Đề bài: Dàn ý GS. Hoàng Như Mai nhận định: "Đời thừa" là một bước đi của Nam <br />
Cao về hướng cách mạng, một tiếng gọi bạn của Nam Cao đến với các nhà văn có <br />
thiện chí. Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
DÀN Ý<br />
<br />
1. Giải thích<br />
<br />
Học sinh có thể giải thích tiêu đề "Đời thừa" là cuộc đời hoàn toàn vô ích, không ai cần <br />
tới, cuộc đời phải bỏ đi cho xã hội khỏi vướng bận.<br />
<br />
" Đời thừa" là một bước đi của Nam Cao về hướng cách mạng, đây là cách nhìn mới <br />
của nhà văn, giới nào cũng có thể "thừa" ngay cả giới văn nghệ sĩ chân chính khi gặp khó <br />
khăn. Nguyên do không những ở xã hội mà ngay ý thức trách nhiệm cá nhân là chính.<br />
<br />
Những nhà văn có thiện chí sẽ đồng tình với Nam Cao khi tác giả đưa ra hướng đi cho <br />
giới văn nghệ sĩ.<br />
<br />
2. Bình<br />
<br />
Sự tha hóa của những con người bị bần cùng hóa là một quy luật khá phổ biến từ tầng <br />
lớp dưới đến giới trí thức văn nghệ sĩ.<br />
<br />
Sự tha hóa ở giới văn nghệ sĩ là một sự việc rất nghiêm trọng vì họ có trí tuệ, có ý <br />
thức, có trách nhiệm với xã hội: Văn sĩ Hộ đã là nhà văn, lại là nhà văn chân chính, là một <br />
trí thức, là một nhà cầm bút có lí tưởng, là người có nghĩa vụ vạch đường chỉ lối cho xã <br />
hội, thế mà vì chén cơm manh áo, Hộ đã bị tha hóa.<br />
<br />
Sự tha hóa của giới văn nghệ sĩ có tác hại lâu dài và nặng nề vì nó gieo nọc độc vào xã <br />
hội, củng cố cho một xã hội thối nát mà lý ra người nghệ sĩ có quyền không làm Hộ đã <br />
viết những tác phẩm mà trước đây anh cho là sỉ nhục.<br />
<br />
3. Luận<br />
<br />
Tác giả khinh bỉ những người cầm bút vô trách nhiệm, chỉ biết lợi nhuận.<br />
Căm ghét những kẻ bất tài mà ba hoa khoác lác, không thấy thực hình, tự cao tự hào <br />
nghĩ mình sẽ có những tác phẩm bất hủ làm kinh thiên động địa, khinh chê người khác.<br />
<br />
Tác giả kêu gọi mọi người sống trung thực, phải chính là mình. Tránh cẩu thả vô trách <br />
nhiệm vì chạy theo đồng tiền nhưng cũng không được huyễn hoặc mình, phải cố gắng <br />
trong tài sức của chính mình để làm ích cho đời dù là những việc cỏn con chứ không nói <br />
suông, hứa hão.<br />
<br />
Tác giả lột trần chân tướng của các loại nhà văn phổ biến đương thời trước dư luận <br />
nhân dân để nhân dân thức tỉnh không bị mê hoặc, không bị họ làm cho ngu muội mà nhận <br />
chân những giá trị đang phát triển dù rất bé nhỏ.<br />
<br />
Dàn ý chi tiết<br />
<br />
Tác giả cảm thông và xót xa đối với tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng của người trí <br />
thức nghèo có tài năng, có tâm huyết, giàu lòng nhân đạo trong xã hội thực dân phong <br />
kiến. Đồng thời lên án gay gắt cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi mơ ước, tước đi cuộc <br />
sống chân chính của con người, đã đầu độc tâm hồn con người và mối quan hệ vốn đẹp <br />
đẽ giữa người và người.<br />
<br />
Nhân vật Từ<br />
<br />
– Ngoại hình: Nam Cao rất ít tả ngoại hình của nhân vật Từ. Phần cuối truyện, chỉ có <br />
một vài nét về, tác giả tả Từ – một người đàn bà bạc mệnh: Da mặt xanh nhợt, môi nhợt <br />
nhạt, mí mắt hơi tim tím, mắt có quầng, má hơi hóp lại… Cái bàn tay lủng củng rặt <br />
những xương, cổ tay mỏng mảnh. Làn da mỏng, xanh trong, xanh lọc… Đó là hình ảnh <br />
một thiếu phụ nhiều lo lắng, thiếu về mặt vật chất. Vẻ đẹp thời con gái đã tàn phai.<br />
<br />
– Lỡ làng vì bị tình phụ. Cảnh Từ ôm con sau ngày đẻ, nhịn đói, mẹ già bị mù, cả mẹ lẫn <br />
con chỉ có một cách là khóc cho, đến khi nào bao nhiêu thịt đểu chảy ra thành nước mắt <br />
hết, để rồi cùng chết cả.<br />
<br />
– Từ là hội tụ bao đức tính tốt đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ thương con. Dịu <br />
dàng, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh. Từ hiểu rằng Hộ khổ là vì Từ. Từ chén <br />
nước đến cử chỉ lời nói, chị đã dành cho Hộ bao tình thương yêu. Bị Hộ say rượu hắt hủi, <br />
đánh đuổi, nhưng Từ vẫn yêu chồng, không thể ôm con bỏ đi được, vì ngoài tình yêu, Họ <br />
còn là ân nhân của chị. Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con <br />
chó đối với người nuôi.<br />
<br />
– Phần cuối truyện, Từ ôm lấy cổ chồng nói: “… Không!… Anh chỉ là một người khổ <br />
sở… Chính vì em mà anh khổ…”. Nàng ru con qua dòng nước mắt… cho thấy Từ là một <br />
người bạc mệnh, nhưng bản tính rất dịu dàng, giàu đức hi sinh.<br />
<br />
– Nam Cao với trái tim nhân đạo đã miêu tả sâu sắc tâm hồn nhân hậu của Từ, cảm thông <br />
với nỗi đau của Từ, của bao người phụ nữ bạc mệnh và đau khổ trong xã hội cũ. Tiếng <br />
ru con của Từ là tiếng thương, là nỗi đau buồn về cuộc đời bi kịch của người phụ nữ: <br />
sống trong tình yêu mà ít có hạnh phúc!<br />
<br />
Hộ là một con người giàu tình thương<br />
<br />
– Hộ đã hành động một cách cao đẹp là nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. Lúc mẹ Từ <br />
qua đời, Hộ đã đứng ra làm ma, rất chu đáo. Hộ nhận Từ làm vợ, nhận làm bố cho đứa <br />
con thơ… Như một nghĩa cử cao đẹp, Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ. Biết bao nhiêu là ân <br />
nghĩa. Hộ sống vì tình thương vì sự bao dung chở che, như anh quan niệm: Kẻ mạnh <br />
chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình.<br />
<br />
– Hộ là một người chồng thật sự yêu thương vợ con. Anh tính chuyện Phí đi một vài năm <br />
để kiếm tiền lo cho Từ một cái vốn làm ăn. Những lúc Từ ốm, Hộ lo xanh mặt và thức <br />
suốt đêm. Chỉ xa các con vài ngày, lúc gặp lại chúng, Hộ cảm động đến ứa nước mắt, hôn <br />
hít chúng vồ vập. Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng, Hộ không dám bước chân ra khỏi <br />
nhà để bớt chi tiêu, hắn thương vợ con có bữa phải nhịn cơm ăn cháo, sắp nhận được <br />
tiền nhuận bút, Hộ thương đau con thơ cả tháng đói khát khổ sở, hôm nay có tiền cũng <br />
nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn.<br />
<br />
– Hộ là một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Với Hộ thì trang văn là cuộc đời, thấm tình đời <br />
phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó <br />
ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn. Đó là <br />
một quan niệm rất tiến bộ, quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Nhà văn phải vì con <br />
người, vì hạnh phúc của con người. Qua đó, ta thấy, là con người xã hội, là nhà văn, là <br />
người chồng người cha, trong con người và tâm hồn Hộ đều tỏa sáng một tình nhân ái bao <br />
la. Anh đã sống và hành động, vun đắp cho hạnh phúc của con người.<br />
<br />
Hộ là một nhà văn trải qua một bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng.<br />
<br />
– Hộ có tài, lúc đầu, anh viết rất thận trọng. Mang một hoài bão lớn, anh băn khoăn nghĩ <br />
đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời. Từ khi phải lo kiếm <br />
tiền nuôi vợ con, Hộ cho in nhiều cuốn văn viết vội, anh xấu hổ khi đọc lại văn mình, tự <br />
xỉ vả mình là một thằng khốn nạn, là một kẻ bất lương! Trước kia tin tường bao nhiêu thì <br />
nay đau đớn thất vọng bấy nhiêu. Hắn rũ buồn, lắc đầu tự bảo: Thôi thế là hết! Ta đã <br />
hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!<br />
<br />
– Văn chương đối với Hộ như là một cái nghiệp. Nợ áo cơm ghì sát đất, nhưng anh vẫn <br />
mê văn. Hộ nói, đọc được một câu văn hay mà hiểu được thì dẫu ăn một món ăn ngon <br />
đến đâu cũng không thích bằng. Hộ điên người lên vì phải xoay tiền nhưng hắn bảo khổ <br />
thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa <br />
chắc tôi đã đổi.<br />
<br />
– Mất dần cuộc đời hồn nhiên trong sáng, có lúc chan chứa nước mắt, mặt hầm hầm. <br />
Hắn đọc sách mà trông cũng dữ tợn: đôi lông mày rậm… châu đầu lại với nhau… cái mặt <br />
hốc hác…<br />
<br />
– Hộ đã tìm đến rượu để giải sầu, càng ngày hắn càng lún sâu vào bi kịch, say rượu và <br />
đối xử vũ phu với vợ con. Vốn rất yêu vợ con nhưng có hôm say rượu hắn gườm gườm <br />
đôi mắt, đòi vật một nhát cho chết cả. Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ hứa chừa rượu, <br />
được một thời gian ngắn, lại say, lại đánh vợ, làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ <br />
như lần trước. Trở thành bê tha hắn đã ngủ một nửa ngày từ khi còn ở dọc đường, về <br />
đến nhà thì đổ xuống giường như một khúc gỗ… ngủ say như chết! Có điều lạ, Hộ rất <br />
tỉnh khi anh bàn luận văn chương, rất biết điều và ân hận thực sự lúc tỉnh rượu. Hắn nhìn <br />
Từ xanh xao mà thương hại, nắm lấy tay Từ mà khóc, nước mắt hắn bật ra như nước <br />
một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức <br />
nở… Rồi hắn tự lên án mình chỉ là… một thằng… khốn nạn!<br />
Và câu hát ru còn thấm lệ của Từ như tô đậm thêm bi kịch của Hộ, của hai vợ chồng. Nỗi <br />
đau ấy được cực tả qua câu hát cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương. Tiếng khóc của Hộ, <br />
tiếng khóc của Từ mang ý nghĩa tố cáo cái xã hội tàn ác đã cướp đi mọi mơ ước, đã đày <br />
đọa cuộc sống của mỗi gia đình, đã đầu độc tâm hồn con người và làm méo mó mối quan <br />
hệ vốn tốt đẹp giữa người và người.<br />
<br />
– Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã thể hiện ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, sắc lạnh, <br />
vừa nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật qua <br />
dòng độc thoại, qua tiếng khóc của Hộ và Từ làm cho người đọc vô cùng thấm thía về bi <br />
kịch của một trí thức nghèo, của một nhà văn nghèo trong xã hội cũ.<br />