị can, bị cáo phải là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Người bào chữa cho người dưới 18 tuổi có thể là Luật sư, người đại diện của người dưới 18 tuổi, trợ giúp viên pháp lý. - Về thời điểm áp dụng. Trong khi quyền bào chữa nói chung có thể phát sinh ngay từ thời điểm bị bắt (trong trường hợp bắt quả tang) thì quyền bào chữa của bị can được áp dụng từ thời điểm ban hành quyết định khởi tố bị can và được áp dụng từ thời điểm ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử đối với bị cáo. Theo đó, quyền bào chữa của bị can, bị cáo sẽ phát sinh muộn hơn so với quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung. - Bị can, bị cáo được thực hiện các quyền cụ thể được pháp luật quy định để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình trước cơ quan và người tiến hành tố tụng đồng thời là người đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc đã quyết định truy tố và đưa vụ án ra xét xử, bao gồm cả quyền họ được chứng minh mình không có tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Quyền bào chữa có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tố tụng hình sự, không chỉ đối với bị can, bị cáo mà còn đối với chính cơ quan và người tiến hành tố tụng, nhà nước Việt Nam: Đối với bị can, bị cáo, quyền bào chữa là công cụ thực hiện quyền con người. Thông qua quyền bào chữa, bị can, bị cáo được phát biểu ý kiến, được biện hộ, giải thích cho hành vi của mình. Hơn hết, bị can, bị cáo còn được tự mình đưa ra các bằng chứng, lập luận để phủ nhận, bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng. Từ đó, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong tố tụng hình sự. Đặc biệt đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, quyền bào chữa còn mang lại những ý 2 TS. Nguyễn Ngọc Kiện (Chủ biên), Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật, Đại học Huế, Nxb. Tư pháp, năm 2020. 44
  3. nghĩa đặc thù hơn đối với các chủ thể chưa được phát triển hoàn thiện về cả thể chất lẫn tinh thần. Đối với người và cơ quan tiến hành tố tụng, quyền bào chữa giúp đảm bảo hiệu quả của hoạt động tố tụng. Trên thực tế, người và cơ quan tiến hành tố tụng là chủ thể được nắm trong tay quyền lực nhà nước. Trong mối quan hệ với các bị can, bị cáo, người và cơ quan tiến hành tố tụng luôn có những ưu thế nhất định. Do đó, để tránh trường hợp lạm quyền, áp đặt ý chí của người và cơ quan nắm quyền lực nhà nước thì sự xuất hiện của quyền bào chữa như một yếu tố giúp quá trình tiến hành tố tụng được khách quan, đảm bảo tính đa chiều, cân bằng vị thế giữa bên nắm giữ quyền lực nhà nước và bên còn lại. Đối với Nhà nước Việt Nam, quyền bào chữa giúp thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của nhà nước pháp quyền Việt Nam. Bản chất tốt đẹp được thể hiện trước hết ở chỗ quyền bào chữa đảm bảo thực thi quyền con người, thể hiện tinh thần nhân đạo của pháp luật đối với người bị buộc tội. Ngoài ra, môi trường tố tụng công bằng, trong sạch, hiệu quả cũng góp phần xây dựng nên một đất nước văn minh, phát triển. Với vai trò quan trọng như trên, Hiến pháp Việt Nam, BLTTHS năm 2015 và các văn bản dưới luật có liên quan khác đã có những quy định cụ thể về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, tạo nên một hành lang pháp lý vững chắc để đảm bảo thi hành trên thực tế. 2. Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi 2.1. Trong quy định pháp luật Bào chữa được đánh giá là một quyền tối quan trọng trong Tố tụng hình sự. Vì vậy, quyền bào chữa xuất hiện rất sớm trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1946 đã ghi nhận nguyên tắc “người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”3. Từ đó đến nay, quyền bào chữa vẫn được duy trì và phát triển thông qua quá trình xây dựng và hoàn thiện của các bản Hiến pháp của nước ta. Trong Hiến pháp hiện hành – Hiến pháp năm 2013, quyền bào chữa được ghi nhận tại 02 điều. Trong đó, có một nội dung về quyền bào chữa được quy định tại Khoản 4, Điều 31 nằm trong Chương II – Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Như vậy, trải qua sự thay đổi của 04 bản Hiến pháp – văn bản pháp lý có giá trị cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, cho đến nay, quyền bào chữa ngày càng được coi trọng, thâm chí được ghi nhận như là một quyền cơ bản của công dân. Được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật khác cũng kế thừa và phát huy tinh thần đề cao quyền bào chữa của công dân. Cụ thể, trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) – văn bản điều chỉnh trực tiếp đến bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi cũng đã có những quy định cụ thể về quyền bào chữa nói chung và quyền bào 3 Điều thứ 67, Hiến pháp Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1946. 45
  4. chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng. Trước khi có sự ra đời của BLTTHS 1998 thì quyền bào chữa được quy định chung cho tất cả người buộc tội. Sau khi ký và phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em, từ BLTTHS 1998 đến nay, các quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi được tập hợp thành một chương riêng thuộc thủ tục tố tụng đặc biệt đặc biệt. Hơn thế, tại BLTTHS năm 2015 thì quyền bào chữa của người dưới 18 tuổi được nâng cấp trở thành nguyên tắc tiến hành tố tụng thay vì đơn thuần chỉ là quy phạm pháp luật thông thường. Việc ghi nhận các nguyên tắc này được đánh giá là điểm đổi mới rất cơ bản về thủ tục tố tụng, tạo điều kiện tối đa bảo vệ quyền và lợi ích của người dưới 18 tuổi trong hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, có tính cưỡng chế và nghiêm khắc4. Người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải thực hiện nguyên tắc này một cách nghiêm túc và hiệu quả. Theo quy định tại Điều 422 BLTTHS năm 2015 thì quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi được thể hiện thông qua 03 phương diện: Thứ nhất, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa. Tuy chưa phát triển hoàn thiện về tâm lý và thể chất nhưng người dưới 18 tuổi vẫn được pháp luật trao quyền để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính bản thân họ. Người dưới 18 tuổi được tự mình thực hiện các hành vi tố tụng mà pháp luật cho phép, đưa ra lý lẽ, lập luận, các chứng cứ hoặc yêu cầu để chống lại việc buộc tội hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự của họ. Đây là một biểu hiện của tính nhân văn, đảm bảo quyền con người và quyền công dân cho người dưới 18 tuổi. Hơn hết, bị can, bị cáo chính là chủ thể có cái nhìn sâu sát nhất với tình hình thực tế của vụ án. Những trải nghiệm, đặc tính tâm lý, lời bào chữa của chính bị can, bị cáo đều sẽ là một trong các cơ sở để cơ quan có thẩm quyền xem xét và ra quyết định cuối cùng một cách khách quan. Thứ hai, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi có quyền nhờ người khác bào chữa. Người dưới 18 tuổi hoặc người đại diện của người dưới 18 tuổi sẽ thực hiện quyền nhờ người khác bào chữa. Trong nhiều trường hợp, bị can, bị cáo không có đủ trình độ hiểu biết, kiến thức và kỹ năng để tự bào chữa cho chính mình, đặc biệt là trong các vụ án có tình tiết phức tạp. Đây là lí do mà pháp luật đã xây dựng nên chủ thể người bào chữa để thay mặt cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Hay nói cách khác, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi sẽ thực hiện quyền bào chữa thông qua người bào chữa. Với tư cách là người được trao quyền bào chữa, người bào chữa phải là người đủ kiện và được pháp luật công nhận. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 72 BLTTHS năm 2015 thì “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ 4 Nguyễn Xuân Hà (2016), Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, trong: “Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Nguyễn Hòa Bình chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.352. 46
  5. quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”5. Trong đó, người bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi có thể là Luật sư; Người đại diện của bị can, bị cáo và Trợ giúp viên pháp lý. Người bào chữa đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi. Do đó, hầu hết người bào chữa là những người có kiến thức chuyên sâu về pháp lý, bằng những kiến thức, kinh nghiệm của mình có thể đưa ra được những lý lẽ, lập luận, bằng chứng hợp pháp để bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Cụ thể: Luật sư phải là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư năm 2006. Để trở thành Luật sư, phải đáp ứng tiêu chuẩn như sau: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư”6. Công dân Việt Nam ngoài đáp ứng các tiêu chuẩn về mặt đạo đức, phải trải qua quá trình học tập, tập sự lâu dài để có tư cách của người bào chữa, được bị can, bị cáo trao quyền bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Với kiến thức và kinh nghiệm, Luật sư sẽ có các phương pháp để tiếp cận vụ án, khai thác thông tin, thu thập những bằng chứng, chứng cứ có lợi cho bị can, bị cáo. Trợ giúp viên pháp lý là những người thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý thực hiện công việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý. Trợ giúp viên pháp lý cũng là người có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực pháp luật theo tiêu chuẩn được quy định tại Điều 19 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. Đây là một chủ thể mới được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015 nhằm hỗ trợ pháp lý cho những đối tượng yếu thế trong xã hội. Trước đây, khi chưa được ghi nhận trong BLTTHS, quá trình thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý của trợ giúp viên pháp lý gặp rất nhiều trở ngại, không được công nhận tư cách tham gia tố tụng tại nhiều vụ án. Sự cải tiến của BLTTHS năm 2015 đã đặt cho trợ giúp viên pháp lý một “chỗ đứng”, tạo điều kiện để chủ thể này được thực hiện nhiệm vụ một cách thuận lợi và hiệu quả hơn. Ngoài hai chủ thể trên, người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi cũng có quyền bào chữa cho người được đại diện. Hiện nay, trong BLTTHS năm 2015 chưa có quy định cụ thể về khái niệm người đại diện của người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, mới đây, tại khoản 1, Điều 3 của Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC- BCA-BTP-BLĐTBXH đã có quy định “người đại diện của bị can, bị cáo là người chưa thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và có đủ điều kiện làm người đại diện theo quy định tại các điều 134, 135, 136 Bộ luật 5 Khoản 1, Điều 72, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. 6 Điều 10, Luật Luật sư 2006. 47
  6. Dân sự. Người đại diện của bị can, bị cáo là người chưa thành niên được xác định theo thứ tự như sau: cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; người giám hộ; người do Tòa án chỉ định”7. Như vậy, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi phải là người thành niên, có đầy đủ năng lực chủ thể thì mới đảm bảo tư cách tham gia bảo vệ người dưới 18 tuổi. Ngoài tự mình thực hiện quyền bào chữa, người đại diện hợp pháp còn được pháp luật cho phép lựa chọn người bào chữa cho người dưới 18 tuổi. Thứ ba, bào chữa chỉ định. Khoản 3, Điều 422 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trường hợp người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi không có người bào chữa hoặc người đại diện của họ không lựa chọn người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chỉ định người bào chữa theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật này”8. Đây là một quy định mang tính nhân văn cao. Người dưới 18 tuổi là đối tượng nhận được sự quan tâm đặc biệt từ xã hội do chưa hoàn thiện về thể chất và tâm lý. Hay có thể nói, đây là một trong những đối tượng yếu thế trong xã hội. Quy định về chỉ định người bào chữa cho người dưới 18 tuổi thể hiện tinh thần nhân đạo của pháp luật, sự quan tâm và hỗ trợ đối với những người yếu thế. Tuy vậy, theo quy định này, pháp luật vẫn ưu tiên tôn trọng sự lựa chọn của người dưới 18 tuổi. Chỉ khi người dưới 18 tuổi không có người bào chữa hoặc người đại diện không lựa chọn người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền mới thực hiện quyền chỉ định người bào chữa. Sự hiện diện của người bào chữa trong các vụ án có vai trò vô cùng quan trọng và cần thiết. Bằng vốn kinh nghiệm và kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực pháp lý, người bào chữa sẽ góp phần xác định sự thật vụ án và giảm thiểu tình trạng buộc tội oan sai trong quá trình tố tụng. Tuy vậy, mặc dù bào chữa chỉ định được thực hiện do cơ quan tiến hành tố tụng – cơ quan nắm quyền lực nhà nước nhưng bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người đại diện hoặc người thân tích của họ vẫn có quyền từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa. Qua đó, có thể thấy, pháp luật Tố tụng Hình sự rất đề cao quyền bào chữa đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Tuy có những đặc điểm về thể chất, tinh thần chưa được hoàn thiện nhưng người dưới 18 tuổi vẫn được đảm bảo quyền tự bào chữa cho chính mình giống như những bị can, bị cáo là người đã thành niên khác. Ngoài ra, pháp luật còn tạo điều kiện để người dưới 18 tuổi được tiếp cận với sự hỗ trợ về mặt pháp lý từ những người có chuyên môn, kinh nghiệm pháp lý thông qua quyền nhờ người bào chữa và bào chữa chỉ định. 2.2. Thực tiễn thực hiện Việc thực thi quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trên thực tế luôn có sự đóng góp rất lớn từ những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố 7 Khoản 1, Điều 3, Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH. 8 Khoản 3, Điều 422 BLTTHS năm 2015 48
  7. tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có nhiệm vụ áp dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để xác minh sự thật của vụ án, chứng minh tội phạm và xử lý người phạm tội9. Khi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ này thì quyền bào chữa của bị can, bị cáo cũng được thực hiện hiệu quả. Bên cạnh đó, tại Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA- BTP-BLĐTBXH cũng có các quy định nhằm đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi như: “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện, cung cấp những thông tin cần thiết về quá trình tố tụng, về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ cho người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi và người đại diện, người bào chữa”10 hay “Bảo đảm việc tham gia tố tụng của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp”11. Việc xây dựng các quy định cụ thể này giúp cho việc thực hiện quyền bào chữa được thuận lợi và đảm bảo được áp dụng trong thực tiễn. Mặt khác, để tạo điều kiện cho người dưới 18 tuổi thực hiện quyền bào chữa, nói ra sự thật, lập luận, chứng minh những tình tiết có lợi cho mình, pháp luật cũng đặt ra những yêu cầu về người tiến hành tố tụng. Vì bị can, bị cáo là những người chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất lẫn tinh thần nên người tiến hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phải là người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi12. Người tiến hành tố tụng có kiến thức về tâm lý trước hết sẽ đảm bảo cho bị can, bị cáo tránh khỏi những tổn thương tâm lý trong các giai đoạn tố tụng. Ngoài ra, thông qua các kiến thức tâm lý học về người dưới 18 tuổi, những người tiến hành tố tụng sẽ có kinh nghiệm trong việc tiếp cận, khai thác thông tin từ bị can, bị cáo, góp phần đẩy nhanh quá trình tố tụng, đưa ra kết quả cuối cùng một cách khách quan và chính xác. Tuy nhiên, trên thực tế, số lượng người tiến hành tố tụng có kiến thức về tâm lý học hiện nay còn hạn chế. Và đặc biệt, rất khó xác định một người như thế nào là người “có hiểu biết” về tâm lý học như BLTTHS đã quy định. Hiện nay, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, tình hình tội phạm là người dưới 18 tuổi tại Việt Nam đang ngày càng gia tăng. Theo thống kê của Bộ Công An, từ năm 2018 đến quý I/2021, cả nước ghi nhận hơn 10.000 vụ người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật hình sự, với 16.000 đối tượng có liên quan13. Đồng nghĩa với việc đang ngày càng có nhiều bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự Việt Nam. Điều 9 Ngô Thị Vân Anh (2021), Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. 10 Khoản 2, Điều 4, Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH 11 Điều 10, Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH 12 Điều 415, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 13 Cổng thông tin điện tử Chính phủ , Báo động tình trạng thanh thiếu nên phạm tội gia tăng, https://tiengchuong.chinhphu.vn/bao-dong-tinh-trang-thanh-thieu-nien-pham-toi-gia-tang- 113220719162948517.htm, truy cập ngày 26/10/2023. 49
  8. này đặt ra yêu cầu phải nâng cao hiệu quả của việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Kể từ thời điểm BLTTHS năm 2015 ra đời, công tác đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong thời gian qua đã có những kết quả tích cực. Cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay đã đảm bảo được hầu hết các vụ án có bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi đều có người bào chữa. Các quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa và bào chữa chỉ định đều được chú trọng áp dụng theo đúng quy định pháp luật. Hầu hết các Tòa án đều tạo điều kiện, thực hiện đầy đủ nhiệm vụ và trách nhiệm của mình để đảm bảo cho người dưới 18 tuổi và người bào chữa của họ được thực hiện đầy đủ các quyền của mình theo quy định của pháp luật. Trong toàn bộ quá trình tố tụng, để giảm thiểu tối đa các tác động về mặt tâm lý của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, cũng như mang đến hiệu quả cao, cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng luôn thận trọng, tiến hành thủ tục theo đúng tinh thần thân thiện, cải cách tư pháp, bị cáo, người bào chữa được tôn trọng và tạo điều kiện tối đa trong thực hiện quyền bào chữa. Nhờ đó, đã phần nào giúp nâng cao chất lượng bào chữa đối với các vụ án có bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Những mặt tích cực trên đều là kết quả của một hành lang pháp cụ thể, chi tiết về đảm bảo quyền bào chữa cho bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Bên cạnh những kết quả tích cực thì việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi hiện nay vẫn còn nhiều bất cập trong thực tế: Một là, quá trình thực hiện quyền bào chữa chỉ định chưa thực sự hiệu quả Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì trong trường hợp bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi không có người bào chữa hoặc người đại diện của họ không lựa chọn người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền sẽ yêu cầu Đoàn Luật sư hoặc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử người bào chữa cho vụ án có bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các vụ án có bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi thì cơ quan tiến hành tố tụng đều mặc định chuyển án cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý. Bên cạnh đó, các vụ án không được phân công đồng đều mà chỉ được phân công cho một số Trợ giúp viên pháp lý và những Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo Hợp đồng với trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước nhất định. Điều này đã dẫn đến tình trạng một số Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư chỉ định thiếu trách nhiệm, không tích cực trong quá trình bào chữa cho bị can, bị cáo, việc bào chữa chỉ mang tính hình thức. Dẫn đến quá trình bào chữa chưa phát huy hiệu quả tối đa, bỏ qua nhiều tình tiết quan trọng để bảo vệ cho bị can, bị cáo, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dưới 18 tuổi. Điều này đã tạo ra một lỗ hổng rất lớn trong thực tiễn thi hành quyền bào chữa chỉ định tại Việt Nam. Hai là, quy định về người đại diện của người dưới 18 tuổi có quyền bào chữa cho bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi là chưa đảm bảo 50
  9. Pháp luật đã quy định, người đại diện của người dưới 18 tuổi có thể là cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, người giám hộ hoặc người do Tòa án chỉ định. Tuy nhiên, rất ít trường hợp người đại diện cho người dưới 18 tuổi là người có kiến thức pháp lý. Trong khi đó, người bào chữa là người có vai trò quan trọng, trong nhiều trường hợp có thể xem người bào chữa như là “phao cứu sinh” cho bị can, bị cáo trong quá trình gỡ tội. Đó cũng là lý do pháp luật Việt Nam đã có những văn bản quy phạm pháp luật quy định điều kiện dành riêng cho hai đối tượng người bào chữa là Luật sư và Trợ giúp viên pháp lý. Tuy nhiên, đối với người bào chữa là người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi thì pháp luật chỉ đặt ra quy định điều kiện về độ tuổi và năng lực chủ thể mà không có các điều kiện về trình độ và kinh nghiệm pháp lý, điều này là chưa hợp lý. Nhiều trường hợp người bào chữa là người có kiến thức yếu, không có đầy đủ kinh nghiệm và kỹ năng về mặt pháp lý sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng bào chữa và trực tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi. Đặc biệt là đối với người đại diện có trình độ học vấn thấp hoặc người dân tộc thiểu số thì sẽ đặt ra những rào cản lớn trong quá trình bào chữa. Thứ ba, nhiều trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng chậm thực hiện thủ tục đăng ký bào chữa theo thời hạn mà pháp luật quy định Theo quy định tại Khoản 4, Điều 78 BLTTHS năm 2015 thì: “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa quy định tại khoản 5 Điều này thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản”14. Tuy nhiên, trên thực tế, rất nhiều lần xảy ra tình trạng cơ quan tiến hành tố tụng không thực hiện thủ tục bào chữa kịp thời trong thời hạn 24 giờ theo quy định, làm gián đoạn quá trình thực hiện quyền bào chữa, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội nói chung và bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng. Như vậy, trong thực tiễn, việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi đã và đang đạt được những kết quả nhất định và đang ngày càng được cải thiện và nâng cao hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh đó, quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại một số bất cập nhất định cần được khắc phục. 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và đề xuất giải pháp giúp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi Thứ nhất, sửa đổi quy định tại khoản 1, Điều 422 BLTTHS năm 2015 14 Khoản 4, Điều 78 BLTTHS năm 2015 51
  10. Khoản 1, Điều 422 BLTTHS năm 2015 quy định: “Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Trong đó, “hoặc” là một kết từ biểu thị quan hệ giữa hai khả năng, trong đó có một khả năng xảy ra. Vậy, hiểu theo nghĩa đen của quy định trên, trong trường hợp người bị buộc tội lựa chọn tự bào chữa thì sẽ không thể nhờ người khác bào chữa, và ngược lại. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với các quy định khác có liên quan và mâu thuẫn với thực tiễn áp dụng trên thực tế. Do đó, tác giả đề xuất sửa đổi quy định tại khoản 1, Điều 422 BLTTHS năm 2015 thành như sau: “Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa”. Thứ hai, ban hành văn bản hướng dẫn về chỉ định người bào chữa Để khắc phục tình trạng phân công không đồng đều giữa các đơn vị thực hiện quyền bào chữa chỉ định: Đoàn Luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, cần thiết phải có văn bản hướng dẫn cụ thể các trường hợp chỉ định người bào chữa. Trong đó cần quy định loại tội phạm, mức độ nguy hiểm của tội phạm và đơn vị thực hiện quyền bào chữa phù hợp. Trong trường hợp các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp, yêu cầu phải cử Luật sư – người có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực pháp lý để đảm bảo hiệu quả tối đa quyền bào chữa. Ngược lại, đối với các tội phạm nghiêm trọng, ít nghiêm trọng, tình tiết rõ ràng thì có thể cử Trợ giúp viên pháp lý hoặc thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện quyền bào chữa. Văn bản hướng dẫn về chỉ định người bào chữa sẽ là cơ sở pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng phân công chỉ định một cách đồng đều, đảm bảo cho mỗi chủ thể đều có cơ hội tiếp cận các vụ án có bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, cũng để đảm bảo hiệu quả của công tác bào chữa. Thứ ba, cần bổ sung quy định về điều kiện để người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi được thực hiện quyền bào chữa Các nhà lập pháp Việt Nam cần xây dựng quy định về điều kiện để người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi được thực hiện quyền bào chữa, bao gồm điều kiện về độ tuổi, năng lực chủ thể, trình độ học vấn, kinh nghiệm có liên quan về mặt pháp lý,…. Điều này sẽ giúp đảm bảo việc thực hiện quyền bào chữa của người đại diện được phát huy hiệu quả, đúng với tinh thần của pháp luật hướng đến khi xây dựng chế định bào chữa này. Trong trường hợp người đại diện không đáp ứng đủ các điều kiện để trở thành người bào chữa thì Cơ quan tiến hành tố tụng sẽ thực hiện quyền bào chữa chỉ định. Thứ tư, cần đặt ra quy định về chế tài đối với hành vi chậm thực hiện thủ tục đăng ký bào chữa của người tiến hành tố tụng Việc thực hiện chậm trễ thủ tục đăng ký bào chữa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thực hiện quyền bào chữa của người bào chữa. Để khắc phục tình trạng này, tác giả đề xuất cần đưa ra chế tài đối với những người tiến hành tố tụng không thực hiện đúng 52
  11. trách nhiệm và nghĩa vụ đăng ký bào chữa theo quy định của pháp luật. Trong đó, có thể xem xét áp dụng các chế tài kỷ luật như: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương,… Việc áp dụng các chế tài vừa mang tính nhắc nhở, răn đe, góp phần làm giảm thiểu tình trạng thực hiện không đúng trách nhiệm theo quy định của người tiến hành tố tụng. Thứ năm, cần nâng cao trình độ chuyên môn và bồi dưỡng kiến thức về tâm lý học và giáo dục cho người dưới 18 tuổi Người tiến hành tố tụng có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình tiến hành tố tụng nói chung và đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng. Nhằm bảo vệ người dưới 18 tuổi khỏi những tổn thương tâm lý trong quá trình tiến hành tố tụng cũng như để đảm bảo quá trình tố tụng diễn ra hiệu quả, pháp luật đã có quy định về điều kiện của người tiến hành tố tụng trong việc trang bị kiến thức về tâm lý học và giáo dục người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, trên thực tế quy định này hiện nay chưa được thi hành hiệu quả. Nhiều người tiến hành tố tụng chưa đáp ứng điều kiện trên nhưng vẫn được tham gia vào các vụ án có bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Đồng thời, pháp luật chưa có quy định cụ thể về việc kiểm tra, đối chiếu các chứng chỉ, bằng cấp liên quan đến tâm lý học giáo dục cho người dưới 18 tuổi đối với người tiến hành tố tụng. Do đó, tác giả đề xuất cần thiết phải tăng cường tổ chức các khóa huấn luyện, bồi dưỡng, đào tạo về tâm lý học và giáo dục cho người dưới 18 tuổi như một điều kiện bắt buộc đối với tất cả những người tiến hành tố tụng nói chung và người bào chữa nói riêng. Để đảm bảo rằng tất cả người tiến hành tố tụng và người bào chữa đều có đủ điều kiện để thực hiện các vụ án của người dưới 18 tuổi. 4. Kết luận Như vậy, thông qua bài viết trên, tác giả đã tiến hành phân tích thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi từ góc độ lý luận đến thực tiễn. Qua đó có thể thấy, mặc dù hiện nay vẫn còn những hạn chế nhưng công tác bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi đang ngày càng được nâng cao, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, để hướng tới xây dựng một cơ chế hoàn thiện hơn thì tác giả cũng đã đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong tương lai. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã Hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013; 2. Hiến pháp Nước Việt nam Dân chủ cộng hòa năm 1946; 3. Quốc Hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội; 4. Quốc Hội (1998), Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hà Nội; 5. Quốc Hội (2003), Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hà Nội; 6. Quốc Hội (2015), Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hà Nội; 53
  12. 7. Quốc Hội (2006), Luật Luật sư, Hà Nội; 8. Quốc Hội (2017), Luật Trợ giúp pháp lý, Hà Nội; 9. Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Tư pháp – Bộ Lao động, Thương Binh và Xã Hội (2018), Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21 tháng 12 năm 2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, Hà Nội. 10. Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Báo động tình trạng thanh thiếu nên phạm tội gia tăng, https://tiengchuong.chinhphu.vn/bao-dong-tinh-trang-thanh-thieu-nien- pham-toi-gia-tang-113220719162948517.htm, truy cập ngày 25/10/2023. 11. Lâm Hồng Loan Chị, Võ Thị Kiều Trang, Bất cập và giải pháp về quyền bào chữa của người bị buộc tội là ngưới dưới 18 tuổi theo pháp luật Việt Nam hiện hành, Tạp chí Nghiên cứu khoa hoạc và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô, số 13-2021; 12. Ngô Thị Vân Anh, Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Giáo dục & Xã hội, số Tháng 6/2021; 13. Nguyễn Hữu Thế Trạch (2014), Luận án tiến sĩ: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. 14. Nguyễn Văn Linh, Bảm đảm quyền bào chữa của bị cáo - Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật, Tạp chí Thi hành pháp luật, số 2(347)-2021; 15. PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn (Chủ biên), Giáo trình “Luật tố tụng Hình sự Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, năm 2018. 16. Phan Thị Thanh Tâm (2017), Luận án tiến sĩ: “Đảm bảo quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Học viện Khoa học xã hội. 17. Tạp chí Điện tử Luật sư Việt Nam, Hoàn thiện pháp luật về thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong vụ án hình sự, https://lsvn.vn/hoan-thien-phap-luat-ve-thuc- hien-quyen-bao-chua-cua-bi-can-bi-cao-trong-vu-an-hinh-su-1693491800.html, truy cập ngày 22/10/2023; 18. Tạp chí Điện tử Luật Sư Việt Nam, Quyền bào chữ của bị can, bị cáo - Một số hạn chế vướng mắc và giải pháp hoàn thiện, https://lsvn.vn/quyen-bao-chua-cua-bi-can- bi-cao-mot-so-han-che-vuong-mac-va-giai-phap-hoan-thien1629327577.html, truy cập ngày 22/10/2023; 19. Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, Quyền bào chữa của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, bất cập, hạn chế và kiến nghị hoàn thiện, 54
  13. https://tapchitoaan.vn/quyen-bao-chua-cua-nguoi-bi-buoc-toi-la-nguoi-duoi-18-tuoi-bat- cap-han-che-va-kien-nghi-hoan-thien.html, truy cập ngày 20/10/2023; 20. TS. Nguyễn Ngọc Kiện (Chủ biên), Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật, Đại học Huế, Nxb. Tư pháp, năm 2020. 55
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1