Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
lượt xem 2
download
Bài viết này sẽ đi sâu vào việc phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến quyền bào chữa của người chưa thành niên trong hệ thống tố tụng hình sự. Đánh giá thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của người chưa thành niên trong hệ thống tố tụng hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó, đưa ra các kiến nghị và phân tích một số giải pháp để cải thiện và bảo đảm quyền bào chữa của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
- QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Lê Ngọc Huyền Tóm tắt: Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung và đặc biệt là quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên nói riêng trong TTHS là một trong những điểm tích cực trong BLTTHS 2015. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng hình sự cho thấy việc đảm bảo quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên chưa thực hiện đầy đủ, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Bài viết này sẽ đi sâu vào việc phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến quyền bào chữa của người chưa thành niên trong hệ thống tố tụng hình sự. Đánh giá thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của người chưa thành niên trong hệ thống tố tụng hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó, đưa ra các kiến nghị và phân tích một số giải pháp để cải thiện và bảo đảm quyền bào chữa của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự. Từ Khóa: Bào chữa; người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; người chưa thành niên 1. Đặt vấn đề Quyền bào chữa là một quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Việc đảm bảo quyền bào chữa đặc biệt quan trọng đối với người chưa thành niên bị buộc tội. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành đã có những quy định tương đối đầy đủ, toàn diện về quyền bào chữa của người chưa thành niên bị buộc tội. Tuy nhiên, việc bảo đảm quyền bào chữa cho người chưa thành niên bị buộc tội vẫn còn một số hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ các góc độ quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật nói trên, việc nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề nhằm bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. 1. Khái niệm và cơ sở của việc quy định quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên 1.1. Khái niệm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung là một quyền mà pháp luật tố tụng hình sự quy định để họ thực hiện việc chống lại sự buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng, của người bị hại (trong trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại) hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Để đảm bảo cơ sở pháp lý cho quyền bào chữa, Điều 31 Khoản 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào Lê Ngọc Huyền, Lớp Luật K45B, SĐT: 0827876171. Email: lengochuyen03072003@gmail.com 195
- chữa”. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Điều 16 BLTTHS 2015 đã ghi nhận chủ thể của quyền bào chữa “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.” Để đưa ra một khái niệm về quyền bào chữa tổng quát nhất của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên thì trước hết cần làm rõ thế nào là quyền bào chữa và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên là chủ thể như thế nào? Có rất nhiều quan điểm khác nhau, những quan điểm này đã được các học giả đề cập trong các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết. Một trong những quan điểm ở các sách báo pháp lý về bào chữa trong tố tụng hình sự là quan điểm của nhà luật học Xô viết Stragovich M.S cho rằng: “Bào chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự của bị can”. Với quan điểm này, khái niệm bào chữa của Stragovich đã được nhiều tác giả ủng hộ. Bên cạnh đó có Ph. N. Phatkylin, ông cho rằng bào chữa trong tố tụng hình sự không chỉ là tổng hợp các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm mà “bào chữa thậm chí được thể hiện trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị trong vụ án”. Ngoài các quan điểm nêu trên, tiếp cận các quy định pháp luật tố tụng hình sự của các nước chúng ta thấy có một số quan niệm khác nhau về quyền bào chữa. Trong pháp luật tố tụng hình sự Nga quy định quyền bào chữa là quyền của bị can, bị cáo được tự mình hoặc nhờ người bào chữa đưa ra các chứng cứ hoặc yêu cầu để bác bỏ sự buộc tội hay làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình; sự tham gia của người bào chữa không bị hạn chế ở giai đoạn xét xử mà được bắt đầu ngay từ giai đoạn điều tra. Đồng tình với quan điểm trên, tác giả Hoàng Thị Sơn đưa ra quan điểm của mình: “quyền bào chữa của bị can, bị cáo là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ” Nhìn theo góc độ là hoạt động tố tụng thì “Bào chữa là công việc do người bị buộc tội và người bào chữa thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm loại bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội”. Đối với khái niệm quyền bào chữa có thể hiểu như sau: “Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam là tổng thể những hành vi tố tụng mà pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cho phép người đã bị khởi tố về hình sự và người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử là người dưới 18 tuổi có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc làm sáng tỏ tình tiết về sự vô tội của mình”. Từ quy định của Hiến Pháp và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có thể khẳng định chủ thể của quyền bào chữa bao gồm người bị tạm giữ, bị can và bị cáo. Về người bị tạm giữ, 196
- bị can, bị cáo là người chưa thành niên thì người chưa thành niên có thể hiểu là người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. Căn cứ theo thể chất của người Việt Nam, pháp luật lấy mốc 18 tuổi là căn cứ xác định một cá nhân là người chưa thành niên hay không. Từ những phân tích về quyền bào chữa và người chưa thành niên có thể hiểu rằng “Quyền bào chữa của người bị tam giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định cho họ có thể được sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự” 1.2. Cơ sở của việc quy định quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên 1.2.1. Cơ sở lý luận Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm tâm lý của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Người chưa thành niên đang trong giai đoạn phát triển tâm lý với những thay đổi quan trọng trong suy nghĩ, cảm xúc và hành vi. Người chưa thành niên thường có khả năng tự kiểm soát thấp hơn người thành niên và dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường sống. Người chưa thành niên về sự hiểu biết và am hiểu quy định của pháp luật còn hạn chế thường thiếu kiến thức về quyền, nghĩa vụ pháp lý và khả năng phân tích các tình huống phức tạp. Ngoài ra tâm lý của người chưa thành niên thường bị ảnh hưởng bởi môi trường gia đình. Họ có thể phải đối mặt với tâm lý bất ổn, bạo lực hoặc hình thành nhân cách chưa hoàn thiện. Chính từ đặc điểm phát triển tâm sinh lý không ổn định của người chưa thành niên nên Nhà nước cần đưa ra những nguyên tắc xử lý đối với họ để có hiệu quả cao trong việc giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội. Như vậy mới có thể đảm bảo các quyền và lợi ích của người chưa thành niên tham gia hoạt động tố tụng, đồng thời xác định được sự thật khách quan của vụ án. Thứ hai, xuất phát từ sự tương đồng giữa pháp luật quốc tế, pháp luật các quốc gia và pháp luật Việt Nam. Cơ sở quan trọng nhất về sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế về quyền của trẻ em, được thể hiện trong Công ước Quốc tế. Nhà nước ta phê chuẩn công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 02 năm 1990. Công ước được ghi nhận bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ phát triển toàn diện. Tại Điều 3 Khoản 1 của công ước quy định " Trong mọi hoạt động liên quan đến trẻ em, dù được thực hiện bởi các cơ quan phúc lợi xã hội của Nhà nước hay tư nhân, bởi Tòa án, các nhà chức trách hành chính hay cơ quan của pháp luật, thì lợi ích trước mắt của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu". Vì vậy nên dựa trên công ước quốc tế và đảm bảo quyền bào chữa và quyền được xem xét công bằng cho người chưa thành niên trong quá trình pháp luật. Thứ ba, xuất phát từ chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam đối với chưa thành niên phạm tội. Chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam đối với người chưa thành niên phạm tội thể hiện ở đường lối xử lý. Ở BLHS 2015 đã quy định chương XII dành riêng 197
- đối với người chưa thành niên phạm tội. Tại Điều 69 Khoản 1 BLHS 2015 đã quy định về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: “1. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.” Ngoài ra, tại Chương XXVIII BLTTHS 2015 còn quy định thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. Điều đó cho thấy Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến người chưa thành niên bị buộc tội. 1.2.2. Cơ sở thực tiễn Tình trạng người chưa thành niên vi phạm pháp luật hiện nay đang có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Đây thực sự trở thành mối lo ngại với con số trung bình 10.000 vụ tội phạm hình sự, trên 15.000 trẻ em gây ra trên toàn quốc mỗi năm. Con số này là một lời cảnh báo về tình trạng các trẻ em nhỏ tuổi phạm tội. Mặc dù nhà nước Việt Nam đã đưa ra nhiều biện pháp để ngăn ngừa người chưa thành niên phạm tội nhưng số lượng vẫn không có dấu hiệu giảm đi. Vì vậy, trong quá trình giải quyết vụ án cần phải đảm bảo cho những người chưa thành niên những quyền lợi chính đáng. Thực tế cho thấy vẫn còn vi phạm, thiếu sót trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên nên đã xâm phạm đến quyền lợi ích của họ. Để vụ án được xét cử một cách công bằng, khách quan các bị can, bị cáo phải có quyền bào chữa, vấn đề này đã được khẳng định tại Điều 15 BLTTHS 2015 “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.” Việc quy định này nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên phạm tội. Bên cạnh đó còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, chính xác và tránh được việc chỉ nghiêng về buộc tội. 2. Quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành và thực tiễn thi hành quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên 2.1. Quy định của pháp luật TTHS Việt Nam Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS năm 2015) quy định người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong quá trình tiến hành tố tụng, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi. 2.1.1. Quyền tự bào chữa Tự bào chữa là một trong những hình thức thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Theo quy định Điều 16 của BLTTHS 2015 quy định “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào 198
- chữa.” Từ nguyên tắc tại Điều 16 BLTTHS 2015, các Điều 58, 59, 60, 61 của BLTTHS quy định cụ thể về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên mặc dù còn hạn chế về nhận thức, về sự hiểu biết pháp luật. Tuy nhiên họ là người nắm rõ tình tiết liên quan đến vụ án nhất. Cho nên để đảm bảo tính chính xác của quá trình xét xử; người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa. Quyền tự bào chữa của người chưa thành niên được thể hiện rõ trong quá trình tranh luận tại phiên tòa. Theo khoản 2 Điều 320 BLTTHS 2015 quy định về trình tự phát biểu khi tranh luận quy định: “Bị cáo trình bày lời bào chữa; người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo; bị cáo, người đại diện của bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.” Theo Điều 322 BLTTHS 2015 “Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình.” Như vậy người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có quyền đưa ra những lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình. Bên cạnh các quy định quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Pháp luật Việt Nam còn quy định cụ thể nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng phải giải thích rõ về các quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong đó có quyền tự bào chữa theo khoản 3 Điều 117 BLTTHS. Ngoài ra tại khoản 5 Điều 179 BLTTHS “Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can.” Trong phần thủ tục phiên tòa, có quy định rõ nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng tại khoản 3 Điều 301 BLTTHS “Chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại sự có mặt của những người có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án và kiểm tra lý lịch, phổ biến quyền và nghĩa vụ của họ.” Như vậy, quyền bào chữa nói chung và quyền tự bào chữa nói riêng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên được quy định cụ thể, tạo điều kiện cho quá trình xét xử. Một bên có quyền bào chữa, bên kia có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện quyền đó. 2.1.2. Quyền được nhờ người khác bào chữa Theo quy định của BLTTHS hiện hành, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có quyền tự bào chữa. Tuy nhiên do trình độ nhận thức còn hạn chế và thiếu sự hiểu biết pháp luật. Cho nên để đảm bảo quyền lợi cho họ, người chưa thành niên cần có người am hiểu về pháp luật, có nghiệp vụ để bào chữa cho mình. Do đó họ có quyền nhờ luật sư, người đại diện hợp pháp, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý để bào chữa cho mình. Tại các Điều 16, 59, 60 và Điều 61 BLTTHS 2015 đã quy định rõ về quyền được nhờ người khác bào chữa. Vì những lý do hạn chế của người chưa thành niên, khiến họ khó có thể tự bào chữa cho mình. Cho nên tại khoản 1 Điều 72 BLTTHS 2015 “Người 199
- bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.” 2.2. Thực tiễn thi hành quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên Thực tiễn thi hành của cơ quan có thẩm quyền, đã có những chuyển biến tích cực nhờ những giải pháp mà Nhà nước đã đề ra trong Nghị quyết số 08/TW ngày 02-01-2002 và Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02-6-2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ chính trị. Thực tiễn thi hành quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong những năm vừa qua đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên đã được bảo đảm và thực hiện tương đối nghiêm túc. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Về quyền tự bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên bị hạn chế về nhận thức và am hiểu pháp luật nên việc tự bào chữa là một việc rất khó khăn. Ngoài ra, người chưa thành niên có tâm lý không ổn định có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khiến cho người thành niên khó khăn trong việc tự bào chữa và chịu nhiều áp lực của quá trình tư pháp. 1 Bên cạnh đó quyền bào chữa của người bị buộc tội xuất hiện sớm hơn đó là kể từ thời điểm một người bị bắt (Điều 58 và Điều 74 BLTTHS). Quy định này giúp bên bị “buộc tội” được bình đẳng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã mở ra và ghi nhận việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị bắt được bảo đảm quyền bào chữa của mình nhưng trên thực tế, việc áp dụng quy định này gặp khó khăn nhất định. Việc để liên lạc với Luật sư đã rất khó khăn, thậm chí khi người nhà, người thân thích của người bị bắt đến gặp Luật sư đề nghị Luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị bắt, Luật sư thực hiện các thủ tục để gặp và làm việc nhưng vẫn bị cơ quan điều tra từ chối. Đặc biệt là đối với những vụ án về ma túy, hoặc môi giới mại dâm… Rõ ràng, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng quyền của người bị bắt để bảo đảm quyền bào chữa cho họ. Tuy nhiên, chưa có cơ chế bảo đảm cho việc thực hiện này, vì trên thực tế còn gặp rất nhiều hạn chế do vẫn áp dụng theo kiểu tùy nghi, cảm tính. Tại Điều 305 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Chủ tọa phiên tòa phải hỏi kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem ai có yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét hay không”. Quy định này nhằm bảo đảm sự bình đẳng trước tòa án giữa đại diện viện kiểm sát và 1 https://lsvn.vn/bao-dam-quyen-bao-chua-cua-nguoi-bi-tam-giu-bi-can-bi-cao-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien- 1680679950.html truy cập ngày 18/10/2023. 200
- những người tham gia tố tụng trong việc giải quyết các yêu cầu, cung cấp nguồn chứng cứ cũng như đưa ra chứng cứ trực tiếp. Tuy nhiên, yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét chỉ được giải quyết tại thủ tục bắt đầu phiên tòa nhưng lại không được quy định trong phần thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Như vậy, trong quá trình xét xử, sau khi kết thúc phần thủ tục tại phiên tòa mà người tham gia tố tụng muốn yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét thì lại không có căn cứ để hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu. Rất quan trọng và liên quan đến quyền bào chữa, “quyền im lặng” Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 mặc dù chưa trực tiếp quy định quyền im lặng nhưng đã ghi nhận quyền này thông qua một số quy định tại điểm e, khoản 1, Điều 58; điểm c, khoản 2, Điều 59; điểm d, khoản 1, Điều 60; điểm h, khoản 2, Điều 61. Theo đó, các điều khoản này lần lượt ghi nhận: người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo đều có quyền trình bày ý kiến, trình bày lời khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Như vậy, có thể hiểu người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự chủ về việc khai báo. Những gì bất lợi, họ có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải nhận mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Thậm chí, ngay tại phiên tòa, bị cáo cũng được bảo đảm thực hiện quyền này. Một số vụ án xét xử gần đây đã thể hiện “quyền im lặng” một cách hiệu quả. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo “hầu hết” không được phổ biến quyền này và không được sử dụng quyền im lặng. Hiện nay chưa có cơ quan, đội ngũ cán bộ chuyên trách để giải quyết các vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện, xuyên suốt toàn bộ quá trình từ khi bắt đầu khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án. Thực tế cho thấy không có sự khác biệt giữa việc giải quyết các vụ án do người chưa thành niên thực hiện và các vụ việc do người thành niên thực hiện. Đôi khi thành phần Hội đồng xét xử không đảm bảo hoặc ghi chép không chính xác theo quy định của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Đôi khi, liên quan đến tinh thần trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, có trường hợp người tiến hành tố tụng chưa tích cực giải thích về quyền, nghĩa vụ của người bị buộc tội là người chưa thành niên. Chưa giải thích cho họ biết mình có quyền bào chữa, nhờ người khác bào chữa và được bào chữa chỉ định theo quy định pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi. Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 đã quy định một chương riêng về thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi nhưng các phiên tòa xét xử người dưới 18 tuổi hiện nay cũng giống như xét xử đối với người thành niên. Việc xét xử được tiến hành ở phòng xử án chính thức dành chung cho cả người thành niên và người dưới 18 tuổi. Không khí trang nghiêm của Tòa án, các thủ tục phiên tòa, cũng như cách trang trí, các vật dụng bố trí tại 201
- phòng xử án đối với người dưới 18 tuổi không có sự khác biệt. Với tâm lý chưa ổn định, nhạy cảm và dễ bị ảnh hưởng bởi tác động bên ngoài, từ thái độ của người lớn tuổi, người dưới 18 tuổi cần có môi trường xét xử phù hợp, thân thiện hơn. Nguyên nhân của những hạn chế trên là do thứ nhất độ tuổi người chưa thành niên là những người có độ tuổi từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi. Đây là độ tuổi đang trong quá trình phát triển về thể chất, tinh thần và nhận thức. Do đó, người chưa thành niên có thể chưa có đầy đủ năng lực để thực hiện quyền bào chữa một cách độc lập, đặc biệt là trong các vụ án phức tạp. Người chưa thành niên thường có nhận thức và trình độ pháp luật còn hạn chế. Vì vậy, họ có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về vụ án, tham gia vào quá trình tố tụng và thực hiện quyền bào chữa của mình. Thứ hai do các quy định của pháp luật chưa được hoàn thiện. Mặc dù có quy định về quyền bào chữa nhưng chưa có cơ chế bảo đảm, khiến cho quyền bào chữa chưa được thực hiện một cách chính xác nhất. Một số bất cập trong quy định pháp luật, gây khó khăn cho việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Thứ ba, do năng lực và nhận thức của những người tiến hành tố tụng. Năng lực trình độ chuyên môn của một số điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và cán bộ vẫn còn hạn chế nên trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã xâm phạm đến quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nhiều người tiến hành tố tụng không nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên là giúp họ giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đầy đủ. Thứ tư, do tổ chức hoạt động của đội ngũ luật sư. Luật sư ra đời tạo ra độ ngũ luật sư ở Việt Nam tăng lên về số lượng. Tính đến ngày 31/12/2022, tổng số Luật sư của Liên đoàn Luật sư Việt Nam là 17.317 Luật sư. 2Tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được về chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và cải cách tư pháp của nước ta. Ngoài ra, việc bố trí số lượng luật sư không hợp lý giữa các vùng miền như hiện nay đã gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong trường hợp phải chỉ định luật sư bào chữa. Khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ muốn nhờ luật sư bào chữa cũng không có nhiều lựa chọn. Thứ năm sự hạn chế về cơ sở vật chất, trình tự thủ tục phiên tòa xét xử người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. 2 https://lsvn.vn/phat-trien-so-luong-va-dam-bao-chat-luong-cua-doi-ngu-luat-su-viet-nam- 1674493710.html#:~:text=T%C3%ADnh%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%A0y%2031%2F12,Nam%20l %C3%A0%2017.317%20Lu%E1%BA%ADt%20s%C6%B0, truy cập ngày 20/10/2023 202
- 3. Một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên Thứ nhất, sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt nam. Khi thực hiện các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế với người dưới 18 tuổi, người tiến hành tố tụng phải thông báo rõ quyền được mời luật sư của người bị buộc tội, giải thích rõ “quyền im lặng” của người bị buộc tội. Nếu người bị buộc tội không yêu cầu luật sư hoặc chưa mời luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công luật sư cho họ. Trong trường hợp họ chủ động mời luật sư, chỉ cần người bị buộc tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ ký giấy mời luật sư thì đương nhiên luật sư đó được tham dự ngay lập tức các buổi làm việc của cơ quan tiến hành tố tụng với thân chủ, không cần phải làm thủ tục đăng ký bào chữa. Thực hiện nội dung này sẽ giải quyết được vướng mắc trong thủ tục tố tụng, tại khoản 1 Điều 114 của BLTTHS năm 2015 quy định. Trường hợp người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bị áp dụng biện pháp tạm giam thì cần bổ sung quy định người bào chữa được gặp bị cáo là người dưới 18 tuổi sau phiên tòa sơ thẩm. Việc quy định như vậy nhưng thiếu văn bản hướng dẫn thì việc người bào chữa gặp bị cáo sau phiên tòa sơ thẩm để trao đổi, thống nhất thực hiện một số công việc… nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi sẽ khó khăn và không được gặp như thực tế đã diễn ra trong thời gian qua. Cần ban hành văn bản quy định về cơ chế phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng với Đoàn luật sư các tỉnh thành về hình thức có chế “Luật sự trực ban. Bên cạnh đó cần sửa đổi bổ sung Điều 422 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tại khoản 1 Điều 422 quy định người bị buộc tội là “người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Quy định này gây ra sự nhầm lẫn vì nếu dùng chữ “hoặc” thì chúng ta sẽ hiểu là người bị buộc tội chỉ có thể chọn một trong hai chứ không thể chọn đồng thời vừa tự bào chữa cho mình vừa có thể nhờ người khác bào chữa. Như vậy, quyền bào chữa của người bị buộc tội sẽ bị hạn chế. Để rõ ràng thì có thể thay chữ “hoặc” thành chữ “và”. Thứ hai, nâng cao nhận thức và năng lực của những người tiến hành tố tụng. Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho những người tiến hành tố tụng. Tổ chức các đợt kiểm tra kiến thức chuyên môn, đánh giá trình độ. Phát động các phong trào thi đua có ý nghĩa trau dồi về đạo đức. Từ đó, nâng cao nhận thức và năng lực của người tiến hành tố tụng. Bổ sung quy định lập biên bản về việc các cơ quan có thẩm quyền giải thích các quy định về quyền bào chữa cho người bị buộc tội. Nguyên tắc khi thực hiện quyền bào chữa cho người bị buộc tội là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải có trách nhiệm giải thích đầy đủ các quy định về quyền bào chữa và được BLTTHS năm 2015 đã có quy định về điều này. Tuy nhiên thực tiễn thi hành cho thấy, họ không được biết hay cố tình không biết về quyền bào chữa, không dùng lập luận, dẫn chứng để bảo vệ mình, không nhờ người bào chữa để bảo vệ quyền lợi của mình. Do đó, để tăng tính minh 203
- bạch và để thực hiện nghiêm chỉnh hoạt động này, trong các giai đoạn tố tụng cần phải có quy định về việc lập biên bản về giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội, trong đó có quyền bào chữa, người bị buộc tội ký xác nhận là đã được giải thích các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội cũng như bảo đảm thời hạn xét xử theo luật định. Các biên bản này phải được lưu tại hồ sơ vụ án như quy định bắt buộc. Bên cạnh đó phải có các chế tài đối với những người tiến hành tố tụng cản trở việc bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo quyền thực hiện hoạt động của luật sư. Cho đến nay, Bộ luật tố tụng hình sự cũng như các văn bản hướng dẫn đều không có quy định về cách xử lý các hành vi cản trở hoạt động của luật sư. Trên thực tế, rất ít trường hợp nào mà người tiến hành tố tụng bị xử lý, nhiều nhất chỉ là “nhắc nhở và rút kinh nghiệm nội bộ”. Do đó cần quy định những chế tài để xử lý vi phạm của người tiến hành tố tụng nếu mắc phải. Thứ ba, về tổ chức hoạt động của đội ngũ luật sư ngoài việc phát triển đội ngũ luật sư có chất lượng chúng ta cần quan tâm đến việc phân bổ số lượng luật sư giữa các vùng miền một cách hợp lý. Việc số lượng Luật sư phân bổ không đồng đều chỉ tập trung tại các thành phố lớn. Gây ra nhưng khó khăn cho việc mời người bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Vì vậy, cần nâng cao quyền lợi cho các Luật sư ở các vùng thiếu đi Luật sư chất lượng. Thứ tư, tích cực tuyên truyền phổ biến pháp luật cho người dân. Thường xuyên tổ chức các buổi tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân nhằm nâng cao hiểu biết của người dân về kiến thức pháp luật. Từ đó, người dân tự ý thức và nâng cao pháp luật tự bảo vệ lợi ích của bản thân, lợi ích chung của toàn xã hội. Thứ năm nâng cao về cơ sở vật chất, trình tự thủ tục phiên tòa xét xử người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi. Để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có tâm lý ổn định nhất từ đó việc xử lý vụ án cũng dễ dàng, khách quan hơn. 4. Kết luận Quyền bào chữa là một quyền đặc biệt quan trọng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Thông qua nghiên cứu này để đưa ra những vấn đề lí luận về quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Hiện nay, những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành và thực tiễn thi hành quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên tương đối cụ thể. Tuy nhiên, vẫn còn những vướng mắc và hạn chế. Về thực tiễn thi hành quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên đã có chiều hướng tốt lên, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tình trạng vi phạm tố tụng nói chung và vi phạm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên vẫn còn diễn ra làm ảnh hướng đến quyền và lợi ích của người chưa thành niên bị buộc tội. Từ đó, cần đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện chế định quyền bào chữa của người bị tạm 204
- giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật TTHS Việt Nam. Đồng thời nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên góp phần hướng đến một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015. 2. Giáo trình Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam (2020), Trường Đại Học Luật Huế, Nhà xuất bản Tư Pháp. 3. Giáo trình Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam (2017), Trường Đại Học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản công an nhân dân. 4. https://lsvn.vn/bao-dam-quyen-bao-chua-cua-nguoi-bi-tam-giu-bi-can-bi-cao- mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-1680679950.html, truy cập ngày 18/10/2023. 5. https://lsvn.vn/phat-trien-so-luong-va-dam-bao-chat-luong-cua-doi-ngu-luat-su- viet-nam- 1674493710.html#:~:text=T%C3%ADnh%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%A0 y%2031%2F12,Nam%20l%C3%A0%2017.317%20Lu%E1%BA%ADt%20s%C6%B0, truy cập ngày 20/10/2023 6. https://lsvn.vn/phat-trien-so-luong-va-dam-bao-chat-luong-cua-doi-ngu-luat-su- viet-nam- 1674493710.html#:~:text=T%C3%ADnh%20%C4%91%E1%BA%BFn%20ng%C3%A0 y%2031%2F12,Nam%20l%C3%A0%2017.317%20Lu%E1%BA%ADt%20s%C6%B0, truy cập ngày 20/10/2023. 205
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Kỹ năng của luật sư trong việc biết bài bào chữa, bảo vệ trong vụ án hình sự
16 p | 254 | 56
-
Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền, Nghĩa vụ của bị can, bị cáo và cơ chế bảo đảm thực hiện
24 p | 153 | 46
-
Bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội thông qua việc hoàn thiện một số nguyên tắc tố tụng hình sự
9 p | 18 | 10
-
Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
11 p | 65 | 7
-
Quyền kháng cáo của bị cáo, người bào chữa trong vụ án hình sự những bất cập và kiến nghị hoàn thiện
12 p | 28 | 6
-
Quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015
10 p | 59 | 6
-
Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội và giải pháp hoàn thiện
8 p | 33 | 5
-
Hoàn thiện quy định về chỉ định người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
12 p | 30 | 5
-
Bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự
6 p | 10 | 4
-
Một số vấn đề về quyền im lặng của người bị buộc tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
10 p | 13 | 3
-
Bảo đảm xét xử công bằng cho người bị buộc tội thông qua quy định quyền bào chữa của người bị buộc tội
5 p | 30 | 3
-
Bất cập và giải pháp về quyền bào chữa của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi theo pháp luật Việt Nam hiện hành
9 p | 29 | 3
-
Một vài góp ý bảo đảm quyền bào chữa của người dưới 18 tuổi bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trong pháp luật Việt Nam
6 p | 30 | 3
-
Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo là người dưới 18 tuổi
9 p | 7 | 2
-
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi tham gia vào các giai đoạn tố tụng hình sự
9 p | 4 | 2
-
Đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi - một số vấn đề cần nghiên cứu và hoàn thiện
13 p | 8 | 2
-
Quyền bào chữa của người chưa thành niên bị buộc tội trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
9 p | 8 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn