intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang

Chia sẻ: ViBoruto2711 ViBoruto2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

85
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Người Bố Y ở Hà Giang - Việt Nam có một kho tàng dân ca cổ truyền nhưng chưa được nhiều người biết đến, bao gồm những bài dân ca được dùng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống, chứa đựng nhiều giá trị xứng đáng được trân trọng, giữ gìn. Dựa trên các tài liệu hồi cố và điền dã thực tế của tác giả, bài viết này giới thiệu về dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang thông qua diện mạo và những đặc trưng được thể hiện trong nghi tục, cách thức diễn xướng và các thành tố âm nhạc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang

[2]<br /> <br /> Bộ Giáo dục Đào tạo (2006). Quyết định về việc ban hành chương trình tiếng Mông dùng<br /> để đào tạo giáo viên dạy tiếng Mông cho cán bộ, công chức ở vùng dân tộc, miền núi,<br /> Hà Nội.<br /> <br /> [3]<br /> <br /> Phan Hữu Dật (2014). Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học<br /> Quốc gia Hà Nội.<br /> <br /> [4]<br /> <br /> Trần Trí Dõi (2016). Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học<br /> Quốc gia Hà Nội<br /> <br /> [5]<br /> <br /> Vũ Quốc Khánh (2005). Dân tộc Mông ở Việt Nam. Nhà xuất bản Thông tấn.<br /> <br /> [6]<br /> <br /> F. Savina (1924). Lịch sử người Mèo, Bản dịch Trương Thị Thọ và Đỗ Trọng Quang,<br /> Phòng tư liệu - Thư viện Dân tộc học, Hà Nội.<br /> <br /> [7]<br /> <br /> Vương Duy Quang (2005). Văn hóa tâm linh của người Mông ở Việt Nam, truyền thống<br /> và hiện tại. Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.<br /> <br /> [8]<br /> <br /> Thào Seo Sình, Phan Thanh (2003). Sách học tiếng Mông. Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc.<br /> <br /> [9]<br /> <br /> Nguyễn Kiến Thọ (2014). Thơ ca dân tộc Mông từ truyền thống đến hiện đại. Nhà<br /> xuất bản Đại học Thái Nguyên.<br /> <br /> [10] Tổng cục thống kê (2010). Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009.<br /> HMONG IN VIETNAM<br /> AND SOME MAJOR ISSUES OF LANGUAGE<br /> Nguyen Trung Kien<br /> Tay Bac University<br /> Abstract: The Hmong is an ethnic minority in Vietnam, which owns a typical language. The issues of this<br /> ethnic language will be better addressed with certain knowledge of ethnic culture. Our research interest focuses<br /> on national history tied to the problems of language and script. Thereby we try to show the very tight<br /> relationship between the three elements namely, ethnicity, language and culture. The research results contribute<br /> to build up language policies for ethnic minorities in Vietnam.<br /> Keywords: Culture, ethnicity, history, minority, language, policy.<br /> <br /> 16<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC<br /> Khoa học Xã hội, Số 9 (6/2017) tr. 17 - 23<br /> <br /> DÂN CA CỔ TRUYỀN CỦA NGƢỜI BỐ Y Ở HÀ GIANG<br /> Trần Quốc Việt<br /> Trường Đại học Thủ Đô Hà Nội<br /> Tóm tắt: Người Bố Y ở Hà Giang - Việt Nam có một kho tàng dân ca cổ truyền nhưng chưa được nhiều<br /> người biết đến, bao gồm những bài dân ca được dùng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống, chứa đựng nhiều<br /> giá trị xứng đáng được trân trọng, giữ gìn. Dựa trên các tài liệu hồi cố và điền dã thực tế của tác giả, bài viết<br /> này giới thiệu về dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang thông qua diện mạo và những đặc trưng được thể<br /> hiện trong nghi tục, cách thức diễn xướng và các thành tố âm nhạc.<br /> Từ khóa: Dân ca cổ truyền, diện mạo, đặc trưng, người Bố Y.<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Tại Hà Giang, dân ca cổ truyền của những tộc người như Mông, Nùng, Tày, Thái... đã<br /> được phổ biến ở cả trong và ngoài tỉnh. Nhưng dân ca cổ truyền của người Bố Y mới chỉ được<br /> rất ít người biết đến.<br /> Người Bố Y ở Hà Giang được các nhà khoa học xếp vào nhóm ngữ hệ Tày - Thái. Dân<br /> số khoảng 808 người theo số liệu điều tra dân số năm 2009. Tổ tiên của họ xưa kia là người<br /> Pầu Ỳ thuộc tộc người Bố Y ở Quý Châu, Trung Quốc, di cư sang Việt Nam đến Hà Giang<br /> vào khoảng đầu thế kỷ XIX [2, 3].<br /> Trong số các công trình nghiên cứu về người Bố Y ở Hà Giang đã được công bố mà<br /> chúng tôi biết, đa phần là những nghiên cứu về văn hóa tổng hợp bằng phương pháp miêu<br /> thuật. Đó là các công trình của các nhà nghiên cứu Lunet de Lajonquyère (Pháp) (1904), Bùi<br /> (1950), Chu Thái Sơn (1973, 1983), Nguyễn Phi Vân (2006). Trong những công trình này,<br /> các chi tiết liên quan đến âm nhạc cổ truyền, đặc biệt là dân ca rất hiếm hoi. Năm 2006 có duy<br /> nhất chuyên khảo về hát đám cưới Bố Y ở Hà Giang của nhà nghiên cứu Trần Bình. Tuy<br /> nhiên, chuyên khảo mới chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát sơ lược, miêu thuật, tổng hợp riêng về<br /> thể loại hát nghi tục đám cưới.<br /> Như vậy, chưa có công trình đã được công bố nào khái quát được diện mạo, hoặc nêu<br /> được đặc trưng dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang. Do đó, trong bài viết này,<br /> chúng tôi sẽ giới thiệu về dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang thông qua những khía<br /> cạnh đó.<br /> Để có thể nhận thức sâu vấn đề nghiên cứu, chúng tôi kết hợp cả phương pháp nghiên<br /> cứu lý thuyết lẫn phương pháp nghiên cứu thực tiễn với các công cụ như tổng hợp, phân tích,<br /> so sánh, điền dã… khai thác tối đa nguồn tài liệu kể cả các tài liệu hồi cố và viết tay của các<br /> người già và nghệ nhân.<br /> 2. Nội dung<br /> Để tìm hiểu về dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang, trước tiên chúng tôi khái<br /> quát về diện mạo của nó.<br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 30/11/2016. Ngày nhận đăng: 15/6/2017<br /> Liên lạc: Trần Quốc Việt, e - mail: tqviet@daihocthudo.edu.vn<br /> <br /> 17<br /> <br /> 2.1. Diện mạo dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang<br /> Theo hồi cố của những người già Bố Y ở Hà Giang và tài liệu viết tay của nghệ nhân<br /> Ngũ Khởi Phượng, xưa kia họ có 5 điệu hát bao gồm: Sinh phăn, Sinh ún, Sinh oài, Sinh khề<br /> và Sinh mua, được sử dụng để hát trong nhiều thể loại dân ca như dân ca đời thường, dân ca lễ<br /> nghi phong tục và dân ca lễ nghi tín ngưỡng [1]. Tuy nhiên, hiện nay hai điệu Sinh ún, Sinh<br /> oài và một số thể loại, bài bản đã bị mai một, chỉ còn lại ba điệu Sinh phăn, Sinh khề, Sinh<br /> mua và các thể loại, bài dân ca dưới đây:<br /> a. Dân ca sinh hoạt đời thường và lễ nghi đám cưới<br /> Các thể loại dân ca sinh hoạt đời thường của người Bố Y ở Hà Giang bao gồm: Hát lao<br /> động (phân củ shang), hát làm khách (phân pầu shía) và hát giao duyên (phân bó xho). Dân ca<br /> lễ nghi đám cưới có hát ngăn cửa (phân thoàn tâu).<br /> Về hát lao động, người Bố Y ở Hà Giang có những bài hát về các công việc như làm<br /> ruộng, hớt cá, đi rừng, làm nhà, dệt vải… Theo các nghệ nhân, xưa kia họ có nhiều bài hát ở<br /> thể loại này. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn lại một bài hát về việc tìm cây thuốc, quá trình làm<br /> men và nấu rượu.<br /> Hát làm khách là các bài hát được người Bố Y ở Hà Giang dùng trong những cuộc vui<br /> giữa chủ nhà và khách. Thể loại hát này có quy định như sau: Khi được chủ nhà mời, người<br /> được mời hát phải hát mở đầu bằng một bài có tên Phân chăm - tức Hát xin phép, rồi mới<br /> được hát các bài khác. Nội dung hát làm khách hầu hết là những lời thăm hỏi, ca ngợi và cảm<br /> ơn. Hiện nay, người Bố Y ở Hà Giang còn giữ được sáu bài hát làm khách.<br /> Hát giao duyên được thanh niên người Bố Y ở Hà Giang xưa sử dụng để làm quen, tìm<br /> hiểu nhau. Đặc biệt, họ có quy định đôi trai gái phải gặp nhau hát thâu đêm suốt sáng trước<br /> ngày cưới. Các nghệ nhân Bố Y ở Hà Giang còn nhớ chín bài hát giao duyên.<br /> Hát dân ca trong lễ nghi đám cưới được người Bố Y ở Hà Giang gọi là hát ngăn cửa<br /> (tiếng Bố Y là phân thoàn tâu). Khi đến trước cửa ra vào của nhà gái, đoàn nhà trai dừng lại<br /> đứng ngoài sân hát đối đáp với đoàn nhà gái đứng sau cửa ra vào ở trong nhà. Chỉ khi hát đối<br /> đáp xong, đoàn nhà trai mới được vào nhà của nhà gái. Hát ngăn cửa đám cưới bao gồm năm<br /> bài đối đáp giữa nhà gái với nhà trai.<br /> Các thể loại dân ca vừa nêu đều sử dụng duy nhất một điệu Sinh phăn. Ngoài các thể loại<br /> dân ca dùng trong sinh hoạt đời thường và lễ nghi đám cưới nêu trên, người Bố Y ở Hà Giang<br /> còn có thể loại dân ca dùng để hát khi tiến hành các lễ nghi tín ngưỡng.<br /> b. Dân ca lễ nghi tín ngưỡng<br /> Thể loại dân ca này gắn với các lễ cúng giải hạn và cúng ma. Trong hai lễ cúng đó, tất<br /> cả bài cúng đều là các bài hát. Hiện nay, người Bố Y ở Hà Giang còn giữ được hai bộ sách<br /> cúng là Khào xhâư đinh và Khào xhâư ho. Sách cúng Khào xhâư đinh là của những dòng họ<br /> có tổ tiên xưa kia làm quan và sách Khào xhâư ho là của những dòng họ có tổ tiên xưa là đầy<br /> tớ, làm thuê [4, 5]. Những bài hát để giải hạn được hát bằng điệu Sinh khề, còn bài hát để<br /> cúng ma được hát bằng điệu Sinh mua. Lời ca trong tất cả các bài dân ca đời thường, lễ nghi<br /> đám cưới, lễ nghi tín ngưỡng nêu trên đều được hát bằng tiếng Bố Y.<br /> 18<br /> <br /> Đó là toàn bộ vốn dân ca cổ truyền mà người Bố Y ở Hà Giang còn lưu giữ được cho<br /> đến ngày nay. Tiếp theo, chúng tôi sẽ bàn về những đặc trưng của kho tàng dân ca này.<br /> 2.2. Đặc trưng dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang<br /> Những đặc trưng trong dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang được biểu hiện ở<br /> trong một số khía cạnh của thể loại hát nghi tục đám cưới cũng như trong các thành tố âm<br /> nhạc nói chung.<br /> a. Đặc trưng trong nghi tục và cách diễn xướng hát lễ nghi đám cưới<br /> Một số tộc người ở tỉnh Hà Giang như người Nùng, Tày, Mông,… cũng có tục ngăn<br /> cửa - hát đối đáp giữa nhà trai với nhà gái trong đám cưới. Tuy nhiên, xét về khía cạnh người<br /> hát, số lần hát và cách diễn xướng, hát nghi tục đám cưới của người Bố Y ở Hà Giang có<br /> những nét riêng.<br /> - Phía nhà trai chỉ các ông mối và phù rể được hát đối đáp với nhà gái và hát trong cả<br /> 4 lễ của đám cưới<br /> Nhiều tộc người lân cận không bắt buộc ai trong phía nhà trai sẽ hát đối đáp với nhà gái<br /> và họ cũng chỉ hát duy nhất trong lễ đón dâu. Nhưng người Bố Y ở Hà Giang quy định phía<br /> nhà trai chỉ hai ông mối, hai phù rể được hát đối đáp với nhà gái và cả bốn lễ của đám cưới<br /> như lễ ăn hỏi, lễ dẫn cưới lần một, lễ dẫn cưới lần hai và lễ đón dâu đều phải thực hiện nghi<br /> tục hát này. Hai ông mối hát trong ba lễ đầu, còn hai phù rể chỉ hát trong lễ thứ tư [2].<br /> - Diễn xướng kiểu gài bẫy<br /> Trong hát lễ nghi đám cưới, nhà gái người Bố Y ở Hà Giang gài những cái “ bẫy lời ca” để<br /> thử tài đối đáp của nhà trai: Khi nhà gái hát về mình, họ cố ý dùng những lời lẽ hạ thấp để hát<br /> với nhà trai. Nhà trai không được dùng lại những lời ca đó để hát về nhà gái mà phải thay thế<br /> chúng bằng những từ hay, tốt, đề cao nhà gái. Nếu không, nhà trai sẽ bị coi là mắc lỗi coi<br /> khinh nhà gái và bị phạt rượu. Chẳng hạn, nhà gái tự gọi nhà của mình là “cái lều”1 để hát đối<br /> với nhà trai, thì nhà trai không được hát đáp lại bằng từ “cái lều” mà phải thay từ đó bằng từ<br /> “cái nhà” khi hát đáp lại nhà gái [1].<br /> b. Đặc trưng trong một số thành tố âm nhạc<br /> Dân ca của người Bố Y ở Hà Giang có 3 đặc trưng sau đây:<br /> - Dân ca Bố Y ở Hà Giang chỉ dùng thang 3 âm và 4 âm<br /> Hai điệu sinh khề và sinh mua đều có thang 3 âm, xếp theo các quãng tương ứng trong âm<br /> nhạc phương Tây gồm 5Đ - 3t - 2T. Các bài dân ca sử dụng hai điệu này dùng 4 cao độ trong<br /> phạm vi một quãng 8Đ (la - mi - sol - la1).<br /> Điệu Sinh phăn chỉ có 4 âm trong thang âm, xếp theo các quãng tương ứng trong âm<br /> nhạc phương Tây là 2T - 3t - 2T. Các bài dân ca sử dụng điệu này cũng dùng 4 cao độ nhưng<br /> chỉ trong phạm vi một quãng 5Đ (re - mi - sol - la).<br /> 1<br /> <br /> Lời ca trong bài hát số 3 do nhà gái hát<br /> <br /> 19<br /> <br /> Theo cố GS.TS. Phạm Minh Khang - nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Việt Nam, đây có<br /> thể là những thang âm cổ, tiền thân của những thang 5 âm sau này2.<br /> - Dân ca Bố Y ở Hà Giang chỉ dùng cấu trúc làn điệu<br /> Các bài dân ca của người Bố Y ở Hà Giang không có loại cấu trúc ổn định theo kiểu bài<br /> hát, chỉ có loại cấu trúc theo kiểu làn điệu. Giai điệu của các bài dân ca trong quá trình diễn<br /> xướng đều bị biến hóa và có những trường hợp khác nhau rất xa. Có thể thấy rõ điều đó qua<br /> ba bài hát đám cưới số 1,2,4 của nhóm Bố Y ở Hà Giang do nhà gái hát theo điệu Sinh phăn:<br /> Ví dụ 1: Bài 1 của nhà gái<br /> <br /> Mầng<br /> <br /> cái ti<br /> <br /> là<br /> <br /> mà ?<br /> <br /> quáng là<br /> <br /> táy<br /> <br /> óe? Mầng táy<br /> <br /> Mầng<br /> <br /> thào?<br /> <br /> Tân tịp táy<br /> <br /> pẻ<br /> <br /> táy<br /> <br /> Tân<br /> <br /> pầng<br /> <br /> pẻ<br /> <br /> lo<br /> <br /> tịp<br /> <br /> là<br /> <br /> pầng<br /> <br /> pầng lo là<br /> <br /> pẻ<br /> <br /> tân<br /> <br /> tân<br /> <br /> tịp<br /> <br /> mà?<br /> <br /> Tân tịp táy<br /> <br /> pầng<br /> <br /> tảy.<br /> <br /> pầng<br /> <br /> quáng là thào?<br /> Sơ đồ cấu trúc bài này như sau: Số nhịp: 15,5<br /> Vế 1: Mở đầu (2 nhịp) + Giữa (4 nhịp) + Kết (3,5 nhịp) // Vế 2: Mở đầu (2 nhịp) + Giữa<br /> (2 nhịp) + Kết (2 nhịp).<br /> <br /> 2<br /> <br /> Phỏng vấn GS.TS Phạm Minh Khang năm 2007<br /> <br /> 20<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0