intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đảng Cộng sản Việt Nam xác lập, hoàn thiện lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Đảng Cộng sản Việt Nam xác lập, hoàn thiện lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" tập trung làm rõ một số nội dung như: Những nhân tố tác động đến quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; Quá trình xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội; Đề xuất cho việc xây dựng con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh mới ở Việt Nam dưới ánh sáng của Đại hội XIII của Đảng. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đảng Cộng sản Việt Nam xác lập, hoàn thiện lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM XÁC LẬP, HOÀN THIỆN LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Hoàng Trung Dũng Trường Đại học Xây dựng Hà Nội Tác giả liên hệ: Hoàng Trung Dũng, email: Dunght@nuce.edu.vn Tóm tắt: Thực tiễn quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho thấy việc nhận thức, vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gặp không ít khó khăn và thách thức. Trong bài viết tác giả tập trung làm rõ một số nội dung như: Những nhân tố tác động đến quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; Quá trình xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội; Đề xuất cho việc xây dựng con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh mới ở Việt Nam dưới ánh sáng của Đại hội XIII của Đảng. Việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội, về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vừa là đòi hỏi khách quan của lịch sử, nhằm giải quyết tốt các vấn đề đang đặt ra cho Đảng và dân tộc ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam; xác lập; hoàn thiện; mô hình chủ nghĩa xã hội. 1. MỞ ĐẦU Trong hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn cảnh nào Đảng ta vẫn luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: “Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”. Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, 79
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”, và đã được khẳng định điều này tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI (tháng 01-2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lịch sử dân tộc ta đã chứng tỏ con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn, nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân ta. Từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội là vấn đề có tính quy luật về nhận thức hiện thực khách quan. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập, hoàn thiện lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội, đây là cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng, góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Những nhân tố tác động đến quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Một là, cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực và vấn đề thời đại đã làm bộc lộ những hiện tượng, những quy luật, những nhân tố và những xu hướng mới. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu không thành công là bằng chứng về sự sai lầm về đường lối cải tổ. Mọi ý định tốt đẹp đã không thể diễn ra trên thực tế, do không có những cơ sở lý luận được luận chứng một cách khoa học và cương lĩnh thực thi hiệu quả. Kết cục là chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước sụp đổ. Trong khi đó các nước xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, Việt Nam, Cuba tiến hành cải cách, đổi mới lại theo một mô thức và giải pháp khác. Con đường đi lên của Trung Quốc không rập khuôn máy móc mô hình nước ngoài, lấy chủ nghĩa Mác làm tư tưởng chỉ đạo, xuất phát từ tình hình cụ thể của mình, Trung Quốc xác định họ đang ở giai đoạn chủ nghĩa xã hội và giai đoạn này kéo dài cả trăm năm. Cuộc cải cách “vì chân lý và lẽ phải” ở Cuba được bứt phá từ điểm xuất phát của “năm chạm đáy”, “năm ở cuối đường hầm” - 1993. Đảng và nhà 80
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” nước Cu Ba nhạy cảm đối với những vấn đề cốt lõi: Giải phóng sức sản xuất, thừa nhận vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh và sự linh hoạt trong chính trị cũng như ngoại giao. Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta phác thảo ban đầu trong các văn kiện Đại hội từ năm 1954 đến năm 1986. Nhìn một cách tổng thể, thời kỳ này, chúng ta chưa xác định được mô hình và những đặc trưng cụ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, về cơ bản trong nhận thức và chịu ảnh hưởng trực tiếp của cơ chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung quan liêu và bao cấp, chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoàn cảnh và quy luật của chiến tranh và có sự tác động của tình hình quốc tế. Các nước xã hội chủ nghĩa tuy có nhiều thành tựu xong vẫn còn đang trong quá trình khảo nghiệm, các hình thức, bước đi và yêu cầu khách quan phải cải tổ, cải cách, mở cửa. Sự chuyển biến trong tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cùng những chính sách, chủ trương đổi mới bước đầu đã được khẳng định tại Đại hội VI của Đảng. Qua mỗi chặng đường, Đảng và nhân dân ta kịp thời phát hiện vấn đề, sơ kết, tổng kết kinh nghiệm, điều chỉnh bước đi phù hợp nhằm tăng cường năng lực nội sinh, thu hút sức mạnh bên ngoài, từng bước tiến lên vững chắc theo con đường xã hội chủ nghĩa. Như vậy, nhân tố cơ bản sâu xa và trực tiếp quy định quá trình đổi mới nhận thức của Đảng ta về những đặc trưng chủ nghĩa xã hội chính là sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực và vấn đề thời đại. Sự khủng hoảng đó đã chứng minh rằng, nhiều nhận thức cũ của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã không còn phù hợp với thực tiễn và phải thay đổi nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hai là, bối cảnh kinh tế và chính trị quốc tế tác động đến quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng. Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ làm cho chủ nghĩa xã hội trên thế giới tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào, còn các nước tư bản đã tận dụng được những thành tựu phát triển của khoa học - công nghệ và kinh nghiệm tổ chức quản lý điều hành nền kinh tế thị trường, làm cho kinh tế tư bản phát triển mạnh mẽ cả về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Bên cạnh đó các nước tư bản đã điều chỉnh một số chính sách xã hội như giải quyết việc làm, chế độ tiền lương, trợ cấp thất nghiệp... nhờ đó đã làm dịu bớt làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân 81
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG dân lao động trong các nước tư bản. Đặc biệt các nước tư bản hiện đại đã điều chỉnh chính sách đối ngoại, chiến lược quốc phòng, an ninh để tăng cường khả năng chống phá cách mạng thế giới, từ “ngăn chặn” chuyển sang “vượt trên ngăn chặn”. Mặt khác khu vực Châu Á Thái Bình Dương mà hầu hết các nước lớn đều có chiến lược riêng của mình ở khu vực này. Chính bối cảnh kinh tế và chính trị quốc tế đó đã tác động đến nhận thức của Đảng ta về đổi mới tư duy lý luận. Vừa là để thoát khỏi những sai lầm do cơ chế, chính sách cũ đã kìm hãm nền kinh tế, vừa là cách thức duy nhất để Đảng Cộng sản Việt Nam giữ quyền lãnh đạo đưa đất nước tiếp tục đi lên theo đúng mục tiêu và con đường đã lựa chọn một cách hiệu quả và vững chắc hơn. Cùng với đó, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của tất cả các nước, trong đó có Việt Nam. Một mặt cách mạng khoa học và công nghệ tạo điều kiện cho các nước phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh để bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia. Mặt khác cách mạng khoa học và công nghệ cũ tạo sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng và khoảng cách phát triển giữa các nước ngày càng bị đẩy ra xa thêm, mâu thuẫn thời đại ngày càng trở nên gây gắt hơn. Điều này tác động mạnh mẽ đến công cuộc đổi mới ở nước ta. Trước một thế giới đổi thay và phát triển như vậy phải làm thế nào để nước ta ra khỏi khủng hoảng, trì trệ, lạc hậu, kém phát triển để bắt kịp nhịp sống chung của thế giới hiện đại, bước vào sự phát triển năng động, thích ứng với những đòi hỏi mới của thời đại. Câu trả lời chỉ có thể là đổi mới, đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống, cùng với đổi mới là mở cửa và chủ động hội nhập quốc tế. Ba là, toàn cầu hóa kinh tế gắn liền với quá trình tiếp xúc, giao lưu, đối ngoại giữa các nền văn hóa, từ đó yêu cầu nhận thức đúng về vấn đề độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Thế giới ngày nay bị tác động bởi hai nhân tố trái ngược nhau. Về kinh tế, do bị thúc ép bởi nhu cầu lợi nhuận, nhu cầu mở rộng phân công lao động để phát triển lực lượng sản xuất nên có xu hướng toàn cầu hóa. Các quan hệ kinh tế, phân công lao động quốc tế đang làm lu mờ dần vai trò của biên giới quốc gia. Nhưng về mặt chính trị, văn hóa và xã hội lại đang có xu hướng nhấn mạnh độc lập và chủ quyền của mỗi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia có lợi ích chính trị, kinh tế độc lập với lợi ích của các quốc gia khác, có bản sắc văn hóa và truyền thống lịch sử riêng. 82
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Vì vậy trong quá trình mở cửa, hội nhập với thế giới toàn cầu, việc chuẩn bị tiềm lực và trữ lượng văn hóa, việc thường xuyên chăm lo bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc là vấn đề ở tầm chiến lược chính trị thông qua các quyết sách, chính sách phát triển. Nói cách khác, nâng chính trị đến tầm văn hóa chính trị, nâng cao năng lực bản lĩnh văn hóa của lãnh đạo, quản lý để đồng thời giải quyết các vấn đề phát triển trong nước cũng như trong quan hệ quốc tế, khu vực và thế giới. Chính yêu cầu này của văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa và các vấn đề toàn cầu nói chung đã tác động tới sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Đây không chỉ là tác động ở thời kỳ đầu đổi mới mà còn tác động lâu dài trong suốt tiến trình đổi mới. Bốn là, bản lĩnh chính trị vững vàng và sự sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vào những năm 80 của thế kỷ 20, Việt Nam là một trong những nước gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế. Đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh với tổn thất hết sức nặng nề. Kẻ thù bao vây, cấm vận từ nhiều phía, cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp đã làm cho nền kinh tế bị trì trệ và đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Với bản lĩnh chính trị vững vàng và với kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng phong phú và phương pháp luận khoa học, đảng đã phân tích nguyên nhân xấu xa của những sai lầm đó là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam. Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm nhận thức đúng và thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Có thể nói có được sự đổi mới tư duy lý luận thành công, Đảng ta đã xứng đáng là một Đảng được vũ trang bằng lý luận cách mạng tiền phong và đã được thử thách qua phong trào cách mạng đầy cam go và phức tạp. Đó là một trong những nhân tố cơ bản tác động đến quá trình phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về những đặc trưng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay. 2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam xác lập, hoàn thiện lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội chính là: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”, “chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức lao động 83
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG sản xuất để được ăn no, mặc ấm và có nhà ở sạch sẽ”. Người khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa là “một thế giới không có người bóc lột người, mọi người sung sướng,vẻ vang, tự do, bình đẳng, xứng đáng là thế giới của loài người”. Có thể nói, chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người ai cũng có công ăn, việc làm, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, được phát triển toàn diện. Trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới" (Nguyễn, 2022, 24-25). Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ ràng trong Chánh cương vắn tắt của Đảng là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2005, 2). Từ mục tiêu khái quát ấy, Đảng Cộng sản đề ra những mục tiêu cụ thể về các phương diện xã hội, chính trị, kinh tế hướng đến đánh đổ đế quốc chủ nghĩa và phong kiến, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, mang lại tự do, bình đẳng cho nhân dân. Đồng thời, “Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2005, 6). Như vậy, đường lối cách mạng dân tộc của Đảng ngay từ đầu đã gắn bó chặt chẽ giữa mục tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, giữa xây dựng lực lượng trong nước kết hợp với sức mạnh của các lực lượng cách mạng trên thế giới. Đường lối ấy đã trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng, thành cơ sở vững chắc, ngọn nguồn quyết định cho sức mạnh dời non lấp biển của cách mạng. Trong suốt quá trình đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, trên cơ sở nền tảng ban đầu ấy, đường 84
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” lối cách mạng của Đảng ta đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện, cụ thể hóa thành các chủ trương, chính sách, giải pháp cụ thể, để lãnh đạo nhân dân ta làm nên Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, Đại thắng mùa Xuân 1975 làm sụp đổ hệ thống thực dân mới, bảo vệ độc lập, thống nhất Tổ quốc, cùng với các cuộc chiến tranh bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc, đưa đất nước tiến vào thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.Tuy nhiên, chúng ta bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với hành trang quá nghèo nàn và trong điều kiện khó khăn chồng chất khó khăn. Đất nước bị tàn phá nặng nề sau hơn 30 năm chiến tranh. Nền kinh tế nông nghiệp vốn đã lạc hậu, manh mún lại thiếu thốn về giống, phân bón, công cụ sản xuất, đất sản xuất thì ô nhiễm bom, mìn, chất độc. Công nghiệp nhỏ bé lại lâm vào khó khăn về điện, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, máy móc, phụ tùng thay thế. Gánh nặng hậu quả chiến tranh về con người với hàng triệu người bị nhiễm chất độc hóa học màu da cam, thương tật do chiến tranh cùng sự chia rẽ phức tạp trong mối quan hệ xã hội đè nặng lên cả đất nước. Bên ngoài, các thế lực đế quốc cấu kết với một số kẻ phản bội thực hiện bao vây cấm vận. Đặc biệt, sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông và Trung Âu sụp đổ, chúng ta không chỉ mất đi những nguồn hỗ trợ quan trọng về kinh tế, kỹ thuật, mà khó khăn, phức tạp hơn lại làm suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Bằng sự kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội, dựa vào thành trì nhân dân, lấy lòng dân làm cơ sở chính trị, Đảng ta đã “luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi” để vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, trong bối cảnh đã thay đổi của thế giới, dần dần hoàn thiện đường lối đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước. Trung tâm của đường lối đổi mới là mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã được xác định cơ bản từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) và được bổ sung, hoàn thiện thêm trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011. Lần đầu tiên trong Cương lĩnh 1991 đã đưa ra 6 đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa đó là: “Do nhân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được 85
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”. Những đặc trưng đó vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến những đặc điểm của thời đại; có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Những đặc trưng này là những đặc trưng bản chất để nhận biết về chủ nghĩa xã hội và là những nét phác thảo cơ bản vê mô hình chủ nghĩa nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ sáu đặc trưng trên có thể thấy nhận thức mới của Đảng ta về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã thể hiện những nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, xác định vai trò làm chủ của xã hội xã hội chủ nghĩa là nhân dân lao động. Nhân dân lao động không chỉ có vị thế mà còn có năng lực để làm chủ xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân lao động được giải phóng và có điều kiện phát triển toàn diện. Thứ hai, lực lượng sản xuất phát triển cao là điều kiện, tiền đề để tăng năng suất lao động, tạo cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, để nhân dân lao động được hưởng những thành quả do sức lao động của mình đòi hỏi phải thực hiện chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Bởi vì, đó là điều kiện để thực hiện những lợi ích kinh tế cơ bản.Chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội, là cơ sở bảo đảm cho nhân dân lao động làm chủ về kinh tế. Thứ ba, khi xác định xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đặt con người vào trung tâm của sự phát triển. Vì về bản chất, văn hóa là những hoạt động sáng tạo của con người hướng tới những giá trị nhân văn, nhân bản, là khát vọng hướng tới cái Chân, Thiện, Mỹ nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Nói tới văn hóa là nói tới con người, do vậy phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển chính là phát huy những năng lực, bản chất của con người. Đó là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Thứ tư, Đảng ta coi xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, vì chỉ có đoàn kết chúng ta mới tập trung được con người với sức mạnh trí tuệ, sức sáng tạo, ý chí tự 86
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” lực, tự cường, nhân cách cao đẹp,... vào quá trình phát triển đất nước. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội còn hạn hẹp, trong khi đó nguồn lực con người Việt Nam lại vô cùng phong phú, nếu biết phát huy nó sẽ trở thành nguồn lực to lớn cho sự phát triển bền vững. Đảng ta coi đoàn kết là chiến lược cách mạng vì mục tiêu chung của dân tộc chứ không nhằm phục vụ cho lợi ích của riêng một giai cấp, tầng lớp nào. Vì vậy, xây dựng khối đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị. Theo Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam được xác định theo ba mảng nội dung: Thứ nhất, mục tiêu chung, khái quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là 5 giá trị căn cốt, quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo nên nền tảng và sự bảo đảm bền vững cho hạnh phúc của nhân dân, hạnh phúc của con người. Đó là sự tiếp thu chọn lọc những giá trị tiến bộ nhất của những cuộc cách mạng trên thế giới kết hợp với khát vọng ngàn đời của dân tộc ta. Đó cũng là mục đích cao cả, tối thượng của chủ nghĩa xã hội và của cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thứ hai, nội dung “nội trị” hay đường lối đối nội. Đó là một chế độ xã hội “do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70). Những đặc trưng “nội trị” trên phản ánh sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta về những quy luật chung của lịch sử phát triển xã hội loài người, nhất là những thay đổi mạnh mẽ và những vấn đề lớn đang đặt ra trong thế giới đương đại. Cùng với đó là sự vận dụng hợp lý, sáng tạo vào điều kiện, tình hình cụ thể của Việt Nam theo tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Điểm hội tụ trung tâm của toàn bộ nội dung “nội trị” là nhân dân, nhân dân là chủ nhân của chế độ, chủ thể của công cuộc xây dựng và hạnh phúc của nhân dân là mục đích tối thượng. Mọi bộ phận, thành tố trong xã hội dù có xây dựng, vận hành theo hình thức và cơ chế nào cũng đều 87
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hướng tới hạnh phúc của nhân dân và sự phát triển tự do, toàn diện của con người. Với ý nghĩa đó, nội dung “nội trị” trong mô hình chủ nghĩa xã hội mang đặc trưng riêng có của Việt Nam và chỉ có ở Việt Nam. Thứ ba, nội dung đối ngoại của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam là: “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70). Đây là cơ sở cho đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, có hiệu quả cao. Mục đích của đường lối ngoại giao là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế, uy tín đất nước trên trường quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, tiến bộ của cả thế giới. Đó cũng chính là điều kiện bảo đảm cho sự thành công của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, thể hiện tính chất tốt đẹp của chế độ, vai trò tích cực, có trách nhiệm của Nhà nước ta với cộng đồng quốc tế. Đường lối đối ngoại này là sự phát triển sáng tạo riêng của Việt Nam, không lệ thuộc và không lặp lại đường lối của bất cứ nhà nước nào khác, nhất là những quốc gia tự nhận là chủ nghĩa xã hội nhưng lại thực hiện những chính sách đối ngoại bá quyền đối với các dân tộc khác. Mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam là thành tựu nhận thức lý luận quan trọng của Đảng, đồng thời là kết quả đúc kết từ thực tiễn sáng tạo sinh động của nhân dân, thể hiện tư tưởng, nguyện vọng và ý chí của cả dân tộc. Cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế chưa từng có mà đất nước ta đạt được sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng là minh chứng thuyết phục nhất cho sự đúng đắn, sáng tạo của mô hình đó. Những thành tựu to lớn đó cũng là minh chứng không thể rõ ràng hơn cho vai trò lãnh đạo của Đảng, người đã sáng suốt hoạch định và tổ chức thắng lợi đường lối xây dựng, phát triển đất nước. 3. KẾT LUẬN Tính cách mạng khoa học, đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh trong xác định con đường cách mạng Việt Nam đã được lịch sử kiểm chứng. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc đi lên CNXH, sau chiến thắng 30/4/1975 cả nước đi lên CNXH. Sự phát triển không ngừng của đất nước trước những cam go, thử thách và biến động thăng trầm của lịch sử, những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam trong gần thế kỷ qua càng chứng minh giá trị và sức sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ cải cách, đổi mới, dù mới chỉ qua khoảng gần 88
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” nửa thế kỷ nhưng chúng ta đã thấy một chủ nghĩa xã hội mới với diện mạo và sức sống đầy sinh động, sáng tạo. Lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học đã được làm mới, cập nhật và phát triển thêm rất nhiều theo hướng ngày càng gần gũi với “mảnh đất hiện thực” của từng nước và xu thế thời đại. Thành tựu thực tiễn là thước đo của nhận thức lý luận, chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là thành tựu lớn nhất của cải cách, đổi mới. Tương lai không thuộc về chủ nghĩa tư bản, mà sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2005). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 2). Chính trị quốc gia. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [3]. Nguyễn, P. T. (2001). Về định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia. [4]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật. [5]. Tạ, N. T. (2021, May 20). Mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tạp chí của ban tuyên giáo Trung ương. https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/mo-hinh-chu- nghia-xa-hoi-viet-nam-vua-theo-dung-quy-luat-chung-vua-phu-hop-voi- dieu-kien-cu-the-cua-viet-nam-133535 [6]. Vũ, V. P. (2009). Lý luận và thực tiễn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia. 89
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2