LUẬN VĂN:

Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo thực

hiện công tác tôn giáo (1990 - 2004)

mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

tôn giáo vừa là một hình thái ý thức xã hội, vừa là một thực thể xã hội. Nó ra đời

cách đây hàng ngàn năm, cùng với sự ra đời và phát triển của xã hội loài người. Từ lâu,

tôn giáo đã trở thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân ở hầu hết

các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Việt Nam cũng nằm trong xu thế chung đó. Từrất sớm,

một số tôn giáo ngoại sinh du nhập vào nước ta như: Phật Giáo, Hồi Giáo, Thiên Chúa

Giáo, Tin Lành. Đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, do nhu cầu tín ngưỡng của một bộ

phận lớn quần chúng nhân dân khu vực Nam Bộ đã hình thành nên những tôn giáo mới

(tôn giáo nội sinh) như Cao Đài, Phật Giáo Hoà Hảo. Do đó, đến nay Vịêt Nam được xem

là quốc gia đa tôn giáo (có 6 tôn giáo chính thức). Vấn đề tôn giáo luôn là vấn đề phức tạp

và nhạy cảm ở Việt Nam, vì vậy ngay từ rất sớm Đảng ta có cách nhìn nhận và đánh giá

đúng đắn về vai trò của tôn giáo đối với quần chúng nhân dân. Trong thời kỳ mới Đảng ta

có Nghị quyết 24 của BCT (ngày 16-10-1990) về tôn giáo, Nghị quyết này đã tạo nên

bước ngoặt quan trọng trong công tác tôn giáo.

Quán triệt Nghị quyết 24 của BCT, từ 1990 Đảng bộ tỉnh An Giang đã lãnh đạo

thực hiện công tác tôn giáo ở địa phương với những nét sáng tạo độc đáo riêng ở một tỉnh

biên giới đa dân tộc, đa tôn giáo của vùng Tây Nam Bộ. Do đó, việc chọn đề tài “Đảng bộ

tỉnh An Giang lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo (1990 - 2004)” làm luận văn tốt

nghiệp cao học chuyên ngành Lịch sử Đảng, tác giả bước đầu tìm hiểu nét đặc thù của tôn

giáo ở An Giang và sự lãnh đạo của Đảng bộ trong lĩnh vực tôn giáo. Đây là công tác

quan trọng của Đảng và Nhà nước trên mặt trận văn hoá tinh thần của bộ phận đông dân

cư ở tỉnh An Giang, rất cần được tổng kết, rút ra kinh nghiệm cho hoạt động lãnh đạo, chỉ

đạo ở các giai đoạn cách mạng tiếp theo của Đảng.

2.Tình hình nghiên cứu của đề tài

Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam nói chung và ở An Giang nói riêng từ trước đến nay

cũng có nhiều công trình, bài viết đề cập đến với nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau như:

“Một số tôn giáo ở Việt Nam” của Ban Tôn giáo Chính phủ (1993), “Vài nét cơ bản về tôn

giáo ở An Giang” của Trần Thanh Phương (1984), “Vài nét cơ bản về các tôn giáo ở An

Giang” của Trương Thanh Sơn và Lê Hoàng Lộc (1993), “Cơ sở văn hoá Việt Nam” của

T.S Trần Ngọc Thêm (1996), “Văn hoá tâm linh Nam Bộ” của Nguyễn Đăng Duy (1997),

“Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam Bộ” do Đỗ Quang Hưng chủ biên (2001), “Di tích

lịch sử văn hoá An Giang” (2001). Năm 1996, Phạm Bích Hợp có luạn án PTS Dân tộc

học về Đời sống xã hội và tâm lý nhân dân Việt Nam ở làng Hòa Hảo tại An Giang trước

và sau 1975”. Năm 1997 tác giả Bùi Thị Thu Hà có luận văn thạc sĩ bàn về “Đảng bộ An

Giang vận động quần chúng tín đồ Hoà Hảo tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước

1954-1975”. Năm 1999 Nguyễn Hoàng Sa có luận án tiến sĩ “Phật giáo Hoà Hảo và ảnh

hưởng của nó ở đồng bằng sông Cửu Long”.

Có thể nói, những công trình nghiên cứu, những bài viết, những luận văn trên đã

đề cập đến nhiều nội dung khác nhau với nhiều khía cạnh khác nhau về tôn giáo. Song

vấn đề công tác tôn giáo vận của Đảng bộ tỉnh An Giang nói riêng là một vấn đề lớn, cần

được quan tâm nghiên cứu.

3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu

3.1. Mục đích: Trên cơ sở trình bày đặc điểm tôn giáo ở An Giang và tìm hiểu

Đảng bộ Tỉnh lãnh thực hiện đạo công tác tôn giáo, luận văn nêu ra những thành công và

chưa thành công, bước đầu rút ra những kinh nghiệm, góp phần vào công tác lãnh đạo của

Đảng trên lĩnh vực tôn giáo.

3.2. Nhiệm vụ:

- Trình bày đặc điểm tôn giáo ở An Giang và công tác tôn giáo của Đảng bộ.

- Quá trình lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo của Đảng bộ, những kinh nghiệm

rút ra nhằm phát huy công tác tôn giáo vận trong thời gian tới.

3.3. Đối tượng nghiên cứu:

Tôn giáo luôn là vấn đề phức tạp. Dưới góc độ lịch sử, luận văn chỉ đi sâu tìm

hiểu công tác tôn giáo của Đảng bộ và tập trung vào thời kỳ 1986 – 2004.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và

Nhà nước ta về tôn giáo.

4.2. Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgíc, chú trọng

sử dụng phương pháp đối chiếu, so sánh để làm rõ mục tiêu nhiệm vụ của luận văn.

5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài

Đến nay tác giả chưa thấy có đề tài luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ lịch sử nào

nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh An Giang trong việc tổ chức thực hiện đường

lối của Đảng trên lĩnh vực tôn giáo. Vì vậy, thực hiện luận văn này cũng là một đóng góp

vào việc tổng kết lịch sử của Đảng ở địa phương.

6. ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn

- Luận văn bước đầu hệ thống hoá những chủ trương chính sách của Đảng về công

tác tôn giáo và quá trình lãnh đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh An Giang, nêu ra được sự

vận dụng sáng tạo những chủ trương chính sách của Đảng về công tác tôn giáo của Đảng

bộ tỉnh An Giang vào điều kiện cụ thể của địa phương.

- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo công tác giảng dạy và nghiên cứu ở các

trường chính trị, cao đẳng và đại học; nhất là đối với giảng viên dạy ngành lịch sử Đảng,

tôn giáo, dân vận.

- Là tài liệu đóng góp cho việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức

của đảng bộ cơ sở về việc quán triệt, vận dụng đường lối của Đảng, chính sách pháp luật

Nhà nước vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn

gồm 2 chương, 5 tiết.

Chương 1

ĐƯờNG LốI, CHủ TRƯƠNG CủA ĐảNG

Về CÔNG TáC TÔN GIáO

1.1. đặc điểm kinh tế, xã hội và đời sống tín ngưỡng ở an giang

1.1.1 Vài nét về tỉnh An Giang

An Giang là tỉnh biên giới có nhiều dân tộc, tôn giáo, giàu tài nguyên thiên nhiên;

nhân dân giàu lòng yêu nước và sớm có truyền thống đấu tranh cách mạng đã được nhà

Nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. An Giang đã được

xác định là địa bàn quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, chính trị, an ninh quốc

phòng của vùng Tây Nam bộ.

An Giang có diện tích tự nhiên 3.401,585km2, Các đơn vị hành chính trực thuộc

gồm: Thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc và 9 huyện, có 140 đơn vị hành chính cơ

sở (118 xã, 11 phường, 11 thị trấn), 735 khóm, ấp. An Giang có chiều dài theo hướng Bắc

Nam là 86 km và Đông Tây là 87,2 km, phía Tây Bắc giáp Campuchia với đường biên

giới dài khoảng 104 km, Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang 69,78km, Nam giáp thành phố

Cần Thơ với đường biên giới 44,73 km, phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp dài 107,62 km.

An Giang có 21 tuyến huyện dài 313,233 km và 3 tuyến tỉnh dài 222,159 km; được xác

định bằng 461 mốc địa giới hành chính các cấp gồm 39 mốc cấp tỉnh, 89 mốc cấp huyện

và 333 mốc cấp xã.

Các điểm cực Bắc trên vĩ độ 10057’B (xã Khánh An, An Phú), cực Nam trên vĩ độ 10012’B (xã thoại Giang, Thoại Sơn), cực Tây trên kinh độ 1040 46’Đ (xã Vĩnh Gia, Tri Tôn), cực Đông trên kinh độ 105035’Đ (xã Bình Phước Xuân, Chợ Mới).

Ngày 23.5.1997 Uỷ ban Dân tộc miền núi công nhận 21 xã vùng núi thuộc 2 huyện

Tri Tôn (9 xã) và Tịnh Biên (12 xã) theo quyết định 42/UBQĐ và công nhận vùng dân tộc

đồng bằng gồm xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn và 5 xã: Đa Phước, Khánh Bình, Quốc

Thái, Nhơn Hội, Vĩnh Tường của huyện An Phú. Ngày 25.2.1998 Uỷ ban nhân dân Tỉnh

ra Quyết định 21/1998/UBQĐ, An Giang có 17 xã biên giới của 5 huyện giáp Campuchia.

Tính đến 20.5.2003, dân số An Giang là 2.141.256 người trong đó dân số sống ở thành

thị chiếm 21,49%, ở nông thôn 78,51% đồng bào dân tộc thiểu số gồm: Khmer, Chăm,

Hoa chiếm 5,64 % dân số. Đồng bào Khmer có 90.441 người, chiếm 4,22% dân số, ở 5

huyện, 26 xã (chủ yếu ở các huyện: Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu Phú, Châu Thành, Thoại

Sơn). Đồng bào người Hoa có 15.989 người, chủ yếu sinh sống ở các thị trấn, phường nội

ô thành phố Long Xuyên, Châu Đốc, Tân Châu. Đồng bào Chăm có 14.274 người, sống

tập trung ở các huyện An Phú, Tân Châu, PhúTân, Châu Thành, Thoại Sơn. Đồng bào

Khmer, Chăm, Hoa gắn bó đoàn kết với đồng bào Kinh từ lâu, luôn cần cù lao động, có ý

thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc .

1.1.2. Đời sống văn hoá, tín ngưỡng ở An Giang

An Giang là một tỉnh mới được khai phá từ triều Nguyễn, thuộc đồng bằng sông

Cửu Long, nhưng lại có nhiều núi non hùng vĩ. Từ xa xưa, đây là vùng rừng rậm, hoang

vu với những ngọn núi cao mang tên Phụng Hoàng Sơn, Bạch Hổ Sơn, Ngọc Long Sơn,

Bích Thuỷ Sơn, Ngủ Hổ Sơn, Hoạ My Sơn, Thiên Cấm Sơn, lại có nhưng nơi đầm lầy,

sông ngòi chằng chịt với những cù lao, cồn Tiên, cồn Cát,...Cuộc sống với nền kinh tế

được thiên nhiên ưu đãi nên người dân sống chủ yếu dựa vào rừng núi, sông rạch với các

nghề như trồng lúa nước, đánh bắt cá, làm rẫy, đốn củi đốt than, lấy cây thuốc... Trước

đây do điều kiện giao thông khó khăn nên người dân địa phương còn lệ thuộc nhiều vào

thiên nhiên; bên cạnh đó sự áp bức bóc lột của thực dân phong kiến khiến đời sống nhân

dân ngày càng khốn khó và ngày càng phụ thuộc vào thiên nhiên.

An Giang là tỉnh biên giới nên sớm là nơi hội tụ và giao lưu nhiều nền văn hoá của

các dân tộc trong nước và khu vực. Song nổi trội hơn cả là sự giao lưu văn hoá của các

dân tộc cùng chung sống và khai khẩn trên vùng đất này. ở đây, văn hoá của những cư

dân bản địa Khmer đã gặp gỡ với văn hóa của người Việt từ phía Bắc vào, với di dân

người Hoa, người Chăm...để tạo nên một nền văn hóa chung của cộng đồng cư dân Nam

bộ. Cuộc sống của những cư dân trên vùng đất An Giang không chỉ có khai hoang, lập ấp,

cày bừa, gặt hái để có cái ăn, cái mặc, còn có những nhu cầu tâm linh. Sự hoài niệm về

nguồn cội, không chỉ là tình cảm mà còn là niềm tin ở sự trợ giúp của ông bà, tổ tiên cho

con cháu sinh sống trên vùng đất mới. Cũng trên vùng đất này, các cư dân đã phải đối

diện với một sức mạnh siêu nhiên hoang sơ, đầy bí ẩn, chi phối không ít cuộc sống của

họ. Niềm tin ở sự can dự của thần thánh, ma quỷ vào công cuộc khai khẩn, định cư của

các cư dân và tính ác liệt của chiến tranh giành dân, lấn đất của thực dân Pháp đã tạo cho

họ tâm lý tin tưởng vào sức mạnh siêu nhiên. Chính điều này đã lý giải tại sao An Giang

là nơi hội tụ và cũng là nơi hình thành nhiêu loại tín ngưỡng tôn giáo.

Giữa thế kỷ 19, miền Tây Nam bộ xảy ra chiến tranh liên miên, tàn khốc, nạn đói

kém và dịch bệnh hoành hành. Đây là giai đoạn ra đời các tôn giáo mới ở An Giang.

Trước hết phải kể đến đạo Bửu Sơn Kỳ Hương do ông Đoàn Minh Huyên sáng lập

vào cuối năm 1849 tại Cốc ông Đạo Kiến ( nay là Tây An Cổ Tự, xã Long Kiến, huyện

Chợ Mới, tỉnh An Giang). Đoàn Minh Huyên (1807 – 1856) quê quán ở làng Tòng Sơn,

Tổng An Định, nay là xã Mỹ Hưng, huyện Thạnh Hưng, tỉnh Đồng Tháp. Ông là một sĩ

phu yêu nước có hiểu biết sâu sắc về sấm Trạng Trình. Trước cảnh loạn lạc, nhân dân cơ

cực khốn cùng, hạn hán kéo dài, dịch bệnh, đói kém đang hoành hành, Ông cho rằng; đó

là điềm trời báo trước sắp đổi đời, đời “hạ ngươn” sắp mãn, để bước vào “Hội Long Hoa”

lập đời “thượng ngươn”. Tiên - Phật sẽ mở “Hội Long Hoa” chọn những người hiền đức,

sống có nhân có nghĩa để sống đời “thượng ngươn” an lạc, thanh bình mãi mãi. Còn

những kẻ gian ác sẽ bị trừng trị thảm khốc.

Do giáo lý chủ yếu dựa vào sấm Trạng Trình, cách thức thờ cúng khác hẳn Phật

giáo, nên môi trường chùa Tây An đã hạn chế sự phát triển của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.

Mặt khác, để có nơi tu luyện, sinh sống, tập hợp lực lượng, tránh được sự nhòm ngó của

nhà cầm quyền, Đoàn Minh Huyên cùng các đệ tử và tín đồ khai hoang, lập trại ruộng,

xây chùa ở nhiều nơi, nhất là vùng núi thuộc hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên (An Giang).

Ông được đệ tử và nhân dân trong vùng suy tôn là Đức Phật thầy Tây An. Hoạt động của

Ông chủ yếu là chữa bệnh cứu người, khai hoang, dạy người tu hành làm điều lành, tránh

điều dữ, nên đáp ứng được nhu cầu của người nông dân và hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.

Đó là lý do khiến đạo Bửu Sơn Kỳ Hương tồn tại và phát triển mạnh mẽ; đến năm 1856

đã có mấy mươi vạn tín đồ khắp miền Tây Nam bộ.

Khi thực dân Pháp xâm lược, những trại ruộng của Bửu Sơn Kỳ Hương trở thành

căn cứ chuẩn bị khởi nghĩa chống Pháp. Điển hình là cuộc khởi nghĩa của Quản Cơ Trần

Văn Thành (1867 – 1873). Nhiều đệ tử của Phật thầy Tây An anh dũng chống Pháp đã

được tín đồ tôn thờ và cúng viếng hằng năm như: Đức Cố Quản Trần Văn Thành, Ông

Đình Tây (Bùi Văn Tây), Ông Cử Đa (Nguyễn Thành Đa).

Sau khi các cuộc khởi nghĩa chống Pháp nói trên bị thất bại, thực dân Pháp thẳng

tay đàn áp tàn bạo, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương không còn phát triển như trước (khẩn hoang,

lập trại ruộng) mà xuất hiện dưới hình thức giảng đạo. Phật giáo Hoà Hảo và Tứ Ân Hiếu

Nghĩa cũng là chi phái của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.

Đức Bổn Sư (Ngô Lợi), là môt trong các học trò ưu tú của Phật thầy Tây An, đã

sáng lập ra đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tại Châu Đốc năm 1867. Ông Ngô Lợi (1831 – 1890)

quê quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, tham gia nghĩa quân chống thực dân Pháp.

Bị đàn áp, Ông trốn lên vùng Bảy Núi khai hoang và lập ấp. Năm 1851 đến 1866,

Ông viết một số sách kinh, đi rao giảng và khuyên người đời không nên ham lấy công

danh phú quý, phải biết yêu thương đồng bào, nhân loại, có trách nhiệm với đất nước khi

có ngoại xâm. Ông vừa khuyên người đời nên tu nhân tích đức, vừa bốc thuốc chữa bênh

(lúc này bệnh dich đang hoành hành), nên thu hút hàng vạn người tìm đến để chữa bệnh

và học đạo.

Mồng 5 tháng 5 âm lịch (1867), Ông chính thức truyền đạo và dạy nghi thức hành

đạo. Ban đàu ông cho lập chùa tại xã Bình Long (Châu Phú, An Giang). Nhưng do thực

dân Pháp nghi ngờ, nên Ông dẫn nhiều tín đồ vào núi Tượng để “trảm khảo, khai sơn”,

xây dựng xóm làng mới. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa phát triển nhanh và gắn liền với quá

trình hình thành và phát triển những làng đạo, vùng đất mới của những người nông dân

mất ruộng, địa bàn hội tụ của những người yêu nước.

Suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, đại bộ phận tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa ở An

Giang đã anh dũng tham gia đấu tranh cách mạng. Các xã có đông tín đồ Tứ Ân Hiếu

Nghĩa như Ba Chúc, Lương Phi, Lê Trì, Vĩnh Gia, Lạc Quới, Long Sơn đều được phong

tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ tranh nhân dân". Đó là niềm tự hào của tín đồ Tứ

Ân Hiếu Nghĩa, những người nông dân bình dị yêu nước.

Khi nói đến lịch sử hình thành và phát triển của đạo Phật giáo Hoà Hảo phải kể

đến người sáng lập là ông Huỳnh Phú Sổ. Ông là người thông minh, có khiếu làm văn

vần, học đến bằng sơ học Pháp – Việt. Ông mắc bệnh không chữa khỏi, có người khuyên

đến chữa ở ông Lê Hồng Nhật, một môn đệ của Đức Phật thầy Đoàn Minh Huyên. Sau

khi chữa khỏi bệnh, Ông theo Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.

Năm 1937, Huỳnh Phú Sổ về quê, gặp lúc thiên tai mất mùa, dân đói ăn thiếu mặc,

ốm đau không thuốc chữa trị. Ông dùng thuốc nam chữa bệnh cho dân không lấy tiền.

Ông dùng sấm Trạng Trình để đoán thiên cơ, tự xưng là Phật Thầy Tây An mượn xác

phàm về để cứu độ chúng sinh. Từ đó người dân gọi ông là “Thầy Tư Hoà Hảo”. Người

nông dân An Giang lúc bấy giờ sống cơ cực dưới ách áp bức bóc lột của thực dân, phong

kiến; lại luôn đói khổ vì thiên tai. Cuộc sống bế tắc nên phần nhiều họ muốn tìm đến với

giáo lý của Huỳnh Phú Sổ; quần chúng nhập môn theo đạo ngày càng đông, đạo Hòa Hảo

ra đời từ đó.

Bên cạnh các tôn giáo trên, ở An Giang còn có 194 đình thần, dinh, miếu, đền thờ,

am cốc theo phong tục tập quán của người Kinh, Hoa, Khmer. Các hoạt động tín ngưỡng

dân gian thu hút khá đông quần chúng như: Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, Lăng Thoại Ngọc

Hầu, Dinh Đức Cố Quản Trần Văn Thành. Hàng năm, vào các ngày lễ, giỗ, có hàng triệu

lượt người về dự. Riêng Miếu Bà Chúa Xứ có từ thuở Thoại Ngọc Hầu (một viên quan

của triều đình nhà Nguyễn) đến An Giang khai hoang lập ấp. Miếu Bà Chúa Xứ tọa lạc tại

vùng Núi Sam, thị xã Châu Đốc. Tượng Bà Chúa Xứ trước ngự trên đỉnh núi Sam đến đầu

thế kỷ XIX dân làng Vĩnh Tế phát hiện được mới rước xuống núi và lập miếu thờ. Miếu

được lập vào đầu thế kỷ XIV (khoảng 1820-1825), lúc đầu làm bằng tre lá đơn sơ. Qua

nhiều lần sửa sang, đến năm 1972, Miếu được xây dựng lại qui mô và tráng lệ theo kiểu

hình khối tháp, có bốn tầng mái cong lợp ngói óng, tráng men xanh với nghệ thật chạm gỗ

rất tinh xảo. Toàn khu Miếu Bà là một công trình nghệ thuật tiêu biểu cho sự hài hòa của

nền kiến trúc truyền thống, dân tộc và hiện đại tạo thành khu danh thắng của An Giang.

Miếu đã được Bộ Văn hóa thông tin công nhận và xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa năm

1989.

Pho tượng Bà Chúa Xứ gắn liền với huyền thoại, với nhiều cách giải thích. Có một

truyền thuyết được dân gian truyền tụng từ đời này qua đời khác và được nhiều sách vở

ghi chép lại cho đến nay như sau: cách đây gần 200 năm, lúc bấy giờ tượng Bà còn ngự

trên đỉnh núi Sam, bị giặc Xiêm phá hoại. Chúng tìm cách khiêng đi nhưng không thể nào

xê dịch được. Sau đó, có một bé gái được Bà đập đồng mách bảo: “Hãy chọn chín cô gái

đồng trinh để đem bà xuống núi”. Dân làng làm theo và lạ thay pho tượng được chuyển đi

dễ dàng, nhưng khi đến chân núi thì không thể xê dịch được nữa. Từ đó dân làng dựng lên

ngôi miếu để thờ. Hôm đó là ngày 25 tháng 4 âm lịch, dân làng lấy ngày này làm ngày lễ

vía Bà. Lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam hàng năm thoạt đầu chỉ do dân làng tham gia cúng tế,

dần dần lượng du khách từ khắp nơi trong cả nước về đây trẩy hội rất đông. Có thể nói

đây là một lễ hội dân gian lớn nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long. Những năm gần đây, di

tích đã thu hút hàng triệu lượt du khách đến chiêm bái và tham quan .

Như trên đã trình bày, An Giang là tỉnh có nhiều tôn giáo, trong đó có cả tôn giáo

ngoại nhập và tôn giáo nội sinh. Tôn giáo nào cũng ra sức củng cố đức tin cho tín đồ

thông qua lễ nghi sinh động, giáo luật luôn cải sửa cho thích nghi với đời sống xã hội, cơ

sở thờ tự tu sửa khang trang, nhiều tu sĩ được đào tạo ...nên hoạt động thu hút đông đảo

tín đồ đến nơi thờ tự. Một số tín đồ trẻ, tuy có ý thức thoát ly dần sự ràng buộc của giáo

hội để lao vào cuộc sống tìm cơ hội lập thân, lập nghiệp, nhưng khi gặp khó khăn trắc trở,

họ chưa đủ sức vượt qua, nên lại tìm đến giáo hội cầu xin sự hỗ trợ vật chất hoặc chỗ dựa

tinh thần. Do đó, tín đồ các tôn giáo này vẫn không ngừng tăng lên.

Sau ngày giải phóng (1975) đồng bào có đạo ở An Giang ngày càng tin tưởng sâu

sắc vào sự lãnh đạo của Đảng, thấu suốt chính sách nhất quán đúng đắn của Đảng và Nhà

nước về tôn giáo. Họ ý thức được đó là cơ hội lớn của tín đồ, tổ chức tôn giáo thực hiện

nguyện vọng “tốt đời, đẹp đạo”. Do đó, họ yên tâm hành đạo, ý thức chấp hành pháp luật

ngày càng nâng cao hơn, sự mặc cảm là người có đạo giảm dần. Các chức sắc, tu sĩ nhìn

chung đã có ý thức gắn bó với dân tộc, tuân thủ pháp luật, tích cực hưởng ứng công cuộc

đổi mới đất nước, nhiều người tham gia vào Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và cơ quan dân cử

các cấp. Một số chức sắc, tu sĩ lợi dụng sơ hở của pháp luật và việc quản lý của chính phủ

để phát triển đạo. Tuy nhiên, do trình độ nhận thức hạn chế, một bộ phận tín đồ bị lợi

dụng dẫn đến ý thức chấp hành pháp luật còn hạn chế; thậm chí còn có bộ phận nhẹ dạ, cả

tin nghe lời xúi giục và kích động của các phần tử xấu. Một bộ phận nhỏ chức sắc, tu sĩ có

thái độ chính trị phức tạp, cực đoan, khi bị đấu tranh xử lý từng bước đã có chuyển biến .

Mối quan hệ quốc tế các tôn giáo ngày càng mở rộng và cũng phát sinh nhiều mặt

phức tạp. Một số tôn giáo có mối quan hệ quốc tế, cũng như một bộ phận “hải ngoại” của

các tôn giáo không có quan hệ quốc tế (Cao Đài, Hoà Hảo) đều thường xuyên tác động

vào nội địa. Một số giáo sĩ được Nhà nước cho phép đi nước ngoài nhưng do các cơ quan

chức năng chưa có biện pháp quản lý chặt chẽ, đồng bộ, nên một số người lợi dụng cơ hội

này để cấu kết với các thế lực thù địch.

Các thế lực thù địch ngoài nước luôn lợi dụng vấn đề tôn giáo để thực hiện âm

mưu diễn biến hoà bình, tạo ra nguyên cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của ta, kích

động các phần tử phản động trong nước hoạt động chống phá.

ảnh hưởng của tình hình tôn giáo, tín ngưỡng đối với an ninh trật tự tại địa

phương.

ở An Giang tôn giáo và dân tộc luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau.

Phật giáo Tiểu thừa Nam tông tồn tại và phát triển ở cộng đồng dân tộc Khmer Crôm.

Ngay từ khi Chúa Nguyễn khai hoang vùng đất An Giang đồng bào dân tộc Chăm đã gắn

bó mật thiết với Hồi giáo. Phật giáo Đại thừa phổ biến chủ yếu trong đồng bào dân tộc

Kinh và Hoa. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có phần lớn tín đồ tập trung ở huyện Tri Tôn. Phật

giáo Hòa Hảo tập trung đông nhất cũng ở các huyện Chợ Mới, Tân Châu, Phú Tân, An

Phú,... Do quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và tôn giáo, nên đời sống văn hoá tín ngưỡng của

nhân dân An Giang có những nét đặc sắc riêng.

Phật giáo

ở An Giang Phật giáo có 778.431 tín đồ (87.450 người Khmer) trong đó có 645

chức sắc, sinh hoạt tại 319 cơ sở thờ tự (64 chùa Khmer). Dưới chế độ mới các hoạt động

của Phật giáo gắn bó với dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục phát huy được truyền thống

yêu nước, tích cực hoạt động từ thiện cứu trợ. Một số tăng ni phật tử đã lợi dụng sinh hoạt

tôn giáo để vụ lợi .

Đa số sư sãi người Khmer còn trẻ, trình độ học còn hạn chế nên vai trò xã hội

giảm. Tuy đã tách dần khỏi sự chi phối của Phật giáo ở Campuchia, gắn bó chặt chẽ trong

Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nhưng Phật giáo ở An Giang vẫn còn chịu ảnh hưởng nhất

định từ bên ngoài.

Những hoạt động chính trị quá khích của nhóm Phật giáo Thống nhất cũ, tuy có tác

động đến Phật giáo An Giang, nhưng không làm ảnh hưởng nhiều đến mặt tích cực của

Phật giáo trong tỉnh.

Công giáo.

Công giáo có 60.225 tín đồ, 56 chức sắc (2 giám mục, 58 linh mục) 261 tu sĩ, 52

cơ sở thờ tự và 1 Toà Giám mục Giáo Phận. Tôn giáo ở An Giang hoạt động theo Thư

chung của Hội đồng Giám mục “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc, phục vụ hạnh phúc

đồng bào” ý thức dân tộc và trách nhiệm công dân của giáo dân nâng lên. Một mặt họ

luôn luôn tôn trọng và “thân thiện với chính quyền”, không vi phạm pháp luật, tạo căng

thẳng, nhưng mặt khác họ tranh thủ chính sách đổi mới và khai thác những sơ hở của ta

để tập trung củng cố tổ chức cơ sở, củng cố đức tin ở thanh thiếu niên và thường thông

qua hoạt động công tác từ thiện phát triển tín đồ.

Hội đồng Giáo Xứ với hoạt động tích cực của các hội đoàn đã vượt qúa nhu cầu tín

ngưỡng tôn giáo. Một số hội đoàn bất hợp pháp tuy đã bị giải tán, nhưng vẫn lén lút tìm

cách khôi phục lại để phục vụ mục tiêu của Giáo hội là phát triển đạo và nắm quần chúng.

Phật giáo Hòa Hảo

Phật giáo Hòa Hảo có 791.715 tín đồ, 110 chức viện (đại diện Phật giáo Hòa Hảo),

04 cơ sở thờ tự. Đại đa số tín đồ là nông dân yêu nước, sinh hoạt tôn giáo bình thường, có

ý thức chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước tích cực tham gia các phong trào

cách mạng ở địa phương.

Ban đại diện Phật giáo Hòa Hảo được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, là

tổ chức duy nhất hợp pháp của đạo. Ban đại diện đã hướng dẫn tín đồ tu hành thuần tuý

và hoàn thành nghĩa vụ công dân, góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu của kẻ thù lợi

dụng Phật giáo Hòa Hảo để chống phá chế độ. Song hoạt động của Ban đại diện khá phô

trương, hình thức, có tính chất “độc tôn tín ngưỡng”, tranh chấp chùa chiền với một số tôn

giáo khác, làm ảnh hưởng nhất định đến an ninh trật tự và xây dựng khối đại đoàn kết

toàn dân.

Tin Lành

Tin Lành có 3270 tín đồ, 5 chức sắc, 5 cơ sở thờ tự. Tôn giáo này sinh hoạt bình

thường, nhưng từ sau khi Tổng Liên Hội được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, đã

bung ra hoạt động đòi lại tài sản, tập hợp hầu hết thanh thiếu niên vào hội đoàn, thông qua

sự giúp đỡ của thân nhân ở nước ngoài, dùng vật chất lôi kéo hàng trăm người nghèo vào

đạo (có 11 người Khmer, 18 người là Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài).

Hồi giáo

Hồi giáo có khoảng 14.274 tín đồ người Chăm, 11 chùa lớn, 15 chùa nhỏ, 131

chức sắc, 11 thánh đường và 16 tiểu thánh đường. Tín đồ Hồi giáo An Giang chủ yếu là

người lao động, sống tập trung thành xóm tại một số khu vực thuộc các huyện An Phú,

Phú Tân, Tân Châu và Châu Phú. Các sinh hoạt tôn giáo quan trọng của Đạo Hồi như:

tháng ăn chay Ramadan, Kỷ niệm ngày sinh Giáo chủ Mohammad,... Hồi giáo đã được

Nhà nước quan tâm tạo điều kiện xây dựng lại cơ sở thờ tự, đảm bảo sinh hoạt tôn giáo

bình thường; chính quyền các cấp còn giúp đỡ họ tổ chức sinh hoạt tôn giáo gắn với sinh

hoạt văn hoá mang đặc trưng dân tộc Chăm của địa phương. Vài năm gần đây, Nhà nước

giúp vốn và dạy nghề, giúp họ phát triển sản xuất, cải thiện cuộc sống, tạo điều kiện để

người có nhu cầu hành hương về Thánh địa Mecca...ý thức gắn bó với Tổ quốc của phần

lớn tín đồ tôn giáo này ngày càng cao.

Tín đồ Hồi giáo có thân nhân nước ngoài khá đông và thường xuyên quan hệ qua

lại. Họ luôn bị nhiều thế lực Hồi giáo cực đoan lôi kéo, tuy có bị ảnh hưởng nhất định

nhưng chưa thấy có vấn đề chính trị phức tạp.

Cao Đài

Cao Đài có 80.424 tín đồ, đa số là tín đồ Cao Đài Tây Ninh, 17 lễ sanh, 126 chánh,

phó trị sự và thông sự; 30 thánh thất, 4 điện thờ Phật mẫu và 6 chùa. ở An Giang có 5 hệ

phái: Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, Cao đài Tiên Thiên, Cao đài Chiếu

Minh, Thiên Khai Huỳnh Đạo. Tín đồ đạo Cao Đài chủ yếu là nông dân, chấp hành đúng

pháp luật, chính sách của Nhà nước. Song 40 năm qua, có hàng trăm tên chức việc và Cao

Đài Tây Ninh (theo Hộ pháp Phạm Công Tắc) luôn chống lại Hội Thánh, nay cấu kết với

Lê Quang Tấn hoạt động trái phép, làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội.

Tứ Â n Hiếu Nghĩa

Tứ Ân Hiếu Nghĩa có hơn 41.297 tín đồ, 25 trưởng gánh, 119 cư sĩ, 28 cơ sở thờ tự

(chùa). Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tu hành theo sự hướng dẫn của trưởng gánh và cư sĩ trong

gánh; không có tổ chức hành chính trong Giáo hội.

Tín đồ của đạo Tứ Ân HIếu Nghĩa, hầu hết là nhân dân lao động, có truyền thống

yêu nước và cách mạng, nên hoạt động tôn giáo của họ luôn gắn với dân tộc, tuân thủ chủ

trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước. Họ tham gia tích cực các phong trào

xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở địa phương. Nhưng do hình thức sinh hoạt

tôn giáo theo từng gánh tập thể riêng rẽ, nên trong nội bộ đạo, giữa gánh này với gánh

khác đôi lúc có xảy ra mâu thuẫn, mất đoàn kết, tạo nên sơ hở để bọn xấu lợi dụng.

Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương

Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có hơn 10.596 tín đồ, 08 cơ sở thờ tự. Tín đồ Bửu Sơn

Kỳ Hương tu tại gia, gắn với nền nếp thờ cúng ông bà theo truyền thống của dân tộc Việt,

chỉ riêng những ngày lễ quan trọng như lễ Kỷ niệm Phật thầy Đoàn Minh Huyên thì họ

mới tập trung đến chùa làm lễ. Chùa do chủ tự trông coi, thắp hương hằng ngày. Hiện

Bửu Sơn Kỳ Hương không có người đứng đầu và không có tổ chức giáo hội. Do đó, hoạt

động của tôn giáo này suốt từ khi thành lập đến nay tương đối trật tự.

Cả hai đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Bửu Sơn Kỳ Hương gắn liền với phong trào yêu

nước chống thực dân Pháp của nông dân Tây Nam Bộ, theo Đảng làm cách mạng, ngày

nay cả hai đạo này vẫn giữ được truyền thống tốt đẹp đó.

ảnh hưởng của tôn giáo, tín ngưỡng đến các lĩnh vực kinh tế văn hoá, xã hội,

đạo đức, lối sống của người dân có đạo ở An Giang.

Tôn giáo đối với người dân miền Tây Nam bộ nói chung, đối với một bộ phận

người dân An Giang nói riêng là nhu cầu không thể thiếu, nó dường như là cứu cánh trợ

giúp cho họ thoát khỏi những rủi ro trong cuộc sống hàng ngày.

Những nét đặc thù về đời sống tâm linh của đồng bào có đạo đã tạo nên nét văn

hoá riêng biệt, độc đáo của người dân An Giang. Nơi đây có sự hoà quyện giữa bản sắc

văn hóa dân tộc với tín ngưỡng tôn giáo, đó là tính nhân văn và tính cộng đồng của các

tôn giáo rất gần gũi với văn hoá, nếp sống của các dân tộc ở An Giang. Tôn giáo mà họ

lựa chọn có nhiều điểm phù hợp với văn hóa, phong tục tập quán của mình như: ở người

Kinh, người Hoa theo thiên Chúa giáo, Tin Lành, Phật giáo Đại Thừa, người Khmer theo

Phật giáo Tiêu Thừa, người Chăm theo Hồi giáo. Tôn giáo và nơi thờ tự ở đây chiếm một

vị trí đặc biệt quan trọng, nó ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống cộng đồng người dân

có đạo từ tâm lý, phong tục, tập quán, đạo đức, lối sống. Nơi thờ tự của các tôn giáo

không chỉ là nơi tu hành, thờ phụng, nơi tụ hội của các tín ngưỡng tôn giáo mà còn là nơi

duy trì các phong tục tập quán văn hoá truyền thống của các dân tộc. Đặc biệt đối với dân

tộc Khmer và dân tộc Chăm, ngôi chùa và thánh đường còn là nơi giáo dục thanh thiếu

niên, là nơi dạy chữ, dạy nghề, dạy làm người, là trung tâm giáo dục của cư dân trong

vùng. Ngoài ra, các cơ sở thờ tự còn là những công trình kiến trúc, là nơi bảo tồn, lưu giữ

các giá trị văn hóa nghệ thuật. Nó không những là nơi tổ chức các các lễ hội truyền thống

của các dân tộc mà còn là nơi lưu giữ kinh sách, bảo quản và lưu giữ các hiện vật cổ của

cha ông.

Nhìn chung, giáo lý, giáo luật và sinh hoạt của các tôn giáo đều có điểm chung,

tích cực là khuyên răn con người sống nhân nghĩa, đùm bọc lẫn nhau…Như vậy, đạo đức

tôn giáo có vai trò quan trọng vào việc điều chỉnh hành vi của người dân có đạo; nhờ đó

góp phần tạo nên một môi trường xã hội lành mạnh, một đời sống tinh thần ấm áp cho

người dân.

Bên cạnh đó, do quá nặng nề về lễ nghi tôn giáo, nên tín đồ các tôn giáo thường có

ít thời gian, công sức dành cho phát sản xuất và các hoạt động văn hoá, xã hội nên đời

sống chậm phát triển. ở An Giang Sự phụ thuộc quá lớn về giáo lý, giáo luật của một số

tôn giáo như Phật giáo Tiểu thừa Nam Tông của dân tộc Khmer và Hồi giáo của dân tộc

Chăm đã làm chậm quá trình phát triển của cộng đồng dân cư. Đây là một trong những

nguyên nhân đã làm cho cộng đồng người Khmer và người Chăm bị tụt hậu hơn so vơi

cộng đồng dân cư khác trong Tỉnh về mặt kinh tế, văn hoá, xã hội. Bên cạnh đó, do ảnh

hưởng của kinh tế thị trường, các giá trị chuẩn mực đang ít nhiều bị đảo lộn và tác động

đến đời sống nhân dân trong Tỉnh nói chung và đời sống người dân có đạo nói riêng. Đời

sống của người dân trong Tỉnh đã bộc lộ nhiều điều đáng lo ngại: Đó là sự phục hồi

những phong tục tập quán cũ có cả lạc hậu và mê tín, thể hiện trong lễ hội định kỳ của các

tôn giáo. Hơn nữa có những biểu hiện của sự xa rời những giá trị văn hóa truyền thống,

thay vào đó là tệ sùng bái nước ngoài, lối sống thực dụng, xem hưởng thụ vật chất là tối

thượng dẫn đến các tệ nạn xã hội. Ngoài ra nhiều phong tục tập quán của dân tộc, tôn giáo

đã và đang trở thành gánh nặng cho đồng bào trong khi đời sống của họ rất khó khăn

nghèo túng. Mặt khác họ bị các thế lực xấu lợi dụng nên một số gia đình đã từ bỏ tôn giáo

nhiều đời của gia đình dòng họ mình để đi theo tôn giáo mới. Những quan niệm lạc hậu

trọng nam khinh nữ (phụ nữ chỉ lo việc bếp núc, chăm lo gia đình, không cần học chữ,..),

hay chế độ mẫu hệ vẫn còn tồn tại trong cộng đồng dân tộc.

Trong thời kỳ đổi mới, đời sống của nhân dân ngày càng phát triển. Song song với

đời sống vật chất được nâng cao, đời sống tinh thần, trong đó có hoạt động tín ngưỡng,

tôn giáo của nhân dân cũng được nâng cao theo. Các giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống

đang từng bước được duy trì và phát triển thông qua phong trào quần chúng hướng về cội

nguồn, đền ơn đáp nghĩa, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, giúp

đỡ nhau trong lao động sản xuất, sống bao dung trọng nghĩa trọng tình. Nhiều gia đình

dân tộc thiểu số và người dân có đạo đã đã biết tính toán làm ăn có hiệu quả, phụ nữ có

đạo ngoài chăm sóc gia đình còn tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện, thanh niên có

đạo và dân tộc ngày càng chịu khó học tập, tích cực tham gia các hoạt động phong trào

quần chúng, đoàn thể.

Chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước về tôn giáo cũng như dân tộc đã tạo

điều kiện cho các hoạt động tôn giáo phát triển, nhiều cơ sở thờ tự được tu sửa, nâng cấp

và xây mới. Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phát triển có sự lãnh đạo của Đảng bộ và

quản lý của chính quyền địa phương nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu của đông đảo nhân

dân có đạo.

1.2. đường lối Chính sách của Đảng về tôn giáo và sự lãnh đạo thực hiện của

đảng bộ tỉnh an giang thời kỳ trước 1990

1.2.1. Công tác tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội đặc biệt, hiện đang tồn tại nhiều cách hiểu khác

nhau. Bàn về nguồn gốc xã hội và bản chất của nó Mác và Ăngghen viết “Sự nghèo nàn

của tôn giáo là sự biểu hiện của nghèo nàn hiện thực và mặt khác là sự phản kháng chống

lại sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái

tim của một thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là điều kiện tinh thần của điều kiện xã hội không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”(1). Kế thừa tư

tưởng của Mác và Ăngghen, khi định nghĩa về tôn giáo, Lênin viết: “Tôn giáo là một

trong những hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ nơi đâu cũng đè nặng lên

quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải

chịu cảnh khốn cùng và cô độc. Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh

1 luận cương về Feuerbach số 467 trong Mác-Ăngghen toàn tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr256.

chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia,

cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu”(1). Như vậy, tôn giáo là sản

phẩm của lịch sử, do con người sáng tạo ra, rồi bị tôn giáo chi phối trở lại. “Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”(2)(C.Mác và Ăngghen

toàn tập Nxb CTQG HN 1995 t1 tr 569)

Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, lịch sử dân tộc Việt Nam và lịch sử văn hoá

nhân loại, Hồ Chí Minh cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng có tính lịch sử, xã hội và văn

hóa, tham gia vào quá trình sáng tạo văn hoá nhân loại. Trong Nhật ký trong tù ở mục

Đọc sách, Người viết: “ý nghĩa của văn hóa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc

sống, loài người mới tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa

hoc, tôn giáo, văn học, nghệ thật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các

phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát sinh đó tức là văn hóa”(Hồ Chí

Minh ttNxb CTQG, HN 1995 t3 tr 431)

Như vậy, tôn giáo là một thực thể xã hội, luôn gắn liền với đời sống kinh tế, xã hội,

văn hoá của một nước, là nhu cầu tinh thần của đại bộ phận nhân dân. Theo Các Mác:

“ngay trong một nước mà giải phóng chính trị đã hoàn thành, tôn giáo không những vẫn

tồn tại mà còn biểu hiện sức sống và sức mạnh, thì điều đó chứng tỏ rằng tồn tại của tôn giáo không mâu thuẫn với tính chất hoàn thiện của nhà nước”(2). Tôn giáo do con người

sáng tạo ra và tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người. Để đáp ứng nhu cầu tôn

giáo, bất cứ một nhà nước nào, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhằm tổ chức mối quan

hệ giữa cái trần tục và cái siêu nhiên, phục vụ cho yêu cầu của chế độ, cũng phải định ra

một thái độ ứng xử đối với tôn giáo. Đó là chính sách tôn giáo.

Nhà nước phong kiến, cả phương Đông và phương Tây, thường dựa vào một tổ

chức tôn giáo để điều hành đất nước. Hơn thế ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, chủ

nghĩa thực dân cũng thường sử dụng tôn giáo làm công cụ để xâm lược và thống trị. Các

dân tộc này bị ép buộc vứt bỏ tôn giáo của cha ông, cưỡng bức theo một tôn giáo của kẻ

1 V.I.Lê nin toàn tập, tập 12, Nxb tiến bộ Maxcơva, 1979, tr169. 2 )(C.Mác và Ăngghen toàn tập Nxb NXBCTQG HN 1995 t1 tr 569 2 c.mác và Ăngghen toàn tập: Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995 tập 1 tr 532-533

xâm lược, hay bị kẻ xâm lược dùng chính sách chia để trị trong lĩnh vực tôn giáo. Do đó

người dân ở đây không được thừa nhận các quyền tự do, trong đó có tự do tôn giáo. Dưới

chế độ xã hội chủ nghĩa những người cộng sản chủ trương xây dựng một xã hội không có

áp bức giai cấp, không còn người bóc lột người, một “ thiên đường trên thế gian". Tuy

nhiên với chức năng của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể và cần phải thực hiện

việc quản lý đối với các hoạt động tôn giáo cũng như phản đối bất kỳ sự can thiệp nào của

các tổ chức tôn giáo vào việc lãnh đạo nhà nước, cũng như biến tôn giáo thành một công

cụ của giai cấp thống trị. Những người cộng sản cho rằng, đối với nhà nước phải thừa

nhận tự do tôn giáo và không tôn giáo, nhà thờ tách khỏi nhà trường và nhà nước, tôn

giáo là công việc riêng tư. Nhưng với đảng của giai cấp công nhân, "không thể và không

được thờ ơ trước tình trạng thiếu giác ngộ, dốt nát hoặc mê muội mà biểu hiện là những

tín ngưỡng tôn giáo"… Đối với chúng ta, đấu tranh tư tưởng không phải là một việc tự

nhiên mà là một việc của toàn Đảng, của toàn thể giai cấp vô sản" (Lênin toàn tập,t12,

tr172,173…). Trong bài chủ nghĩa xã hội và tôn giáo V.I.Lênin đã nêu khá rõ điều đó.

Người cũng không hề có sự phân biệt giữa người có đạo với người không có đạo, chủ

trương sẵn sàng kết nạp những người có đạo vào Đảng Dân chủ Xã hội để toàn dân đấu

tranh cho mục đích xã hội chủ nghĩa: “Chúng ta không những phải sẵn sàng kết nạp, mà

còn cố gắng thu hút vào trong Đảng Dân chủ Xã hội tất cả những công nhân nào còn tin ở thượng đế”(1). “Chúng ta nhất định phản đối bất cứ một sự xúc phạm nhỏ nào đến những tín ngưỡng tôn giáo của họ”(2) Tuy nhiên V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng, đối với các đảng

viên có đạo, họ vẫn phải có trách nhiệm trước Đảng là tuyên truyền Chủ nghĩa Mác-

Lênin, bản thân thực hiện và vận động quần chúng cùng thực hiện Nghị quyết của Đảng.

Như vậy công tác tôn giáo có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của các

Đảng cộng sản. Thực chất đây là công tác dân vận của Đảng. ở nước ta công tác tôn giáo là

việc tuyên truyền vận động bà con tín đồ, chức sắc hiểu rõ và thực hiện đúng quan điểm, đường

lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, tuân thủ pháp luật, đoàn kết tôn giáo, bảo đảm

tôn giáo đồng hành gắn bó với dân tộc, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đảm

bảo giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.

1 V.I.Lênin: sdd, 1979, tập 12, tr.169-175 2 V.I.Lênin: sdd, 1979, tập 12, tr.169-175

Thông qua công tác tôn giáo, Đảng và Nhà nước có điều kiện thường xuyên chăm lo

đời sống vật chất và văn hoá tinh thần, nâng cao trình độ mọi mặt cho đồng bào là tín đồ các

tôn giáo. Thực hiện tự do tín ngưỡng, tích cực vận động đồng bào có đạo tăng cường đoàn kết

xây dựng cuộc sống mới, sống “tốt đời đẹp đạo”, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững

ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng.

Thông qua công tác tôn giáo, Nhà nước có điều kiện tăng cường công tác quản lý, tạo

điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo pháp luật; mọi tín đồ, chức sắc, nhà tu

hành thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, tích cực đóng góp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,

xây dựng cuộc sống mới ở cơ sở, các khu dân cư. Hơn nữa các cấp chính quyền tạo điều kiện

tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ tín đồ và chức sắc tôn giáo nâng cao tinh thần

cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn

giáo của các thế lực thù địch chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

Qua thực tiễn của công tác tôn giáo, cần xây dựng, củng cố tổ chức đảng và hệ thống

chính trị ở cơ sở ngày càng vững mạnh trên các địa bàn của đồng bào có đạo. Cán bộ, đảng

viên nói chung và đảng viên theo tôn giáo nói riêng cần phải gương mẫu thực hiện và vận động

các tín đồ tôn giáo thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước

cần kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo ở các ngành, các cấp, có quy hoach, kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ cho công tác này. Mặt trận và các đoàn thể tăng cường công tác vận

động tín đồ, chức sắc các tôn giáo hoà nhập cùng cộng đồng trong công cuộc đổi mới; thực

hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, “Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”..., hăng hái tham gia phong trào thi đua yêu nước ở từng

cơ sở, địa phương và cả nước.

1.2.2. Đường lối, chính sách của Đảng về tôn giáo và sự lãnh đạo thực hiện của

Đảng bộ thời kỳ trước 1990

Thục dân Pháp khi xâm chiếm nước ta đã dùng làm chính sách chia để trị, phân

biệt bộ phận Kitô giáo và không Kitô giáo. Nhằm chống lại âm mưu thâm độc của chủ

nghĩa thực dân, từ khi ra đời, Đảng đã lưu ý vấn đề tôn giáo, tuyên bố tự do tín ngưỡng và

không tín ngưỡng, đồng thời chống lại việc thực dân Pháp liên kết với các tổ chức tôn

giáo thống trị nhân dân ta. Trong một số tác phẩm - Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã

vạch trần âm mưu của chủ nghĩa thực dân Pháp câu kết với Giáo hội Công giáo trong quá

trình xâm lược và áp bức, bóc lột của nhân dân Việt Nam. Chương trình Việt Minh do

Mặt Trận Việt Minh ban hành năm 1941 đã thể hiện rõ: “...2.Ban bố các quyền tự do dân

chủ cho nhân dân: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức, tự do tín ngưỡng, tự do

đi lại trong nước, tự do xuất dương. Bỏ chế độ bắt phu và các chế độ áp bức do đế quốc đặt ra”(1). Trong bài thơ Mười chính sách của Việt Minh, Hồ Chí Minh đã viết:

“...Hội hè, tín ngưỡng, báo chương, Họp hành, đi lại, có quyền tự do”(2)

Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức được một

cách đầy đủ và sâu sắc ý nghĩa của khối đại đoàn kết toàn dân đối với công cuộc bảo vệ

và xây dựng đất nước. Nên chỉ một ngày sau khi tuyên bố Độc lập, ngày 3 tháng 9 năm

1945, trong phiên họp của Chính phủ, Người đề ra Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà

nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định quyền của tất cả mọi người: “Vấn đề thứ

ba..Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống”(1). Nhận thấy tầm quan trọng của khối đoàn kết tôn

giáo, trong sáu vấn đề, Người đặt hẳn “Vấn đề thứ sáu...Thực dân và phong kiến thi hành

chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”.(2) Tinh thần đó được ghi

nhận trong Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946: “Nhân dân ta có

quyền tự do tín ngưỡng” và trong Chính cương của Mặt trận Liên Việt, ở điều 7, điểm 1:

“Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng cho mọi người”. Điều này sau được

ghi trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam: “Điều 8: Tôn trọng và bảo vệ

quyền tự do tín ngưỡng của công dân”. Tinh thần đó được thể hiện trong Tám điều mệnh

lệnh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: “Điều 4: Bảo vệ đền, chùa, nhà thờ,

trường học, nhà thương và các cơ quan văn hoá xã hội khác.Chính quyền, quân đội và

toàn thể phải tôn trọng tín ngưỡng, phong tục tập quán của đồng bào”.

Chính quyền cách mạng non trẻ đã khẳng định một nguyên tắc bất di bất dịch là

đoàn kết, bình đẳng và tự do tín ngưỡng, bảo vệ các cơ sở thờ tự, nơi đất thiêng của các

1 Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000,tập 3 tr.8 2 Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000,tập 3 tr.205 1 Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4 tr 8 2 Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4 tr 9

tôn giáo; đồng thời chống lại âm mưu của các kẻ thù dân tộc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo.

Nguyên tắc đó đã được thể hiện ngày càng đầy đủ, cụ thể trong các văn kiện của Đảng,

Nhà nước và được thực hiện nhất quán trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp, chống đế quốc Mỹ. Sau ngày hoà bình lập lại (1955), Sắc lệnh về vấn đề tôn giáo

ngày 14-6-1955 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Điều 1 khẳng định:

“Chính phủ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai

được xâm phạm quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn

giáo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Sắc lệnh này cũng nêu rõ sự tôn trọng các hoạt

động tôn giáo, đồng thời yêu cầu “Khi truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành có nhiệm vụ

giáo dục cho các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ của người công dân, ý thức tôn trọng chính quyền nhân dân và pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”(1). Trong hoàn

cảnh kẻ thù luôn lợi dụng các tổ chức tôn giáo chống phá kháng chiến, phá hoại hòa bình

thống nhất, độc lập, dân chủ, Điều 7 ghi rõ: “ Pháp luật sẽ trừng trị những kẻ nào mượn

danh nghĩa tôn giáo để phá hoại đoàn kết, ngăn trở tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm

phạm tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng của người khác, hoặc làm những việc khác trái

pháp luật”. Tinh thần của Sắc lệnh đó được toàn Đảng, toàn dân quán triệt, đã thực hiện

có kết quả trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước; nhờ đó đã tạo ra sự đoàn

kết, nhất trí giữa những người không tín ngưỡng tôn giáo và những người thuộc các tín

ngưỡng tôn giáo khác nhau vì mục tiêu giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.

Năm 1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đề ra đường lối xây

dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Sau Đại hội, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 09/CT.TƯ

hướng dẫn triển khai đồng bộ các mặt công tác, giúp các tôn giáo ở miền Nam xây dựng

lại tổ chức, chấn chỉnh hoạt động, vận động tín đồ tuân thủ pháp luật, chuẩn bị cho việc

thống nhất các tổ chức tôn giáo trong cả nước. Từ đấy các tổ chức tôn giáo chung trong

phạm vi cả nước ra đời như: Hội đồng Giám Mục Công giáo (ra đời năm 1980), Giáo hội

Phật giáo (năm 1981), Uỷ Ban Đoàn kết Công giáo (năm 1983). Trong thời gian này, các

Giáo hội Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Hoà Hảo ở miền Nam đã được cải tạo một bước.

Phát huy hiệu lực của Nhà nước thống nhất, năm 1977, Hôi đồng Chính phủ ban

hành Nghị quyết 297-CP về một số chính sách đối với tôn giáo. Từ đây các tôn giáo hai

1 Báo Nhân Dân số ra ngày 4-7-1955

miền Nam Bắc đều được quản lý thống nhất theo một văn bản pháp lý chung cho cả nước.

Nghị quyết 297-CP (nay gọi là Nghị định) là khung pháp lý duy nhất để điều chính các

hoạt động tôn giáo trong suốt 14 năm liên tục (1977 – 1991). Năm nguyên tắc trong Nhị

quyết đã trở thành 5 nguyên tắc cơ bản trong chính sách tôn giáo thời kỳ này.

Đầu những năm 1980, do tình hình chính trị quốc tế phức tạp, chúng ta đã

rập khuôn máy móc, giáo điều cả về lý luận và hoạt động quản lý Nhà nước trên lĩnh vực

tôn giáo. Năm 1981, Ban Bí thư (khoá V) ban hành Nghị quyết 40/NQ.TƯ. Đây là một

nghị quyết quan trọng, đề cập khá toàn diện và đầy đủ các vấn đề tôn giáo, có vị trí quan

trọng trong chặng đường đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước theo mô

hình chủ nghĩa xã hội lúc bấy giờ. Nghị quyết 40/NQ.TƯ tuy có ưu điểm là đã đi sâu vào

các mặt công tác tôn giáo, có nhiều chủ trương cụ thể, nhưng lại đưa ra yêu cầu quá cao,

có thể nói là không tưởng “làm cho tôn giáo tuy tồn tại lâu dài nhưng chỉ là tôn giáo của

những người cao tuổi và mất dần rồi mất hẳn”(NQ40). Thời kỳ này ta phải đương đầu với

cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực đế quốc và phản động. Trên thế giới,

Công đoàn đoàn kết ra đời, chống phá quyết liệt chế độ xã hội chủ nghĩa ở Ba Lan, dẫn

đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước này.

Năm 1984, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 48/CT.TƯ về tăng cường công tác

đạo Thiên Chúa ở miền Nam và chủ trương tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 40/NQTƯ.

Năm 1986, Đại hội VI mở đầu sự nghiệp đổi mới đất nước. Đại hội cũng gợi ra

cách tiếp cận mới về công tác tôn giáo: “Trong việc phát huy yếu tố con người và lấy việc

phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, cần có kế hoạch chủ động

xây dựng cơ cấu giai cấp cho xã hội mới, cụ thể hoá và thực hiện đúng chính sách dân tộc

và chính sách tự do tín ngưỡng”(ĐH VI).

Những nhận thức lý luận về tôn giáo và đường lối, chủ trương của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước về tôn giáo là cơ sở để các cấp, các ngành, các địa phương

trong cả nước tổ chức thực hiện. Đối với An Giang, sau khi xâm lược miền Nam, con bài

đầu tiên Mỹ sử dụng là tôn giáo. Lợi dụng tình hình phức tạp về chính trị, tôn giáo, dân

tộc trong chiến tranh, Mỹ – ngụy đã dựng lên 3 giáo hội Phật giáo Hòa Hảo phản động

(có đảng chính trị – Dân Xã Đảng và lực lượng vũ trang hơn 30 ngàn tên làm nồng cốt) để

lừa mị dân và kìm kẹp tín đồ, chống phá cách mạng. Chúng lợi dụng lực lượng 3K -khăn

trắng- sử dụng vùng Bảy Núi làm địa bàn hoạt động chống phá cách mạng.

Sau ngày 30.4.1975, hơn 24 ngàn tàn quân ngụy và Hoà Hảo tụ tập về trụ sở Trung

ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo và Tổng Đoàn Bảo An Phật giáo Hòa Hảo tại An

Giang để “tử thủ”. Ta tấn công quyết liệt đến ngày 06.5.1975 buộc được chúng ra hàng

mới giải phóng các cứ điểm này. Bọn phản động cầm đầu các giáo hội Phật giáo Hòa

Hảo, và tín đồ co lại chờ thời.

Những năm đầu giải phóng, lợi dụng chính quyền của ta chưa được cũng cố các

thế lực phản động đã ngóc đầu dậy hoạt động.Trong thời kỳ này ta phá vỡ hơn 200 vụ án

phản cách mạng có liên quan đến tôn giáo, trong đó liên quan đến Phật giáo Hòa Hảo 186

vụ, một số vụ liên quan đến Thiên Chúa giáo, Cao Đài Tây Ninh.

Thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình của đế quốc Mỹ, núp dưới chiêu bài “tự do

tôn giáo”, một số chức việc trong giáo hội Phật giáo Hòa Hảo cũ câu kết với các thế lực

thù địch ngoài nước âm mưu khôi phục lại giáo hội và Đảng Dân Xã để chống phá ta. Nổi

lên là nhóm của Lê Quang Liêm, Trần Hữu Duyên. Các nhóm chống đối khác như nhóm

của Thích Quảng Độ (Phật giáo Việt Nam Thống Nhất cũ), Lê Quang Tấn (Cao Đài Tây

Ninh) cũng tìm cách xâm nhập vào An Giang. Một số Việt kiều theo đạo Tin Lành ở Mỹ

cũng liên kết với phần tử phản động Khmer Crôm ở Campuchia, bí mật tuyển lựa người

từ nội địa sang để huấn luyện, sau đó cài cắm lại nội địa. Các hoạt động chống phá nói

trên có chiều hướng gia tăng, phức tạp và gây nhiều khó khăn cho ta, ảnh hưởng đến tốc

độ phát triển kinh tế, gây mất trật tự xã hội và an ninh chung.

Sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng, đời sống dần ổn định trở lại, tiếp

đó là những thay đổi to lớn trong đời sống xã hội đã khiến trong nhận thức và trong đời

sống tôn giáo của nhân dân có nhiều chuyển biến sâu sắc. Người dân phải lo toan những

nhu cầu đời thường, bình dị, nhưng thân thương, trong đó có nhu cầu tôn giáo.

Sau khi giải phóng miền Nam, Đảng ta đã có một thời gian dài bỏ ngõ mặt trận tôn

giáo. Do chưa nhận thức đúng đắn vai trò to lớn của tôn giáo trong đời sống nhân dân,

cũng như tầm quan trọng của công tác tôn giáo, nên chưa có những chủ trương, chính

sách phù hợp. Điều này tuy không đi ngược lại nguyện vọng tha thiết của quần chúng

nhân dân có đạo, và không sai lệch tư tưởng về tôn giáo và tự do tôn giáo của Hồ Chủ

tịch, nhưng có phần tả khuynh nóng vội. Trong Nghị Quyết 40 của Ban Bí thư về công tác

đối với các tôn giáo trong tình hình mới năm 1981 nhấn mạnh “ Tôn giáo phát sinh và tồn

tại là do sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh chống lại thiên tai và áp bức xã

hội. Khi cuộc sống còn chưa tốt đẹp, trình độ văn hoá còn thấp kém và chưa có một thế

giới quan khoa học, thì con người còn tin ở sức huyền bí nào đó, còn tin ở các tôn giáo”.

Bên cạnh đó “nhiều cán bộ, đảng viên đã mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh, coi nhẹ công

tác quần chúng, trong đó có công tác vận động, tổ chức và xây dựng cơ sở chính trị cốt

cán trong cộng đồng các tôn giáo. Nhận thức, quan điểm về công tác tôn giáo của một số

cán bộ đảng viên có những lệch lạc. Việc tổ chức thực hiện công tác tôn giáo chưa phát

huy được sức mạnh tổng hợp; bộ máy làm công tác tôn giáo quá yếu; chậm có quy hoạch

đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tôn giáo” (Nghị quyết 24.NQ.TƯ16.10.1990). Những

yếu kém trong công tác tôn giáo trên khiến các thế lực thù địch ra sức khai thác để chống

phá ta. Chúng vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vu cáo ta vi phạm nhân quyền,

Trong giai đoạn này Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo

cũng gặp nhiều khó khăn phức tạp, nhất là với đạo Phật giáo Hoà Hảo và đạo Cao Đài.

Năm 1989 các tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo đề nghị Nhà nước ta chấp thuận 3 vấn đề

sau:

1. Công nhận đạo Phật giáo Hòa Hảo được tồn tại trong xã hội.

2. Được tổ chức lễ ngày thành lập đạo 18.5 âm lịch một cách công khai.

3. Cho phép đọc sấm giảng Hòa Hảo trong tín đồ.

Khi được Nhà nước chấp thuận, một số phần tử phản động núp dưới chiêu bài giữ

đạo, lợi dung các cuộc tụ tập tín đồ hợp pháp như: Lập đoàn tín đồ đi viếng núi, chùa, dự

lễ giỗ Đoàn Minh Huyên, Ngô Lợi, Trần Văn Thành hoặc tung tin Nhà nước cho phép tổ

chức lễ 18.5 âm lịch sớm hơn mọi năm, để tập hợp tín đồ tuyên truyền sấm giảng, thuyết

pháp đạo. Nhiều băng cassette về sấm giảng, thuyết pháp đạo rộ lên và được phổ biến

khắp các huyện thị. Đồng thời trong tín đồ Phật giáo Hòa Hảo cũng lan truyền nhiều tin

đồn mê tín dị đoan, chiến tranh tâm lý như: năm Kỷ Tỵ sẽ tối trời tối đất, hoặc Việt Nam

rút quân khỏi Campuchia, chiến tranh sẽ xảy ra ác liệt hơn 1979,...nhằm gieo rắc tư tưởng

hoài nghi đối với chế độ và tâm lý không an tâm sản xuất trong quần chúng. Bọn phản

động, bọn xấu trong Phật giáo Hòa Hảo lợi dụng các chùa chiền, đình miếu có tổ chức lễ

giỗ hợp pháp để lồng vào màu sắc của đạo Phật giáo Hòa Hảo, nhằm biến nơi này thành

cơ sở thờ tự của đạo như: Chúng lợi dụng việc sửa chữa Dinh Quan Ông Thẻ để đưa trần

điều và ảnh Huỳnh Phú Sổ vào thờ, tuyên truyền chùa Phước Điền, Trại ruộng Thới Sơn

(Tịnh Biên) là nơi Huỳnh Phú Sổ hoạt động đạo lúc còn sống để tuyên truyền đưa tín đồ

“hành hương về cội nguồn của đạo”

Quá trình lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo trong giai đoạn trước 1990, Đảng

bộ Tỉnh An Giang đã giải quyết được một số sự vụ xảy ra ở các đạo mà cụ thể nổi bật

nhất là các sự vụ thuộc đạo Cao Đài. Từ khi hình thành và phát triển, các thế lực phản

động trong đạo Cao Đài luôn câu kết chặt chẽ với ngụy quân, ngụy quyền một mặt để

chống phá cách mạng, một mặt để kìm kẹp và ru ngủ tín đồ. Sau ngày giải phóng, một số

chức sắc đạo Cao Đài An Giang lợi dụng chính sách đổi mới của Nhà nước đối với tôn

giáo, lợi dụng một số sai sót của chính quyền địa phương trong việc sử dụng các thánh

thất Cao Đài làm trụ sở, nhà kho, trái chủ trương “cải tạo” đạo này của Đảng và Nhà nước

để họ đưa đơn khiếu nại xin lại thánh thất hoặc xin được tổ chức lễ như cũ. Đặc biệt có

nơi tín đồ xin phục hồi lại các chức vị cũ của đạo...Hoạt động chống đối của bọn phản

động lợi dụng Cao Đài nổi bật là năm 1978. Chúng nhen nhóm tập hợp tín đồ với tổ chức

mệnh danh là “Thiên Khai Huỳnh Đạo” nhằm xây dựng lực lượng vũ trang lật đổ chính

quyền. Năm 1983, chúng tham gia cái gọi là “Hội đồng hòa giải quốc tế” do Hồ Tấn

Khoa, Võ Văn Nhơn, Hồ Vũ Khanh cầm đầu .Chúng đã tổ chức hơn 60 tên trong Ban Trị

Sự, đạo hữu rải rác ở các Thánh thất Cao Đài trong Tỉnh tham gia, có băng cờ, lời hiệu

triệu chuẩn bị cho việc lật đổ chính quyền cách mạng. Công an Tỉnh đã phá án và xử lý

trong năm 1983. Từ sau Đại hội VI, đạo Cao Đài ở An Giang cũng như các tôn giáo khác

tích cực hoạt động cũng cố nhằm tái lập lại Ban Trị sự các cấp, phục hồi các chức sắc,

chức việc như cũ. Nguyễn Trung Chánh vốn là ông từ coi sóc Thánh thất Châu Đốc trực

tiếp làm đơn xin Mặt trận Tổ Quốc cho cúng “Lễ vía Hộ pháp” Phạm Công Tắc

(12.5.1989) và sau đó tiếp tục làm đơn xin làm lễ mừng sinh nhật Phạm Công Tắc

(8.6.1989 tức 5.5 âm lịch). Trong lễ sinh nhật có xe hoa múa lân, nhạc lễ,...Bên cạnh đó,

những người cầm đầu đã lén lút tăng cường dạy nhạc lễ cho các cháu thiếu nhi nhằm củng

cố lại ban nhạc lễ, đội đồng nhi, củng cố lại các nghi thức hoạt động đạo, làm cho tình

hình trở nên phức tạp hơn.

Nhìn chung, hoạt động và âm mưu của các đối tượng phản động lợi dụng Cao Đài

trong giai đoạn này là tích cực củng cố đức tin, tập hợp lực lượng, nắm tín đồ, kích động

đồng bào có đạo làm đơn đòi yêu sách (đòi mỗi ấp có một đại diện, mỗi hương đạo cho

bầu lại Ban Trị Sự, Lễ Sanh, cho khôi phục lại các chức danh chức sắc với đầy đủ các

nghi thức có cả phù hiệu, chức hiệu, chức sắc, cho vọng 7 tiếng chuông thật to khi làm

lễ,..) nhằm mục đích tái lập lại tổ chức hành chính Đạo, làm sầm uất các hoạt động của

Đạo, tập hợp lực lượng, chờ thời cơ để hoạt động chống phá cách mạng.

Để giải quyết vấn đề này Tỉnh uỷ, Uỷ ban ra quyết định thành lập Ban Tôn giáo

Dân tộc, tiếp tục các hoạt động cải tạo (theo tinh thần đạo lệnh 001) tức là không cho hoạt

động cơ bút, không cho tái lập tổ chức hành chánh đạo, không cho phục hồi lại số chức

sắc, chức việc. Về cơ sở tiếp tục quản lý điện thờ phật mẫu, mỗi thánh thất chỉ cho từ 1

đến 3 người cai quản, cho làm lễ các ngày rằm. Cho phép sữa chữa các thánh thất nhưng

phải làm đủ các thủ tục (đơn xin, bản thiết kế đảm bảo các tiêu chuẩn mỹ quan vệ sinh và

được sự cho phép của Uỷ ban nhân dân huyện. Riêng đối với công an, cho tiến hành công

tác trinh sát đối với một số đối tượng hoạt động phản cách mạng (các tổ chức bị tình nghi

phản cách mạng), cho phép lập án khi đủ điều kiện.

Bên cạnh các hoạt động trên, một số cơ sở tôn giáo đã có những hoạt động coi

thường pháp luật như tự ý sửa chữa chùa, đình, nhà thờ không xin phép chính quyền địa

phương, chứa chấp người lạ từ nơi khác đến tạm trú trong chùa, nhà thờ quá hạn quy

định, tổ chức quyên góp tiền trong dân để làm lễ giỗ trái phép. Đáng chú ý là tình hình

dân các tỉnh khác đến vùng Bảy Núi tự xây dựng am, cốc tu và tuyên truyền mê tín dị

đoan, khuếch trương thanh thế để lôi kéo người dân vào đạo. Việc thu hút nhiều người từ

nơi khác đến gây phức tạp và làm mất an ninh trật tự ở khu vực.

Với tình hình tôn giáo trong tỉnh, Đảng bộ tỉnh An Giang đã kịp thời lãnh đạo

thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác tôn

giáo. Qua nghiên cứu, chính quyền và các đoàn thể địa phương nhận thấy kẻ xấu lợi dụng

tôn giáo chủ yếu vào mục đích cá nhân. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng về phương diện

nào đó, các tôn giáo đã lôi cuốn được một số lượng quần chúng tham gia nhất định. Vì

vậy công tác đấu tranh của chính quyền địa phương thời gian này chủ yếu là công tác giáo

dục răn đe, công khai hóa các đối tượng đứng ra thuyết pháp đạo, tung tin đồn nhảm, mê

tín dị đoan, thu phát các băng cassette nói kinh, giảng, bàn luận thiên cơ, chứa chấp người

tạm trú trái phép, sửa chữa chùa, đền không xin phép chính quyền, tự động quyên góp

tiền của nhân dân để hoạt động đạo,...Tuy nhiên hiệu quả công tác đấu tranh chưa đạt yêu

cầu cao, nhất là đối với việc chủ động ngăn chặn những hoạt động tuyên truyền mê tín dị

đoan, tuyên truyền chiến tranh tâm lý, ta chưa kịp thời tổ chức phản tuyên truyền nên ít

nhiều có gây ảnh hưởng trong bộ phận quần chúng. Việc chứa chấp người từ nơi khác đến

tạm trú ở các cơ sở thờ tự tôn giáo để làm công hoả quá hạn gây khó khăn cho ta trong

việc giáo dục động viên, trục xuất họ về địa phương sản xuất. Việc sửa chữa, xây cất

đình, chùa ta thường bị động, ta giải quyết khi họ đã chuẩn bị sẳn sàng vật liệu, hoặc đến

khi họ xin phép ta mới phát hiện, thậm chí có nơi họ đã thi công xong.

Đây là giai đoạn đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Những thành tựu về

kinh tế ở địa phương góp phần làm phong phú thêm đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, đồng

thời đặt ra những nhu cầu mới.

Tuy nhiên những khuyết điểm trong trong công tác tôn giáo trong giai đoạn này là

khó tránh khỏi. Kiểm điểm công tác tôn giáo thời kỳ này, cơ quan chức năng chỉ ra những

nguyên nhân chủ yếu do sau:

1. Chúng ta chưa có những quy định cụ thể đối với từng loại tôn giáo trong Tỉnh

do “ta có Nghị quyết 40/BBT (1981), Nghị Quyết 297/HĐBT, Nghị định 288/HĐBT

(31.12.1985), Chỉ thị số 01/CT.HĐBT (15.1.1989) nhưng việc cụ thể hoá các nghị quyết,

nghị định này để áp dụng vào tình hình cụ thể của Tỉnh ta chưa làm được, chủ yếu ta đưa ra các đối sách tuỳ nơi tùy lúc và thiếu đồng bộ ở các huyện, thị”(1)

2. Về tính chất và mức độ của cuộc đấu tranh chống mọi hoạt động vi phạm trong

tôn giáo có liên quan đến quần chúng tín đồ, do đó chỉ riêng lực lượng công an, Mặt trận

Tổ quốc Tỉnh hay Sở văn hoá thông tin đấu tranh thì không thể đạt hiệu quả cao. Vì vừa

qua việc phân định trách nhiệm và phối hợp giữa các cơ quan chức năng và đoàn thể chưa

chặt chẽ.

3. Công tác phong trào quần chúng, nhất là quần chúng có tín ngưỡng chưa được

phát động thường xuyên, vấn đề sử dụng phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền

1 Báo cáo số 628/DT.PA11 của BCH phản gián về đề xuất đối sách đối với tôn giáo trong tỉnh An Giang (10.4.1989)

chủ trương của ta để giáo dục sâu rộng trong quần chúng chưa được coi trọng. Do đó ta

chưa vận động được quần chúng tham gia mạnh mẽ vào cuộc đấu tranh này.

1.2.3. Những kết quả đã đạt được trong công tác tôn giáo ở địa phương.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, đồng bào các

dân tộc và bà con lương giáo ở An Giang đã đoàn kết chiến đấu, lập nên nhiều thành tích

vẻ vang, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đảng và Nhà nước đã

tuyên dương tỉnh An Giang và các huyện trong tỉnh như huyện Tịnh Biên, Tri Tôn, Thoại

Sơn cùng 23 xã, 16 cá nhân đạt danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang và phong

tặng danh hiệu bà mẹ Việt Nam anh hùng cho 240 người. Trong thời kỳ hòa bình xây

dựng đất nước, An Giang là tỉnh được Trung ương đánh giá có vai trò đột phá cho toàn

vùng và cả nước, làm chuyển biến tốt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đại bộ

phận chức sắc, tín đồ các tôn giáo rất phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, an

tâm sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo, tích cực tham gia các phong trào cách mạng ở địa

phương, góp phần làm thất bại mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá sự nghiệp

cách mạng ở nước ta.

Thực tế này đã góp phần làm rõ hơn nhận thức của Đảng bộ về vấn đề tôn giáo và

công tác tôn giáo cụ thể; đó là việc gắn các hoạt động quản lý tôn giáo với chăm lo đời

sống của giáo dân. Thực hiện các chính sách kinh tế, phát triển sản xuất, chăn nuôi, đắp

đê bao chống lũ, tôn cao nền nhà giúp đỡ đồng bào nghèo có đạo chăm lo đời sống cho

quần chúng tín đồ tôn giáo ngày càng được nâng lên.

- Xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, điện, nước, trường học, trạm xá và đào tạo

hàng ngàn giáo viên, kỹ sư, bác sĩ và cán bộ chuyên môn khác là con em tín đồ.

- Đảm bảo quyền lợi chính trị cho bà con tín đồ tham gia bầu cử, ứng cử Quốc hội,

Hội đồng nhân dân, Uỷ ban mặt trận các cấp. Xây dựng nhà tình nghĩa, thực hiện các

chính sách đối với bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có

công với cách mạng và tạo điều kiện cho các tín đồ được sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo

theo giáo lý, giáo luật. Sự quan tâm chăm lo đến quyền lợi thiết thân và chính sách tín

ngưỡng của Đảng và Nhà nước đã làm cho người có đạo gắn bó với dân tộc, giác ngộ

cách mạng, tin Đảng, đã phát huy tinh thần yêu nước, tin tưởng vào chế độ, chấp hành

nghiêm chỉnh chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước gắn thực hiện sinh hoạt tôn

giáo với việc chăm lo phát triển kinh tế – văn hóa, xã hội.

Trong giai đoạn đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ 1975 đến 1990,

Đảng bộ An Giang đã lãnh đạo thực hiện chính sách tôn giáo và đã đạt được những thành

công bước đầu. Về cơ bản đã có sự phân công phân cấp trong công tác lãnh đạo thực hiện

của các cơ quan ban ngành trong Tỉnh.

- Về hoạt động tôn giáo: Đây được xem là hoạt động của những người tu hành, tổ

chức thờ cúng thường ngày và cả những ngày lễ gĩô ở các gia đình có đạo hay ở cơ sở thờ

tự, thánh thất, nhà thờ, chùa, am, miếu,.. Trong lĩnh vực này Mặt trận Tổ quốc các cấp

chịu trách nhiệm quản lý.

- Các hoạt động chủ yếu mang tính chất tính ngưỡng như việc tổ chức các lễ hội

của dinh, đình, lăng, tẩm, di tích lịch sử, di tích văn hoá, (đặc biệt là lễ hội “Vía Bà Chúa

Xứ”)...do cơ quan Văn hóa Thông tin và Ban tuyên giáo các cấp chịu trách nhiệm giám

sát, kiểm soát tổ chức quản lý các hoạt động này, không để tôn giáo chen vào lợi dụng.

- Các hoạt động có tính chất mê tín dị đoan thường gắn liền với tôn giáo, tín

ngưỡng và lan truyền khá rộng trong nhân dân. Do đó, trách nhiệm đấu tranh ngăn chặn

thuộc về cả hệ thống chính trị, trong đo nồng cốt là các đoàn thể quần chúng, các cơ quan

văn hóa thông tin và công an các cấp.

Chương 2

Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo thực hiện

công tác tôn giáo từ năm 1990 đến năm 2004

2.1 Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo thời kỳ 1990 -

2003

2.1.1 Đổi mới nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo của Đảng.

Nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến đổi mới về công tác tôn giáo

của Đảng.

Con người cùng sống trong một thế giới vật chất đa dạng và phong phú thì thế giới

tinh thần phản ánh nó không thể đồng nhất được. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo là phù hợp với quy luật khách quan và xu thế chung hiện nay. Nhưng những quyền

tự do ấy phải đặt trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Bởi lẽ vấn đề tôn giáo có quan

hệ và tác động chặt chẽ với xã hội, nên nhà nước nào cũng cần thực hiện chức năng quản

lý xã hội.

Trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới, chế độ xã hội chủ nghĩa cũng cần

những con người có đạo đức tôn giáo. Những tin thần "bình đẳng", "bác ái" và đức “từ bi,

hỉ xả”, “vô ngã, vị tha” cũng là điều mong muốn của đạo đức cộng sản. Trong cuộc đối

thoại giữa Fidel Castro với linh mục Bectto, Phidel có nói “ những sự trùng hợp giữa Kitô

giáo và chủ nghĩa cộng sản nhiều gấp vạn lần so với những trùng hợp có thể có giữa Kitô

giáo với chủ nghĩa tư bản(...). Không nên gây những chia rẽ như thế giữa con người với

nhau. Chúng ta hãy tôn trọng các xác tín, các niềm tin, các cách giải thích. Mỗi người cứ

giữ lập trường của mình, cứ theo tín ngưỡng riêng. Thế nhưng, trong lĩnh vực các vấn đề

nhân bản mà mọi người chúng ta đều quan tâm và cũng là nghĩa vụ của mọi người, thì

chúng ta cần phải hoạt động” (Fidel và tôn giáo do UB đoàn kết công giáo yêu nước VN

xb 1986, tr 13-14). Khi nhắc đến những nữ người CuBa phục vụ tại các bệnh viện, Phidel

Castro nêu rõ “Các công việc mà những nữ tu đó làm cũng là những việc mà người ta

mong muốn một người cộng sản thực hiện. Khi chăm sóc những người cùi, những người

lao phổi và những người mắc các chứng bệnh dễ lây khác, các nữ tu đang làm điều mà

chúng tôi cũng muốn một người cộng sản phải làm. Một người tự hiến thân cho một lý

tưởng, một công việc, có thể hy sinh chính mình cho người khác, người đó đang làm điều

mà chúng tôi cũng muốn một người cộng sản làm” (Fidel và tôn giáo do UB đoàn kết

công giáo yêu nước VN xb 1986 tr 16). Vì những đạo đức tôn giáo mang tính nhân loại sẽ

trường tồn với sự phát triển của lịch sử. Song, từ khi xã hội phân chia giai cấp, trong tôn

giáo cũng phản ánh những lợi ích giai cấp khác nhau. Do đó, đạo đức tôn giáo không thể

không mang tính giai cấp. Điều đáng chú ý là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không có sự

đối lập với lý tưởng xã hội của một số tôn giáo lớn đang tồn tại. Linh mục Béctơ (người

Brazin) có nói: “Xã hội xã hội chủ nghĩa trong khi tạo ra những điều kiện cho dân chúng

sinh sống không ngờ họ đã thực hiện điều mà những người có đức tin chúng tôi gọi là kế

hoạch của Chúa trong lịch sử”.

Một khảo sát gần đây ở những vùng có đông tín đồ tôn giáo cho thấy: sản xuất phát

triển, thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước, những hiện tượng tiêu cực, tệ nạn

xã hội như: trộm cắp, rượu chè, mại dâm, cờ bạc, tranh chấp,... giảm đi rõ rệt so với các

vùng dân cư khác. Những người quy y tam bảo, những người năng đi đến nhà thờ thường

có tính đôn hậu nhân từ, giàu tình thương đồng loại. Về nhiều điểm, đạo đức tôn giáo

không có sự khác biệt lắm với đạo đức cộng sản, đạo đức ấy chẳng những không cản trở

mà còn góp phần xây dựng một xã hội tương lai như mơ ước của những người cộng sản.

Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo và nhiều thành phần dân tộc. Mỗi tôn giáo

có một lịch sử hình thành hoặc du nhập phát triển ở Việt Nam. Tuy số lượng tín đồ, chức

sắc, cơ sở thờ tự, vị trí vai trò xã hội và đặc điểm khác nhau, nhưng mọi tôn giáo đều tồn

tại trong lòng dân tộc Việt Nam. Vì vậy lợi ích tôn giáo gắn liền với lợi ích dân tộc. Chủ

tịch Hồ Chí Minh sớm hiểu rõ vấn đề này. Trong bức thư gởi đồng bào tôn giáo nhân

ngày lễ Chúa giáng sinh, Người viết: “ Toàn thể đồng bào ta, không chia lương giáo, đoàn

kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến, để giữ vững non sông Tổ quốc, mà cũng để giữ gìn

quyền tôn giáo tự do”( Hcm tt, Nxb CTQG HN 1995 t4 tr 490). Được vũ trang bằng phép

biện chứng duy vật, với sự am hiểu về văn hoá và lịch sử sâu sắc, Hồ Chí Minh đã nhận

thấy sự tương đồng giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội, sự tương đồng giữa người có đạo

với người người không có đạo. Suy cho cùng mọi tôn giáo chân chính đều đưa ra một mô

hình xã hội tốt đẹp. Những tín đồ tôn giáo chân chính đều mong muốn nước nhà độc lập,

đồng bào được tự do, hạnh phúc. Vì vậy, Hồ Chí Minh có thái độ biện chứng, mềm dẻo

đối với các tôn giáo. Người đã phát hiện những giá trị tích cực của tôn giáo và biết khai

thác, kết hợp chúng với tư tưởng cộng sản nhằm đem lại lợi ích cho cách mạng. Người

viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo

Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là

phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của

nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những

ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn hạnh phúc cho loài người, cho xã hội. Nếu nay họ

còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ tôi tin rằng họ nhất định sống chung với

nhau hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của

các vị ấy” (Dẫn theo Nghiên cứu Hồ Chí Minh tt, Viện Hồ Chí Minh xuất bản CTQG HN,

1995 t2tr 134). Trong bài nói tại Quốc hội Inđônêxia ngày 28.2.1959, Hồ Chí Minh nói:

“Trong hơn 80 năm thống trị nước chúng tôi, bọn thực dân dùng mọi thủ đoạn để chia rẽ

dân tộc, chia rẽ tôn giáo, chúng áp dụng chính sách cổ điển là: chia để trị”( Hồ Chí Minh

ttNXB CTQG HN, 1995 t 9 tr 347). Vì vậy, vấn đề bức thiết đặt ra là làm sao để đoàn kết

đồng bào có đạo và không có đạo, đoàn kết dân tộc, tăng cường sức mạnh dân tộc, hướng

sức mạnh đó vào thực hiện mục tiêu chủ yếu của cách mạng, đấu tranh thắng lợi với âm

mưu chia rẽ của kẻ thù.

Như vậy, tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng, song phải thẳng thắng

nhận rằng, suốt một thời kỳ dài chúng ta chưa nhận thức đầy đủ, thậm chí còn buôn lỏng

mặt trận quan trọng này. Chúng ta chưa quán triệt quan điểm của các nhà kinh điển

Macxit về nhiệm vụ của những người cộng sản là "không được thờ ơ" trước tình trạng

thiếu giác ngộ của các tín đồ tôn giáo, rằng phải coi "đấu tranh tư tưởng" là một "nhiệm

vụ quan trọng của Đảng", thông qua hoạt động của đảng viên trên mặt trận quan trọng

này.

Đại hội lần thứ VI của Đảng mở ra quá trình đổi mới toàn diện ở nước ta, trước hết

đổi mới về tư duy. Nhiều vấn đề lý luận của Đảng được nhận thức lại hoặc nhận thức đầy

đủ hơn. Việc đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo diễn ra trong bối

cảnh như vậy. Đây vừa là kết quả của quá trình nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, vừa là kết quả của quá trình hội nhập

quốc tế của đất nước.

Đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo còn xuất phát từ những

thực tế sau:

Một là, sự nghiệp đổi mới phải được tiến hành một cách đồng bộ nhịp nhàng, có

bước đi và có trọng điểm. Tôn giáo gắn liền với các lĩnh vực kinh tế và xã hội khác. Nếu

đổi mới kinh tế, xã hội mà không đổi mới tôn giáo và công tác tôn giáo thì tôn giáo sẽ cản

trở đổi mới.

Hai là, số lượng tín đồ các tôn giáo chiếm 1/4 dân số là một lực lượng quần chúng

đông đảo. Đổi mới trong lĩnh vực tôn giáo và công tác tôn giáo để đồng bào được hưởng

lợi ích từ đổi mới; đó sẽ là nguồn động viên cổ vũ giúp họ gắn bó, tham gia tích cực vào

sự nghiệp đổi mới.

Ba là, tôn giáo là một trọng điểm mà các thế lực thù địch muốn nắm lấy để thực

hiện âm mưu diễn biến hoà bình, chống phá sự nghiệp đổi mới của ta. Nếu ta không kịp

thời đổi mới để nắm dân thì số lượng đông đảo đến hàng chục triệu tín đồ dễ rơi về phía

địch.

Bốn là, tôn giáo không phải chỉ có mặt tiêu cực. Thực tế nhiều vùng đồng bào có

đạo, tình hình an ninh trật tự khá tốt, tệ nạn xã hội ít, sản xuất phát triển. Những mặt tích

cực này góp phần vào sự ổn định chính trị – xã hội, an ninh quốc phòng. Nếu biết nắm lấy

những điểm tương đồng và phát huy những mặt tích cực trong đồng bào tôn giáo, sẽ tạo ra

phấn khởi làm cho đồng bào gắn bó với đổi mới, và qua đổi mới đồng bào sẽ tự đổi mới

mình.

khái quát về sự đổi mới công tác tôn giáo của Đảng

Ngày 16.10.1990, Bộ Chính trị đã ra NQ 24/NQ24.TƯ về công tác tôn giáo trong

tình hình mới. Nghị quyết này đánh dấu nhận thức mới của Đảng về tôn giáo và công tác

tôn giáo ở nước ta. Điều nổi bật là việc Đảng khẳng định tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu

dài và là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù

hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Nghi quyết 24/NQTƯ đã nêu ra 3 quan điểm chỉ

đạo đổi mới công tác tôn giáo, 3 nhiệm vụ, 5 nguyên tắc và 5 chính sách cụ thể đối với tín

đồ, với chức sắc nhà tu hành, với tổ chức giáo hội, với hoạt động từ thiện xã hội của tôn

giáo và với hoạt động đối ngoại của tôn giáo.

Ngày 21.3.1991 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 69/NĐ.HĐCP cụ thể hoá

những nội dung quan điểm của Nghị quyết 24/NQ.TƯ. Nghị quyết 24 và Nghị định 69 đã

tác động mạnh tới tình hình tôn giáo ở nước ta theo chiều hướng tích cực.

Năm 1994, Ban Bí thư đã chỉ đạo việc sơ kết thực hiện Nghị quyết 24/NQ.TƯ.

Việc sơ kết này bước đầu đánh giá tác động và hiệu quả của quan điểm mới. Có thể khẳng

định rằng so với Nghị quyết số 40/NQ.TƯ ngày 1.10.1981 của Ban Bí thư đến Nghị quyết

số 24/NQ.TƯ ngày 16.10.1990 của Bộ Chính trị vấn đề tôn giáo được đặt ra gần như hoàn

toàn mới. Nghị quyết 40 (1981) khẳng định “Tôn giáo phát sinh và tồn tại là do sự bất lực

của con người trong cuộc đấu tranh chống lại thiên tai và áp bức xã hội. Khi cuộc sống

còn chưa tốt đẹp, trình độ văn hoá còn thấp kém và chưa có một thế giới quan khoa học,

thì con người còn tin ở sức huyền bí nào đó, còn tin ở các tôn giáo. Giai cấp bóc lột, nhất

là chủ nghĩa đế quốc lại ra sức lợi dụng tôn giáo để ru ngủ, mê hoặc quần chúng nhằm

phục vụ cho sự thống trị, bóc lột và xâm lược của chúng nên càng làm cho tôn giáo phát

triển. Mặc khác, tôn giáo lại mang tính chất quần chúng thì càng nhiều người tin theo và

đối với những người có đạo, tôn giáo là một “tình cảm thiêng liêng”, thậm chí là một “lý

tưởng”, mặc dù đó là tình cảm không đúng và lý tưởng mù quáng. Cho nên Mác nói:

“Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Đảng của giai cấp công nhân có trách nhiệm giải

phóng quần chúng lao động khỏi mọi áp bức xã hội và áp bức tinh thần trong đó có việc

giải phóng quần chúng lao động khỏi mọi áp bức tôn giáo. Việc giúp quần chúng khắc

phục mê tín tôn giáo, không phải chỉ bằng đấu tranh tư tưởng, tuyên truyền về lý luận,

càng không thể bằng những biện pháp hành chính. Vấn đề cơ bản là Đảng phải vận động,

lãnh đạo quần chúng đoàn kết đấu tranh cách mạng, xoá bỏ áp bức, bóc lột, xây dựng chủ

nghĩa xã hội, nâng cao đời sống kinh tế, trình độ văn hoá và kiến thức khoa học cho quần

chúng đồng thời giúp quần chúng xây dựng nhân sinh quan, thế giới quan cách mạng và

khoa học".

Thời kỳ này, trên thực tế nhiều nơi các cấp chính quyền đã "cấm đạo", tìm cách

hạn chế đi đến "xóa bỏ" các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng.

Gần mười năm sau (1990), Nghị quyết 24 của Bộ chính trị khẳng định: “Tôn giáo

là một vấn đề tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận

nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới.

Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của

nhân dân, thực hiện đoàn kết lương giáo, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc”(NQ của BCT số 24 khoá VI).

Như vậy, nhận thức của Đảng về vấn đề tôn giáo có bước phát triển mới. Giữa

cách mạng và tôn giáo đã có những điểm tương đồng nhất định về đạo đức và văn hóa;

tôn giáo sẽ cùng tồn tại lâu dài dưới chủ nghĩa xã hội chứ không phải là mâu thuẫn đến

mức phải loại trừ lẫn nhau.

Thực hiện đường lối chính sách pháp luật trên từ 1994 đến 1998 Chính phủ lần

lượt thừa nhận tư cách pháp nhân cho các hệ phái Cao Đài và xem xét việc thành lập Ban

đại diện của Phật giáo Hòa Hảo, đồng thời hướng dẫn các cấp tổng kết thực hiện Nghị

quyết 24. Qua tổng kết đã khẳng định tính đúng đắn của các quan điểm trong Nghị quyết

24, đồng thời yêu cầu mở rộng đoàn kết, tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo. Ngày

2.7.1998 Ban chấp hành Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 37/CT. Ngày 20.6.1994 Ban

Bí thư ra Thông báo số 76/TB.TƯ trong đó lần đầu tiên nêu ra khái niệm mới "đảng viên

có đạo". Điều này phù hợp với tư tưởng của các nhà kinh điển Mác-Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh. V.I. Lênin cũng không hề có sự phân biệt giữa người có đạo với người không

có đạo. Vấn đề đối với quần chúng lao động là “Đối với chúng ta, sự thống nhất trong

cuộc đấu tranh cách mạng thực sự đó là của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh

cực lạc trên trái đất, là quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về

cảnh cực lạc trên thiên đường” (V.I.Lênin Tt, Nxb tiến bộ M, 1979, t12, tr169-175). Lênin

kêu gọi cần kết nạp những người có đạo vào Đảng Dân chủ Xã hội để cùng toàn dân đấu

tranh cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa: “Chúng ta không những phải sẳn sàng kết nạp, mà

còn cố gắng thu hút vào Đảng Dân chủ Xã hội tất cả những công nhân còn tin ở thượng

đế” và “Chúng ta nhất định phản đối bất cứ một sự xúc phạm nhỏ nào đến những tín

ngưỡng tôn giáo của họ” (V.I.Lênin Tt, Nxb tiến bộ M, 1979, t12, tr169-175). Về vấn đề

này, vào năm 1955, trong bài nói chuyện ở lớp huấn luyện cán bộ tri thức, Hồ Chí Minh

đã có quan điểm dứt khoát: “Có anh em hỏi một người Công giáo có thể vào Đảng được

không? Có. Người tôn giáo nào vào cũng được, miễn là trung thành, hăng hái làm nhiệm

vụ, giữ đúng kỷ luật Đảng. Nước ta kinh tế lạc hậu, kỹ thuật kém, tôn giáo là duy tâm,

cộng sản là duy vật, nhưng trong điều kiện hiện tại, người theo đạo vẫn vào Đảng

được”(HCMTTNXBCTQGHH, T7 tr115)

Ngày 19.4.1999 Chính phủ ban hành Nghị định 26/NĐ.CP về các hoạt động tôn

giáo đã tạo điều kiện cho các địa phương thực hiện tinh thần đổi mới của Nghị quyết 24

một cách có hiệu quả.

Đại hội IX của Đảng (2001) khẳng định lại những tư tưởng chủ đạo, cơ bản, có

nguyên tắc phổ biến về quan điểm của Đảng đối với lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Các

cuộc hội nghị Trung ương (khoá IX) bàn và ra nghị quyết chuyên đề về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là cơ sở chỉ đạo để xây dựng

các văn bản pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam.

2.1.2 Chủ trương, biện pháp thực hiện công tác tôn giáo của Đảng bộ An

Giang.

Quán triệt và vận dụng việc thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước

vào điều kiện thực tế ở An Giang, Đảng bộ tỉnh An Giang đề ra nhiều chủ trương, biện

pháp thực hiện cụ thể, phù hợp với điều kiện địa phương, nhờ đó đã tạo ra bước phát triển

mới trên nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đời sống nhân dân ngày

càng được cải thiện và nâng cao, đã tạo được lòng tin của đại đa số quần chúng. Đồng

thời với sự phát triển về kinh tế và đời sống là sự đổi mới về chính sách xã hội và công

tác tôn giáo. Chính sách mới cũng đã được thực hiện có kết quả tốt trên các địa bàn tỉnh,

tạo được sự an tâm, phấn khởi. Tâm trạng lo lắng, hoài nghi của tín đồ, kể cả phần lớn các

chức sắc cũng giảm nhiều. Từ đó hoạt động của các tôn giáo có những tiến bộ theo hướng

tôn giáo gắn liền với dân tộc và chế độ, đạo gắn với đời.

Nghị quyết 24 BCT đánh dấu bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng về tôn

giáo và công tác tôn giáo. Đảng bộ tỉnh An Giang đã quán triệt các quan điểm mới này

vào mọi lĩnh vực hoạt động, đặc biệt là công tác tôn giáo vận của địa phương.

Qua tiếp thu Nghị quyết 24/NQ.BCT của Bộ chính trị và Nghị định 69/NĐ.HĐBT

của Hội đồng Bộ trưởng, căn cứ đặc điểm tình hình tôn giáo địa phương, Ban Thường vụ

Tinh uỷ đã ban hành Chỉ thị 15 CT/TƯ nhằm triển khai việc thực hiện Nghị Quyết

24/NQ.TƯ của BCT về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới (12.4.1991),

trong thời gian này UBND Tỉnh cũng ra Thông tư số 2.TT/UB để hướng dẫn việc thi

hành Nghị định 69/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về các hoạt động tôn giáo

(15.5.1991). Những nội dung công tác nói trên đã kịp thời được quán triệt đến trưởng, phó

ban ngành cấp tỉnh và cán bộ chủ chốt của huyện, thị. Mặt trận và các đoàn thể các cấp đã

học tập theo hệ thống từ ngành dọc đến tận đoàn viên, hội viên, làm cho mỗi ngành, mỗi

cán bộ, đảng viên và các tổ chức xác định rõ tầm quan trọng của công tác tôn giáo và

trách nhiệm của các cấp ngành và trong cả hệ thống chính trị.

Chỉ thị 15/CT.TƯ cũng xác nhận tôn giáo là vấn đề chính trị phức tạp. Công tác

tôn giáo trong Tỉnh cũng đặt ra những vấn đề cấp bách vì An Giang cũng là một trong

những “điểm nóng” cần phải giải quyết bằng những chủ trương, biện pháp phù hợp và

nhất quán. Chỉ thị 15 đã quán triệt quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 24 của Bộ Chính Trị

để đảm bảo tính thống nhất hành động khi xử lý các vấn đề có liên quan đối với tôn giáo

một cách đúng đắn. Những nội dung then chốt trong các quan điểm đó là: “Tôn giáo là

một hiện tượng xã hội còn tồn tại lâu dài và là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận

quần chúng có đạo”( ct15 tr2), vì đây là một thực tế khách quan không ai có thể phủ nhận

và “không thể chủ quan, duy ý chí làm trái quy luật, khi xem xét các vấn đề tôn giáo”

(ct15 tr2). Thực tế cho thấy tôn giáo là còn vấn đề đấu tranh chính trị gay gắt, phức tạp

giữa cách mạng và các thế lực phản động. Do đó cần phải “thật sự tôn trọng tự do tín

ngưỡng của đồng bào có đạo, nhưng phải đấu tranh kiên quyết, loại trừ yếu tố chính trị

phản động ra khỏi vấn đề tôn giáo” (ct15 tr2).

Theo Chỉ thị 15 thực chất của công tác tôn giáo là “công tác vận động quần chúng.

Quần chúng có đạo hay không có đạo đều là công dân, có quyền và nghĩa vụ như nhau”.

Công tác vận động quần chúng tôn giáo là đoàn kết tập hợp quần chúng đi theo Đảng xây

dựng chủ nghĩa xã hội bằng việc làm có ích của quần chúng, tôn trọng quyền tự do tín

ngưỡng, nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, xây dựng con người mới, phát huy khả năng

cách mạng của quần chúng tôn giáo tích cực đóng góp vào sự nghiệp chung của dân tộc.

Đó là nhân tố quyết định của công tác tôn giáo. Tuy nhiên ngoài việc bảo vệ lợi ích cho

đồng bào có đạo cần đấu tranh chống bọn phản động lợi dụng tôn giáo “Việc đáu tranh

hạn chế mặt tiêu cực trong quần chúng tôn giáo và chống bọn phản động lợi dụng tôn

giáo phải tiến hành kiên quyết, kịp thời, nhưng khôn khéo, tế nhị và kiên trì” (ct15 tr2).

Để thực hiện được nhiệm vụ công tác tôn giáo trong tình hình mới như Nghị quyết

24/NQ.TƯ đã đề ra toàn Đảng bộ cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức trong

hệ thống chính trị và Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng như “làm tốt công tác tôn giáo

bằng những nội dung và phương pháp phong phú, đa dạng trên cơ sở cứng rắn về lập

trường nguyên tắc và mềm dẽo, linh hoạt về sách lược” (ct15 tr3). Đây là cơ sở để cán bộ

làm công tác tôn giáo xử lý và ứng phó đúng đắn mọi vấn đề đặt ra về tôn giáo nhằm

tranh thủ nhân tâm, nắm chặt khối quần chúng tín đồ, hướng tư tưởng, tình cảm của đồng

bào ngày càng gắn bó với chế độ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó cũng cần phân hoá chức

sắc, nắm chắc những người tiến bộ, giáo dục lôi kéo những người trung lập còn ngả

nghiêng chưa bị kẻ xấu lợi dụng làm sa ngã. Cảm hoá kẻ lạc hậu và xử lý thích đáng

những hành vi phạm pháp của bọn phản động trong tôn giáo là một vấn đề vô cùng khó

khăn và tưởng chừng như nan giải.

Chỉ thị 15 cũng đề ra nhiệm vụ cụ thể của công tác tôn giáo trong Tỉnh mà vấn đề

quan trọng trước tiên phải là “chăm lo phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống

vật chất và văn hoá tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, trong đó có quần chúng tôn giáo”

(ct15 tr3), vì kinh tế là cơ sở cho việc phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, do đó việc

nâng cao đời sống nhân dân nói chung, người có đạo nói riêng, xây dựng cơ sở hạ tầng,

phúc lợi xã hội là việc làm trước tiên để thực hiện tự do tín ngưỡng, đoàn kết tôn giáo,

đoàn kết dân tộc, tạo bầu không khí xã hội cởi mở, lành mạnh, gắn bó tôn giáo với dân tộc

với chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ

quốc, Ban Tôn giáo và đoàn thể các cấp là phải “thường xuyên chủ động gặp gỡ, tạo mối

quan hệ gần gũi với các chức sắc, nhà tu hành để tìm hiểu tình hình, tâm tư, nguyện vọng

của họ, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, đấu tranh, hạn chế mặt tiêu cực và

hướng dẫn các chức sắc, đồng bào tín đồ hành đạo trong khuôn khổ pháp luật, khuyến

khích xu hướng tiến bộ, gắn lợi ích tôn giáo với lợi ích dân tộc, làm tốt đời đẹp đạo” (ct15

tr3). Nhiệm vụ của các cấp bộ Đảng và Chính quyền là cần làm cho mọi người hiểu rõ tôn

giáo là lĩnh vực mà kẻ địch đặc biệt chú trọng lợi dụng để phá hoại sự nghiệp cách mạng

của nhân dân ta. Nhất là trong tình hình Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, chúng có

nhiều mưu đồ tinh vi, thâm độc. Vì vậy, đây là nhiệm vụ quan trọng mà mọi người dân

cần phải đề cao cảnh giác và thấy hết trách nhiệm của mình tích cực góp phần đấu tranh

đập tan âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của kẻ địch, giữ gìn ổn định chính trị, bảo

đảm an ninh tổ quốc. Chỉ thi cũng nhấn mạnh việc Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

chính trị xã hội, Ban Tôn giáo cần “phát huy vai trò chính trị – xã hội, đẩy mạnh công tác

vận động và tổ chức quần chúng”. Do đó việc phát triển đoàn viên, hội viên các đoàn thể

và những tổ chức quần chúng thông thường khác trong vùng đồng bào có đạo nhằm đoàn

kết, hợp nhất, phát động và hướng dẫn quần chúng hành động cách mạng mà “cốt cán là

những đảng viên trong các tôn giáo”. Cần quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động xã hội

phù hợp với tôn giáo để dần dần hướng các chức sắc tôn giáo vào các hoạt động lành

mạnh “tốt đạo, đẹp đời”. Tỉnh uỷ cũng đã đề ra mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và

ổn định cán bộ làm công tác tôn giáo ở các cấp.

Những nhiệm vụ mà Chỉ thị 15 nêu ra trong việc thực hiện chính sách tôn giáo của

Đảng trong Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị dựa trên điều kiện cụ thể của tỉnh An Giang

và ba nguyên tắc mà Bộ Chính trị đề ra:

Một là, quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của người dân phải được đảm

bảo. Mọi công dân dù có đạo hay không có đạo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có

quyền và nghĩa vụ như nhau.

Hai là, các tôn giáo phải tuân thủ pháp luật và sự quản lý về mặt nhà nước của

chính quyền địa phương.

Ba là, hoạt động của các tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp được đảm bảo.

Những hoạt động mê tín dị đoan bị bài trừ. Mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại sự

nghiệp cách mạng của nhân dân bị xử lý theo pháp luật.

Tiếp theo đó là những công tác cụ thể đối với tín đồ, chức sắc, nhà tu hành, các cơ

sở tôn giáo và tổ chức giáo hội.

Đối với tín đồ. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy: “ở xã hội, muốn thành công

phải có 3 điều kiện: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ba điều kiện quan trọng cả. Nhưng

thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hoà.

Nhân hoà là thế nào? Nhân hòa là mọi người đều nhất trí. Nhân hòa là quan trọng hơn

hết”(Hồ Chí MinhTTNxbCTqg HN 1995 t5tr479 ). Chính vì thế, mọi chính sách của Nhà

nước ta đối với tôn giáo nói chung, với tín đồ các tôn giáo nói riêng đều nhằm tạo ra

“nhân hòa”.

Chính sách đối với tín đồ, như việc tín đồ tôn giáo được tự do thờ cúng, đọc kinh

giảng trong phạm vi gia đình, theo lễ nghi sinh hoạt thuần tuý tôn giáo và trong các ngày

lễ vía theo truyền thống, tập tục; tín đồ được đến nơi thờ tự của tôn giáo mình hành lễ

bình thường và không được phép làm điều gì gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị và

trật tự an toàn xã hội. Tín đồ tôn giáo có trách nhiệm và ý thức đấu tranh không chấp nhận

những điều chỉ dẫn của chức sắc, nếu điều đó phương hại đến lợi ích xã hội và Tổ quốc,

vì mỗi tín đồ đều là công dân nên cũng có quyền và nghĩa vụ như những công dân khác.

Đối với chức sắc, nhà tu hành. Đội ngũ chức sắc là nòng cốt của các giáo hội; họ

giữ vai trò, vị trí quan trọng trong quá trình hành đạo, quản đạo và truyền đạo; đồng thời,

họ còn giữ vai trò chủ yếu trong mối quan hệ giữa giáo hội và Nhà nước, giữa tôn giáo

của họ với xã hội, giữa giáo hội của họ với các giáo hội của các tôn giáo khác. Do vậy,

chính sách cụ thể đối với chức sắc tôn giáo là một khâu hết sức quan trọng trong hệ thống

chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Chỉ thị 15 cũng xác định “Chức sắc, nhà tu

hành được hoạt động tôn giáo đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng hợp lý của tín đồ, đúng luật

pháp tại nơi mình phụ trách”(CT15 tr4). Nếu các chức sắc, nhà tu hành tiến bộ, hoặc các

cơ sở tôn giáo được khuyến khích tham gia hoạt động xã hội, từ thiện thì phải “hoạt động

theo sự tổ chức, hướng dẫn của Mặt trận Tổ quốc, hòa nhập vào hoạt động chung của Mặt

trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội dưới sự quản lý của Nhà nước, không chấp

nhận cá nhân, hoặc cơ sở tôn giáo hoạt động xã hội, từ thiện riêng lẻ” (CT15 tr5). Bên

cạnh đó Mặt trận Tổ quốc các cấp có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ hoạt động tôn giáo

thuần tuý của các chức sắc, nhà tu hành được thuận lợi. Mặt khác có nhiệm vụ nghiên cứu

đề xuất với các cấp ủy Đảng lãnh đạo, xứ lý đúng đắn những vấn đề đặt ra có liên quan

tới tôn giáo và phối hợp chặt chẽ với chính quyền, giúp chính quyền quản lý hoạt động

tôn giáo đúng chính sách và pháp luật.

Các chức sắc, nhà tu hành cũng phải có trách nhiệm và nghĩa vụ công dân như mọi

công dân khác và được bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên điều mà Chỉ thị 15 đưa ra là

“việc bắt giữ và xét xử các chức sắc, nhà tu hành vi phạm luật pháp chính quyền, các cấp

huyện, xã phải báo cáo trước với chính quyền cấp tỉnh; nếu là linh mục Thiên Chúa và

cấp tương đương các tôn giáo khác, tỉnh phải báo cáo trước với trung ương, trừ trường

hợp phạm pháp quả tang và khẩn cấp” (CT15 tr5).

Đối với các cơ sở tôn giáo và việc tổ chức các giáo hội. Chùa miếu, tịnh xá, am

viện, nhà thờ, thánh thất, thánh đường... phải đăng ký với chính quyền cơ sở về tổ chức

nhân sự và chương trình hoạt động tôn giáo thường lệ. Những hoạt động bất thường ngoài

đăng ký đều phải xin phép chính quyền, “việc trùng tu, tái tạo, hoặc xây cất mới cơ sở tôn

giáo phải theo đúng quy định của Uỷ ban nhân dân tỉnh hiện hành. Những việc làm sai

trái cần được đấu tranh, xử lý” (CT15 tr5). Nhu cầu về các hoạt động thông thường của

tôn giáo hay nhu cầu trùng tu, tái tạo cơ sở thờ tự của các tôn giáo phải được sự cho phép

của Uỷ ban nhân dân tỉnh và được sự giám sát của Ban Tôn giáo. Ngoài ra “những cơ sở

vật chất của tôn giáo đã hiến cho Nhà nước sử dụng vì lợi ích chung phải giữ nguyên

trạng; trừ khi cơ sở đó Nhà nước quản lý vì lý do khác, nay quần chúng tín đồ thực sự có

nhu cầu sử dụng làm nơi thờ tự, cần xem xét từng trường hợp cụ thể để giải quyết phù

hợp theo chính sách” (CT15 tr5). Trong tình hình phức tạp, khi mà Liên Xô và Đông Âu

sụp đổ, các thế lực thù địch đang lợi dụng tôn giáo để chống phá ta thì việc “không chấp

nhận phát triển mới tổ chức giáo hội, hoặc bất cứ hình thức tổ chức nào khác trong các

tôn giáo” (CT15 tr5) là điều dể hiểu.

Quán triệt đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa theo

tinh thần “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”, trong vấn đề quan hệ quốc tế của

các tôn giáo, Nghị quyết 24 cũng quy định tổ chức cá nhân tôn giáo có quyền tiến hành

các hoạt động quốc tế nhưng phải xin phép và được sự chấp thuận của Nhà nước, việc

xuất cảnh và nhập cảnh vì lý do tôn giáo, viện trợ nhân đạo có liên quan đến tôn giáo và

viện trợ thuần tuý tôn giáo đều phải tuân theo pháp luật và sự quản lý của Nhà nước cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do đó Chỉ thị 15 triển khai “Các cơ sở tôn giáo, chức sắc

hoặc nhà tu hành quan hệ với tổ chức, hoặc cá nhân ở nước ngoài phải theo đúng luật

pháp, không được tuỳ tiện quan hệ, hoặc nhận viện trợ,...khi chưa được phép” (CT15 tr5).

Căn cứ vào nội dung của Nghị quyết 24, tinh thần của Chỉ thị và những nội dung

qui định của Hội đồng Bộ trưởng, Uỷ ban nhân dân Tỉnh ra văn bản quy định các điều cụ

thể phù hợp với tình hình trong Tỉnh, áp dụng đối với từng tôn giáo, cái gì được phép làm

và không được phép làm để trên cơ sở đó về mặt quản lý Nhà nước điều hành công tác

tôn giáo đảm bảo đúng quan điểm chính sách. Chỉ thị cũng đã đề ra nhiệm vụ cụ thể cho

các ban ngành các cấp trong Tỉnh. Ban Dân vận Tỉnh ủy phối hợp với Ban Tuyên giáo

Tỉnh uỷ có trách nhiệm giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức quán triệt tinh thần nội dung

Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 15 đến các cấp, các ngành trong Tỉnh. Mặt trận

Tổ quốc Tỉnh cần có kế hoạch tổ chức các cuộc hội thảo, tiếp xúc với các chức sắc, nhà tu

hành và những tín đồ tôn giáo tiêu biểu, phổ biến thông suốt văn bản quy định của Uỷ ban

nhân dân Tỉnh và giáo dục vận động các chức sắc, nhà tu hành và tín đồ chấp hành

nghiêm chỉnh. Để thực hiện tốt tinh thần Nghị quyết của Bộ chính trị và chỉ thị của Tỉnh

uỷ, việc chọn cán bộ làm công tác tôn giáo là vô cùng cần thiết. Chỉ thị nêu rõ “Cần sớm

chọn cán bộ am hiểu về tôn giáo và có quan điểm, phong cách phù hợp, tổ chức Ban Tôn

giáo của chính quyền giúp Uỷ ban nhân tỉnh quản lý, điều hành tốt công tác tôn giáo. Uỷ

ban Mặt trận các cấp cũng cần phải tăng cường cán bộ phụ trách công tác tôn giáo của

Mặt trận” (CT15 tr6). Ngoài ra cần có một lực lượng bảo vệ an ninh trật tự có kế hoạch

tăng cường hoạt động nghiệp vụ, kịp thời phát hiện âm mưu, thủ đoạn hoạt động của bọn

phản động lợi dụng tôn giáo. Lực lượng an ninh quân đội giúp “...chủ động phòng chống

có hiệu quả, đập tan ý đồ của kẻ địch ngay từ lúc mới nhen nhóm, giữ vững an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội” (CT15 tr6). Mặt khác sự phối hợp trong hành động chặt chẽ với

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh quốc

gia, giữ gìn trật tự xã hội và thống nhất hành động trong xử lý những vấn đề có liên quan

đến tôn giáo một cach đúng đắn là vấn đề dược Tỉnh Uỷ quan tâm nêu ra trong Chỉ thị.

Thông tư số 2 hướng dẫn việc thi hành Nghị định 69/HĐBT của Hội đồng Bộ

trưởng (21.3.1991)

Về mặt quản lý Nhà nước, mối quan hệ giữa Nhà nước và tôn giáo thực chất là mối

quan hệ giữa Nhà nước và giáo hội, giữa thế quyền và thần quyền, giữa đời và đạo. Mối

quan hệ đó đã từng tồn tại qua nhiều giai đoạn lịch sử, tuy nhiên vai trò và vị trí của mối

quan hệ đó có nhiều thay đổi. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng của giai cấp công nhân

thừa nhận sự tồn tại lâu dài của tôn giáo. Trong chủ nghĩa xã hội vẫn còn cơ sở kinh tế, xã

hội, chính trị và tư tưởng cho sự tồn tại của tôn giáo hơn nữa những người cộng sản chưa

bao giờ chủ trương xóa bỏ tôn giáo trong xã hội chủ nghĩa mà ngược lại còn bảo hộ tôn

giáo. Ngoài những mặt tiêu cực, tôn giáo còn chứa đựng trong nó một số yếu tố tích cực

nhất định còn phù hợp với xã hội mới. Hơn nữa, tôn giáo cũng có khả năng tự thích nghi

với xu hướng đồng hành cùng dân tộc, ủng hộ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Tôn giáo thường có tính tổ chức, có tính cộng đồng và những hoạt động tôn giáo

khó có tính thuần tuý tôn giáo. Do vậy, cũng như mọi tổ chức xã hội khác, việc quản lý

đối với tôn giáo là một tất yếu ở mọi quốc gia dù có chế độ chính trị như thế nào. Nhà

nước của chế độ nào cũng có trách nhiệm quản lý toàn bộ xã hội mà hoạt động tôn giáo

lại có quan hệ đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nên, do đó việc quản lý Nhà nước

về tôn giáo không ngoài mục đích là nhằm bảo đảm cho hoạt động tôn giáo diễn ra trong

khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật vì lợi ích chung, trong đó có cả lợi ích của đồng

bào có đạo và lợi ích của các giáo hội.

Mối quan hệ giữa Nhà nước ta và các tôn giáo, nhìn từ góc độ quản lý hành chính,

biểu hiện ở hai khía cạnh:

Thứ nhất đó là mối quan hệ giữa một bên là chủ thể quản lý (Nhà nước) và một

bên là khách thể quản lý (các tôn giáo hiện đang hoạt động ở nước ta).

Thứ hai là mối quan hệ giữa một bên là các pháp nhân công quyền (các cơ quan

quản lý hành chính Nhà nước) và một bên là các pháp nhân dân sự (các tổ chức tôn giáo).

Nội dung của quản lý Nhà nước đối với tôn giáo quy định cụ thể theo tinh thần

Nghị định 26 của Chính phủ. Quản lý tôn giáo hiện nay là làm sao tránh được việc buông

lỏng quản lý, tạo cơ hội và kẻ hở cho những hành vi lợi dụng để lấn lướt chính quyền; vừa

khắc phục tình trạng quan liêu, đùn đẩy, né tránh hoặc gây phiền hà cho những hoạt động

tín ngưỡng, tôn giáo thuần tuý nhằm làm cho công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo ngày

càng đi vào nền nếp và có hiệu quả hơn.

Những quan điểm, chủ trương của Đảng về tôn giáo của thời kỳ đổi mới được thể

hiện rõ qua Nghị quyết 24 và Chỉ thị 37 của Bộ Chính trị. Quan điểm và chủ trương lớn

ấy được thể chế hóa ở Nghị định của Chính phủ, cụ thể là Nghị định số 69/NĐ.HĐBT

năm 1991 và Nghị định 26/NĐ.CP 26.4.999 về các hoạt động tôn giáo. Nội dung của

quản lý Nhà nước về hoạt động của tôn giáo đề cập ở đây xuất phát từ các quy định hiện

hành của Đảng và nhà nước (Nghị quyết 24, Chỉ thị 37 của Bộ chính trị và các nghị định

69, 26 của Chính phủ là chủ yếu) và được xác định phù hợp với thẩm quyền pháp lý của

chủ thể quản lý (ví dụ: thẩm quyền của Chính phủ, của Uỷ ban Nhân dân các cấp ở địa

phương).

Việc xét duyệt và công nhận pháp nhân tôn giáo.

“Pháp nhân tôn giáo” là những tổ chức giáo hội từ cơ sở trở lên đã được Nhà nước

cho phép hoạt động, tức là đã có tư cách pháp nhân hay nói cách khác được Nhà nước bảo

hộ theo pháp luật. Công nhận tư cách pháp nhân là quá trình Nhà nước xem xét để công

nhận cho từng trường hợp cụ thể. Việc công nhận tư cách pháp nhân tôn giáo dựa vào

hiến chương, điều lệ và nhân sự. Nhà nước cấp xét và công nhận tư cách pháp nhân tôn

giáo (ví dụ: Ban hành giáo, Ban hộ tự, Ban chấp sự do chính quyền xã hoặc huyện. Hội

đồng giám mục Việt Nam, Hội thánh Tin Lành miền Bắc,...do Chính phủ công nhận).

“Thể nhân tôn giáo” là các tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của các tôn giáo chưa

được Nhà nước công nhận và cho phép hoạt động (chưa có pháp nhân tôn giáo). Các đối

tượng này không được hoạt động với tư cách giáo hội hoặc tổ chức tôn giáo. Trong

trường hợp này, mọi thể nhân tôn giáo sinh hoạt tôn giáo với tư cách cá nhân (việc riêng

của người đó theo quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng).

Hiện nay Nhà nước ta đã thừa nhận tư cách pháp nhân và cho phép hoạt động hợp

pháp đối với một số tôn giáo sau:

- Công giáo, Giáo hội Công giáo Việt Nam được Nhà nước công nhận năm 1981.

- Phật giáo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được Nhà nước công nhận năm 1981.

- Tin Lành, Tổng Hội thánh Tin Lành (miền Bắc) được Nhà nước công nhận năm

1959 (Điều lệ Hội thánh Tin Lành (miền Bắc) thông qua Đại hội đồng lần thứ I) và Tổng

Liên hội Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) được Nhà nước công nhận năm 2001.

- Đạo Cao Đài, từ năm 1995 đến nay có 9 hệ phái được Nhà nước công nhận tư

cách pháp nhân như: Cao Đài Tiên Thiên ngày 29.7.1995, Cao Đài Chiếu Minh Long

Châu 27.7.1996, Cao Đài Minh Chơn đạo 6.4.1997, Cao Đài Ban Chỉnh Đạo 8.8.1997,

Cao Đài Tây Ninh 9.7.1997, Cao Đài Bạch Y 8.7.1998,..

- Đạo Phật Giáo Hòa Hảo, Ban đại diện Phật Giáo Hòa Hảo được Nhà nước công

nhận năm 1999.

- Hồi Giáo, Ban đại diện Cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh được công

nhận năm 1999.

Là quốc gia đa tôn giáo với tín đồ tôn giáo chiếm tới 1/4 dân số, nhưng Nhà nước

ta không có chủ trương đề cao tôn giáo này, hạ thấp tôn giáo khác mà các tôn giáo được

thừa nhận tư cách pháp nhân đều bình đẳng với nhau. Chính vì vậy, nên các tín đồ của

mọi tôn giáo ở Việt Nam trước Tổ quốc đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau. Pháp luật

của Nhà nước ta có trách nhiệm điều chỉnh các hoạt động tôn giáo để đảm bảo mối quan

hệ tốt đẹp giữa các tôn giáo cũng như giữa đạo và đời. Trong trường hợp quy định trong

giáo luật trái với quy định trong Pháp luật của Nhà nước thì về nguyên tắc là phải thực

hiện theo pháp luật (với tư cách công dân).

Đối với “tôn giáo mới” các hệ phái mới du nhập hoặc nảy sinh trên địa bàn cần

phải thường xuyên phát hiện, theo dõi, kiểm tra và xử lý kiên quyết, kịp thời, dứt điểm.

Đối với các “tà đạo” chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là cấm hoạt động, do đó

cần có biện pháp ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời bằng các hình thức và biện pháp

thích hợp.

Nghị định 69 của Hội đồng Bộ trưởng là một văn bản pháp quy dưới luật nhằm thể

chế hóa quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề tôn giáo ở

nước ta cho phù hợp với tình hình lúc bấy giờ, đồng thời cũng đáp ứng nguyện vọng

chính đáng của đồng bào có đạo từ bấy lâu nay.

Nghị định gồm 3 chương 28 điểm đã được Uỷ ban Nhân dân tỉnh An Giang cụ thể

hóa trong Thông tư số 2/TT.UB ban hành ngày 20.5.1991 với những nội dung như sau:

Về nguyên tắc chung của Nghị đinh, Thông tư đã quy kết thành 2 vấn đề lớn.

- Đối với đồng bào có đạo: “Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không

tín ngưỡng của công dân, đồng bào có đạo cũng như không có đạo đều được hưởng quyền

và nghĩa vụ như những công dân khác, không có sự phân biệt đối xử nào”

- Đối với các tôn giáo: “các tôn giáo đều phải tuân theo Hiến pháp, pháp luật và

các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Những hoạt động của tôn giáo phải nằm trong

khuôn khổ pháp luật, phải vì lợi ích chính đáng của tín đồ hoặc vì lợi ích của quốc gia dân

tộc thì được pháp luật khuyến khích, đảm bảo” (Thông tư số 2 tr 3), ngược lại “Nếu

những hoạt động nào nhằm lợi dụng tôn giáo để phá hoại nền độc lập dân tộc, gây chia rẽ

khối đoàn kết toàn dân, ngăn cản tín đồ thực hiện nghĩa vụ công dân có phương hại đến

an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội hoặc làm hại đến nền văn hoá lành mạnh của

dân tộc như vấn đề mê tín dị đoan cùng những tệ nạn khác đều bị xử lý theo pháp luật”

(Thông tư số 2 tr 3).

2.1.2. Qúa trình thực hiện và những kết quả đạt được.

Về việc xây dựng bộ máy và đội ngũ cán bộ thực hiện chức năng quản Nhà

nước về tôn giáo trong tỉnh và huyện

Về tổ chức cán bộ qủan lý:

- Trước năm 1993, nhiệm vụ tham mưu và thực hiện các mặt công tác tôn giáo

trong tỉnh trong đó có công tác quản lý về tôn giáo chủ yếu do Ban Dân vận và Uỷ Ban

Mặt trận các cấp đảm nhiệm. Từ năm 1993 trở đi, tỉnh có Ban Tôn giáo. 8/11 huyện, thị

xã của tỉnh có cán bộ chuyên trách giúp Uỷ ban Nhân dân làm công tác quản lý về tôn

giáo. Ban Tôn giáo tỉnh thuộc Uỷ ban Nhân dân tỉnh, có tư cách pháp nhân, có nơi làm

việc, có tài khoản và phương tiện kỹ thuật do Văn phòng Uỷ ban nhân dân Tỉnh đảm

trách. Thời gian này Ban Tôn giáo có 1 Trưởng ban và 1 Phó ban.

Cơ chế phối hợp trong hệ thống chính trị:

Trên cơ sở nhận thức về tầm quan trọng của công tác tôn giáo và công tác tôn giáo

là của hệ thống chính trị, nên những năm qua sự phối hợp giữa Ban Dân vận, Mặt trận,

Ban Tôn giáo, Công an và các ngành có liên quan từng lĩnh vực, từng cấp và các cấp

trong triển khai thực hiện chủ trương, chính sách, tham mưu và xử lý các vấn đề tôn giáo

diễn ra đều đảm bảo tính thống nhất, đúng pháp luật. Ban Tôn giáo tỉnh ngày càng thể

hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, tập hợp ý kiến và đề xuất với Uỷ ban Nhân dân tỉnh giải

quyết kịp thời và đúng đắn nhiều vấn đề của tôn giáo đặt ra.

Về quản lý sinh hoạt, hoạt động tôn giáo, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của quần

chúng có đạo.

Tỉnh uỷ rất quan tâm chỉ đạo và trực tiếp giải quyết đúng chính sách theo các điều

quy định tại Nghị định 69/NĐ.HĐBT, vừa thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo chính

đáng của quần chúng, vừa bảo đảm an ninh trật tự, không để kẻ xấu lợi dụng, làm ảnh

hưởng đến lao động sản xuất và sinh hoạt bình thường của nhân dân. Uỷ ban nhân dân xã

phường thường xuyên nhắc nhở, hướng dẫn và kiểm tra việc đăng ký với tổ chức sinh

hoạt bình thường hằng năm với những nơi thờ tự của tôn giáo thuộc phạm vi mình phụ

trách, kể cả những nơi thờ tự của số tôn giáo chưa được Nhà nước công nhận tư cách

pháp nhân. Tuỳ theo tính chất, mức độ quy mô của Uỷ ban nhân dân Tỉnh cho phép hoặc

ủy quyền cho Uỷ ban nhân dân các huyện, thị, xã cho phép các tổ chức tôn giáo, chức sắc

và tín đồ các cơ sở tổ chức các cuộc sinh hoạt tôn giáo bất thường, kể cả tĩnh tâm, lễ kim

khánh, ngân khánh (Thiên Chúa giáo), an cư kiết hạ, đại giới đàn, mở lớp bồi dưỡng trụ

trì (Phật giáo), bồi linh hiệp nguyện (Tin Lành), khánh thành nơi thờ tự, cúng giỗ các tôn

giáo... được chu đáo.

Việc đào tạo chức sắc, phong chức, thuyên chuyển, bổ nhiệm chức sắc của các tôn

giáo.

Hầu hết các trường hợp xin phục hồi chức năng linh mục, tấn phong linh muc, cử

người đi học, đào tạo linh mục, thuyên chuyển, bổ nhiệm nơi mục vụ của Thiên Chúa

giáo, xin tấn phong giáo phẩm, thành lập ban đại diện huyện, thi xã, thuyên chuyển, bổ

nhiệm trụ trì, cử người đi đào tạo trung cấp, cao cấp Phật giáo...trong những năm qua đều

được Uỷ ban nhân dân Tỉnh chấp thuận hoặc uỷ quyền cho Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã

thực hiện văn bản cho phép. Một số trường hợp tu sĩ xin đi tu học nước ngoài, cũng đã

thực hiện tốt quy trình thủ tục do Ban Tôn giáo Chính phủ quy định và cho phép thỏa

đáng.

Quản lý về xây dựng sửa chữa các cơ sở tôn giáo.

Căn cứ Nghị định 69/NĐ.HĐBT, trong giai đoạn này, Tỉnh đã giải quyết hầu hết

các yêu cầu hợp lý về xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự (kể cả yêu cầu thay đổi vị trí và xây

dựng tượng ngoài trời) của các tôn giáo. Chưa có trường hợp cho xây mới với tính chất là

phát triển thêm cơ sở tôn giáo. Việc cho phép xây sửa nơi thờ tự của tôn giáo, được vận

dụng vào tình hình cụ thể của địa phương như sau:

- Đối với trường hợp đến hạn kỳ phải sửa chữa như: Lợp mái, vách, thay cột

kèo...mà không thay đổi mặt bằng – diện tích, không cơi nới, không thay đổi kiến trúc,

không thay đổi vật liệu thì được Uỷ ban nhân dân xã phường cho phép.

- Trường hợp không thay đổi mặt bằng – diện tích, không cơi nới, không thay đổi

cấu trúc, mà thay đổi vật liệu thì Uỷ ban Nhân dân huyện, thị xã cho phép.

- Nếu xây, sửa nơi thờ tự mà thay đổi vị trí – mặt bằng, cơi nới diện tích, độ cao,

thay đổi kiến trúc và vật liệu, hoặc xây mới với tính chất là phát triển thêm cơ sở, thì Uỷ

ban Nhân dân tỉnh xem xét và cho phép.

Quản lý xuất bản và xuất nhập khẩu kinh, sách, ấn phẩm tôn giáo.

Tỉnh đã thực hiện đúng theo chủ trương của Chính phủ và quy định của Bộ Văn

hóa Thông tin về xuất bản. Mọi yêu cầu xuất bản về tôn giáo, khi đến Ban Tôn giáo tỉnh

đều được hướng dẫn liên hệ với Nxb Thành phố Hồ Chí Minh xem xét giải quyết. Việc

xuất nhập khẩu kinh, sách, văn hoá phẩm về tôn giáo trong những năm qua do Sở Văn

hóa Thông tin, với sự phối hợp của cơ quan công an xét duyệt, trong một số trường hợp,

Sở Văn hóa Thông tin tham khảo ý kiến của Ban Tôn giáo. Thực tế cho thấy, đây là lĩnh

vực cần hết sức chú trọng. Kinh, sách, văn hóa phẩm tôn giáo, tài liệu tuyên truyền phản

động, chống phá Đảng, Nhà nước ta từ bên ngoài nhập vào bằng nhiều con đường hợp

pháp và bất hợp pháp, cần phải được nghiên cứu kỹ để đấu tranh và cảnh giác, không nên

dừng lại ở mức độ xử lý với tính chất là văn hóa phẩm nhập khẩu trái phép thông thường.

Phải quản lý chặt chẽ với các cơ sở in ấn, photocoppy trong tỉnh, vì một số cơ sở này đã

in sao trái phép ấn phẩm tôn giáo có nội dung xấu.

Quản lý các hoạt động từ thiện tôn giáo.

Hoạt động này trên địa bàn tỉnh đang có chiều hướng gia tăng. Nguồn tiền và vật

chất huy động cũng rất đa dạng như từ tín đồ trong nước và từ các cá nhân và tổ chức tôn

giáo, tổ chức từ thiện bên ngoài. Những hoạt động này đã có đóng góp một phần trong

giải quyết khó khăn của quần chúng, phù hợp với đạo đức tôn giáo, tuy nhiên đang đặt ra

nhiều vấn đề cần giải quyết.

Quản lý các hoạt động quốc tế của tôn giáo.

Với chính sách đổi mới về tôn giáo của Đảng, hoạt động trao đổi giữa các chức

sắc, giáo hội trong nước và quốc tế ngày càng nhiều. Trong giai đoạn này tỉnh An Giang

có 25 đoàn khách và 5 cá nhân thuộc các thành phần các tôn giáo đến tỉnh (có 2 đoàn

Thiên Chúa giáo, 23 đoàn Hồi giáo), có 23 cá nhân chức sắc và tín đồ ở các tỉnh đi nước

ngoài vì việc đạo và việc riêng (trong đó có 9 tín đồ Hồi giáo hành hương về thánh địa

Mecca và 3 tín đồ Hồi giáo đi đọc kinh Coran tại Thái Lan). Việc đi lại của các cá nhân

và đoàn các tôn giáo đều được thực hiện đúng thủ tục qui định của Nhà nước. Một số cá

nhân chức sắc được đi nước ngoài về có quan hệ trao đổi tình hình với Chính quyền và

Mặt trận cấp tỉnh quản lý.

Đối với lĩnh vực hoạt động này, bên cạnh mặt thuận lợi là làm cho người ở nước

ngoài thấy rõ được chính sách tự do tín ngưỡng của chế độ ta, vạch trần âm mưu xuyên

tạc của các thế lực thù địch quốc tế, cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp.

Những nét sáng tạo trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng và

chính sách pháp luật Nhà nước của Đảng bộ tỉnh An Giang.

Tỉnh An Giang có nhiều tôn giáo, tình hình từng nơi từng lúc diễn biến khá phức

tạp. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ đã xác định tín đồ các tôn giáo tuyệt đại bộ

phận là quần chúng lao động, luôn gắn liền với mảnh đất quê hương, đã đóng góp nhiều

xương máu, công sức cho kháng chiến cho cách mạng.

Qua tiếp thu Nghị quyết 24 của Bộ chính trị và Nghị định 69 của Hội đồng Bộ trư-

ởng, căn cứ đặc điểm tình hình tôn giáo địa phương, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Chỉ thị số

15 ngày 12/4/1991 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, tập trung chăm lo

phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, nâng cao đời sống nhân dân nói chung, người có đạo

nói riêng, xây dựng cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, tôn trọng

tự do tín ngưỡng, quan tâm giải quyết những nhu cầu về sinh hoạt tín ngỡng tôn giáo của

quần chúng tín đồ. Biểu hiện cụ thể với các tôn giáo như sau:

- Đạo Phật giáo Hoà Hảo có tính đặc thù và lịch sử để lại, sau khi nước nhà thống

nhất, bọn phản động đội lốt tôn giáo vẫn nuôi dưỡng ý đồ chống phá cách mạng. Vì vậy,

Đảng bộ tỉnh rất quan tâm lĩnh vực này, thường xuyên nắm chắc tình hình, đề ra những

chủ trương, giải pháp và những đối sách cụ thể, nhằm tăng cường công tác tuyên truyền

giáo dục làm cho quần chúng tín đồ hiểu rõ bản chất của bọn xấu, âm mưu thủ đoạn của

chúng và tự tách khỏi bọn phản động không nghe những lời tuyên truyền xuyên tạc, kích

động, khiêu gợi hận thù, đòi yêu sách, đòi phục hồi hệ thống hành chính đạo.

Trên cơ sở phân định cụ thể, từ đó đề ra các giải pháp giáo dục, phát huy tinh thần

yêu nước, xây dựng số chức sắc tiến bộ làm nồng cốt giáo dục quần chúng tín đồ cùng

thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước. Có chính sách mềm

dẻo, cảm hóa, học tập giáo dục đối với số chức sắc chậm tiến. Xây dựng lực lượng quần

chúng tín đồ kiên quyết đấu tranh, phát hiện cô lập bọn có ý đồ xấu, đưa ra công khai trư-

ớc nhân dân. Khi có vụ việc xảy ra thì thận trọng xem xét, đánh giá, tìm nguyên nhân để

có biện pháp đấu tranh kiên quyết, đúng pháp luật.

- Đạo Công giáo, thường xuyên quan hệ gắn bó và chịu sự chi phối của Tòa thánh

Vaticăng, có hệ thống quốc tế và viện trợ vật chất từ bên ngoài, có đội ngũ linh mục, giáo

sĩ qua đào tạo cơ bản, tổ chức chặt chẽ, có thánh kinh đầy đủ, sinh hoạt tín ngưỡng tôn

giáo thuần tuý đều đặn và cơ sở thờ tự ổn định và vẫn theo ý định lâu dài. Hiện nay Thiên

Chúa giáo trong tỉnh vẫn giữ chủ trương hoạt động theo hướng “thích nghi”. Chủ trương

của ta là tập trung giáo dục, xây dựng tinh thần yêu nước, gắn bó với dân tộc. Tuyên

truyền, học tập cho chức sắc giáo dân nắm vững, chấp hành và thực hiện tốt các chủ

trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước, tham gia các phong trào hành động

cách mạng. Tôn trọng tự do tín ngưỡng, giải quyết kịp thời các nhu cầu sinh hoạt tín ngư-

ỡng tôn giáo thuần tuý. Đấu tranh với số linh mục, chức sắc lợi dụng, vi phạm chính sách.

- Đối với đạo Tin Lành, mặc dù mới được Nhà nước công nhận về mặt giáo hội

năm 2001, nhưng từ sớm Đảng bộ tỉnh cũng quan tâm giải quyết các yêu cầu vì hoạt động

tôn giáo chính đáng của đạo như: tổ chức bồi linh, thuyên chuyển chức sắc, trao trả và

cho phép xây, sửa cơ sở thờ tự... Đồng thời thông qua Mặt trận, đoàn thể ta đã kiên quyết

đấu tranh với những đòi hỏi, yêu sách không chính đáng.

- Đối với đạo Cao Đài vẫn được hoạt động tu hành theo truyền thống của từng hệ

phái. Các phái đạo đã được Nhà nước công nhận thì phấn khởi an tâm hoạt động tôn giáo.

Tuy nhiên, nhóm xấu trong các hệ phái, trong đó có Cao Đài Tây Ninh đã cấu kết với bọn

phản động Cao Đài hải ngoại lén lút tán phát những tài liệu chống đối cách mạng, ta vẫn

còn tiếp tục đấu tranh ngăn chặn.

- Đối với đạo Hồi, Chính quyền cho phép tu sửa, xây cất cơ sở thờ tự và các sinh

hoạt tôn giáo quan trọng. Chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể tạo điều kiện giúp đỡ để bà

con tổ chức lễ long trọng đúng tập tục, đồng thời gần đây Nhà nước ta cũng đã cho phép

một số người đi hành hương tại thánh địa Mecca. Nhìn chung, đa số quần chúng tín đồ rất

phấn khởi, tin tưởng chính sách của Đảng và Nhà nước. Song trong hoạt động đối ngoại

của tôn giáo rất rộng và có nhiều mặt rất khó theo dõi, quản lý.

- Sinh hoạt tôn giáo của bà con tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa được tôn trọng và duy trì

theo tập tục. Tuy nhiên, do sinh hoạt tập thể của gánh, nên có khi xảy ra mâu thuẫn giữa

các gánh, mất đoàn kết, chính quyền đã kịp thời giúp đỡ giải quyết.

Ngoài ra, Đảng bộ tỉnh vẫn quan tâm để các đạo khác vẫn được duy trì hoạt động

tôn giáo bình thường theo thủ tục. Đồng thời chú trọng giáo dục, xây dựng bài trừ các tệ

nạn mê tín dị đoan, tập tục lạc hậu.

Để thực hiện tốt chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo, tỉnh đã tổ chức mở

hội nghị triển khai quán triệt đến trưởng, phó ban ngành cấp tỉnh và cán bộ chủ chốt của

huyện, thị. Mặt trận, đoàn thể các cấp đã học tập theo hệ thống ngành dọc đến tận đoàn

viên và các tổ chức xác định rõ tầm quan trọng của công tác tôn giáo và trách nhiệm của

toàn hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo.

Qua đó, sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, quản lý của Nhà nước cũng như công

tác giáo dục, vận động của mặt trận, các đoàn thể đã có sự chuyển biến mới về nhận thức,

quan điểm đối với công tác tôn giáo của Đảng, đi sâu vận động đến từng đối tượng mình

phụ trách, xóa dần được tư tưởng định kiến hẹp hòi. Tăng cường công tác tuyên truyền

giáo dục và học tập cho hàng trăm lượt đảng viên, đoàn viên hội viên, quần chúng tín đồ,

chức sắc, chức việc các tôn giáo, tranh thủ các chức sắc tôn giáo tiến bộ, đấu tranh với các

mặt tiêu cực, có dụng ý xấu, coi trọng và giải quyết những vụ việc về các nhu cầu sinh

hoạt tín ngưỡng tôn giáo bình thường, theo tôn chỉ, đúng với chủ trương, chính sách của

Đảng. Việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho quần chúng nói chung đã mang lại

hiệu quả thiết thực, tín đồ tin tưởng chăm lo phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Yên

tâm sinh hoạt tôn giáo và xóa dần tư tưởng định kiến phân biệt, tạo sự gần gũi tin tưởng

vào sự lãnh đạo của Đảng. Đối với chức sắc Phật giáo Hoà Hảo cũ trước đây, phần đông

chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, tích cực hưởng ứng

công cuộc đổi mới của Đảng. Hầu hết quần chúng tín đồ nhận rõ âm mưu của kẻ thù, cảnh

giác và tố cáo bọn xấu; ta kịp thời đấu tranh ngăn chặn, răn đe, làm vô hiệu hoá các hoạt

động chống đối, không để bọn xấu khống chế, đầu độc tín đồ như trước đây.

Khi có các vấn đề phát sinh, cấp uỷ, chính quyền và các ngành có liên quan đã

phối hợp đề ra đối sách, giải pháp cụ thể sát hợp cùng với công tác tuyên truyền, vận động

và xây dựng lực lượng nòng cốt của Mặt trận và các đoàn thể đi vào chiều sâu được quần

chúng đồng tình nên nhiều vụ việc tuy rất phức tạp nhưng vẫn giải quyết nhanh gọn, đúng

chính sách. Đồng thời qua đó quần chúng càng tin vào Đảng, vào đường lối đổi mới, đề

cao cảnh giác, phát hiện và trình báo giúp cho công tác đấu tranh, ngăn chặn và trấn áp

bọn đầu sỏ đạt kết quả cao (đấu tranh có hiệu quả 72 vụ lớn nhỏ), giữ vững an ninh chính

trị, trật tự và an toàn xã hội ở từng địa phương.

Các cấp uỷ đảng thường xuyên quan tâm xây dựng lực lượng trung kiên, cơ sở

chính trị của Đảng và đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đảng viên xuất thân từ tín đồ các tôn

giáo. Đảng bộ hiện có 4.030 đảng viên người có gốc đạo tham gia lãnh đạo trong hệ thống

chính trị từ tỉnh đến cơ sở, trong đó Phật giáo Việt Nam 2.237, Phật giáo Hoà Hảo 1.064,

Cao Đài 162, Thiên Chúa 39, Từ Ân Hiếu Nghĩa 265, Phật giáo Nam tông Khmer 125,

Hồi giáo 4,... Phần lớn đảng viên trưởng thành qua các phong trào ở cơ sở, hoạt động gắn

với địa bàn dân cư vùng có tôn giáo.

Các cấp uỷ đảng và chính quyền, cán bộ đảng viên nắm vững vận dụng đúng đắn

quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tôn giáo. Tăng cường tuyên

truyền giáo dục bằng nhiều hình thức cho các vị chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo

hiểu rõ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các quy định của địa phương về

hoạt động tôn giáo để họ có ý thức chấp hành tốt.

Về lãnh đạo, chỉ đạo công tác tôn giáo của các cấp uỷ và chính quyền, việc xây

dựng đội ngũ cán bộ cốt cán, cơ sở chính trị địa bàn nhiều tín đồ tôn giáo được quan tâm

thường xuyên liên tục. Cán bộ làm công tác tôn giáo thường xuyên bám sát địa bàn, có

mối quan hệ mật thiết và gần gũi với cả tín đồ và chức sắc nên việc nắm chắc tình hình tư

tưởng tâm tư nguyện vọng của các vị chức sắc, nhà tu hành và các tôn giáo rất dễ dàng

thuận lợi. Trên cơ sở đó cán bộ làm công tác tôn giáo đi sâu vận động tín đồ chức sắc thực

hiện sống tốt đời đẹp đạo, giải quyết dứt điểm những phát sinh trong sinh hoạt tôn giáo

ngay từ cơ sở.

Cơ sở phối hợp đồng bộ giữa các ngành, nhất là với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn

thể nhằm tranh thủ hàng ngũ chức sắc các tôn giáo, đồng thời động viên khích lệ quần

chúng có đạo tham gia các phong trào xã hội lành mạnh đúng pháp luật. Thường xuyên

chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần cho người có đạo, nhất là phát triển kinh tế, tạo

điều kiện các em gia đình có đạo được học hành.

Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo thường được củng cố, tập huấn, có năng lực

nhiệt tình làm công tác vận động quần chúng.

Qua thực tiễn thi hành ở An Giang, Nghị quyết 24/NQ.BCT, Nghị đinh

69/NĐ.HĐBT và các văn bản khác của nhà nước quy định về các hoạt động của tôn giáo

cơ bản phù hợp với tình hình phát triển đất nước, nhưng chưa đủ. Một số điều quy định

chưa rõ ràng, không dứt khoát, thiếu các biện pháp chế tài. Các quy định chủ yếu dành

cho Thiên Chúa giáo và Phật giáo còn các tôn giáo khác chưa đề cập cụ thể nên khó vận

dụng. Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của tôn giáo, Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân đã

chọn người có công với cách mạng, trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc

Việt Nam xã hội chủ nghĩa, số tín đồ, chức sắc có uy tín trong cộng đồng tôn giáo tham

gia vào đại biểu hội đồng nhân dân, thành viên uỷ ban mặt trận các cấp, tạo điều kiện

ngày càng tập hợp mở rộng mặt trận đại đoàn kết dân tộc. Trong giai đoạn này, Tỉnh uỷ

và Uỷ ban nhân dân Tỉnh cùng các cơ quan ban ngành khác như Mặt trận, Dân vận, Ban

Tôn giáo, Công an cũng đã ra sức vận dụng và giải quyết các vấn đề tôn giáo một cách

sáng tạo phù hợp với đặc điểm tình hình trong tỉnh.

Dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể các cấp

tạo điều kiện hướng dẫn giúp đỡ tinh thần, vật chất cho Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo và

các giáo hội khác đi vào sinh hoạt tôn giáo đúng pháp luật. Mặt trận và các cấp thường

xuyên gặp gỡ các vị đứng đầu tôn giáo, thường trực các tổ chức và giáo hội phổ biến tình

hình chung và những âm mưu thủ đoạn của kẻ xấu, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, vu

khống xuyên tạc chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Cơ quan các cấp đã quan

tâm giải quyết những nguyện vọng chính đáng của họ. Hằng năm, đại diện các cấp uỷ

đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể các cấp đến dự chúc mừng nhân các ngày lễ

lớn của các tôn giáo, nhân ngày tết cổ truyền dân tộc, thăm hỏi tặng quà các chức sắc tôn

giáo lúc đau yếu, bệnh tật, tạo bầu không khí vui vẽ thân mật. Khi đồng bào tín đồ, chức

sắc có việc cần thì tận tình giúp đỡ như sữa chữa nhà cho bà con giáo dân hoặc thưc hiện

việc xây nhà tình thương cho những hộ gia đình nghèo có đạo. Mối quan hệ gần gũi chân

tình giữa cán bộ làm công tác tôn giáo với quần chúng nhân dân có đạo ở tỉnh An Giang

là một trong những nét đặc thù khác biệt so với các tỉnh lân cận tạo nên sự thành công

trong công tác tôn giáo ở vùng biên giới đa dân tộc và đa tôn giáo này.

+ Kết quả đạt được trong phát triển kinh tế văn hoá và điều kiện sinh hoạt tôn

giáo ở vùng đồng bào có đạo.

Kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh giai đoạn 2000 – 2003 không ngừng tăng trưởng

và chuyển dịch theo hướng tích cực: GDP bình quân đạt 7%; khu vực nông, lâm nghiệp,

thuỷ sản chiếm 40,2%; khu vực công nghiệp, xây dựng 12,1%; khu vực dịch vụ 47,7%.

Với định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng bộ tỉnh (khoá VII) là “khai thác điều kiện

thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp nông thôn nhằm khơi dậy, phát huy tối đa nội lực, đặc biệt là phát huy nhân tố con

người trong đó có đồng bào có đạo “trở thành khí thế sôi nổi" tạo ra động lực mới kích

thích phong trào quần chúng hăng hái lao động sản xuất kinh doanh, đóng góp tích cực

vào sự tăng trưởng kinh tế trên địa bàn Tỉnh.

Trên lĩnh vực kinh tế tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn,

trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tổ chức lại sản xuất khai thác tiềm năng thế mạnh

từng vùng, hình thành vùng lúa chất lượng cao, các vùng nguyên liệu phục vụ cho công

nghiệp chế biến. Xây dựng hệ thống thủy lợi, đê bao bảo vệ mùa. Phát triển vững chắc

nghề nuôi cá, tôm, bò thịt, bò sữa. Cơ giới hóa trong nông nghiệp từ giống chất lượng

cao, gieo xạ, nuôi trồng đa dạng đến sau thu hoạch. Củng cố xây dựng mô hình hợp tác xã

kiểu mới và mô hình liên kết giữa nhà quản lý, doanh nghiệp, nhà trí thức với hợp tác xã,

trang trại và nông dân. Đẩy mạnh chương trình khuyến nông và khuyến công. Chăm lo

phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình. Huy động mọi thành phần kinh tế tham gia

xuất khẩu, nông thủy sản ưu đãi về thuế, vay tín dụng và cung cấp thông tin thị trường.

Xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông nông thôn được nhựa hóa, bê tông hóa đường đến

trung tâm các xã, cụm tuyến dân cư và nhà ở cho nhân dân. Với sự phát triên kinh tế

chung trong tỉnh, đời sống đồng bào có đạo cũng ngày càng khởi săc, đặc biệt với đồng

bào dân tộc Chăm và Khmer được vay vốn hỗ trợ làm kinh tế gia đình theo chương trình

135.

Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội: Đã có nhiều phong trào phát triển ngày càng sâu

rộng thu hút nhiều tầng lớp nhân dân tích cực tham gia đóng góp có hiệu quả. Phong trào

đền ơn đáp nghĩa đã huy động hơn 10 tỷ đồng, sửa chữa, xây mới 732 nhà tình nghĩa.

Phong trào xóa đói giảm nghèo trên 303,800 tỷ đồng đã giúp đỡ 151.900 lượt hộ vượt qua

ngưỡng cửa nghèo và hộ nghèo ổn định đời sống. Phong trào “Nhà nước và nhân dân

cùng làm” đã huy động được 109,81 tỷ đồng xây dựng kết cấu hạ tầng. Phong trào xây

dựng nhà tình thương với 5.134 căn trị giá 20,536 tỷ đồng. Phong trào tương trợ lũ lụt, đã

có 214.00 lượt hộ dược cứu trợ với số tiền 40,104 tỷ đồng. Phong trào “toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” đã nhanh chóng được nhân dân đồng tình tham

gia và đã công nhận 317.629 gia đình văn hóa đạt tỷ lệ 75%, 25 cơ quan văn hóa cấp tỉnh,

457 khóm ấp văn hóa, 408 cơ quan, đơn vị văn hóa cấp huyện, 6 xã văn hóa. Về văn hóa

dân tộc được duy trì phát triển, chính quyền các cấp đã chủ động tổ chức các lễ Hội

truyền thống của đồng bào dân tộc, mở trường dân tộc nội trú (đồng bào dân tộc Khmer),

hướng dẫn lối sống lành mạnh, chăm sóc gia đình có công với cách mạng (trong đó có gia

đình phật tử), chăm sóc bảo vệ sức khỏe, phòng chống ngăn chặn và đẩy lùi dịch bệnh,

thời lượng phát thanh và truyền hình bằng tiếng dân tộc tăng; thường xuyên tranh thủ gặp

gỡ sư sãi, a cha, các vị chức sắc, các vị giáo cả và những người tiêu biểu trong dân tộc,

tôn giáo, vận động, thuyết phục hướng dẫn làm nồng cốt tạo sự gần gủi, gắn bó giữa

Đảng, chính quyền và người tiêu biểu dân tộc. Qua đó đồng bào kể cả dân tộc và tôn giáo

phấn khởi, đời sống vật chất tinh thần từng bước được nâng lên rõ rệt.

Qua những phong trào trên đã góp phần cải thiện đời sống của đại bộ phận nhân

dân (kể cả đồng bào có đạo và không có đạo) rõ rệt, lao động có việc làm tăng, hộ nghèo

giảm, hộ khá, giàu tăng lên, tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh đạt 80%, có điện sử dụng

88%, đường giao thông nông thôn, trường học trạm xá phủ kín 100% xã, phường, thị trấn.

Về lĩnh vực chính trị: Nhân dân tham gia xây dựng Đảng thông qua Mặt trận Tổ

quốc, các đoàn thể. Đồng thời nhân dân cũng tham gia góp ý vào nhiệm vụ phát triển kinh

tế – văn – hóa xã hội hằng năm của địa phương, góp ý, xây dựng cán bộ, đảng viên, kịp

thời phát hiện, phản ảnh với tổ chức đảng những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng của một

bộ phận cán bộ, đảng viên.

Tỉnh Uỷ cũng đã xây dựng được hệ thống chính trị trong đồng bào dân tộc, tôn

giáo. Đầu năm 2003 đồng bào Khmer có 1 đại biểu Quốc hội khóa IX, 3 uỷ viên Ban chấp

hành huyện uỷ, 36 cấp cơ sở, 276 đảng viên, có 2 đại biểu trong Hội đồng Nhân dân tỉnh,

9 đại biểu trong Hội đồng nhân dân cấp huyện (13,23%), Hội đồng Nhân dân cấp xã có

123 đại biểu (19,69%), 584 đoàn viên, 7,387 hội viên các đoàn thể. Đồng bào Hoa chủ

yếu là theo Phật giáo và công giáo có 51 cán bộ là cấp uỷ viên Hội đồng Nhân dân, thành

viên Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc các cấp, 59 đảng viên, 1,178 đoàn viên các đoàn thể. Đồng

bào Chăm có 22 đảng viên, 1999 người tham gia là thành viên của Uỷ ban Mặt trận Tổ

quốc, đoàn viên, hội viên các đoàn thể. Nếu khảo sát thuần túy theo tiêu chí đảng viên là

người có tôn giáo thì đầu năm 2003 đạo Thiên Chúa có 142 đảng viên, Tin Lành có 29,

Phật giáo có 6.922, Cao Đài có 478. Hoà Hảo có 2.542, Hồi giáo có 47 và các tôn giáo

khác như Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương và một số nhánh thuộc hê phái khác

925 đảng viên (xem thêm phần phụ lục).

Phát huy dân chủ trong đời sống xã hội. Nhân dân trong tỉnh bất kể tôn giáo nào,

có đạo hay không có đạo, mọi công dân Việt Nam 18 tuổi đều có quyền và nghĩa vụ tham

gia bầu cử Quốc hội và kết quả là tỷ lệ đi bầu cao. Việc tiếp xúc giữa đại biểu quốc hội,

hội đồng nhân dân 3 cấp với cử tri đã trở thành nền nếp không ngừng nâng cao chất

lượng, nhiều tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân đã được tham gia giải quyết.

Việc lấy ý kiến nhân dân đóng góp các chủ trương chính sách, pháp luật được thực hiện

có hiệu quả, góp phần cho Đảng và chính quyền các cấp có nhiều quyết sách hợp lý, hợp

lòng dân, ý thức pháp luật trong nhân dân được nâng cao.

Riêng đối với đồng bào có đạo chiếm gần 70% lao động xã hội trong tỉnh, với

những chính sách đổi mới về nông nghiệp, nông thôn của Đảng, Nhà nước, làm lợi cho

người sản xuất mà đa số là bà con có đạo gắn bó với thành quả lao động nên tạo động lực

mới trong sản xuất và thúc đẩy người nông dân năng động vươn lên xóa đói giảm nghèo,

làm giàu chính đáng. Một bộ phận nông dân có đạo đã chuyển sang sản xuất, kinh doanh

tổng hợp tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Thu nhập bình quân của

người dân có đạo tăng lên, tỷ lệ hộ giàu, khá tăng, giảm hộ nghèo một cách đáng kể. Toàn

tỉnh hiện có 115 hợp tác xã, 2.150 tổ liên kết sản xuất, 236 câu lạc bộ nông dân, 9.000

trang trại, gần 84.000 hộ nông dân có đạo, gắn phát triển nông nghiệp với thuỷ sản đã có

hàng ngàn hộ nuôi 4.053 lồng bè cá trên sông xuất khẩu, 1.421 ha diện tích mặt nước nuôi

các ao hầm trong đó 276 ha theo mô hình 1 vụ lúa 1 vụ tôm, góp phần đưa tổng sản lượng

thuỷ sản đạt 111 ngàn tấn/năm. Kết quả về phát triển kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng làm cho

bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc, dân chủ hóa đời sống nông thôn được cải thiện, góp

phần phát huy năng lực xây dựng nông thôn mới. Nhân dân có đạo phát huy được tinh

thần sáng tạo có ý chí tự lực, tự cường vươn lên trong cuộc sống.

Tuy nhiên hiện nay nông dân nói chung và bà con nông dân có đạo nói riêng đang

nằm trong trung tâm của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và dân cư, số hộ

nông dân có đạo đôi khi thiếu đất canh tác. Thu nhập của phần đông người có đạo đôi khi

lại lấy công làm lời, được mùa tích luỹ chưa nhiều, mất mùa thiên tai thì nguy cơ khó

khăn, tái nghèo lại xảy ra.

2.2. Công tác tôn giáo của Đảng bộ tỉnh An Giang (2003 - 2004)

2.2.1.Đường lối, chính sách của Đảng và chủ trương, biện pháp thực hiện của

Đảng bộ.

Giới thiệu khái quát về Nghị quyết Trung ương 7, đánh giá ý nghĩa của Nghị

quyết này.

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

IX về công tác tôn giáo, đồng thời cũng khắc phục những mặt hạn chế trong công tác tôn

giáo thời gian qua, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang ra “Chương trình hành động về

công tác tôn giáo trong tình hình mới” CTr/10.TƯ. Trong chương trình hành động, Ban

chấp hành Đảng bộ đề cập một số nội dung như sau:

Tập trung nâng cao nhận thức, quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị về

công tác tôn giáo.

Chương trình hành động xác định rõ, "tôn giáo là vấn đề tồn tại lâu dài", “Tín

ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng

dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ

phận của khối đại đoàn kết dân tộc”(NQ TƯ 7 K IX). Đối với An Giang, đây là nhu cầu

của bộ phận nhân dân, làm tốt công tác tôn giáo chính là làm tốt công tác vận động quần

chúng. Đồng thời đây cũng là lĩnh vực nhạy cảm, do đó “cần phải học tập, thật sự quán

triệt các quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo cho cán bộ,

đảng viên để thông suốt thực hiện và xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý

nghĩa rất quan trọng”(CTr 10/TƯ, tr3). Việc học tập chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước là vấn đề rất cần thiết đối với toàn Đảng bộ nói chung cán bộ làm công tác tôn

giáo nói riêng. Tuy nhiên việc tổ chức học tập về chính sách tôn giáo của Đảng, pháp luật

Nhà nước cho chức sắc chức việc và bà con tín đồ cũng không kém phần quan trọng.

Ngoài ra cần chú trọng giáo dục về chủ nghĩa yêu nước, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

hội, về âm mưu thủ đoạn xảo quyệt, thâm độc của các thế lực thù địch; giáo dục giữ gìn

và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh anh hùng liệt sĩ, chọn lọc kế thừa và

phát huy những giá trị văn hoá tích cực trong tín ngưỡng dân gian.

Với nhiệm vụ trên, việc quan trọng là các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, các

đoàn thể phải tôn trọng, lắng nghe và kịp thời giúp đỡ, tạo điều kiện giải quyết những nhu

cầu hoạt động tôn giáo chính đáng như “Chủ động tiếp cận gần gũi, tạo mối quan hệ hiểu

biết thân thiện với các tổ chức, chức sắc tôn giáo, tổ chức thăm viếng nhân ngày lễ trọng

đại của tôn giáo”(CTr 10/TƯ, tr3). Việc tạo mối quan hệ gần gũi, bầu không khí chân tình

giữa chức sắc, tín đồ tôn giáo với cán bộ làm công tác tôn giáo thời gian qua ở tỉnh An

Giang đã thực hiện khá tốt và tiếp tục phát huy trong giai đoạn mới. Thực hiện tốt nhiệm

vụ này sẽ tạo cơ sở tăng cường sự đồng thuận trong xã hội, đoàn kết đấu tranh chống âm

mưu lợi dụng và những hoạt động lệch lạc, trái phép làm phương hại đến lợi ích tổ quốc,

dân tộc, cộng đồng, gia đình và nhân phẩm con người.

Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị cơ sở.

“Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó

đồng bào các dân tộc tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín

ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc”(NQ TƯ 7 K IX).

Để thực hiện tốt công tác vận động quần chúng Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang đã

đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời đẹp đạo”, nâng cao ý

thức tự lực, tự cường, ra sức làm giàu chính đáng, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính

trị của địa phương. Đổi mới nội dung và phương thức vận động tín đồ “Phát huy dân chủ

ở cơ sở phù hợp với đặc điểm sinh hoạt từng tôn giáo, tôn trọng tình cảm và đức tin, phát

huy tính hướng thiện của tôn giáo” (CTr 10/TƯ, tr3). Chủ trương này tạo điều kiện để tín

đồ tiến bộ về mọi mặt, bài trừ mê tín dị đoan. Phát huy tinh thần yêu nước của bà con tín

đồ thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng của công dân đối với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; làm

thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để phá

hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. “Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực

của đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách

nhiệm của toàn hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo” (NQ TƯ 7 K IX), do đó cần phát

huy vai trò nòng cốt của Mặt trận, Ban tôn giáo, các đoàn thể vận động chức sắc, giáo dục

và tập hợp tín đồ vào các tổ chức thích hợp, làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với

đất nước và chủ nghĩa xã hội, hăng hái thi đua thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng lực lượng chính trị cốt cán

trong tôn giáo để hiểu biết, gần gũi hơn với tín đồ và nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo.

Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.

“Tăng cường đầu tư và thực hiện có hiệu quả các dự án, chương trình mục tiêu

quốc gia, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội, nâng cao đời sống vật

chất văn hóa cho nhân dân các vùng khó khăn, đặc biệt quan tâm các vùng đông tín đồ tôn

giáo và vùng dân tộc miền núi còn nhiều khó khăn” (NQ TƯ 7 K IX). Chương trình hành

động số 10 của Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh cũng đề ra việc tăng cường đầu tư, thúc đẩy

kinh tế – xã hội phát triển bền vững, nâng cao mọi mặt đời sống của đồng bào có đạo và

không có đạo. Ban Chấp hành Đảng bộ cũng ban hành các văn bản quản lý hành chính

nhà nước hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh về tôn giáo phù hợp với tình hình thực tế địa

phương, tôn trọng và bảo đảm hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bình thường, giải quyết kịp

thời nhu cầu chính đáng của tín đồ và tín ngưỡng của nhân dân. Uỷ ban Nhân dân, Ban

Tôn giáo tỉnh và chính quyền các cấp quản lý và giải quyết tốt việc vận động các tổ chức

và cá nhân trong tôn giáo tích cực tham gia thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động

y tế, giáo dục, văn hóa ở địa phương. Chủ động kiểm tra, giải quyết vấn đề “nhà, đất” có

liên quan đến tôn giáo, vấn đề “truyền đạo” và “hội đoàn” đúng chính sách, pháp luật.

Giải quyết hợp lý nhu cầu chính đáng về xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự của các tôn giáo.

Kiên quyết ngăn chặn không để xảy ra việc xây dựng cơ sở thờ tự và truyền đạo trái phép.

Do vậy từng bước điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện quy chế về sinh hoạt tín ngưỡng dân

gian; tôn trọng, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc. Ngăn ngừa và

xử lý kịp thời, kiên quyết đối với những hoạt động cố tình lợi dụng vấn đề tôn giáo gây

mất ổn định chính trị – xã hội, bài trừ mê tín dị đoan.

Tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo .

Để nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo cần phải “Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ

chức làm công tác tôn giáo của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mô hình tổ chức quản lý nhà nước về tôn

giáo ở các cấp; xây dựng quy chế phối hợp phát huy sức mạnh và hiệu quả công tác” (NQ

TƯ 7 K IX). Ban chỉ đạo công tác tôn giáo cấp tỉnh, huyện luôn được quan tâm để ngâng

cao trình độ của cán bộ và hiệu quả công việc. Xây dựng cơ chế phối hợp tốt ở địa

phương, có sự phân công phân cấp quản lý rõ ràng, đáp ứng yêu cầu cơ bản, cấp bách về

công tác tôn giáo trong tình hình mới. Bổ sung cán bộ có kinh nghiệm, năng lực, kiện

toàn, ổn định tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo của cấp uỷ, chính quền, Mặt trận và

các đoàn thể. Tỉnh uỷ có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo

có kiến thức về lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và am hiểu đặc điểm từng tôn

giáo, phù hợp với yêu cầu chính trị của địa phương.

Tổ chức thực hiện

Chương trình Hành động số 10-Ctr/TU ra ngày 16.6.2003 của Ban Chấp hành

Đảng bộ Tỉnh ghi rõ “Các cấp uỷ đảng có trách nhiệm tổ học tập quán triệt Nghị quyết

Trung ương 7 (khóa IX) và Chương trình hành động của Tỉnh ủy về công tác tôn giáo

trong tình hình mới cho cán bộ, đảng viên; đồng thời xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện

phù hợp với tình hình địa phương, cơ sở”.

Ban cán sự của đảng, Uỷ ban Nhân dân tỉnh cụ thể hoá chương trình hành động

của Tỉnh uỷ bằng nhiệm vụ, chính sách cụ thể để đi vào các ngành, các cấp thực hiện.

Mặt trận các cấp và các đoàn thể xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Chương

trình hành động của Tỉnh uỷ đến đoàn viên, hội viên và nhân dân.

Các cơ quan thông tin đại chúng thường xuyên tuyên truyền chủ trương, chính

sách, pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo ; kịp thời biểu dương khen thưởng những gương

người tốt, việc tốt trong tín đồ, chức sắc tôn giáo; phê phán đấu tranh với các hành vi lợi

dụng tín ngưỡng tôn giáo, mê tín dị đoan.

Ban Dân vận tỉnh ủy phối hợp với các cơ quan có liên quan giúp Tỉnh ủy chỉ đạo

thực hiện tốt công tác tôn giáo và chính sách tôn giáo. Thường xuyên kiểm tra, báo cáo

kết quả thực hiện của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.

Kế hoạch của UBND tỉnh nhằm thực hiện chương trình hành động về công

tác tôn giáo, (25-8-2003).

Chương trình hành động của Tỉnh ủy đã khái quát tình hình tôn giáo, công tác tôn

giáo trong thời gian qua, đề ra những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về công tác tôn giáo.

Để thực hiện tốt chương trình hành động của Tỉnh ủy, ủy ban Nhân dân tỉnh đề ra

Kế hoạch nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo trong tình hình mới.

Mục đích yêu cầu

Kế hoạch Thực hiện Chương trình Hành động tiếp tục quán triệt, tuyên truyền phổ

biến các quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo của Đảng, Nhà nước thường

xuyên sâu rộng trong nội bộ và nhân dân, nhất là trong các chức sắc, chức việc, nhà tu

hành và các tín đồ tôn giáo. Trên cơ sở đó, từng cơ quan, đơn vị cấp tỉnh, cấp huyện và cơ

sở, nhất là các cơ quan, đơn vị có liên quan trực tiếp đến công tác tôn giáo phải xác định

chức năng nhiệm vụ cụ thể, nâng cao trách nhiệm phối hợp thực hiện một cách nhất quán

và đồng bộ các chương trình, kế hoạch của công tác tôn giáo; chủ động hướng dẫn, giúp

đỡ các cá nhân và tổ chức tôn giáo hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật và

tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, tự giác

đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo, bài trừ mê tín dị đoan.

Củng cố, từng bước tăng cường và kiện toàn bộ máy công tác tôn giáo ở các cấp,

các ngành. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu bức xúc trước mắt và ổn định lâu

dài. Đảm bảo các điều kiện cần thiết để thực hiện công tác tôn giáo và chính sách tôn

giáo.

Trong phần nội dung và phương pháp thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh

ủy về công tác tôn giáo có 8 nội dung:

Thứ nhất là, tiếp tục tổ chức triển khai quán triệt và phổ biến Chương trình hành

động về công tác tôn giáo. Trong nội dung thứ nhất này Ban Tôn giáo tỉnh có trách nhiệm

chủ động phối hợp với Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận Tỉnh ủy, ủy ban Mặt trận Tổ quốc

Tỉnh cùng hướng dẫn các Sở, Ban ngành có liên quan và ủy ban Nhân dân các huyện, thị

xã, thành phố tổ chức nghiên cứu, quán triệt, nâng cao nhận thức tư tưởng thống nhất

quan điểm, xác định trách nhiệm thực hiện chương trình hành động của Tỉnh ủy về công

tác tôn giáo cho cán bộ, đảng viên làm công tác quản lý Nhà nước, cán bộ làm công tác

tôn giáo các cấp, chức sắc, nhân sĩ, trí thức và trong đồng bào có đạo. Trong quá trình tổ

chức thực hiện, cần sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và khen thưởng kịp thời các tập thể,

cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong việc thực hiện chương trình hành động của Tỉnh ủy

về công tác tôn giáo.

Thứ hai là tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu phát triển kinh

tế xã hội vùng đồng bào các tôn giáo. Các cấp chính quyền tỉnh cần đẩy mạnh việc thực

hiện các chương trình, đề án để ổn định và phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống

vật chất, tinh thần vùng đồng bào các tôn giáo, vùng dân tộc miền núi; bảo đảm không có

sự phân biệt quyền lợi chính trị, kinh tế, đời sống giữa đồng bào lương giáo. Chú trọng

việc nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo, động viên tín đồ các tôn giáo phát

huy ý chí tự lực tự cường, chí thú làm ăn, vượt khó thoát nghèo, từng bước nâng cao chất

lượng cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phúc. Kịp thời phát hiện những mô hình làm kinh

tế có hiệu quả trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo để tổng kết và nhân

rộng mô hình tiêu biểu.

Thứ ba là, tăng cường công tác vận động quần chúng tín đồ, chức sắc, chức việc

tôn giáo ở cơ sở. Cùng với toàn bộ hệ thống chính trị, các cấp chính quyền tiếp tục thực

hiện tốt công tác dân vận, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân nói chung, tín đồ nói riêng

phát huy quyền dân chủ cơ sở; tôn trọng tình cảm, đức tin, phát huy tính hướng thiện của

tôn giáo; tạo điều kiện để tín đồ tiến bộ về mọi mặt, xoá bỏ mặc cảm, bài trừ mê tín dị

đoan. Từ đó vận động tín đồ các tôn giáo tích cực hưởng ứng phong trào thi đua yêu

nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”. Bên cạnh đó tạo điều kiện để tín đồ phát

huy tinh thần yêu nước, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân đối với tổ quốc Việt Nam xã hội

chủ nghĩa, đề cao cảnh giác và tự giác đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù

địch lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại

đoàn kết lương giáo, đoàn kết dân tộc, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

Cán bộ làm công tác tôn giáo cần quan tâm hơn nữa trong việc tạo lập mối quan hệ

chặt chẽ với chức sắc, tín đồ để qua đó lắng nghe ý kiến, nguyện vọng và có biện pháp

giải quyết kịp thời nhu cầu chính đáng của các tổ chức tôn giáo, giải quyết dứt điểm các

vụ việc khiếu nại, tố cáo có liên quan đến tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ tư là, tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về hoạt động tôn

giáo.

Uỷ ban Nhân dân tỉnh ban hành Quy chế tạm thời về phân phối quản lý Nhà nước

về các hoạt động tôn giáo. Ban Tôn giáo tỉnh hướng dẫn các trình tự, thủ tục hành chính

khi xem xét, giải quyết các sự việc.

Ban Tôn giáo phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, sở Xây dựng có văn bản

hướng dẫn những quy định của Chính phủ về quản lý nhà đất thuộc các tôn giáo đang

quản lý, sử dụng. Khảo sát, thống kê, phân loại đầy đủ các lĩnh vực đối với từng cơ sở tôn

giáo hoặc liên quan đến tôn giáo để phục vụ cho công tác quản lý.

Phòng nội vụ, Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh rà soát các vụ việc về đất, cơ sở

vật chất của tôn giáo theo từng loại, phân tích, đánh giá tìm nguyên nhân để tham mưu

giải quyết phù hợp, dứt điểm.

Ban Tôn giáo phối hợp với Sở Y tế, Sở Giáo dục - Đào tạo, Sở Lao động – Thương

binh Xã hội xây dựng đề án về tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia các hoạt động xã hội

hóa trong lĩnh vực y tế giáo dục, dạy nghề, giải quyết việc làm; soạn thảo các văn bản cụ

thể hóa chủ trương, chính sách và hướng dẫn thực hiện những quy định của Nhà nước

trong việc khám chữa bệnh, hoạt động từ thiện xã hội, dạy nghề và việc học các môn

chính sách, pháp luật (Giáo dục công dân) trong các trường học tôn giáo do tỉnh quản lý.

Thứ năm là, tích cực giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Sở

Văn hóa – thông tin nghiên cứu đề ra các biện pháp giữ gìn và phát huy những giá trị

truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, giá trị tích cực của việc thờ cúng tổ tiên, tôn vinh

những người có công với tổ quốc, dân tộc. Bên cạnh đó Sở Văn hóa – thông tin xây dựng

quy chế về sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, quy ước văn hóa phù hợp với từng địa bàn và

cộng đồng, đặc biệt chú ý đến sinh hoạt văn hóa và tinh thần đối với đồng bào tôn giáo,

vùng đồng bào có dân tộc thiểu số, gắn với cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng

đời sống văn hóa ở khu dân cư”.

Thứ sáu là, bài trừ mê tín dị đoan, phòng ngừa và chống truyền đạo trái phép. Ban

Tôn giáo tỉnh khảo sát, đánh giá thực trạng tình hình hoạt động truyền đạo trái phép và

mê tín dị đoan trong thời gian qua; về tổ chức, phương thức đối tượng truyền đạo, qua đó

đề xuất chủ trương, biện pháp ngăn chặn, xử lý thích hợp.

Thứ bảy là, chủ động phòng ngừa và đấu tranh chống các hoạt động lợi dụng vấn

đề tôn giáo, dân tộc phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc. Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm xây dựng nội dung

thông tin tuyên truyền về tôn giáo, chủ trương chính sách pháp luật về tôn giáo của Đảng,

Nhà nước ta; phản ánh các hoạt động tôn giáo bình thường và đúng các quy định của pháp

luật; các cơ sở thờ tự hợp pháp được xây dựng, sửa chữa khang trang, các lớp đào tạo của

tôn giáo đang hoạt động theo gương “tốt đời, đẹp đạo” trong chức sắc và tín đồ; phê phán

các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị

đoan.

Các ngành có liên quan nghiên cứu các phương án chủ động và kịp thời giải quyết

những vấn đề tôn giáo mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng làm nguyên cớ để vu khống

kích động, hướng dẫn các tôn giáo, chức sắc, chức việc thực hiện quan hệ đối ngoại phù

hợp với đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước; chủ động theo dõi, nắm chắc mục đích,

ý đồ của các cá nhân và tổ chức nước ngoài đến tỉnh nhà tiếp xúc với các tổ chức, cá nhân

tôn giáo; phát hiện những mặt tiêu cực hoặc vi phạm qui định, kịp thời đấu tranh ngăn

chặn.

Thứ tám là, tăng cường công tác tổ chức cán bộ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm

công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo.

Ban Tôn giáo phối hợp với Ban Tổ chức Chính quyền Tỉnh (nay là Sở Nội vụ) căn

cứ vào quy định của Trung ương và thực tế của Tỉnh để xây dựng đề án chức năng,

nhiệm vụ, tổ chức biên chế bộ máy làm công tác tôn giáo từ Tỉnh đến huyện, xã. Kiện

toàn bộ máy đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác tôn giáo trong tình hình mới.

Cần làm tốt công tác quy hoạch đào tạo cán bộ, bồi dưỡng, sử dụng và các chế độ, chính

sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo; có cơ chế, chính sách chăm sóc, đãi

ngộ thích hợp đối với các vị chức sắc tôn giáo tiêu biểu trong xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc. Chuẩn bị đội ngũ cán bộ đảm bảo yêu cầu chiêu sinh của Ban Tôn giáo Chính phủ

và các trường đại học, học viện, nhất là cán bộ tôn giáo các huyện, thị xã, thành phố và cơ

sở.

Ban Tôn giáo phối hợp với Sở Tài chính – Vật giá xây dựng đề án, cơ chế quản lý,

sử dụng kinh phí để thực hiện công tác tôn giáo và chính sách tôn giáo phù hợp với tình

hình mới.

Việc tổ chức thực hiên Kế hoạch 40/KH.UB của Uỷ ban Nhân dân tỉnh

(25.8.2003)

Uỷ ban Nhân dân các huyện, thị xã, thành phố, các sở, Ban ngành hữu quan có

trách nhiệm căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, chủ động xây dựng và triển khai thực hiện

kế hoạch cụ thể của ngành, địa phương mình.

Ban Tôn giáo Tỉnh chủ trì xây dựng Quy chế phối hợp, cùng các Sở, Ban ngành có

liên quan và ủy ban Nhân dân các huyện, thị xã, thành phố phối hợp tổ chức thực hiện tốt

Kế hoạch 40/KH.UB. Cần phải thường xuyên kiểm tra, sơ kết, tổng kết báo cáo có định

kỳ, đề xuất với ủy ban Nhân dân tỉnh điều chỉnh, bổ sung kịp thời những chủ trương, giải

pháp thích hợp nhằm thực hiện thắng lợi Chương trình Hành động của Tỉnh ủy về công

tác tôn giáo cả trước mắt và lâu dài.

Quán triệt, vận dụng vào hoạt động của Đảng bộ thông qua một số hoạt động cụ

thể của Ban Tôn giáo tỉnh

1. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang đã làm công tác tham mưu cho Tỉnh ủy ủy ban

Nhân dân Tỉnh, Ban Tôn giáo Chính phủ và Ban chỉ đạo công tác tôn giáo qua một số

việc cụ thể sau:

Trong thời gian qua Ban Tôn giáo Tỉnh đã lập kế hoạch định kỳ và tiếp xúc với các

chức sắc, tổ chức tôn giáo nhằm tạo quan hệ gần gũi, gắn bó giữa chính quyền với tôn

giáo; đồng thời tiếp nhận và giải quyết những đóng góp ý kiến, yêu cầu chính đáng của tổ

chức và các cá nhân tôn giáo. Tổ chức họp mặt chức sắc, chức việc tiêu biểu của tôn giáo

trong Tỉnh nhân dịp Tết cổ truyền của dân tộc và tổ chức họp riêng với Phật giáo Việt

Nam, Phật giáo Hòa Hảo và Tin Lành.

Lập kế hoạch và cùng đoàn lãnh đạo tỉnh, huyện, thị xã, thành phố đến thăm và

tặng quà cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo tiêu biểu có công và gia đình nhân sĩ nhân dân

trong các kỳ lễ trọng đại của tôn giáo.

Tham mưu cho lãnh đạo tỉnh, Ban Tôn giáo Chính phủ trong việc giúp Ban đại

diện Phật giáo Hòa Hảo tổ chức Đại hội đại biểu nhiệm kỳ II ở 2 cấp; giúp Ban vận động

Hồi giáo tỉnh tổ chức Đại hội đại biểu cộng đồng Hồi giáo tỉnh An Giang lần thứ I. Ban

Tôn giáo tỉnh cũng đã đảm bảo đúng yêu cầu đặt ra về tôn chỉ, mục đích, đường hướng

hành đạo, cơ cấu tổ chức và nhân sự.

Tham mưu cho ủy ban Nhân dân tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình

hành động của Tỉnh ủy về công tác tôn giáo; giải quyết các yêu cầu thường xuyên và đột

xuất của các tôn giáo. Kịp thời báo cáo tổng hợp tình hình tôn giáo và báo cáo chuyên đề

phục vụ Ban chỉ đạo.

2. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tôn giáo:

Tổ chức triển khai kế hoạch của ủy ban Nhân dân tỉnh, thực hiện Chương trình

hành động của Tỉnh uỷ về công tác tôn giáo.

Tổ chức Hội triển khai nhanh Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo .

Tham gia chọn cử 5 cán bộ đi học lớp bồi dưỡng ngắn hạn về công tác tôn giáo tại

Hà Nội.

Phối hợp với Trường chính trị Tôn Đức Thắng, Uỷ ban Mặt trận tỉnh, Trung tâm

bồi dưỡng Chính trị cấp huyện, thông qua các lớp học, tổ chức tuyên truyền cho cán bộ

các cấp trong Tỉnh về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn

đề tôn giáo.

Thông qua các lớp học do tổ chức tôn giáo mở (Phật giáo Việt Nam, Cao Đài, Phật

giáo Hòa Hảo) đã tuyên truyền chủ trương, chính sách pháp luật về tôn giáo, hướng dẫn

thủ tục, quy trình cách giải quyết các vấn đề về hoạt động tôn giáo.

3. Công tác tổ chức thực hiện Nghị định 22/2004/NĐ.CP và Thông tư số

25/2004/TT.BDV

Đã xây dựng và được ủy ban Nhân dân tỉnh có quyết định phê duyệt đề án kiện

toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo thuộc ủy ban Nhân dân tỉnh, theo đó Ban Tôn

giáo tỉnh có 12 biên chế, văn phòng và 02 phòng nghiệp vụ, có con dấu và tài khoản

riêng. Quy trình hoạt động của Ban Tôn giáo tỉnh là xây dựng đề án kiện toàn tổ chức bộ

máy làm công tác tôn giáo thuộc ủy ban Nhân dân cấp huyện và xã, trình Hội đồng Nhân

dân tỉnh xem xét và quyết định

4. Một số công tác khác.

Tổ chức điều tra xã hội học đối với đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương,

Phật giáo Nam tông Khmer, các dự án phi chính phủ (NGO) có nguồn gốc tôn giáo trên

địa bàn Tỉnh theo yêu cầu của Ban Tôn giáo Chính phủ.

Tiến hành khảo sát các cơ sở thờ tự của Công giáo có trường (lớp) mẫu giáo, nhà

trẻ; thống kê tín đồ và Ban Trị sự các hội thành Tin Lành; hỗ trợ Ban trị sự Phật giáo tỉnh

làm thủ tục khắc dấu chùa Khmer, nhập Đại tạng Kinh Pali.

Thống kê tình hình khiếu nại tố cáo có liên quan tôn giáo từ năm 1996 đến nay

theo yêu cầu của Ban Tôn giáo Chính phủ.

Tiến hành ký kết liên tịch về công tác tôn giáo giữa Ban Tôn giáo tỉnh với 04 đoàn

thể.

Tổ chức dịch sang tiếng Khmer 02 tài liệu: Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt

Nam và Nghị định 26/NĐ.CP của Chính phủ, giao Ban Trị sự Phật giáo tỉnh phổ biến cho

các chùa Phật giáo hệ phái Nam tông Khmer trong tỉnh thực hiện.

Tổ chức Hội nghị sơ kết, tổng kết công tác tôn giáo, họp giao ban cụm các tỉnh có

đông tín đồ Phật giáo Hòa Hảo; giao ban giữa các huyện, thị, thành trong Tỉnh về công

tác tôn giáo.

Tham dự các cuộc họp, Hội nghị về công tác tôn giáo do Ban ngành Trung ương,

Ban Tôn giáo Chính phủ và địa phương tổ chức.

2.2.2. Quá trình thực hiện và những kết quả bước đầu.

Nhìn chung, các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân

hoạt động bình thường, tương đối ổn định và tuân thủ pháp luật. Thái độ của các chức sắc,

chức việc, nhà tu hành tín đồ các tôn giáo nhìn chung có ý thức gắn bó với dân tộc và tuân

thủ pháp luật, tích cực hưởng ứng công cuộc đổi mới của đất nước, nhiều người tham gia

vào mặt trận, đoàn thể và cơ quan dân cử các cấp, tham gia các hoạt động từ thiện xã

hội.Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận nhỏ đội lốt chức sắc, tu sĩ lợi dụng tôn giáo để hoạt

động chống đối chính quyền, gây chia rẽ tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc; một

số chức việc Cao Đài Tây Ninh “ly khai Hội thánh”, hoạt động trái quy định của pháp

luật; việc truyền đạo trái phép, vi phạm trong xây dựng cơ sở thờ tự, tranh chấp đất đai,

tranh chấp cơ sở thờ tự vẫn còn tiếp diễn.

Hoạt động của các tổ chức giáo hội: Các tổ chức đại diện tôn giáo trong tỉnh thời

gian qua đã tập trung kiện toàn tổ chức, củng cố thần quyền và nâng cao chất lượng hoạt

động, nhằm từng bước nâng cao vai trò, vị trí, củng cố đức tin và tăng cường phát triển

đạo. Cụ thể:

- Ban Trị sự Phật giáo tỉnh tập trung kiện toàn các Ban đại diện, giải quyết những

mâu thuẫn, vướng mắc, tăng cường giáo dục trong tăng ni; tích cực vận động các cơ sở

thờ tự có nguồc gốc Phật giáo gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam; đẩy mạnh việc xây

dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự theo hướng khang trang và hoành tráng.

- Thực hiện chủ trương của Hội đồng Giám mục Việt Nam lấy năm 2004 làm năm

thánh truyền giáo, Tòa Giám mục Giáo phận Long Xuyên có một số chủ trương đáng chú

ý như: lấy nhà thờ Chánh tòa Long Xuyên và nhà thờ Cù Lao Giêng ở xã Tấn Mỹ – huyện

Chợ Mới là hai điểm lễ cho tín đồ hành hương cầu nguyện để lãnh ơn toàn xá; yêu cầu

các Linh mục và tu sĩ phải “soi rọi” chính mình để làm tấm gương cho tín đồ noi theo; tổ

chức luân chuyển linh mục, tu sĩ và trẻ hóa, nâng cao trình độ của linh mục, tu sĩ nhằm

tạo ra sự mới mẻ, phong phú về nội dung và cách giảng đạo, từng bước trẻ hóa đội ngũ

truyền giáo mang tính kế thừa. Tích cực xây dựng, sửa chữa lại nhà thờ, vừa để phục vụ

tốt hơn cho tín đồ vừa khẳng định sự vững mạnh của tôn giáo mình; xin nâng nhà nguyện

thành nhà thờ, tiến tới tách thành giáo xứ cho đạo mới; về kinh thánh, chỉ dạy những nội

dung phù hợp với sự phát triển của xã hội, phù hợp phong tục tập quán địa phương nhằm

củng cố niềm tin tôn giáo đối với tín đồ. Về quan hệ, tránh đối đầu với chính quyền, tích

cực cộng tác, tạo quan hệ thân mật, gần gũi nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của chính quyền

địa phương; vừa chủ trương truyền giáo theo hành nghề, giới tính, độ tuổi, vừa thực hiện

đoàn kết liên gia giữa gia đình có đạo và không có đạo trong khu dân cư, đặc biệt Tòa

Giám mục đã điều động, phát triển nhiều tu sĩ dòng, phân công tu sĩ dòng đến phục vụ các

giáo xứ (không xin phép chính quyền), mở rộng các hoạt động xã hội và tập hợp thanh

thiếu niên.

- Tin Lành: Đẩy mạnh việc phong chức quản nhiệm cho các truyền đạo, mở rộng

giao lưu với các chi hội trong khu vực. Về quan hệ với chính quyền, tỏ ra ít gắn bó, không

tích cực hợp tác với chính quyền trong giải quyết các vấn đề có liên quan như: Công

nhận đại diện Tin Lành tỉnh, truyền đạo trái phép, truyền đạo tình nguyện, mời mục sư,

tín đồ ngoài tỉnh đến giảng kinh thánh và giao lưu...

- Đại hội 02 cấp Phật giáo Hòa Hảo đã đạt các yêu cầu đề ra về tôn chỉ, mục đích,

đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ chức và nhân sự, tạo tiền đề quan trọng tiếp tục ổn định

sinh hoạt tôn giáo bình thường, thuần tuý cho tuyệt đại đa số tín đồ. Tình hình sau Đại

hội, đã đặt ra nhiều yêu cầu, nội dung mới cần được cụ thể hóa đồng bộ về cơ sở pháp lý

phục vụ công tác quản lý nhà nước ở cấp huyện và cơ sở, về văn bản hóa các hình thức và

nội dung sinh hoạt của Phật giáo Hòa Hảo. Nhóm Phật giáo Hòa Hảo hải ngoại chủ

trương không đối đầu với Nhà nước ta, hòa hoãn, từng bước đưa người vào tổ chức để

phục vụ âm mưu lâu dài.

Những vấn đề nảy sinh và chủ trương, biện pháp xử lý của Đảng bộ.

Giám mục Giáo phận Long Xuyên có văn bản gửi các linh mục, tu sĩ cùng toàn thể giáo

dân trong Giáo phận và một số linh mục, tu sĩ tín đồ ở ngoài nước, kêu gọi sự đóng góp xây dựng

trụ sở Tòa Giám mục nhưng không xin phép chính quyền. Ban Tôn giáo tỉnh đã mời đại diện

Tòa Giám mục đến làm việc về nội dung trên. Tòa Giám mục đã nhận thiếu sót và có làm đơn

xin phép theo đúng quy định của Nghị định 26/1999NĐ.CP của Chính phủ và được Uỷ ban

Nhân dân tỉnh chấp thuận. Tuy nhiên, đáng chú ý là một số linh mục, tín đồ trong và ngoài nước

luôn đặt vấn đề nhiều năm nay là “tại sao Tòa Giám mục không đòi lại trụ sở Tòa Giám mục cũ

(hiện do Nhà nước quản lý làm Trung tâm Giáo dục thường xuyên), mà xây dựng trụ sở mới gây

tốn kém.

Một số chức sắc, chức việc tôn giáo lợi dụng sự sơ hở trong quản lý Nhà nước, mua đất

để mở rộng cơ sở thờ tự, xin phép mua đất để sản xuất nhưng thực chất là từng bước xây dựng cơ

sở tôn giáo, hoặc giáo dân đứng tên mua đất rồi hiến lại nhà thờ. Việc xây dựng sửa chữa cơ sở

thờ tự thời gian qua có chiều hướng gia tăng.

Tình hình tiếp nhận người nhập tu không xin phép (tu chui) của một số tôn giáo, nhất là

Công giáo, Phật giáo vẫn tiếp tục xảy ra. Đáng chú ý hơn hết là ở dòng Thánh gia, Chúa Quan

phòng, Đa minh Công giáo.

Tình hình tranh chấp cơ sở thờ tự giữa các tôn giáo đang diễn ra ngày càng phức tạp. Chủ

yếu là tranh chấp giữa Phật giáo Hòa Hảo với Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo với Tứ Ân Hiếu

Nghĩa. Việc khiếu kiện đòi lại cơ sở vật chất hiện do Nhà nước đang quản lý cũng diễn ra phức

tạp (Trung ương viện Thánh Gia xin lại một phần cơ sở hiện là trường phổ thông cơ sở Trần

Hưng Đạo và Trung tâm Khuyến nông tỉnh; Hội thánh Tin Lành Long Xuyên xin lại trường mẫu

giáo Hoa Phượng), cần quan tâm nghiên cứu

Võ Văn Thanh Liêm (đạo đọt, ở Long Điền A – Chợ Mới) tiếp tục lập am cốc, viết khẩu

hiệu chống Đảng và Nhà nước, chống tín đồ, chống Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo;

hoạt động khép kín, thách thức không chịu sự quản lý của Chính quyền địa phương; khi ta có yêu

cầu tiếp xúc, thì y đóng cổng rào, leo lên ngọn cây, mang theo dao, chất cháy để đối phó. Một số

nơi khác cũng có hiện tượng xây am cốc trái phép như: Trương Văn Long, Nguyễn Văn Lang

(xã Núi Tô), Tư Trung (xã An Cư), lấy nhà làm nơi hoạt động tôn giáo Lê Thị Mộng (xã Kiến

An huyện Chợ Mới), Trần Trung Dũng (thị trấn Tân Châu).

Gần đây Tin Lành Cơ đốc Phục Lâm và Tin lành Tư Gia, đẩy mạnh hoạt động truyền đạo

trái phép nhằm phát triển tín đồ. ở huyện Chợ Mới, nhóm Tin Lành Tư gia do Nguyễn Thị Tuyết

Nhung và Lâm Thị Mai Hoa cầm đầu, ở Châu Phú Tin Lành Cơ Đốc Phục Lâm do Nguyễn Nha

Tạo cầm đầu mở nhiều lớp đào tạo ở nhiều nơi trong nước “truyền đạo tình nguyện”, “nhóm cầu

nguyện liên gia” của Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) cũng hoạt động trái quy định

của pháp luật. Việc đổi mới, nâng chất giảng kinh thánh, tăng cường củng cố đức tin đang diễn

ra.

Hoạt động mê tín dị đoan không giảm. Xu hướng thương mại hóa các hoạt động tôn giáo

ở một bộ phận chức sắc tôn giáo có biểu hiện gia tăng. Có nơi đã phát sinh mâu thuẫn giữa tín đồ

với chức sắc tôn giáo, giữa chức sắc với chức sắc.

Những ngày đầu năm 2004, đoàn Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ đến An Giang để tìm hiểu

về tình hình đạo Phật giáo Hòa Hảo, Hồi Giáo và Phật giáo Nam tông Khmer. Chúng lén lút tài

trợ kinh sách, tiền bạc mệnh danh của “Qũi Hồi giáo Đông Dương” tán phát kinh sách, lôi kéo

một số tín đồ đi hành hương, đi du học qua đường Campuchia. Cao Đài hải ngoại (trung tâm tại

thánh thất Kim Biên – Nam Vang), sang kích động một số phần tử “ly khai” Hội thánh, tán phát

tài liệu chống đối. Các nhóm cực đoan trong Phật giáo Hòa Hảo thay đổi phương thức chống

phá, từ đối đầu khiêu khích sang “thân thiện” để lợi dụng sơ hở của ta.

Những thành quả đạt được

+ Giải quyết tốt quan hệ giữa tự do tôn giáo, tín ngưỡng với đẩy mạnh sản xuất, chăm lo

đời sống hàng ngày cho nhân dân và duy trì được sự ổn định xã hội trong Tỉnh.

Khi chính trị được bình ổn thì đó là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế , thật vậy

ngay từ khi thực hiện chính sách đổi mới về tôn giáo tình hình an ninh chính trị trật tự an toàn xã

hội ngày càng được củng cố. Nhân dân trong vùng yên tâm phát triển sản xuất. Cùng với chính

sách mở của Đảng ta, đời sống nhân dân vùng có đạo ở An Giang ngày thêm khởi sắc. Quyền tự

do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của người dân được tôn trọng. Thực hiện được nguyên tắc

này cũng tạo cho người dân cảm thấy được tôn trọng, đồng thời quyền và nghĩa vụ công dân

cũng được phát huy. Người dân dù có đạo hay không có đạo cũng thấy mình thật sự là chủ nhân

của chính quê hương xứ sở, nơi mà cha ông họ đã có công khai phá. Sự tin tưởng của Đảng bộ và

chính quyền địa phương qua công tác tôn giáo không những tạo cho họ niềm tin mà còn tạo động

lực tốt cho nhân dân ngày càng hoàn thiện bản thân mình, hòa đồng cùng cả nước thực hiện cuộc

sống văn hóa lành mạnh, xã hội ổn định.

+ Phát huy được sức mạnh đoàn kết dân tộc.

Công tác tôn giáo được các cấp uỷ Đảng, chính quyền quan tâm lãnh đạo và chỉ

đạo thực hiện đúng chủ trương, chính sách, pháp luật và đáp ứng yêu cầu chính đáng của

đại đa số chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo, kịp thời phát hiện, đấu

tranh xử lý các hoạt động lợi dụng tôn giáo. Công tác tuyên truyền, thực hiện chủ trương,

chính sách, pháp luật về tôn giáo có hiệu quả. Đảm bảo cho sinh hoạt tôn giáo ổn định,

hoạt động đúng pháp luật. Chức sắc và tín đồ các tôn giáo ngày càng tin tưởng vào sự

lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, có ý thức gắn bó với dân tộc, tích cực tham gia các

phong trào do địa phương tổ chức, nhất là tham gia các cuộc vận động toàn dân đoàn kết

xây dựng văn hóa ở khu dân cư; tham gia vào Mặt trận, đoàn thể và cơ quan dân cử các

cấp. Công tác tranh thủ chức sắc, tín đồ đã phát huy hiệu quả tốt, có ý nghĩa quan trọng

đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền địa phương về công tác tôn giáo.

Để hướng tới việc phát huy hơn nữa khối đoàn kết dân tộc trong đồng bào tôn giáo,

Đảng bộ tỉnh An Giang đã chú trọng làm tốt công tác vận động trong tầng lớp chức sắc,

xây dựng họ thành lực lượng cốt cán để củng cố tinh thần đoàn kết cộng đồng, thực hiện

tất cả các chủ trương tôn giáo đồng hành cùng dân tộc.

Sâu xa hơn nữa là Đảng bộ tỉnh cũng đã có những phương thức đồng bộ nhằm

nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân, thực hiện có hiệu quả chương trình

xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, hỗ trợ các hoạt động tôn giáo theo hướng giữ gìn,

tôn tạo, phát huy các giá trị văn hóa sống tốt đời đẹp đạo.

Từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã tổng

kết thành bài học.

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,

Thành công, thành công, đại thành công”

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, Đảng ta đã xác định:

“Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân”(ĐCSVN, văn kiện lần

thứ IX, Nxb ST HN 2001, tr23). “Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của

cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”(ĐCSVN, văn kiện lần thứ IX, Nxb ST HN 2001,

tr123). Đối với đồng bào ở An Giang, việc giải quyết tốt vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo của

Đảng bộ đã là nội dung quan trọng trong chiến lược đại đoàn kết của Đảng, đoàn kết giữa

người có đạo và không có đạo cũng như đoàn kết giữa những người có tôn giáo khác nhau

không chỉ vì địa phương ổn định phát triển mà còn vì một nước Việt Nam dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

+ Xây dựng được niềm tin của giáo dân đối với Đảng, đối với Nhà nước.

Việc đánh giá đúng vị trí và vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội là cách nhìn

nhận đúng đắn của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo. Nhờ vậy trong những năm qua

ở An Giang xu hướng tôn giáo đồng hành với dân tộc trong các hoạt động thể hiện ngày

càng rõ nét. Các hội đoàn kết tôn giáo ở tỉnh An Giang đã hướng các hoạt động vào việc

tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật đồng thời vận động các thành viên của tổ

chức tôn giáo thực hiện các quy định của chính quyền địa phương. Rất nhiều cơ sở tôn

giáo (như chùa, thành đường, nhà thờ...) bên cạnh việc chăm lo đời sống tinh thần, tâm

linh cho bà con, còn tham gia vào việc hướng dẫn tài liệu sách báo kỹ thuật trồng lúa cao

sản, trồng rau quả, tham gia vào việc giáo dục, dạy chữ dạy người cho con trẻ trong vùng.

Thực tế cho thấy, chính sách tôn giáo đúng, cách lãnh đạo thực hiện sáng tạo phù hợp với

điều kiện của địa phương sẽ góp phần gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống của người dân,

góp phần củng cố tâm lý, niềm tin cho người có đạo, góp phần từng bước nâng cao đời

sống vật chất, tinh thần để người có đạo yên tâm đồng lòng cùng cộng đồng các tôn giáo

khác trên quê hương An Giang thực hiện các mục tiêu kinh tế – chính trị – xã hội – an

ninh quốc phòng vì một địa phương ổn định, phát triển, dân chủ và văn minh.

+ Tránh được âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch trong và ngoài

nước.

2.2.3. Những hạn chế

Trong quá trình triển khai thực hiện đường lối, chủ trương ở một vài địa phương

thiếu toàn diện, có một ít cán bộ, đảng viên do nắm không chặt chủ trương, chính sách

một cách cụ thể nên đôi khi còn định kiến, mặc cảm. Việc thường xuyên gần gũi, thuyết

phục các chức sắc, chức việc tích cực còn hạn chế, tín đồ khi vào Đảng ngại khó trong

sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo bình thường, đảng viên được phân công làm công tác tôn

giáo ngán ngại, do am hiểu về tập tục giáo luật còn hạn chế. Việc phối hợp giải quyết

những nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo thuần tuý có lúc không kịp thời, thường nặng về hành

chính đôi khi dẫn đến máy móc. Ngược lại có nơi buông lỏng quản lý, các ban xây dựng

Đảng chưa thường xuyên phối hợp cùng Mặt trận, các đoàn thể làm tham mưu cho cấp uỷ

Đảng về công tác phát triển đảng viên, xây dựng lực lượng nòng cốt trong các tôn giáo.

Tuy nhiên, một số yêu cầu về sinh hoạt tôn giáo thuần tuý đối với đạo Phật giáo

Hoà Hảo, ta chưa có chủ trương xử lý cụ thể rõ ràng. Về Công giáo, tuy thực hiện theo

hướng “thích nghi”, song vẫn chịu sự chi phối rất lớn của Vaticăng, ta nắm và xây dựng

lực lượng nòng cốt trong tôn giáo còn nhiều hạn chế.

Trong lãnh đạo, các cấp uỷ đảng và quản lý của chính quyền ở một số nơi chưa có

sự quan tâm đúng mức, thiếu sự chỉ đạo đồng bộ, còn khoán cho chuyên môn, có ngành

không sâu sát, ngán ngại trách nhiệm, đùn đẩy nhau. Hệ thống tổ chức cán bộ làm công

tác tôn giáo phần nhiều thiếu và yếu, cơ chế phối hợp trong hệ thống chính trị chưa có

quy chế, quy định rõ ràng. Cơ chế chính sách, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm

công tác tôn giáo thiếu hoàn chỉnh, về tài liệu chưa đáp ứng cho nghiên cứu trên lĩnh vực

này.

Công tác quản lý chính quyền cơ sở mới chỉ giải quyết được những công việc

mang tính chất hành chính, sự vụ, chưa chủ động đề ra chương trình, kế hoạch cho công

tác tôn giáo của địa phương mình.

Công tác tuyên truyền chưa phù hợp với tâm lý trình độ nhận thức của quần chúng

tín đồ theo địa bàn. Việc tuyên truyền vận động giáo dục quần chúng tín đồ hiểu và thực

hiện chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước về tôn giáo chưa thường xuyên và sâu

rộng, chưa quan tâm đúng mức nội dung giáo dục về âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù

địch. Công tác đấu tranh chống lại luận điệu xuyên tạc, vu khống của một số phần tử xấu

có lúc chưa kịp thời sắc bén. Nội dung, phương thức vận dụng chưa cụ thể từng tôn giáo

và tổ chức thành viên chưa quan tâm công tác vận động tôn giáo cũng như nội dung vận

động từng đoàn thể.

Việc quản lý đối với hoạt động đào tạo chức sắc, phong chức, thuyên chuyển, bổ

nhiệm chức sắc của các tôn giáo.

Trong quản lý các sinh hoạt, hoạt động tôn giáo, quản lý việc đào tạo, phong chức,

thuyên chuyển, bổ nhiệm chức sắc tôn giáo, thời gian qua tại tỉnh An Giang có một số

điều đáng chú ý:

- Do không nắm vững đặc trưng giáo luật, giáo lễ của từng tôn giáo, cũng như

không phân định rõ nội dung, hành vi tín ngưỡng tôn giáo với mê tín dị đoan, nên việc

quản lý các sinh hoạt lễ hội, cúng bái của các tôn giáo chưa được chặt chẽ, có những

trường hợp còn bị kẻ xấu lợi dụng, đan xen hoạt động mê tín dị đoan với tín ngưỡng tôn

giáo và tín ngưỡng dân gian.

- Một số trường hợp xét duyệt nhân sự đào tạo chức sắc thiếu cơ sở đảm bảo, do

phía Giáo hội thực hiện không đúng thủ tục và quy trình, làm cho người thẩm quyền giải

quyết bị động (Phật giáo). Mặt khác, đối với lĩnh vực này, bằng nhiều cách, một số tôn

giáo tổ chức đào tạo trái phép. Đã có trường hợp tấn phong linh mục trái phép (dòng

Thánh gia), công nhận tu sĩ bất hợp pháp (Phật giáo với 3 anh em Sáu Xưa) đã được phát

hiện và xử lý kịp thời.

Quản lý về xây dựng sữa chữa các cơ sở tôn giáo.

Việc quản lý lĩnh vực xây dựng, sửa chữa không xin phép hoặc có phép nhưng xây

dựng sai thiết kế (thường là mở rộng quy mô và thay đổi kiến trúc) họ sẳn sàng nộp phạt,

do chính quyền cơ sở không phát hiện kịp thời và ngăn chặn, từ đó ta rất khó xử lý.

Tương tự như vậy, có trường hợp biến gia đình thành tự (biến nhà thành chùa) cũng gây

không ít khó khăn, thậm chí trong thực tế còn mặc nhiên, bỏ ngỏ. Do sự phối hợp giữa

các ngành chức năng tham mưu cho Uỷ ban Nhân dân các cấp như: Ban Tôn giáo, Địa

chính, sở Xây dựng, sở Văn hoá Thông tin (đối với di tích)...chưa chặt chẽ, chưa có quy

định, quy trình cụ thể về mặt pháp lý, nên từng lúc có sơ hở, bị lợi dụng. Vấn đề nơi thờ

tự và đất đai tôn giáo chưa chú trọng giải quyết rõ ràng và kịp thời, nên tình trạng đòi, xin

lại, khiếu tố, khiếu nại tranh chấp của một số tôn giáo trong tỉnh (Phật giáo, Thiên Chúa

giáo, Cao Đài) vẫn còn nhiều âm ĩ cần phải được xử lý đúng chính sách và pháp luật,

không nên để kéo dài làm ảnh hưởng đến lòng tin của chức sắc và tín đồ các tôn giáo.

Quản lý các hoạt động từ thiện tôn giáo.

Thông thường các hoạt động xã hội, từ thiện của tôn giáo, có ý thức cố tách khỏi

sự quản lý của nhà nước, của ngành chuyên môn như: Y tế, Giáo dục, Thương binh xã

hội. Nếu không thoát khỏi sự quản lý đó, thì họ chỉ bám lấy một mối quan hệ với các

Đoàn thể, Mặt trận làm chổ dựa hợp pháp để hoạt động.

Trong hoạt động xã hội, từ thiện của các tôn giáo, nhất là đối với hoạt động chữa

trị bệnh, có nhiều trường hợp lồng với mê tín dị đoan (phù phép, bói toán...). Tại Nghị

định 69/NĐ.HĐBT có quy định “Cho chức sắc và tổ chức tôn giáo được hoạt động từ

thiện trong lĩnh vực Nhà nước cho phép”, nhưng chưa có văn bản pháp qui nào cụ thể

hóa cho phép họ được hoạt động ở lĩnh vực từ thiện nào, quy mô và phạm vi đến đâu, nên

địa phương rất lúng túng trong việc thực hiện.

Quản lý các hoạt động quốc tế của tôn giáo

Ngoài các cá nhân và tổ chức giáo hội ngoài nước vào theo con đường chính thức

về tôn giáo, nhiều cá nhân và tổ chức tôn giáo đã vào với danh nghĩa du lịch, làm kinh tế,

từ thiện nhưng thực chất là móc nối hoạt động tôn giáo. Với tình hình hoạt động tôn giáo

bất hợp pháp này, có nhiều trường hợp ta phát hiện và xử lý được, nhưng không tránh

khỏi trường hợp “lọt lưới”. Phần lớn chức sắc và tín đồ các tôn giáo được phép đi nước

ngoài tuy họ có lý do, nhưng họ đã làm gì, quan hệ với ai,..trong thời gian ở nước ngoài

thật khó mà hiểu hết để quản lý.

Về việc xây dựng bộ máy và đội ngũ cán bộ thực hiện chức năng quản lý Nhà

nước về tôn giáo trong tỉnh

Về tổ chức cán bộ quản lý:

Đa số cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo, kể cả thường trực ủy ban Nhân dân

các cấp phụ trách công tác tôn giáo cũng chưa được đào tạo, bồi dưỡng qua trường lớp về

lĩnh vực công tác này. Một số đã được tập huấn về chuyên môn, nhưng lại có yêu cầu

chuyển sang công tác khác. Do sự phân công cán bộ thường xuyên thay đổi công tác nên

cán bộ làm công tác tôn giáo còn thiếu kinh nghiệm, chưa nghiên cứu nắm chắc các quy

định của Nhà nước về hoạt động tôn giáo do đó khi giải quyết các công việc liên quan tới

tôn giáo không kịp thời thiếu kiên quyết. Từ đó, việc thực hiện công tác quản lý đối với

hoạt động tôn giáo ở các cấp thường chưa sâu, chưa toàn diện, còn nhiều sơ hở, bị động

trong xử lý. Tổ chức quản lý về tôn giáo chưa đồng bộ, thiếu hệ thống, nên mối liên hệ về

chuyên môn trên dưới chỉ mang tính chất trao đổi công việc, không có quy định ràng buộc

về chế độ trách nhiệm, hiệu quả hoạt động không cao.

Cơ chế phối hợp trong hệ thống chính trị:

Về vấn đề này vẫn chưa có một quy chế phối hợp giữa các ngành, các cấp được

quy định và hướng dẫn cụ thể từ Trung uơng đến cơ sở (ai làm và làm đến đâu) cho nên

đôi khi sự phối hợp trở thành hình thức “hiếu hỉ” thiếu thực chất đối với yêu cầu công

việc. Chưa có sự phân cấp về công tác quản lý, về tổ chức, nhân sự và các hoạt động tôn

giáo một cách rõ ràng, dẫn đến tình trạng xử lý vấn đề không đúng thẩm quyền, hoặc tất

cả đều giải nạp về trên, gây phiền hà với đương sự, không cần thiết.

2.3. Những kinh nghiệm trong lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo của Đảng

bộ

2.3.1 Nhận thức đúng và đặt đúng vị trí công tác tôn giáo.

Tôn giáo thực ra không chỉ là việc đạo mà còn là việc đời: không chỉ liên quan đến

thế giới “thiên đường”, “địa ngục” mai sau mà cả cuộc sống hiện tại. Sinh hoạt tôn giáo

gắn bó chặt chẽ với đời sống văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc. Với tư cách một thực thể

xã hội, con người bị chi phối và ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ khác nhau thì đồng thời

con người cũng có vô vàn những nhu cầu không giống nhau. Nhu cầu của con người có

xu hướng chung là ngày càng phong phú và đa dạng. Song khái quát lại có hai nhu cầu

lớn: nhu cầu về vật chất và tinh thần. Đối với những người có đạo, niềm tin tôn giáo, đời

sống tâm linh trở thành nhu cầu tinh thần thiết yếu, đôi khi không kém gì nhu cầu vật

chất. Phủ nhận hoặc hạn chế nhu cầu này một cách thô bạo là trái với quy luật tự nhiên và

trái với lòng dân khi những nhu cầu là khách quan và chính đáng. Tuỳ theo điều kiện lịch

sử với những nguyên nhân khác nhau mà nhu cầu ấy có thể diễn biến, bộc lộ lặng lẽ, cũng

có thể rộ lên thậm chí gay gắt, phức tạp và bức xúc, tạo nên những phản ứng xã hội phức

tạp. Chưa ai quên sự đau buồn của cuộc di cư vào Nam năm 1954 của tín đồ Thiên Chúa

giáo. Với luận điểm: “Chúa Kitô đã vào Nam, Đức Mẹ đã rời bỏ miền Bắc”, “Cộng sản

diệt đạo”,... bọn phản động đã lợi dụng nhu cầu tinh thần của giáo dân để lừa mị và cưỡng

bức 55 vạn tín đồ rời quê hương, nhà cửa, ruộng vườn...nơi sinh sống bao đời chỉ vì lý do

sợ mất đức tin.

Niềm tin tôn giáo đối với người có đạo còn trở thành lẽ sống, là cứu cánh của cả

cuộc đời. Người ta có thể chấp nhận mọi khốn khổ và khó khăn trong cuộc sống, thậm chí

đổi cả tính mạng để phụng sự cho niềm tin ấy. Dù tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh

bị áp bức, nhưng tôn giáo vẫn là nơi nhiều người dựa vào đấy để trút vợi nổi đau buồn.

Dù tôn giáo là “thứ hạnh phúc hư ảo”, nhưng quần chúng tín ngưỡng vẫn đón nhận và coi

là “hạnh phúc” chừng nào chưa có hạnh phúc thật sự. Trong tôn giáo người ta tìm thấy

nguồn an ủi, vỗ về xoa dịu nổi buồn tràn trề. Hơn nữa, con người tìm đến tôn giáo không

chỉ tìm đến sự an ủi, che chở, giúp đỡ và giải thoát mà còn xuất phát từ nhiều nhu cầu tinh

thần khác. Mỗi khi đặt chân vào chốn cửa Phật hoặc nơi ngự trị của Chúa, người ta có

cảm giác thanh thoát như phần nào rũ bỏ được những bụi bặm của cuộc sống trần tục, gần

gũi với một thế giới lạ lùng, huyền ảo nhưng đầy hấp dẫn.

Vấn đề tôn giáo ở An Giang còn vô cùng phức tạp. Ngay sau ngày giải phóng, các

thế lực phản động luôn lợi dụng vấn đề tôn giáo để gây ảnh hưởng xấu đến quần chúng

nhân dân. Hiện nay chúng vẫn luôn tìm mọi cách để chống phá chế độ, phá hoại khối

đoàn kết dân tộc giữa đồng bào có đạo và không có đạo mà ta đã dầy công xây dựng.

Trong suốt 30 năm lãnh đạo công tác tôn giáo Đảng bộ tỉnh An Giang cũng đã đạt được

những thành tựu đáng kể, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới

(tốt đời đẹp đạo) không chỉ đối với tín đồ tôn giáo mà còn đối với các dân tộc anh em

đang sống trên vùng đất biên giới đa dân tộc, đa tôn giáo này. Ngày nay nhìn lại chặng

đường đã qua Đảng bộ và quần chúng nhân dân tỉnh An Giang nhận thức rằng tôn giáo là

một vấn đề cực kỳ phức tạp và công tác tôn giáo là một nhiệm vụ lớn lao đầy thử thách và

lắm chông gai đối với cán bộ làm công tác tôn giáo ở vùng đất phía Tây Nam Bộ, nơi mà

với những điều kiện đặc thù riêng đã phát sinh nhiều tôn giáo và hệ phái tôn giáo.

Phát huy quyền làm chủ của người dân, vận động khuyến khích đồng bào thực

hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo phương hướng

"tốt đời, đẹp đạo". Đây là mục tiêu mà Đảng bộ tỉnh An Giang luôn hướng tới trong công

tác tôn giáo. Quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng là một trong những

quyền cơ bản của mọi công dân Việt Nam. Quyền đó đã được Nhà nước bảo hộ. Đảng bộ

và chính quyền tỉnh An Giang đảm bảo thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và

không tín ngưỡng tôn giáo cho công dân bằng sức mạnh và quyền lực của mình. Thực tế

cho thấy sau 30 năm lãnh đạo, Đảng bộ tỉnh An Giang đã tổ chức thực hiện đúng chủ

trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo. Thực tế

cũng đã chứng minh, nhân dân An Giang hoàn toàn được tôn trọng quyền tự do tôn giáo

và dù tôn giáo luôn là vấn đề nhạy cảm luôn bị kẻ địch lợi dụng, nhưng từ trước đến nay

vấn đề tôn giáo ở An Giang luôn không xảy ra những vấn đề lớn như một số địa phương

khác.

Kinh nghiệm công tác tôn giáo của An Giang cho thấy muốn triệt tiêu xu hướng lợi

dụng tôn giáo trục lợi vì mục đích kinh tế cần phải giúp các giáo hội giữ gìn phẩm hạnh

của đội ngũ chức sắc trên cơ sở thực hiện nghiêm minh giáo luật của tôn giáo. Mặt khác,

muốn xóa bỏ xu hướng lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị phản động, phải tăng

cường quản lý chức sắc tôn giáo từ cơ sở trở lên. Cương quyết đấu tranh với các phần tử

phản động lợi dụng tôn giáo, nhưng chú ý lấy tôn giáo để giải quyết vấn đề tôn giáo; sử

dụng lực lượng, sức mạnh của quần chúng là chủ yếu.

Khi xử lý điểm nóng tôn giáo như bọn phản động Lê Quang Liêm trong việc lợi

dụng Phật giáo Hòa Hảo trong thời gian qua cho thấy cần phải nắm vững các yếu tố sau:

Thứ nhất là có đối sách phù hợp trên cơ sở phải chủ động phát hiện (không bị

động)

Thứ hai là nhận thức đúng đắn bản chất của mâu thuẫn (địch, ta trong nội bộ nhân

dân) tìm cách giải quyết mâu thuẫn ngay từ khi còn chưa phát triển bằng các phương pháp

thích hợp.

Thứ ba là thu hẹp phạm vi cơ sở đó để giải quyết (không để lây lan nơi khác), vấn

đề của Lê Quang Liêm đã không để lây lan sang các tỉnh khác.

Thứ tư là kiên trì thuyết phục, thuần phục hoặc cô lập người cầm đầu (gặp riêng

kết hợp với trấn an số đông), có thể giải quyết yêu sách theo đúng địa vị và thẩm quyền

pháp lý của hai bên (người khiếu tố và người giải quyết khiếu tố).

2.3.2 Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong công tác tôn giáo.

Về công tác chức sắc tôn giáo thì kinh nghiệm ở An Giang cho thấy công tác chức

sắc có vai trò rất quan trọng. Với họ cần gần, hiểu và cảm hóa bằng nhiều hình thức,

khuyến khích họ tăng cường hoạt động theo xu hướng thuần tuý tôn giáo kết hợp với

chiều hướng chuyển hoá để tham gia đời sống chính trị, xã hội phù hợp (trên cơ sở gần -

hiểu - đối thoại - cảm hóa - bồi dưỡng - sử dụng từng người)

Nếu chỉ làm tốt vận động tín đồ mà coi nhẹ công tác vận động các vị chức sắc, nhà

tu hành là một thiếu sót rất lớn, bởi vì chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo là những người

có vai trò, uy tín và ảnh hưởng lớn trong quần chúng ở các khu dân cư có đạo. Chức sắc,

tín đồ có mối quan hệ mật thiết: tiếng nói của họ có trọng lượng lớn, có lúc, có nơi giữ vai

trò quan trọng đến lập trường, tư tưởng và thái độ của tín đồ, khi tín đồ còn băn khoăn về

một điều gì đó, nếu có sự tác động của các chức sắc nhà tu hành thì tín đồ dễ dàng nhận

thức được vấn đề để thực hiện. Vì vậy, công tác vận động các chức sắc, nhà tu hành có ý

nghĩa rất quan trọng trong công tác tôn giáo nói chung. Tuy nhiên công tác vận động các

chức sắc, nhà tu hành lại gắn liền và có mối quan hệ hữu cơ với công tác vận động quần

chúng tín đồ các tôn giáo. Làm tốt công tác vận động các chức sắc, nhà tu hành sẽ góp

phần tích cực trong việc vận động tín đồ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Ngược lại, làm tốt công tác vận động tín đồ sẽ góp phần tạo ra môi trư-

ờng xã hội thuận lợi trong việc tiến hành công tác vận động các chức sắc, nhà tu hành đạt

hiệu quả.

Thực tế cho thấy, làm tốt công tác vận động tín đồ sẽ tạo ra một môi trường và dư

luận có tác dụng không nhỏ đến các chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo. Phong trào thi

đua yêu nước lên cao ở một vùng đông tín đồ tôn giáo không thể không tác động và tạo sự

chuyển biến đối với một chức sắc, nhà tu hành một tôn giáo nào đó, nếu vị chức sắc đó

còn mặt cảm chưa tiến bộ. Ta có thể nói rằng vận động các chức sắc, nhà tu hành và tuyên

truyền vận động tín đồ là hai mặt của một vấn đề có quan hệ khăng khít mật thiết với

nhau.

Để thực hiện công tác vận động quần chúng tín đồ các tôn giáo, các vị chức sắc,

nhà tu hành mang lại hiệu quả trong thời gian tới cần phải có nội dung phương thức vận

động phù hợp từng đối tượng các tôn giáo như sau:

Về tổ chức tôn giáo, kinh nghiệm lãnh đạo thực hiện chính sách tôn giáo ở An

Giang cho thấy cần phân loại để kiên quyết giải thể các tổ chức tôn giáo phi pháp từ cấp

trung ương đến tỉnh và cơ sở. Những hoạt động thuần tuý tôn giáo của các tổ chức tôn

giáo đã đăng ký chỉ diễn ra ở cơ sở gắn với giáo hội cơ sở, những hoạt động văn hóa xã

hội của tổ chức tôn giáo phải được sự cho phép của chính quyền cơ sở.

Khi đề nghị xin Trung ương công nhận tư cách pháp nhân tôn giáo cần lưu ý đến

nhân sự và xu hướng hoạt động của tôn giáo ấy. Kinh nghiệm ở An Giang cho thấy khi

tôn giáo nào được thừa nhận tư cách pháp nhân thì chính quyền địa phương có điều kiện

quản lý tôn giáo đó thường xuyên hơn và tốt hơn.

Về quan hệ quốc tế của tôn giáo phải phục vụ cho đường lối đối ngoại của Đảng và

chính sách ngoại giao (trong đó có ngoại giao nhân dân) của Nhà nước ta. Song đối với

từng tôn giáo cụ thể, trên cơ sở nắm vững nguyên tắc độc lập, có chủ quyền, không để

bên ngoài can thiệp vào nội bộ của ta để xử lý mềm dẻo.

Mối quan hệ giữa cán bộ với chức sắc, những người có đạo. Theo kinh nghiệm

của An Giang trong thời gian qua, mối quan hệ này là rất quan trọng trong sự thành bại

của công tác tôn giáo. Thực tế đã chứng minh trước đổi mới, khi quan niệm về tôn giáo

còn nhiều lệch lạc, nhất là đối với cán bộ làm công tác tôn giáo ở địa phương thì mối quan

hệ này bị đóng băng cũng có nghĩa là những phần tử xấu lợi dụng tôn giáo vì mục đích

kinh tế và chính trị có điều kiện thuận lợi để thực hiện âm mưu của chúng. Ngược lại từ

sau đổi mới, khi mà công tác tôn giáo được nhìn nhận và quan tâm đúng mức, mối quan

hệ gữa cán bộ làm công tác tôn giáo với chức sắc, những người có đạo cũng được cải

thiện đáng kể thì kết quả công tác tôn giáo cũng ngày càng tốt hơn. Đây cũng là một trong

những nét đặc trưng cơ bản của công tác tôn giáo ở An Giang. Có thể khẳng định rằng

hiếm khi thấy ở địa phương nào mà người làm công tác tôn giáo lại có mối quan hệ mật

thiết với chức sắc và tín đồ tôn giáo như ở An Giang. Họ có thể trò chuyện với nhau như

những người bạn, cùng nhau thảo luận một vấn đề và thậm chí mời nhau khi gia đình

hoặc họ đạo có tổ chức lễ tiệc. Cũng từ mối quan hệ gắn bó này mà ở An Giang ngày

càng đông những tín đồ tôn giáo xin được kết nạp Đảng.

Hằng năm, đại diện các cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể các cấp

đến dự chúc mừng nhân các ngày lễ lớn của các tôn giáo, nhân ngày tết cổ truyền dân

tộc, thăm hỏi tặng quà các chức sắc tôn giáo lúc đau yếu, bệnh tật, tạo bầu không khí vui

vẻ thân mật. Hằng năm, thay mặt Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân các cấp có đến tham dự,

chúc mừng nhữmg ngày lễ trong đại của tôn giáo, Tết cổ truyền dân tộc. Khi chức sắc, tín

đồ tôn giáo gặp khó khăn ốm đau hoặc vướng mắc trong chính sách thì bao giờ họ cũng

được giúp đỡ tận tình và giải đáp thoả đáng. Mối quan hệ gần gũi chân tình giữa cán bộ

làm công tác tôn giáo với quần chúng nhân dân có đạo ở tỉnh An Giang là một trong

những nét rất đặc thù.

Mối quan hệ giữa người có đạo và không có đạo và giữa những người theo các

tôn giáo khác nhau. Đoàn kết tôn giáo là nội dung quan trọng trong chính sách đại đoàn

kết dân tộc từ lâu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta quan tâm. Hiện nay, Đảng và

Nhà nước ta tiếp tục khẳng định chủ trương bình đẳng tôn giáo. Vì vậy Đảng bộ tỉnh An

Giang lãnh đạo thực hiện đoàn kết giữa đồng bào có đạo và đồng bào không có đạo, cũng

như đoàn kết đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau ngày càng thêm bền chặt. ở An

Giang khoảng cách giữa người theo đạo và không theo đạo đươc thu hẹp dần trên các lĩnh

vực đời sống, kinh tế - xã hội, trong quan hệ xóm làng cũng như trong nhà máy, công sở.

Thực tế cho thấy ở khu vực nầy quan hệ làng xóm, quan hệ dòng tộc và quan hệ láng

giềng thân thuộc trội hơn và chi phối quan hệ tôn giáo, vì đây là mối quan hệ tương thân

tương ái của những người cùng quê hương xứ sở. Lịch sử khai hoang vùng đất mới An

Giang đã cho thấy ngay từ buổi đầu di dân lập ấp những chủ nhân của vùng đất chịu nhiều

thiên tai mưa lũ này đã biết đoàn kết nhau lại để chống thiên tai, thú dữ và giặc ngoại

xâm. Họ đã đùm bọc nhau cùng vượt qua những khó khăn gian khổ dù không cùng chung

sắc tộc tôn giáo. Kế thừa truyền thống quý báu của cha ông, ngày nay trong điều kiện đất

nước hoà bình, tuy vấn đề tôn giáo đôi khi ở nơi này hay nơi khác vẫn còn xảy ra tranh

chấp cơ sở thờ tự giữa các tôn giáo với nhau, nhưng nhìn chung người dân An Giang luôn

sống chan hòa, đoàn kết và đầy nghĩa khí. Chính điều này tạo nên chất keo gắn bó các dân

tộc với nhau, và chưa bao giờ có sự việc xung đột sắc tộc hay xung đột tôn giáo xảy ra ở

khu vực tưởng chừng như rất phức tạp này.

Nhìn chung, sự đoàn kết lương giáo và đoàn kết dân tộc ngày càng được mở rộng,

tăng cường và có thêm chất lượng mới. Nhưng sự đoàn kết thống nhất nầy rất cần được

phát huy và nâng lên tầm cao mới. Điều này cũng đòi hỏi Đảng bộ tỉnh An Giang cũng

ngày càng nâng cao chất lượng công tác tôn giáo cho ngang tầm với yêu cầu lịch sử của

Đảng và Nhà nước giao cho đồng thời cũng đáp ứng yêu cầu của địa phương.

Mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

của nhân dân. Công tác tôn giáo là một trong những nhiệm vụ phức tạp và là trách nhiệm

của toàn bộ hệ thống chính trị ở địa phương An Giang. Điều đó cho thấy Đảng bộ cũng đã

đề ra Chỉ thị và Chương trình hành động rất sát sao, cụ thể trong điều kiện của địa

phương. Do điều kiện đặc thù của An Giang nên ngày càng nhiều những người có đạo

được kết nạp vào Đảng. Mặc dù hướng dẫn số 03 của Ban Tổ chức Trung ương ngày

14.4.1995 còn nhiều điểm chung chung, nhưng Đảng bộ cũng đã áp dụng và có điểm sáng

tạo cho riêng mình. Đó là đảng viên có tôn giáo ngày càng được khuyến khích tham gia

sinh hoạt tôn giáo và cũng đã có tác dụng vận động quần chúng có đạo thực hiện đúng

chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chỉ có như thế mối quan hệ

giữa cán bộ làm công tác tôn giáo với chức sắc tín đồ tôn giáo mới ngày càng thêm gắn

bó. Đảng viên có đạo là sợi dây liên hệ rất bền chặt và quan trọng trong việc thành công

trong công tác tôn giáo. Ban Tôn giáo tỉnh cũng giữ vai trò quan trọng trong việc theo dõi

nắm tình hình hoạt động của tôn giáo; nghiên cứu tham mưu cho cấp ủy xử lý kịp thời,

đúng pháp luật các sự vụ về tôn giáo tại cơ sở cũng như trong việc tổ chức thực hiện các

quy định của Nhà nước và các quyết định của Tỉnh ủy, ủy ban Nhân dân tỉnh đối với các

hoạt động tôn giáo tại địa phương; giúp ủy ban Nhân dân huyện kiểm tra các hoạt động

của tổ chức tôn giáo, giúp các tổ chức chính trị xã hội, chức sắc tín đồ và nhân dân chấp

hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo

và hoạt động tôn giáo, tổng hợp tình hình tôn giáo và hoạt động của tín ngưỡng tôn giáo

trên địa bàn để báo cáo thường xuyên, kịp thời về ủy ban Nhân dân tỉnh.

2.3.3. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của

chính quyền các cấp.

Về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, kinh nghiệm ở An Giang cho thấy trước hết

cần tập trung xây dựng tổ chức cơ sở Đảng thông qua con đường đưa thanh niên tốt vào

rèn luyện trong trường học quân đội nhân dân để bồi dưỡng kết nạp Đảng; hết thời gian

thực hiện nghĩa vụ quân sự trở về An Giang công tác. Trên cơ sở tổ chức Đảng, việc xây

dựng chính quyền (Uỷ ban Nhân dân và Hội đồng Nhân dân) mới có điều kiện để đảm

bảo hạt nhân chính trị trong chính quyền cơ sở. Trên cơ sở tổ chức Đảng và tổ chức chính

quyền việc xây dựng tổ chức quần chúng (đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội nghề

nghiệp) tốt nhất là thông qua các phong trào quần chúng thực hiện các chương trình phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương (như các phong trào: xóa đói giảm nghèo, xây

dựng đời sống văn hóa mới, xây dựng nông thôn mới, bài trừ tệ nạn xã hội, bài trừ mê tín

dị đoan...) để phát hiện, bồi dưỡng và kết nạp người tốt vào tổ chức.

Về xây dựng đội ngũ cán bộ, kinh nghiệm ở An Giang cho thấy việc xây dựng đội

ngũ cốt cán cần được tiến hành trong các đối tượng: tín đồ là thành viên của đoàn thể

(như: thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh, người cao tuổi, dân quân, chữ thập

đỏ...), chức việc ở các giáo hội cơ sở và chức sắc ở các cấp trong từng giáo hội. Muốn

vậy, phải thông qua phong trào quần chúng thi đua tinh thần tốt đời đẹp đạo để lựa chọn,

sàng lọc, phân công phụ trách đơn tuyến, thường xuyên bồi dưỡng, động viên tinh thần và

vật chất thích hợp, tiến hành giao việc và báo việc phù hợp với từng người cụ thể.

Về cơ chế phối hợp, xuất phát từ tình trạng chồng chéo, lấn sân giữa các bộ phận

của hệ thống chính trị trong cả nước ta nói chung và An Giang nói riêng, sự lấn sân giữa

các bộ phận trong hệ thống chính trị, thậm chí có một số mặt còn bỏ trống do không phân

định rõ chức năng, nhiệm vụ dẫn đến công tác tôn giáo có hiệu quả thấp, thậm chí vô hiệu

hóa lẫn nhau. Trước tình trạng ấy kinh nghiệm ở An Giang cho thấy cần phải sớm xác lập

cơ chế phối hợp công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở các cấp của địa

phương theo đúng nguyên tắc: Đảng bộ lãnh đạo, ủy ban Nhân dân quản lý, Mặt trận và

các đoàn thể vận động thực hiện.

Việc cụ thể hóa nguyên tắc trên đây cần có quy định chung: Tỉnh ủy trực tiếp chỉ

đạo công tác chính trị tôn giáo, ủy ban Nhân dân tỉnh, Ban Tôn giáo thực thi chức năng

quản lý hành chính Nhà nước về hoạt động tôn giáo theo quy định của luật pháp. Mặt trận

vận động chức sắc tôn giáo và các chức việc cơ sở , các đoàn thể nhân dân vận động quần

chúng thuộc đối tượng của mình (theo lứa tuổi hoặc theo giới tính), công an nhân dân trực

tiếp chống địch lợi dụng tôn giáo.

Đổi mới chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong thập kỷ qua là

thành quả quan trọng của sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở nước ta. Nhờ có sự đổi mới ấy đã huy động được

sức mạnh đoàn kết dân tộc góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước. Trên cơ sở đó Đảng bộ tỉnh An Giang đã vận dụng chủ trương chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước vào hoàn cảch cụ thể của địa phương, thời gian qua cũng

đã gặt hái được những thành tựu đáng kể về công tác tôn giáo. Tuy nhiên, nhận thức là

một quá trình và do tác động của hoàn cảnh lịch sử mới nên việc tiếp tục đổi mới và việc

hoàn thiện chính sách đối với tôn giáo luôn là vấn đề đặt ra.

Kết luận

Tôn giáo là một hình thái ý thức - xã hội đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân

loại. Nó là một hình thái ý thức - xã hội mang tính bảo thủ, lạc hậu, bản chất của nó là

phản ánh sai lệch những hiện tượng khách quan vào đầu óc con người. Nhưng nó lại đáp

ứng một phần nhu cầu trong đời sống tinh thần của một bộ phận không nhỏ dân cư trong

xã hội. Nó là nhu cầu cho nên đối với một bộ phận quần chúng có thể bằng mọi cách sẽ

đến với tôn giáo. Vì thế, tôn giáo đã đồng hành cùng với con người qua nhiều thế kỷ.

Trong thời đại ngày nay, vấn đề tôn giáo không còn là một sinh hoạt riêng của một

dân tộc nào, mà được truyền bá rộng rãi trên mọi châu lục. Nó cũng đã ăn sâu vào hoạt

động đối nội và đối ngoại của nhiều nước.

Vấn đề đặt ra hiện nay là nắm vững hơn nữa bản chất của tôn giáo, gắn việc giải

quyết tôn giáo trên cơ sở lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, nhằm đáp ứng nhu cầu tín ng-

ưỡng của quần chúng. Muốn vậy, phải có chính sách tôn giáo đúng đắn trên cơ sở hiểu

sâu các tôn giáo mà mình quan tâm, nhằm tăng tính thiện, bài trừ tính ác góp phần vào

xây dựng một xã hội có văn hóa, ổn định và phát triển.

Cần phải thấy tôn giáo là một hiện thực còn tồn tại lâu dài, cho nên chế độ xã hội

chủ nghĩa cần phải có sự liên minh chiến lược, chứ không phải là chiến thuật với tôn giáo

để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.

An Giang là tỉnh biên giới đa dân tộc, đa tôn giáo nên công tác tôn giáo vận là việc

làm phức tạp và nhạy cảm mang tính quyết định đến trật tự an ninh xã hội. Từ ngày miền

Nam hoàn toàn giải phóng, tình hình tôn giáo An Giang đã dần đi vào ổn định. Từ khi

Đảng lãnh đạo toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo

công tác tôn giáo và đạt nhiều thành công, ngăn chặn được âm mưu lợi dụng tôn giáo của

bọn phản động với âm mưu “Diễn biến hòa bình”, giải quyết những vụ xung đột tranh

chấp giữa các tôn giáo với nhau, thực hiện thành công chiến lược đại đoàn kết của Đảng.

Sự thành công đó là do Đảng bộ Tỉnh đã thực hiện đúng chính sách của Đảng và linh hoạt

vận dụng chính sách đó vào hoàn cảnh cụ thể của An Giang. Bên cạnh cũng phải đến

công sức của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.

Chính tình hình tôn giáo và dân tộc ở An Giang tạo nên nét đặc sắc về đời sống tín

ngưỡng của nhân dân trong tỉnh. Tuy nhiên, toàn thể nhân dân An Giang đều sống trong

cộng đồng hòa thuận, đoàn kết đó là nhờ sự đồng lòng tương trợ của Đảng và dân như “cá

với nước” đúng như lời Bác Hồ dạy.

Danh mục Tài liệu tham khảo

1. Bộ Chính trị (16.10.1990) Nghị quyết 24 về cụng tỏc tụn giỏo trong tỡnh hỡnh mới

2. Bộ Chính trị (12.3.2003) Nghị quyết 25 Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng

khoá 9 về công tác tôn giáo

3. Ban Chấp hành Trung ương (26.11.1990), Chỉ thị 66 về thực hiện Nghị quyết của Bộ

Chính trị về “tăng cường công tác tôn giáo trong tỡnh hỡnh mới”

4. Ban dân vân Trung ương (1990), Đề cương giới thiệu Nghị quyết 24 của BCT về tang

cường công tác tôn giáo trong tỡnh hỡnh mới

5. Bộ Chính trị (2.7.1998) Chỉ thị 37 về cụng tỏc tụn gớao trong tỡnh hỡnh mới

6 Ban Bí thư (16.10.1990), Thông báo 76 kết luận về việc thực hiện Nghị 24 ngày của

BCT (Khóa VI) về “ Tăng cường công tác tôn giáo trong tỡnh hỡnh mới”.

7. Bộ Chính trị (15.6.1998) Thông báo 145 kết luận về "tăng cường lónh đạo công tác tôn

giáo trong tỡnh hỡnh mới".

8. Ban Chấp hành Trung ương (27.5.1999), Thụng bỏo 47 ý kiến thường trực của Bộ

Chính trị – Ban Bí thư về một số tỡnh hỡnh Phật giỏo gần đây

9. Ban chỉ đạo (30.2.1998), Báo cáo số 1 tổng kết việc thực hiện NQ 24 của Bộ Chính trị

về: “Tăng cường công tác tôn giáo trong tỡnh hỡnh mới” phương hướng công

tác tôn giáo thời kỳ tới"

10. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18.6.1998), Báo Công tác vận động tín đồ, chức sắc của

tôn giáo

11. Tỉnh ủy An Giang (12.4.1991), Chỉ thị 15 về việc thực hiện thưc hiện Nghị quyết số

24/NQ.TƯ của Bộ chính trị về "tăng cương công tác tôn giáo trong tỡnh hỡnh mới"

12. Tỉnh ủy An Giang .(16.6.2003), Chương trỡnh hành động số 10/CTr-TU về công tác

tôn giáo trong tỡnh hỡnh mới

13. Ban Tôn giáo (27.3.2000), Thông báo số 108 về việc tiếp tục tấn công nhóm phản

động đội lốp Phật giáo Hoà hảo do Lê Quang Liêm cầm đầu

14. Tỉnh ủy An Giang (1986), Bỏo cỏo số 138/BC-TU tỡnh hỡnh quớ I/1986.

15 Ban Tôn giáo (21.9.1998), Bỏo cỏo và giải trỡnh số 30 về tỡnh hỡnh Phật giỏo Hoà

Hảo tỉnh An Giang.

16. Tỉnh ủy An Giang (24.11.1998), Bỏo cỏo số 32 Tớnh chất chớnh trị và quỏ trỡnh hỡnh

thành, phỏt triển của Phạt giỏo Hoà Hảo tỉnh An Giang

17. Ban Tôn giáo (29.6.1998), Bỏo cỏo Tỡnh hỡnh tụn giỏo Hũa Hảo tỉnh An Giang

18. Tỉnh ủy An Giang (13.3.2000), Báo cáo số 50 Vấn đề Phật giáo Hoà hảo ở An Giang

từ 1998 đến 2000

19. Tỉnh ủy An Giang (31.3.2000), Bỏo cỏo số 52 Tỡnh hỡnh hoạt động của bọn phản

động đội lốt Phật giáo Hoà hảo và tổ chức tấn công của ta

20. Ban Tổ chức Tỉnh uỷ (14.03.2003), Báo cáo số liệu đảng viên kết nạp trong các tôn

giáo từ năm 1996 đến năm 2002

21. Ban Dân vận tỉnh An Giang (30.6.1984), Báo cáo 15 về Cụng tỏc khảo sỏt tỡnh hỡnh

quần chỳng trong tỉnh

22. Ban Dân vận tỉnh An Giang (26.6.1992), Báo cáo số 17 về Tỡnh hỡnh tụn giỏo và

cụng tỏc tụn giỏo 6 thỏng đầu năm 1992

23 Ban Dân vận tỉnh An Giang (20.6.1992), Báo cáo số 20 về Tỡnh hỡnh tụn giỏo và

cụng tỏc tụn giỏo 6 thỏng đầu năm 1992 và phương hướng công tác tôn giáo 6

tháng cuối năm 1992

34. Ban Dân vận tỉnh An Giang (26.6.1992), Báo cáo số 17 về Tỡnh hỡnh tụn giỏo và

cụng tỏc tụn giỏo 6 thỏng đầu năm 1992

25. Ban Dân vận tỉnh An Giang (12.11.1992), Báo cáo số 23/BC.DV: Hai năm thực hiện

Nghị quyết 24 Bộ Chính trị về công tác tôn giáo (10.1990 – 10.1992).

26. Ban Dân vận tỉnh An Giang Thông cáo số 11 Vài nột về tỡnh hỡnh tụn giỏo và cụng

tỏc tụn giỏo quý III/1991 và đầu năm 1992 (24.10.1992).

27. Ban Dân vận tỉnh An Giang (25.12.1993), Bỏo cỏo số 220 về cụng tỏc khảo sỏt tỡnh

hỡnh quần chỳng hai huyện miền núi Tri Tôn và Tịnh biên

28. Ban Dân vận tỉnh An Giang (2000), Báo cáo số 13 về tuần lễ tĩnh tâm của giáo phận

Long Xuyên.

29. Ban Dân vận tỉnh An Giang (9.7.1993), Bỏo cỏo số 16 về tỡnh hỡnh tụn giỏo - cụng

tỏc tụn giỏo 6 thỏng đầu năm 1993

30. Ban Dân vận tỉnh An Giang (1994), Bỏo cỏo số 197 về tỡnh hỡnh tụn giỏo và cụng

tỏc tụn giỏo từ thỏng giờng đến tháng 9/1994.

31. Ban Dân vận tỉnh An Giang (18.10.1994), Báo cáo số 20 về tỡnh hỡnh tụn giỏo và

cụng tỏc tụn giỏo từ thỏng 9/1994 đến nay

32. Ban Dân vận tỉnh An Giang (29.12.1994), Báo cáo số 23 về tỡnh hỡnh tụn giỏo và

cụng tỏc tụn giỏo năm 1994

33. Ban Dân vận tỉnh An Giang (20.12.1994), Báo cáo số 28 về công tác quần chúng

năm 1994 và phương hướng nhiệm vụ năm 1995

34. Ban Dân vận tỉnh An Giang (4.7.1996), Báo cáo số 14 về đợt khảo sát cơ sở vùng tôn

giáo

35. Ban Dân vận tỉnh An Giang (02.4.1997), Bỏo cỏo số 143 về tỡnh hỡnh số liệu về tụn

giỏo

36. Ban Dân vận tỉnh An Giang (5.1998), Báo cáo số 78 về tỡnh hỡnh cụng tỏc tụn giỏo

và dõn tộc quý I/1998 và phương hướng tới.

37. Ban Dân vận tỉnh An Giang (31.3.1998), Lịch sử số 64 quỏ trỡnh hỡnh thành, phỏt

triển, tồn tại của “Thiờn khai Huỳnh đạo

38. Ban Dân vận tỉnh An Giang (25.3.1998), Báo cáo số 52 sơ kết việc thực hiện thông

báo 34 của Ban Bí Thư (Khoá VI)

39. Ban Dân vận tỉnh An Giang (13.3.1998), Bỏo cỏo số 42 tỡnh hỡnh Dạo Cao Đài phái

Tây Ninh của huyện Tân Châu, An Phú

40. Ban Dân vận tỉnh An Giang (25.3.1998), Bỏo cỏo số 61 tỡnh hỡnh hoạt động của số

người trong đạo Phật giáo Hoà Hảo

41. Ban Dân vận tỉnh An Giang (21.06.1999), Bỏo cỏo số 187 tỡnh hỡnh cụng tỏc tụn

giỏo và dõn tộc 6 thỏng đầu năm và phương hướng 6 tháng cuối năm 1999

42. Ban Dân vận tỉnh An Giang (3.6.1999), Báo cáo số 169 kết qủa Đại hội Đại biểu tín

đồ phật giáo Hoà Hảo

43. Ban Dân vận tỉnh An Giang (06.01.2000), Báo cáo số 07 về ngày lễ Đảng sinh giáo

chủ Phật giáo Hoà Hảo ngày 25/11 âm lịch

44. Ban Dân vận tỉnh An Giang (25.12.1999), Bỏo cỏo số 86 tỡnh hỡnh cụng tỏc tụn giỏo

và dõn tộc và phương hướng năm 2000

45. Ban Dân vận tỉnh An Giang (13.8.2001), Bỏo cỏo khỏi quỏt tỡnh hỡnh tụn giỏo 10

năm và hiện nay

46. Ban Dân vận tỉnh An Giang (02.8.2002), Báo cáo số 37 sơ kết tỡnh hỡnh và kết quả

thực hiện hướng dẫn số 42/HD.TU của BTV Tỉnh ủy về khối dân vận cơ sở

47. Chớnh phủ Việt Nam Dõn chủ Cộng hũa (14.6.1955), Sắc lệnh 234 về vấn đề tôn giáo

48. Thủ tướng Chính phủ (23.7.1993), Chỉ thị số 379/TTg về các hoạt động tôn giáo.

49. Thủ tướng Chính phủ (04.12.1993), Hướng dẫn 500 thực hiện chỉ thị 379/TTg về hoạt

động tôn giáo

50. Ban tôn giáo Chính phủ (1999), Thông tư số 01 hướng dẫn một số vấn đề quản lý Nhà

nước đối với hoạt động của Phật Giáo Hoà Hảo.

51. Hội đồng Bộ trưởng (21.3.1991), Nghị định 69 quy định về các hoạt động tôn giáo

52. Chính phủ (19.4.1999), Nghị định số 26 về các hoạt động tôn giáo.

53. Ban Tôn giáo Chính phủ (24.2.1992), Thông tư số 02 hướng dẫn thực hiện Nghị Định

69/HĐBT

54. Ban Tôn giáo Chính phủ (19.6.1999), Thông tư hướng dẫn thực hiện một số điều

trong Nghị định của Chính phủ số 26/1999/NĐ – CP ngày 19 tháng 4 năm

1999 về các hoạt động tôn giáo

55. Ban Tôn giáo Chính phủ (16.6.1999), Kế hoạch triển khai Nghị Định số 26/1999/NĐ

– CP ngày 19 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo

56. Ban Tôn giáo Chính phủ (25.5.2001), Thụng bỏo số 32 một số tỡnh hỡnh về cụng tỏc

quản lý Nhà nước đối với Cao Đài trong thời gian gần đây

57. Ban chấp hành Trung ương (1999), Thụng bỏo số 34 í kiến của Ban Bớ Thư về chủ

trương công tác đối với đạo Cao Đài.

58. Ban Tôn giáo Chính phủ (11.2001), Thụng bỏo số 36 về tỡnh hỡnh tụn giỏo và cụng

tỏc quản lý Nhà nước về tôn giáo

59. Ban Tôn giáo Chính phủ (2000), Thông báo số 10 nết quả Hội Nghị chuyên đề công

tác đối với đạo Cao Đài.

60. Ban Tôn giáo Chính phủ (1997), Báo cáo số 26 Tổng kết việc thực hiện Nghị Định số

69/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng “Quy định về các hoạt động tôn giáo”.

61. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (20.5.1991),Thông tư số 5 hướng dẫn việc thi hành

Nghị định 69/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về các hoạt động tôn giáo.

62. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (25.12.1993), Công văn số 860 về việc hoạt động của

Lê Quang Liêm và công tác quản lý tụn giỏo

63. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (3.12.1994), Công văn số 1003 về việc lễ Noel 1994

64. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (20.6.1997), Báo cáo số 18 tổng kết việc thực hiện

Nghị định số 69/HĐBT “Quy định về các hoạt động tôn giáo”

65. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (03.9.1997), Quyết định số 7038 về việc Ban hành

“Quy chế tạm thời về thủ tục và sự phối hợp quản lý trong giải quyết các yêu

cầu thường xuyên đối với hoạt động của tôn giáo”

66. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (12.12.1998), Quyết định số 7366 về việc cho phép

đại diện Hội đồng Chưởng quản Cao đài Tây Ninh tỉnh An Giang tổ chức cuộc

sinh hoạt học tập cho các thành viên Ban Cai quản các Họ đạo trong tỉnh

67. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (22.11.1997), Quyết định số 7369 về việc cho phép tổ

chức lễ an vị tượng Phật tại chùa Thiên Khai Huỳnh Đạo ở ấp Vĩnh Đông xó

Vĩnh Tế (Thị xó Chõu Đốc)

68. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (26.3.1998), Công văn số 290 về việc xử lý một số đối

tượng đạo Cao Đài Tây Ninh ở Tân Châu có hoạt động sai phạm

69. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (30.3.1999), Báo cáo số 92 tỡnh hỡnh thực hiện

chớnh sỏch tụn giỏo của Đảng đối với tín đồ Phật giáo Hoà Hảo của tỉnh An

Giang

70. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (20.3.2000), Bỏo cỏo số 04 tỡnh hỡnh tụn giỏo va

cụng tỏc tụn giỏo 5 năm 1996 – 2000

71. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (11.5.2000), Quyết định số 998 về việc cho phép Ban

Đại diện Phạt giáo Hoà Hảo tổ chức lớp “bồi dưỡng giáo lý căn bản Phật

giáo Hoà Hảo”

72. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (6.6.2000), Quyết định số 998 về việc cho phép tổ

chức lễ kỷ niệm 61 năm ngày khai đạo Phật giáo Hoà Hảo

73. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (26.6.2000), Quyết định số 1388 của chủ tịch UBND

tỉnh An Giang về việc cho phép Họ đạo cao Đài Chân lý Thỏnh thất Phước

Hoà xó Mỹ Hoà, thành phố Long Xuyờn tổ chức họp họ đạo suy cử Ban Cai

quản và nghi lễ

74. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (14.12.2000), Quyết định số 2501 về việc cho phép tổ

chức lễ kỷ niệm 81 năm ngày đản sinh Đức Huỳnh giáo chủ Phật giáo Hoà

Hảo

75. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (20.11.2000), Bỏo cỏo số 20 tỡnh hỡnh tụn giỏo và

cụng tỏc Quản lý Nhà nước về tôn giáo

76. ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (25.8.2003), Kế hoạch số 40 thực hiện Chương trỡnh

hành động của Tỉnh uỷ về công tác tôn giáo

77. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (13.12.2004), Báo cáo số 27 tình hỡnh tụn giỏo và cụng

tỏc Quản lý Nhà nước về tôn giáo năm 2004 – phương hướng năm 2005

78. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (9.12.1994), Tờ trỡnh số 07 về việc chỳc lễ, tặng quà cỏc

cơ sở thờ tự và nhân sĩ đạo Thiên chúa và Tin Lành nhân ngày lễ Noel 1994.

79. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (07.11.1997), Bỏo cỏo số 88 tỡnh hỡnh tụn giỏo và cụng

tỏc tụn giáo những tháng đầu năm 1997 tại tỉnh An Giang

80. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (10.01.1998), Bỏo cỏo số 04 tỡnh hỡnh tụn giỏo và cụng

tỏc tụn giỏo năm 1997 nhiệm vụ công tác tôn giáo năm 1998

81. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (03.06.1998), Công văn số 76 về tỡnh hỡnh Phật Giỏo

Hũa Hảo

82. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (26.6.1998), Báo cáo số 84 tỡnh hỡnh tụn giỏo và cụng

tỏc tụn giỏo 6 thỏng đầu năm 1998

83. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (26.8.1998), Bỏo cỏo số 116 túm tắt về tỡnh hỡnh và

cụng tỏc đối với đạo Phật giỏo Hũa Hảo ở An Giang sau ngày miền Nam hoàn

toàn giải phúng.

84. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (01.9.1998), Công văn số 120 về việc đề nghị thành lập Ban

tôn giáo

85. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (05.10.1998), Báo cáo số 133 một số vấn đề liên quan

đến nơi thờ tự của tôn giáo

86. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (11.10.1999), Kế hoạch số 11 triển khai thực hiện Nghị

định 26/1999/NĐ.CP ngày 19.4.1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo

87. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (14.01.2000), Bỏo cỏo số 01 tỡnh hỡnh tụn giáo và công

tác tôn giáo năm 1999

88. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (06.3.2000), Báo cáo số 04 sơ kết thực hiện Nghị định

26/1999/NĐ.CP ngày 19.4.1999 của Chính phủ qui định về các hoạt độnh tôn

giáo

89. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (09.01.2001), Báo cáo số 01 tỡnh hỡnh tụn giỏo và cụng

tỏc quản lý Nhà nước về tôn giáo năm 2000

90. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (06.10.2004), Báo cáo số 13 một số vấn đề cần quan tâm

trong tôn giáo trên địa bàn tỉnh An Giang thời gian qua (Theo đề nghị của Ban

Chỉ đạo Tây Nam Bộ)

91. Tổng cục Chính trị (1993), Một số hiểu biết về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, (Sách

tham khảo của), Nxb Quân đội Nhân dân.

92. Ban tư tưởng văn hoá Trung ương (2000), Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của

Đảng Cộng sản Việt Nam.

93. Hoàng Tâm Xuyên (1999), Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia

Hà Nội

94. Đặng Nghiêm Vạn (2000), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Khoa

học Xã hội

Đặng Nghiêm Vạn (1996), Về tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học Xã hội

95. Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn

giáo,

96. Hồ Trọng Hoài Kỷ yếu đề tài cấp bộ về vấn đề tôn giáo ở khu vực đồng bào Khmer

Tây Nam Bộ hiện nay.

97. Nguyễn Duy Hinh Về hai đặc điểm Phật giáo Việt Nam

98. Nguyễn Đức Sự Nho giáo Việt Nam

99. Trần Đình Hựu Nho giáo với tư cách là một tôn giáo

100. Lương Ninh Đạo Hồi với người Chăm ở Việt Nam

101. Nguyễn Quốc Tuấn Về cơ cấu tổ chức Cao Đài Giáo

102. Lê Công Vũ Tôn giáo và mê tín,

103. Hồ Chí Minh toàn tâp, tập 1 đến tập 12 Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà nội,

2000.

104.Fidel và tôn giáo, Uỷ ban đoàn kết công giáo yêu nước xuất bản 1986.

105.Các Mác và Ăngghen toàn tập, tập 1 đến tập 3 Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà

Nội 1995

106. V.I.Lênin toàn tâp, tập 1 đến tập 32 Nhà xuất bản tiến bộ Maxcơva, năm 1979

107. Luận cương về Feurbach trong Các Mác và Ăngghen toàn tập, tập 1 Nhà xuất bản Sự

thật, Hà Nội 1980

109. Bảng Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb lý luận Chính trị

110. Nguyễn Đức Bình (2005), Một số vấn đề về công tác lý luận tư tưởng văn hóa, Nxb

Chính trị Quốc gia Hà Nội

111. Hồng Vinh (2005), Cuộc đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch thực

trạng và giải pháp, Nxb Hà Nội