ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ THU HƯƠNG (19/09/1983) ĐẢNG VỚI QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ (1986 - 2007) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ Hà Nội – 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ THU HƯƠNG (19/09/1983) ĐẢNG VỚI QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ (1986 - 2007)
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt nam Mã số : 60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. PHẠM HỒNG TUNG Hà Nội – 2008
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
----------------------
BCHTW Ban Chấp hành Trung ương
CNH Công nghiệp hóa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CTQG Chính trị Quốc gia
ĐBBB Đồng bằng Bắc Bộ
HĐH Hiện đại hóa
HTX Hợp tác xã
KTTN Kinh tế tư nhân
Nxb Nhà xuất bản
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TW Trung ương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
Chương 1: Tầm quan trọng của việc khuyến khích phát triển kinh tế tư
nhân ở nông thôn Đồng bằng Bắc Bộ và đường lối của Đảng
về phát triển kinh tế tư nhân .................................................................8
1.1 Nông thôn và tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế tư nhân ở khu
vực nông thôn ĐBBB ...........................................................................................8
1.1.1 Khái niệm nông thôn, kinh tế nông thôn và kinh tế tư nhân ở nông
thôn ........................................................................................................... .8
1.1.2 Vai trò của ĐBBB trong sự phát triển chung của nền kinh tế đất
nước ....................................................................................................... .11
1.1.3 Đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn ĐBBB là
một nhu cầu khách quan ......................................................................... 15
1.2 Đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân ............................................ 18
Chương 2: Quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn
Đồng bằng Bắc Bộ .............................................................................. 43
2.1 Đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân ở nông thôn ĐBBB ......... .43
2.1.1 Đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trong nông
nghiệp, nông thôn .................................................................................. .43
2.1.2 Sự chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn ĐBBB ........ .56
2.2 Tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở ĐBBB từ 1986 - 2007 theo chủ
trương - chính sách của Đảng ........................................................................ .71
2.3 Những thành tựu và hạn chế của phát triển kinh tế tư nhân ở nông thôn
ĐBBB .............................................................................................................. . 98
2.3.1 Thành tựu ...................................................................................................... 98
2.3.2 Hạn chế ....................................................................................................... 102
Chương 3: Một số nhận xét và khuyến nghị rút ra từ quá trình lãnh đạo
phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn Đồng bằng
Bắc Bộ ............................................................................................. .112
3.1 Một số nhận xét ............................................................................................... 112
3.2 Những khuyến nghị rút ra từ việc nghiên cứu quá trình lãnh đạo phát triển
kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn ĐBBB ........................................................ 130
Kết luận ................................................................................................................ 136
Tài liệu tham khảo .............................................................................................. 138
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hơn 20 năm qua, những chủ trương, đường lối khuyến khích phát triển
kinh tế nhiều thành phần của Đảng đã tác động tích cực, đẩy mạnh sự phát
triển của nền kinh tế đất nước.
Cũng trong hơn 20 năm đổi mới, Đảng luôn đặt vấn đề phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn lên vị trí hàng đầu. Hiện nay, Việt Nam đang trong
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, trong đó CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn được Đảng hết sức quan tâm. Xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, để trở thành một nước công
nghiệp, Việt Nam không thể không tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn. Rút kinh nghiệm từ quá trình CNH, HĐH của các nước trên thế giới,
Việt Nam hiểu rằng không thể chạy theo mục tiêu tăng trưởng bằng mọi giá
mà bỏ mặc kinh tế nông thôn, cần phải thực hiện phát triển hài hòa, gắn liền
CNH, HĐH với nông nghiệp nông thôn, chỉ thực hiện tốt được vấn đề phát
triển nông nghiệp, nông thôn, Việt Nam mới có động lực để cất cánh.
Trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn ở Việt Nam, sự phục hồi và
phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào CNH, HĐH, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân.
Bước chuyển từ mô hình kinh tế hợp tác sang mô hình kinh tế tự chủ của hộ
gia đình vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX đã tạo đột phá trong sản xuất
nông nghiệp và phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Đây là minh chứng rõ nét
cho hiệu quả của đường lối khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần
và công nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân của Đảng. Kinh tế tư nhân đã thực
sự trở thành một yếu tố năng động hóa nền kinh tế xã hội nông thôn. Và đó
cũng thực sự là một động lực khởi động và thúc đẩy sự phát triển của nền
1
kinh tế nhiều thành phần, không chỉ trong nông nghiệp, mà còn trong toàn bộ
nền kinh tế đất nước.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở khu
vực nông thôn là vấn đề rất đáng quan tâm nghiên cứu để rút ra những bài học
kinh nghiệm cùng những giải pháp phát triển cho nền nông nghiệp Việt Nam,
nhất là sau khi nước ta trở thành thành viên thứ 150 của WTO từ tháng
11/2007.
Trong các vùng kinh tế của Việt Nam, ĐBBB giữ vai trò hết sức quan
trọng. Nông thôn ĐBBB trong lịch sử cũng như hiện tại có nhiều đóng góp
vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. ĐBBB là cái nôi của nền nông
nghiệp Việt Nam, lịch sử hình thành và phát triển của vùng gắn liền với lịch
sử hình thành và phát triển của dân tộc. Giữ vị trí chiến lược về kinh tế xã hội,
an ninh quốc phòng, có Hà Nội là thủ đô của cả nước, sự phát triển của
ĐBBB có sức lan tỏa và ảnh hưởng rộng lớn tới các vùng kinh tế xung quanh.
Có thể nói quá trình phát triển kinh tế của nông thôn ĐBBB mang nhiều nét
tiêu biểu và đặc trưng cho nông thôn cả nước.
Bởi vậy, tôi chọn vấn đề: Đảng với quá trình lãnh đạo phát triển kinh
tế tư nhân ở ĐBBB (1986 - 2007) làm đề tài Luận văn Thạc sĩ với hy vọng hệ
thống hóa đường lối chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trong
khu vực nông thôn, nông nghiệp cả nước nói chung và ĐBBB nói riêng; tìm
hiểu thực trạng phát triển kinh tế tư nhân của vùng để thấy được tình hình áp
dụng chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân
ở nông thôn ĐBBB; từ đó rút ra những nhận xét dưới góc độ lịch sử và một số
khuyến nghị về lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân ở ĐBBB.
2. Lịch sử nghiên cứu
Hiện nay đã có rất nhiều nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về kinh tế tư
nhân, cũng như tổng thể kinh tế - xã hội nông thôn của các nhà nghiên cứu
2
chủ yếu trên phương diện kinh tế học, với các tác giả và những xuất bản tiêu
biểu như: Nguyễn Sinh Cúc (với Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ
Đổi mới (1986 - 2002), Nxb Thống Kê, Hà Nội, 2003), Nguyễn Thanh Tuyền
(với Thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong quá trình CNH, HĐH, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002), Đinh Thị Thơm (chủ biên cuốn Kinh tế tư
nhân Việt Nam sau hai tập kỷ đổi mới - thực trạng và những vấn đề, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005), Trần Ngọc Bút (với Phát triển kinh tế tư
nhân định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002).
Bên cạnh đó còn có những nghiên cứu tổng kết của Đảng, Nhà nước, các Bộ,
ngành về kinh tế - xã hội nông thôn, những đánh giá, bình luận trên báo chí,
các phương tiện nghe nhìn…
Nghiên cứu trên phương diện lịch sử về vấn đề kinh tế tư nhân và vấn đề
kinh tế xã hội nông thôn thời kỳ Đổi mới không có nhiều, tiêu biểu có tác giả
Trương Thị Tiến (với Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999). Bên cạnh đó cũng có một số
luận văn, khóa luận nghiên cứu về các vấn đề trên, đó là Luận văn Thạc sĩ của
Phạm Thị Lương Diệu (người hướng dẫn: Ngô Đăng Tri) với đề tài Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân thời kỳ 1991- 2004,
Khóa luận Cử nhân của Vũ Thị Thu Hà (người hướng dẫn: Nguyễn Huy Cát)
với đề tài Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo phát triển kinh tế 5 năm sau ngày
tái lập tỉnh 1997 - 2001. Tuy nhiên, những công trình đã xuất bản, các đề tài,
luận văn đã công bố, hầu như là những nghiên cứu tổng thể, ở tầm vĩ mô,
hoặc nghiên cứu một vài khía cạnh của kinh tế nông thôn ở tầm quốc gia,
hoặc nghiên cứu riêng về một địa phương nhưng lại mang tầm bao quát, chưa
có nghiên cứu cụ thể trên phương diện lịch sử về sự lãnh đạo của Đảng đối
với sự phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn cả nước, cũng như ở
phạm vi vùng kinh tế.
3
Vì vậy, thực hiện đề tài này, tác giả tập trung vào vấn đề hệ thống những
chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển
kinh tế tư nhân ở nông thôn cả nước nói chung và ĐBBB nói riêng, dựng nên
bức tranh toàn cảnh của tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông
thôn ĐBBB, góp một phần nhỏ vào tổng thể những nghiên cứu chung về kinh
tế xã hội ĐBBB, về vấn đề phát triển kinh tế tư nhân trong nông thôn ĐBBB
nói riêng và cả nước nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung vào việc hệ thống hóa đường lối, chủ trương phát
triển kinh tế nông thôn nói chung, kinh tế tư nhân ở nông thôn nói riêng của
Đảng; một số chỉ đạo điển hình của Đảng bộ các địa phương ĐBBB về phát
triển kinh tế tư nhân, tìm hiểu thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực
nông thôn ĐBBB nhằm mục đích:
(1) Làm rõ chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư
nhân ở khu vực nông thôn ĐBBB, sự lãnh đạo của đảng bộ,
chính quyền các địa phương ĐBBB đối với kinh tế tư nhân.
(2) Phân tích tác động của những đường lối, chủ trương của Đảng,
sự lãnh đạo của đảng bộ và chính quyền các địa phương ĐBBB
đối với kinh tế tư nhân ở nông thôn trong vùng.
(3) Từ việc nghiên cứu quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân
của Đảng ở nông thôn ĐBBB, rút ra một số nhận xét và khuyến
nghị.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trong việc xác định
quan điểm, chủ trương, đường lối phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông
thôn ĐBBB trong thời kỳ từ năm 1986 đến 2007.
4
Sự phát triển của kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn ĐBBB có mối
tương quan đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau, song Luận văn chỉ dừng lại
nghiên cứu những đường lối - chủ trương của Đảng khuyến khích phát triển
kinh tế tư nhân trong khu vực nông thôn qua các văn kiện Đảng; một số vấn
đề cơ bản trong lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân ở ĐBBB; quá trình thực
hiện các chủ trương - đường lối khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong
nông thôn ĐBBB dưới tác động của những chủ trương, đường lối của Đảng.
Về mặt thời gian, Luận văn nghiên cứu đường lối, sự lãnh đạo của Đảng
đối với phát triển kinh tế tư nhân ở nông thôn ĐBBB trong thời kỳ 1986 -
2007. Tuy nhiên, trong năm 2008, Trung ương Đảng khóa X đã ra một số chủ
trương, đường lối mới, rất quan trọng về vấn đề phát triển nông nghiệp nông
thôn. Bởi vậy, để đảm bảo tính logic chúng tôi vẫn đề cập đến những chủ
trương, chính sách đó với mục đích phác họa đầy đủ hơn bước phát triển mới
trong tư duy của Đảng về vấn đề phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông
thôn.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Hiện nay, nghiên cứu về vấn đề Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân
ở nông thôn còn là vấn đề khá mới mẻ. Hiện tại chưa có số liệu thống kê
chính thức nào về hoạt động của thành phần kinh tế tư nhân ở nông thôn (ví
dụ như số lượng doanh nghiệp đang hoạt động ở địa bàn nông thôn, số lượng
cơ sở kinh doanh cá thể hoạt động ở nông thôn…). Chủ trương, đường lối của
Đảng thường là về phát triển kinh tế tư nhân nói chung, áp dụng cho mọi khu
vực (cả nông thôn và thành thị), đường lối phát triển kinh tế xã hội nông thôn
cũng là đường lối tổng thể chung cho cả nước. Về phía đảng bộ và chính
quyền tỉnh, hầu như chưa có chính sách cụ thể và riêng rẽ về đẩy mạnh phát
triển kinh tế tư nhân, chỉ có những chính sách nhằm khuyến khích, thúc đẩy
phát triển kinh tế nhiều thành phần nói chung. Đây là một khó khăn về tư liệu
5
khi tổng hợp và hệ thống các quan điểm, đường lối về phát triển kinh tế tư
nhân ở khu vực nông thôn của Đảng.
Tài liệu phục vụ nghiên cứu là văn kiện các Đại hội Đảng và nghị quyết
của Trung ương, Ban Bí Thư Trung ương từ năm 1986 đến nay, các nghiên
cứu trên phương diện kinh tế về kinh tế tư nhân, nghiên cứu về kinh tế xã hội
nông thôn đã xuất bản, một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về
kinh tế xã hội Đồng bằng Sông Hồng, các bài viết trên các báo, tạp chí về vấn
đề kinh tế tư nhân, nông nghiệp nông thôn, và kinh tế xã hội nông thôn
ĐBBB, các báo cáo tổng kết, tài liệu phỏng vấn… Tuy nhiên, việc tham khảo
chi tiết và nghiên cứu sâu sắc về quá trình cụ thể hóa đường lối, chủ trương
của Trung ương Đảng, của đảng bộ và chính quyền địa phương trong từng
tỉnh cụ thể ở khu vực ĐBBB đòi hỏi sự đầu tư nhiều thời gian và công sức
hơn. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi chỉ có điều kiện
tham khảo và trình bày vấn đề này ở mức độ chung nhất và trong từng trường
hợp cụ thể.
Chính vì vậy, về mặt phương pháp, cùng với những phương pháp nghiên
cứu cơ bản (phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), phương
pháp tiếp cận trên phương diện kinh tế học và xã hội học lịch sử, phương
pháp hệ thống, tổng hợp, phân tích, chúng tôi có sử dụng phương pháp nghiên
cứu trường hợp để nghiên cứu về vấn đề đảng bộ và chính quyền các địa
phương ĐBBB chỉ đạo thực hiện những đường lối, chủ trương của Đảng về
phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn.
6. Đóng góp của Luận văn
Luận văn hy vọng có những đóng góp nhỏ vào việc hệ thống hóa quan
điểm, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn
và làm sáng tỏ quá trình thực hiện những chủ trương của Đảng khuyến khích
phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn ĐBBB thông qua việc:
6
- Phác họa những quan điểm, chủ trương của Đảng về vấn đề phát triển kinh
tế tư nhân ở khu vực nông thôn
- Làm rõ một số văn kiện đề cập tới vấn đề phát triển kinh tế tư nhân ở khu
vực nông thôn
- Điểm qua tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở ĐBBB dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
- Góp phần rút ra những bài học thực tiễn từ quá trình Đảng lãnh đạo phát
triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn ĐBBB
7. Kêt cấu cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của Luận
văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Tầm quan trọng của việc khuyến khích phát triển kinh tế tư
nhân ở ĐBBB và đường lối của Đảng về phát triển kinh tế
tư nhân.
Chương 2: Quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn
ĐBBB
Chương 3: Một số nhận xét và khuyến nghị rút ra từ việc nghiên cứu
quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông
thôn ĐBBB.
7
CHƢƠNG 1
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƢ NHÂN Ở NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
VÀ ĐƢỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN
1.1 Nông thôn và tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế tƣ nhân ở
khu vực nông thôn ĐBBB
1.1.1 Khái niệm nông thôn, kinh tế nông thôn và kinh tế tư nhân ở nông
thôn
Nông thôn là khu vực dân cư tập trung, chủ yếu làm nghề nông, phân
biệt với thành thị [88, tr. 676]. Ở Việt Nam, khái niệm nông thôn thường gắn
liền với nông dân, nông nghiệp.
Về mặt địa lý, nông thôn là một địa bàn rộng lớn bao quanh đô thị (thành
phố, thị xã, thị trấn…). Về mặt xã hội, thành phần đa số ở nông thôn là nông
dân, sinh sống theo các đơn vị làng, thôn, xóm, có gắn bó mật thiết với nhau
về quan hệ họ hàng và quan hệ láng giềng. Trên thế giới những nước có trình
độ phát triển khác nhau thì tỷ lệ dân số ở nông thôn cũng khác nhau. Những
nước có nền kinh tế phát triển thường có tỷ lệ dân số nông thôn thấp hơn
những nước có nền kinh tế kém phát triển. So với thành thị, nông thôn có hệ
thống cơ sở hạ tầng (cầu cống, đường xá, điện, nước sạch…) và các điều kiện
phúc lợi khác nhưu giáo dục, y tế, … thấp kém hơn. Thu nhập cá nhân và
trình độ dân trí ở nông thôn cũng thấp hơn thành thị. Nông thôn là vùng
nguyên liệu, nguồn lao động dồi dào cung cấp cho công nghiệp, cho thành thị,
và cũng là thị trường rộng lớn để tiêu thụ, trao đổi hàng hóa với các ngành sản
xuất khác trong nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế nông thôn “là một phức hợp những nhân tố cấu thành của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nông, lâm, ngư nghiệp, cùng với
8
các ngành thủ công nghiệp truyền thống, các ngành tiểu thủ công nghiệp,
công nghiệp chế biến và phục vụ nông nghiệp, các ngành thương nghiệp và
dịch vụ…tất cả có quan hệ hữu cơ với nhau trong kinh tế vùng và lãnh thổ
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân” [44, tr. 484]. Theo đó, kinh tế nông thôn
không chỉ có nông nghiệp, mà còn bao gồm cả những ngành lâm nghiệp, ngư
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Kinh tế nông thôn tuy dựa
trên cơ sở chủ yếu là nông nghiệp, nhưng sự phát triển của nó là sự phát triển
một cách tổng thể, đa ngành, đồng bộ của tất cả các ngành nghề khác ở nông
thôn.
Kinh tế nông thôn là một bộ phận của nền kinh tế xã hội, do vậy, cơ cấu
kinh tế nông thôn cũng bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ
cấu sinh thái và vùng lãnh thổ.
Về cơ cấu ngành, kinh tế nông thôn có ba ngành cơ bản là nông nghiệp
(theo nghĩa hẹp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi); lâm nghiệp và ngư nghiệp
(ba ngành này còn gọi là nông nghiệp mở rộng), các ngành này có nhiệm vụ
bảo đảm nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến. Bên cạnh các ngành cơ bản, công nghiệp đặc biệt là công
nghiệp chế biến có mối quan hệ gắn bó, hỗ trợ mật thiết cho phát triển nông
nghiệp, là một ngành quan trọng của kinh tế nông thôn. Trong quá trình phát
triển kinh tế nông thôn, công nghiệp nông thôn không chỉ dừng lại ở công
nghiệp chế biến, mà còn bao gồm cả cơ khí sửa chữa máy móc nông nghiệp,
thủy lợi, các cơ sở sản xuất sắt, thép, vật liệu xây dựng phục vụ nông nghiệp.
Ngoài ra, công nghiệp nông thôn còn bao gồm một bộ phận tiểu thủ công
nghiệp với nhiều trình độ công nghệ khác nhau, như nghề mây tre đan, mộc,
sơn mài, thêu, làm giấy, đúc… Để phục vụ, cung cấp hàng hóa tiêu dùng,
nguyên vật liệu sản xuất trong nông thôn, hoặc lưu thông hàng hóa, sản phẩm
trong nông thôn, kinh tế nông thôn còn có các loại hình dịch vụ thương
9
nghiệp, tín dụng, tư vấn….Các loại hình dịch vụ này cùng với kết cấu hạ tầng
(điện, đường, trường, trạm) là những bộ phận hợp thành quan trọng của kinh
tế nông thôn, là biểu hiện của trình độ phát triển kinh tế nông thôn. Các ngành
kinh tế trong nông thôn có mối quan hệ chặt chẽ, thúc đẩy hoặc kìm hãm nhau
trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn nói chung.
Về cơ cấu thành phần kinh tế, hiện nay nước ta phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, vì vậy, cơ cấu thành phần kinh tế ở nông thôn nước ta cũng
là cơ cấu nhiều thành phần bao gồm kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
tư nhân (kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân) và kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài. Trong đó, kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, biểu hiện ở
các nông, lâm trường quốc doanh, các trạm, trại kỹ thuật, kết cấu hạ tầng
nông thôn…Kinh tế Nhà nước ở nông thôn có toàn bộ các ngành nghề cơ bản
như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; biểu hiện chủ yếu là chi nhánh ngân
hàng, trại giống, cửa hàng thương nghiệp, trạm sửa chữa…là những bộ phận
không thể thiếu được, là cơ sở, điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế nông
thôn. Kinh tế tập thể cũng có ở hầu hết các ngành nghề sản xuất ở nông thôn,
biểu hiện rõ nét nhất là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh HTX. Kinh tế
tập thể cùng với kinh tế nhà nước được xác định là nền tảng của kinh tế nông
thôn.
Trong quá trình đổi mới đất nước, một thành phần kinh tế đang ngày
càng trỗi dậy mạnh mẽ, là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế
hàng hóa ở nông thôn, đó là kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân (theo quan điểm
của Hội nghị trung ương 5 Khóa IX) bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh
tế tư bản tư nhân đang góp vai trò ngày càng quan trọng vào phát triển kinh tế
đất nước nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có
mặt ở tất cả các ngành kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp, thủ công
nghiệp, dịch vụ nông thôn…Thành phần kinh tế này biểu hiện chủ yếu ở mô
10
hình kinh tế hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành
nghề truyền thống, kinh tế trang trại nông nghiệp, kinh tế tiểu chủ trong công
nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ… Tỷ trọng của kinh tế cá thể, tiểu chủ trong
nông thôn nước ta hiện nay tương đối lớn. Vấn đề đặt ra trong quá trình phát
triển kinh tế nông thôn là phải quan tâm phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang
trại nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn theo hướng kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư bản tư nhân ở nông thôn bao gồm
các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn (TNHH) hoạt động trong tất cả các lĩnh vực từ sản xuất (chế biến
nông sản, công nghiệp…) đến thương mại, dịch vụ, tư vấn…
Để phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam hiện đại, vấn đề đẩy mạnh phát
triển kinh tế tư nhân, cụ thể là các hình thức của kinh tế cá thể, tiểu chủ, tiêu
biểu là kinh tế hộ gia đình (sản xuất nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ), kinh tế trang trại, các loại hình doanh
nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp sản xuất, thương mại - dịch vụ… là hết sức
quan trọng, bởi thành phần kinh tế này có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao
thu nhập cho người lao động, bảo đảm ổn định đời sống dân cư nông thôn, tạo
điều kiện giải phóng sức lao động, tận dụng được thế mạnh của từng khu vực,
từng địa phương, góp phần làm cho nền kinh tế xã hội phát triển vững mạnh.
1.1.2 Vai trò của ĐBBB trong sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước
ĐBBB là nơi hình thành và phát triển của dân tộc Việt, là cái nôi của văn
hóa Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử. ĐBBB hiện nay là trung tâm kinh
tế - văn hóa quan trọng của cả nước.
Vùng ĐBBB theo sự phân chia đơn vị hành chính năm 1996 bao gồm 9
tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Hà
11
Nam, Thái Bình, Ninh Bình và Hải Phòng. Đến năm 2000, trong phân vùng
kinh tế của nhà nước có sáp nhập thêm tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Vĩnh Phúc vào
vùng ĐBBB. Tiếp theo, đến tháng 9/2005, Bộ Chính trị đã họp và ra Nghị
quyết 54 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc
phòng an ninh vùng ĐBBB đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, có
xác định ĐBBB bao gồm 12 tỉnh, thành phố là: Hà Nội, Hà Tây, Hải Dương,
Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái
Bình, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh. Sau ngày 8 tháng 11 năm 2008, Hà Nội và Hà
Tây sáp nhập làm một, thì ĐBBB hiện tại chính thức bao gồm 11 tỉnh: Hà
Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nam,
Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Vĩnh Phúc [45]. ĐBBB là một trong 3 tiểu
vùng của Miền Bắc Việt Nam (2 tiểu vùng kia là Vùng Đông Bắc Bộ và Vùng
Tây Bắc Bộ).
Về phương diện địa lý, ĐBBB là vùng đất màu mỡ, được hình thành do
phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp. Hai hệ thống sông
này đổ ra Vịnh Bắc Bộ qua hơn 10 cửa sông. ĐBBB nằm ngay cạnh đường phía Nam của chí tuyến Bắc, giữa vĩ độ 22o00‟ và 21o30‟ Bắc và kinh độ 105o30‟ và 107o00‟ Đông. ĐBBB có vị trí thuận lợi cho việc phát triển sản
xuất, lưu thông hàng hóa, giao lưu kinh tế với các vùng khác trong nước cũng
như nước ngoài. Phía Bắc và phía Tây tiếp giáp hoàn toàn với vùng Đông Bắc
và Tây Bắc, phia Nam tiếp giáp với vùng kinh tế Bắc Trung Bộ, phía Đông
tiếp giáp với biển Đông.
ĐBBB có thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và là địa
bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại của cả nước; có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời mang
đậm đà bản sắc dân tộc; nhiều danh lam thắng cảnh và những di tích lịch sử
gắn liền với những chiến công hào hùng, oanh liệt trong suốt quá trình đấu
12
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc; gắn liền với tam giác kinh tế trọng
điểm phía Bắc: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Bởi vậy, ĐBBB có tiềm
năng to lớn và nhiều lợi thế vượt trội so với nhiều vùng kinh tế khác.
Ngoài thế mạnh về vị trí địa lý, hành chính, lịch sử, ĐBBB còn có những
tiềm năng riêng, tạo nên ưu thế của vùng.
Thứ nhất phải kể đến, đó là thế mạnh về con người: vùng ĐBBB có
nguồn nhân lực lớn, trình độ dân trí cao, tập trung đội ngũ trí thức giỏi, nhân
dân có truyền thống lao động cần cù và sáng tạo. Vùng đã tập trung khoảng
26% số cán bộ có trình độ cao đẳng và đại học, 72% số cán bộ có trình độ trên
đại học, 23,6% lực lượng lao động kỹ thuật của cả nước. Có gần 100 trường
cao đẳng, đại học, 70 trường trung học chuyên nghiệp, 60 trường công nhân
kỹ thuật và 40 trường dạy nghề; hàng trăm viện nghiên cứu chuyên ngành,
trong đó có nhiều viện đầu ngành, hơn 20 bệnh viện đầu ngành, là một trong
ba trung tâm y tế chuyên sâu của cả nước; 100% số tỉnh, thành phố đã hoàn
thành phổ cập tiểu học và trung học cơ sở đúng độ tuổi quy định (mục tiêu cả
nước là đến năm 2010). Thực tế cho thấy, vùng ĐBBB dẫn đầu các vùng
trong cả nước về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực và khả năng nghiên
cứu triển khai khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe
nhân dân [40].
Thứ hai, thế mạnh về vị trí địa lý: ÐBBB giữ vai trò cửa ngõ phía bắc
của Tổ quốc; hệ thống giao thông hiện có như: mạng lưới đường bộ, đường
sông, đường biển, đường hàng không, đường sắt, cảng biển Hải Phòng, cảng
hàng không quốc tế sân bay Nội Bài (Hà Nội),... là những đầu mối nối liền
giữa ĐBBB với các vùng kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ giao lưu với
các nước trong khu vực và thế giới. Ðịa bàn ĐBBB lại "cận kề" với nước bạn
Trung Quốc (thị trường to lớn của cả thế giới) và cách không xa các nước
vùng Ðông - Bắc Á.
13
Thứ ba, thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên: Trước hết, ở đây có các
vùng sinh thái đa dạng, có cả đồng bằng, trung du và miền núi; có đồng ruộng
màu mỡ với đồng bằng châu thổ sông Hồng. Những vùng sinh thái phong phú
như vậy là điều kiện cơ bản để phát triển nền sản xuất hàng hóa nông - lâm -
ngư nghiệp toàn diện. Nhờ đó, ĐBBB được mệnh danh là vựa lúa; hằng năm,
tổng sản lượng lương thực có hạt, thực phẩm và nhiều loại nông sản khác
đứng thứ hai của cả nước (sau đồng bằng sông Cửu Long); đã góp phần quan
trọng vào việc bảo đảm an ninh lương thực và hàng hóa nông sản xuất khẩu.
Trong vùng có một số tài nguyên khoáng sản với trữ lượng rất lớn như: than
đá chiếm, cao lanh chiếm, đá vôi.
Thứ tư, thế mạnh về du lịch: Vùng ĐBBB còn có tiềm lực lớn để phát
triển mạnh ngành kinh tế du lịch. Phía đông vùng giáp vịnh Bắc Bộ, có tài
nguyên du lịch biển đặc sắc với nhiều bãi biển đẹp, cảnh quan nổi tiếng.
Trong vùng có động Hương Tích, được mệnh danh "thiên nam đệ nhất động",
Ao Vua, Suối Hai, Tam Cốc, Bích Ðộng, Côn Sơn, Phố Hiến,... Ðó là những
cơ sở để phát triển kinh tế du lịch đa dạng, phong phú, tạo sức hấp dẫn thu hút
ngày càng nhiều du khách trong nước, ngoài nước đến tham quan.
Thứ năm, thế mạnh về ngành nghề truyền thống: ĐBBB là vùng tập
trung phần lớn làng nghề truyền thống của cả nước. Trong vùng còn bảo lưu
và nhiều ngành nghề truyền thống, với nhiều làng chuyên nghề khác nhau, có
làng buôn, làng làm đồ gốm, làng dệt, làng đúc đồng…
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế sẵn có, ĐBBB cũng tồn tại nhiều đặc
điểm hạn chế đó là đất chật người đông, còn lưu giữ nhiều yếu tố tàn dư của
lịch sử như tư duy sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, kinh tế nông thôn mang tính
chất tự cấp tự túc, là những tác nhân kìm hãm sự phát triển của vùng.
ĐBBB là một trong những vùng kinh tế lớn và là vùng nông nghiệp quan
trọng hàng đầu của cả nước. Đây là vùng sản xuất nhiều loại nông sản, thực
14
phẩm đồng thời bao quanh tam giác kinh tế trọng điểm của miền Bắc. Do vậy,
việc đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở vùng ĐBBB có
một ý nghĩa hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của các địa
phương thuộc vùng nói riêng và cả nước nói chung.
1.1.3 Đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn ĐBBB là
một nhu cầu khách quan
Kể từ khi có các chủ trương của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phát triển ngành nghề nông thôn, kinh tế trang trại, tiêu thụ sản
phẩm và nhiều chủ trương, chính sách khác của Nhà nước, đến nay, nông
nghiệp nước ta nói chung và vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng đã có bước
phát triển quan trọng. Sản lượng lương thực mỗi năm đều tăng hơn một triệu
tấn, xuất khẩu ổn định hơn ba triệu tấn gạo, trong khi diện tích lúa giảm dần
và được chuyển đổi cơ cấu theo hướng thâm canh, tăng vụ màu, nuôi trồng
thuỷ sản, phát triển chăn nuôi, xây dựng hệ thống VAC bền vững... tăng giá
trị trên một ha đất nông nghiệp.
Trong 6 năm từ 2001 – 2006, vùng ĐBBB có tốc độ tăng trưởng kinh tế
trên 10,5% gấp 1,4 lần mức bình quân của cả nước [45]. Cơ cấu kinh tế của
vùng đã chuyển nhanh theo hướng công nghiệp - dịch vụ, nông nghiệp. Đặc
biệt, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế nói chung có tốc độ chuyển
dịch cao, ngay cả trong nội bộ của ngành. Công nghiệp nông thôn đã ngày
càng phát huy tác dụng, đặc biệt là công nghiệp cơ khí phục vụ cho sản xuất
và chế biến nông, lâm, thủy sản ở các tỉnh và thành phố như Nam Định, Thái
Bình, Hà Tây, Hải Phòng, Hà Nội…bám sát được nhu cầu không chỉ của
Vùng mà còn của một số tỉnh lân cận và thị trường Trung Quốc.
HTX nông nghiệp kiểu mới được chuyển sang dịch vụ (đạt tỷ lệ hơn
80%) và thế hệ nông dân tiên tiến kiểu mới (hơn 8,5 triệu lượt hộ được tuyên
15
dương nông dân sản xuất giỏi), trong số đó nhiều hộ đạt thu nhập 30 - 50 triệu
đồng/hộ/năm nơi nào cũng có, góp phần xoá đói, giảm nghèo và xây dựng
nông thôn mới [58].
Năm 2002, mức thu nhập bình quân nông dân ĐBBB đạt khoảng 5 triệu
đồng/năm; tổng thu nhập trên một ha đất canh tác khoảng 28-30 triệu
đồng/ha/năm (trong đó Thành phố Hà Nội 37 triệu, Hà Tây 30 triệu, Thái
Bình 32 triệu, Nam Định 36 triệu, Hải Phòng 38 triệu, Hưng Yên 34, Hải
Dương 31 triệu đồng, trong khi trung bình cả nước 17 triệu đồng) [58].
Theo báo cáo của các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh
trong vùng và khảo sát của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì ở
vùng ĐBBB đã có một số mô hình đạt 50 triệu đồng/ha/năm như: mô hình
huyện Gia Bình (Bắc Ninh), Từ Liêm (Hà Nội), Anh Lão (Hải Phòng); mô
hình xã, HTX có khoảng 50 đơn vị như: Quỳnh Nhai, Thuỵ An (Thái Bình);
Hải Xuân, Hải Lăng, Nam Dương, Cốc Thành, La Xuyên, Vũ Lễ, Vân
Trường (Nam Định); Phù Vân, Yên Bắc, Đồng Hoá (Hà Nam); Tân Dĩnh
(Bắc Giang); Võng Xuyên (Hà Tây); Gia Xuyên, Thạch Khôi, Nhật Tân,
Đồng Gia, Đức Chính, Cẩm Sơn (Hải Dương); Phụng Công, Mễ Sở, Bình
Minh (Hưng Yên), Chiến Thắng, An Hồng, Đại Bản (Hải Phòng), Tiền
Phong, Thổ Tang (Vĩnh Phúc), Tây Tựu, Tầm Xá, Tiên Dương, Duyên Hà,
Đông Dư, Văn Đức (Hà Nội)... Mô hình cánh đồng đạt 50 triệu đồng/hộ/năm
khoảng 10% số hộ (350 nghìn hộ nông dân trong tổng số 3,5 triệu hộ) [58].
Tuy nhiên, bên cạnh đó, ĐBBB vẫn còn rất nhiều khó khăn và thách thức
trong quá trình phát triển kinh tế và thực hiện CNH, HĐH. Kinh tế của vùng
nhìn chung phát triển chậm. Nông nghiệp vẫn là ngành giữ vị trí trọng yếu
nhất của cơ cấu kinh tế vùng, chiếm 73% việc làm và 35% GDP. Tốc độ tăng
trưởng của vùng có cao, bình quân mỗi năm có tăng, song GDP đầu
người/năm vẫn còn rất thấp mà nguyên nhân là do đất chật, người đông, khả
16
năng tích lũy vốn trong nội bộ rất hạn chế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn còn chậm. Cơ sở vật chất, kỹ
thuật công nghệ ở nông thôn của vùng nhìn chung còn lạc hậu. Cư dân ĐBBB
đại bộ phận là nông dân, do trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật, nhịp độ tăng
trưởng, phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn
chậm, nên thu nhập thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, bình
quân ruộng đất trên đầu người thấp nhất cả nước (540 m2/người); lao động dôi
dư thiếu việc làm hơn 10%/năm; quỹ đất nông nghiệp tiếp tục giảm nhanh (kể
cả đất lúa xấu và đất lúa tốt), môi trường bị ô nhiễm (do thâm canh, phát triển
công nghiệp, dịch vụ và đô thị hoá...), thu nhập bình quân của hộ nông dân
thấp nên khả năng đầu tư hạn chế, hệ thống canh tác truyền thống là thuần
nông, tâm lý bao cấp nặng nề... [58].
Nông thôn ĐBBB cũng xảy ra tình trạng chung của nông thôn cả nước,
đó là tỷ lệ người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo còn cao, đời sống của dân cư
nông thôn còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiều năm trở lại đây, sản xuất nông
nghiệp đã có nhiều tiến bộ lớn về năng suất và chất lượng, nhưng về cơ bản
vẫn chưa tiến kịp so với chất lượng hàng hóa nông sản nước ngoài (ví dụ Thái
Lan, Mỹ…), do vậy giá cả nông sản hàng hóa rẻ, dẫn đến tình trạng dư thừa
sản phẩm theo mùa vụ còn phổ biến, nhiều địa phương cung vượt cầu, nhưng
sản phẩm lại chưa đáp ứng chất lượng để xuất khẩu…Từ đó dẫn đến thu nhập
của người dân so với công sức lao động bỏ ra không được bao nhiêu, đời sống
tuy có cải thiện, nhưng về cơ bản vẫn còn khó khăn chồng chất. Lý do cơ bản
là sự phát triển kinh tế nông thôn theo hướng kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa diễn ra còn chậm, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh ở
nông thôn đang trên con đường định hình, nhưng rất mờ nhạt, trong đó kinh tế
hộ, kinh tế trang trại chưa ổn định, chưa có nhận thức đầy đủ về các loại thị
17
trường, các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh, đặc biệt là các loại hình
thuộc về kinh tế tư nhân.
Một trong những nguyên nhân lớn nhất dẫn tới tình trạng trên đó là dân
cư nông thôn ĐBBB mang đậm tính chất thuần nông, hầu hết vẫn lấy công
làm lãi trên mảnh ruộng manh mún. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn lao động
trong nông nghiệp, kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn mặc dù so với
nhiều vùng trong cả nước có cao hơn nhưng so với yêu cầu của chuyển dịch
cơ cấu kinh tế vẫn còn lạc hậu. Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ và độ
rủi ro cao, lại thiếu vốn, sự hợp tác giúp đỡ từ phía Nhà nước, ngân hàng đối
với lĩnh vực này còn yếu…
Để kinh tế nông thôn ĐBBB phát triển hơn nữa, cần phải năng động hóa
khu vực kinh tế này, cụ thể là phải huy động được mọi nguồn lực từ chính
trong dân cư nông thôn bằng việc đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân ở khu
vực nông thôn. Vì thế, phát triển mạnh kinh tế tư nhân, bao gồm kinh tế hộ
gia đình, kinh tế trang trại, các loại hình doanh nghiệp sản xuất, thương mại,
dịch vụ trong nông thôn là yêu cầu khách quan, cần thiết.
1.2 Đƣờng lối của Đảng về kinh tế tƣ nhân
Phạm vi kinh tế tư nhân theo quan điểm của Đảng: Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 5 Khóa IX (số 14-NQ/TW ngày 18/03/2002) về tiếp tục đổi mới
cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân
đề cập đến kinh tế tư nhân bao gồm hai thành phần kinh tế là kinh tế cá thể,
tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư nhân hoạt động dưới hình thức
hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế tư nhân
tham gia vào tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải,
thương nghiệp và các loại hình dịch vụ khác.
Trong quá trình đổi mới từ năm 1986 đến nay Đảng đã có những chuyển
quan trọng trong tư duy về phát triển kinh tế tư nhân. Để thấy rõ được những
18
đổi mới lớn lao trong tư duy của Đảng từ năm 1986, cần nhìn lại quan điểm
của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân thời kỳ trước Đổi mới, từ khi đất nước
giành được độc lập cho đến trước năm 1986.
* Thời kỳ 1945 - 1954: Trước khi miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội
Sau sự Cách mạng Tháng Tám - 1945 thành công, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo toàn thể nhân dân ta xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa, nhà nước của dân - do dân - vì dân đầu tiên của người Việt Nam.
Sau ngày độc lập (02/09/1945), thực dân Pháp quay trở lại xâm lược
nước ta, một lần nữa Đảng lãnh đạo toàn thể nhân dân tiếp tục đứng lên chống
lại ách xâm lược lần thứ hai của chúng.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Đảng đã lãnh đạo xây dựng nền
kinh tế kháng chiến có tính chất dân chủ nhân dân, có khả năng tự túc, tự cấp,
vừa đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của cuộc kháng chiến, vừa từng bước
cải thiện đời sống của quân đội, cán bộ và nhân dân, để phục vụ cuộc kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài chống lại thực dân Pháp.
Đảng xác định nền kinh tế kháng chiến là nền kinh tế nhiều thành phần,
tất cả đều hướng đến phục vụ cuộc kháng chiến của cả dân tộc. Tuy nhiên,
trong nền kinh tế này vẫn thể hiện tính ưu việt của Nhà nước mới, Nhà nước
của dân do dân vì dân, thể hiện ở việc Đảng và Chính phủ đã cải cách dần dần
để sửa đổi chế độ ruộng đất ở nông thôn như tịch thu ruộng đất của bọn đế
quốc và Việt gian đem chia cho nông dân không có hoặc thiếu ruộng; tạm cấp
ruộng đất vắng chủ; giảm tô, giảm tức và chia lại ruộng công cho hợp lý [1, tr.
62 - 63]. Những cải cách bước đầu của Đảng về chế độ ruộng đất đã đưa
người nông dân thực sự lên địa vị làm chủ, thúc đẩy họ tích cực sản xuất trên
mảnh ruộng của mình. Có thể nói rằng trong thời kỳ này, sản xuất chủ yếu
19
thuộc vào bộ phận kinh tế tư nhân. Kinh tế nhà nước mới chỉ đang trong giai
đoạn hình thành ban đầu.
*Thời kỳ 1954 – 1975: Thời kỳ miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội, miền Nam tiến hành kháng chiến chống Mỹ
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc bằng thắng lợi Điện
Biên Phủ vĩ đại, Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Sau Hiệp định
Giơnevơ, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Miền Nam do ngụy
quyền cùng thực dân Pháp tiếp tục thống trị. Ở Miền Bắc, Đảng lãnh đạo
nhân dân khôi phục và phát triển kinh tế, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đồng thời chuẩn bị nhân lực và vật lực để sẵn sàng cho cuộc chiến đấu nhằm
thống nhất nước nhà.
Một nhân tố góp phần không nhỏ tới chiến thắng Điện Biên Phủ năm
1954 là việc Đảng tiến hành vận động giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất
(bắt đầu từ năm 1953). Những đợt đầu tiên của cải cách ruộng đất đã tăng
cường bồi dưỡng lực lượng nông dân lao động, đẩy mạnh sản xuất, phục vụ
kháng chiến.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, cuộc cải cách ruộng đất lại tiếp
tục được tiến hành. Tổng cộng trong thời gian 3 năm 10 tháng (kể từ năm
1953 đến khi hoàn thành năm 1956), ở miền Bắc nước ta đã tiến hành 8 đợt
giảm tô và 5 đợt cải cách ruộng đất [43, tr. 138]. Mặc dù cải cách ruộng đất đã
phạm phải những sai lầm nghiêm trọng kéo dài, song qua cải cách, ruộng đất
đã được phân chia lại tương đối đồng đều giữa các hộ nông dân, đông đảo
nông dân nghèo từ chỗ thiếu ruộng nay đã có đủ ruộng canh tác, tự sản xuất
độc lập, tạo tiền đề khách quan cho việc củng cố vai trò kinh tế của hộ nông
dân.
Trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, song song với việc chia
ruộng đất cho nông dân, tháng 5/1955, Chính phủ đã ban hành 8 chính sách
20
khuyến khích sản xuất nông nghiệp, trong đó bảo đảm quyền sở hữu, bảo hộ
tài sản nông dân và các tầng lớp khác. Vào thời điểm này, kinh tế quốc doanh
còn nhỏ, kinh tế hợp tác chưa phát triển, tham gia lực lượng sản xuất, phát
triển kinh tế xã hội chủ yếu là kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể. Tầng lớp tiểu
thương, tiểu chủ phát triển rất nhanh cả ở nông thôn và đô thị, cuối năm 1957
lực lượng này đã có 78.456 cơ sở buôn bán với 23.0000 người; lực lượng thợ
thủ công lên tới 50.000 người [43, tr. 139]. Nhờ chính sách tạo điều kiện và
phát huy được sức mạnh tổng hợp của nhiều thành phần kinh tế, mà công
cuộc khôi phục và phát triển kinh tế mang lại những kết quả tốt đẹp.
Bước sang những năm 1958 - 1960, sau 3 năm tiến hành khôi phục kinh
tế, Đảng lãnh đạo toàn thể nhân dân miền Bắc bước vào thời kỳ cải tạo xã hội
chủ nghĩa, cải tạo nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa, chủ yếu bao gồm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
Kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh là đối tượng trực tiếp của cuộc cải
tạo này. Cải tạo quan hệ sản xuất trong nông nghiệp được coi là khâu chính.
Mùa thu năm 1958, đợt thí điểm đầu tiên về hợp tác hóa nông nghiệp được
tiến hành. Cho đến tháng 11/1960, miền Bắc đã xây đựng dược 41.401 HTX
(HTX) với 86% số hộ nông dân, chiếm 76% diện tích đất canh tác, trong đó
có 12% số hộ nông dân vào HTX bậc cao. Đồng thời với hợp tác hóa nông
nghiệp, ở miền Bắc còn thực hiện cải tạo công thương nghiệp tư bản tư
doanh, đưa tư sản, tiểu thương, tiểu chủ vào công tư hợp doanh hoặc các xí
nghiệp hợp tác, xóa bỏ giai cấp tư sản, cải tạo nhà tư sản thành người lao
động. Tới cuối năm 1960, đã có 97% số hộ tư sản vào công tư hợp doanh,
đồng thời 87% số thợ thủ công và 45% những người buôn bán nhỏ đã vào
HTX [43, tr. 148].
21
Bước vào thời kỳ 1965 - 1975, Đảng tiếp tục lãnh đạo toàn dân đẩy mạnh
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng nghĩa với đẩy mạnh phát triển HTX ở nông
thôn và kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể ở đô thị.
Không thể phủ nhận kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa đã có tác động tích
cực trong việc xóa bỏ về cơ bản chế độ người bóc lột người, góp phần thúc
đẩy tinh thần sản xuất của nhân dân lao động trong hoàn cảnh chiến tranh.
Tuy nhiên qua cải tạo xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân không còn chỗ đứng,
làng nghề truyền thống bị triệt tiêu, mầm mống của nền kinh tế hàng hóa bị
dập tắt.
*Thời kỳ 1975 - 1985: Đất nước thống nhất, công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa được tiến hành trên cả nước
Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/04/1975), một thời kỳ
phát triển mới mở ra trong điều kiện hòa bình và thống nhất nước nhà. Đảng
lãnh đạo cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh có nhiều khác biệt
và chênh lệch giữa điều kiện kinh tế xã hội của hai miền Nam Bắc. Trong khi
ở miền Bắc kinh tế chủ đạo là kinh tế quốc doanh, thì ở miền Nam, nền kinh
tế hàng hóa đang bắt đầu phát triển, kinh tế cá thể chiếm đa số, chủ nghĩa tư
bản đang dần dần hình thành. Trước tình hình đó, trong Hội nghị lần thứ 24
Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa III đã họp (tháng 9/1975) Đảng đã đề
ra chủ trương trong một thời gian nhất định ở miền Nam còn nhiều thành
phần kinh tế.
Tuy nhiên đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976), Đảng lại đề ra
chủ trương “Xây dựng kinh tế quốc doanh vững mạnh, nhanh chóng chiếm ưu
thế trong sản xuất và lưu thông phân phối. Đối với xí nghiệp tư bản tư doanh
phải cải tạo xã hội chủ nghĩa chủ yếu bằng con đường công tư hợp
doanh…xóa bỏ ngay thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, chuyển phần lớn tiểu
22
thương sang sản xuất hàng hóa. Mục tiêu đến năm 1980 căn bản hoàn thành
cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh phía Nam”[34].
Có thể nói chủ trương của Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV
(1976) đã chính thức khai trừ kinh tế tư nhân khỏi cơ cấu kinh tế xã hội miền
Nam. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam cũng được tiến hành
mạnh mẽ.
Cho đến năm 1980, về mặt pháp lý kinh tế tư bản tư nhân ở miền Nam về
cơ bản là hoàn toàn bị xóa bỏ, theo thống kê “chỉ còn lại 6% cơ sở và 5% giá
trị sản lượng. Trong tiểu thủ công nghiệp đã có 70% lao động chuyên nghiệp
đi vào con đường làm ăn tập thể. Trong thương nghiệp, 5000 hộ tư sản, 9 vạn
hộ tiểu thương sang sản xuất, sử dụng 15000 lao động vào mạng lưới thương
nghiệp xã hội chủ nghĩa” [89, tr. 36]. Tính đến tháng 07/1980, toàn miền Nam
đã tổ chức được 1528 HTX và 9530 tập đoàn sản xuất, thu hút 35,6% số nông
hộ vào con đường làm ăn tập thể. Trong công nghiệp hơn 3560 cơ sở tư bản
tư doanh với 250000 công nhân đã được cải tạo bằng các hình thức: xí nghiệp
quốc doanh 1534 cơ sở với gần 130000 công nhân bằng 34% số cơ sở, 35 %
công nhân và gần 65% giá trị sản lượng; xí nghiệp công tư hợp doanh 489 cư
sở, chiếm 14,5% sô cơ sở, 5,5% công nhân, 15% giá trị sản lượng; xí nghiệp
hợp tác gia công đặt hàng 1600 cơ sở với 70000 công nhân [80, tr. 45 - 50].
Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung chính thức được áp dụng
trên toàn bộ lãnh thổ đất nước, thế nhưng, thực tế lại cho thấy kinh tế tư nhân
vẫn tồn tại và có những đóng góp quan trọng vào việc đảm bảo đời sống hàng
ngày của người dân, và rộng hơn nữa là có những đóng góp quan trọng trong
việc cung cấp hàng hóa cho sản xuất và tiêu dùng của xã hội.
Trong nông nghiệp, theo quy định, các hộ nông dân sau khi đã vào HTX
chỉ được để lại 5% diện tích đất đai để làm “kinh tế phụ gia đình”, 95% ruộng
đất còn lại đưa vào HTX quản lý. Tuy nhiên, chính phần “ruộng đất phần
23
trăm” này lại đem lại thu nhập chủ yếu cho người nông dân. Theo tổng kết
của Ban Nông nghiệp Trung ương vào thời điểm năm 1985, “kinh tế phụ gia
đình” đã đem lại cho các hộ nông dân hơn 70% thu nhập, trong khi 95% diện
tích ruộng đất do HTX quản lý kia chỉ đem lại cho họ chưa đầy 30% thu nhập
[62, tr. 48].
Vào thời điểm hợp tác hóa cao nhất ở miền Bắc, số hộ làm ăn cá thể vẫn
còn khoảng 14%. Ở miền Nam, do “phong trào hợp tác hóa” xây dựng đi xây
dựng lại nhiều lần mà vẫn tan vỡ, cho nên tỷ lệ số hộ làm ăn cá thể cao hơn so
với miền Bắc.
Vào cuối thập nhiên 70, đặc biệt là thập niên 80 của thế kỷ XX, nước ta
lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Cơ chế làm ăn tập thể
khiến cho người lao động không còn động lực làm việc. Sản xuất trì trệ, đình
đốn. Theo nhận định của Đại hội Đảng lần thứ V (1982), nền kinh tế quốc dân
xảy ra tình trạng mất cân đối trầm trọng: “Sản xuất phát triển chậm trong khi
số dân tăng nhanh. Thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng xã hội,
một phần tiêu dùng xã hội phải dựa vào vay và viện trợ, nền kinh tế chưa tạo
được tích luỹ. Lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu.
Tình hình cung ứng năng lượng, vật tư, tình hình giao thông vận tải đang rất
căng thẳng. Nhiều xí nghiệp sử dụng công suất ở mức thấp. Chênh lệch giữa
thu và chi tài chính, giữa hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn lớn.
Thị trường và vật giá không ổn định. Số người lao động chưa được sử dụng
còn đông. Đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn, nhất là đời sống
công nhân, viên chức và nông dân những vùng bị thiên tai, địch họa” [29, tr.
44 - 45].
Trong nông nghiệp, để vượt qua tình trạng khó khăn, nông dân nhiều nơi
đã mạnh dạn “khoán chui”, đầu tiên là ở Vĩnh Phúc, Hải Phòng, sau đó lan
sang các địa phương khác như Nghệ Tĩnh, Hà Bắc, Hà Nam Ninh, Hà Sơn
24
Bình, Hải Hưng.... Hình thức khoán này ở các địa phương đã mang lại hiệu
quả rất tốt, sản lượng lương thực tăng rõ rệt, nông dân nhiệt tình, hăng hái sản
xuất hơn vì lúc này trách nhiệm của họ gắn với quyền lợi thiết thân của họ.
“Khoán chui” đã thực sự trở thành một tâm điểm thu hút sự chú ý của dư luận
xã hội và các nhà lãnh đạo. Phong trào “xé rào” dâng lên mạnh mẽ trong tất
cả các ngành, các lĩnh vực, trở thành hậu phương cho những người có tư duy
đổi mới. Trong khi kinh tế HTX chỉ đem lại sự nghèo nàn, đói kém thì những
cách làm sáng tạo của nông dân và Đảng bộ địa phương đã đem tới hiệu quả
cao.
Trước thực tế ấy, lãnh đạo Đảng - Nhà nước đã nghiêm túc nhìn nhận,
bám sát và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đặc biệt là thực tiễn sản xuất nông
nghiệp, từ đó dẫn đến những đổi mới ban đầu trong tư duy quản lý kinh tế, thể
hiện bởi một số chủ trương mới của Đảng đã được ban hành.
Những chuyển biến đầu tiên của Đảng về tư duy kinh tế được thể hiện rõ
ràng trong Nghị quyết 20 (Khóa IV) về tình hình và nhiệm vụ cấp bách và
Nghị quyết 21 (Khóa IV) về phương hướng, nhiệm vụ phát triển công nghiệp
hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương. Nghị quyết 20 đã thể hiện chính
sách rộng mở hơn của Đảng bằng việc nới lỏng các chính sách về giá cả, thuế
nông nghiệp và phân phối lưu thông; công nhận vai trò quan trọng của hộ gia
đình, bước đầu khuyến khích sự phát triển của kinh tế hộ trong sản xuất. Nghị
quyết 21 khẳng định: “Phải tận dụng các thành phần kinh tế: quốc doanh,
công tư hợp doanh, tập thể, cá thể (kể cả tư sản được kinh doanh hợp pháp);
kết hợp quy mô lớn, vừa, nhỏ; kỹ thuật thủ công, nửa cơ giới và cơ giới; kết
hợp trung ương, địa phương (tỉnh thành, huyện) và cơ sở” [29, tr. 333].
Hai nghị quyết này đã bước đầu nhận định được tầm quan trọng và thừa
nhận sự tồn tại của kinh tế nhiều thành phần trong tất cả các ngành kinh tế.
Mặc dù vẫn duy trì về căn bản chế độ quản lý bao cấp, song với những thay
25
đổi tích cực trong tư duy về thành phần kinh tế, cộng với bước đầu tự do lưu
thông, khuyến khích kinh tế hộ gia đình, thay đổi cách ăn chia phân phối
trong nội bộ HTX... mà đời sống kinh tế nông nghiệp bắt đầu khởi động. Các
chủ trương trên đã tạo ra những điều kiện căn bản để nông dân hướng tới nền
sản xuất mang lại lợi ích cao hơn cho người sản xuất. Phong trào “xé rào”
dâng lên mạnh mẽ hơn trước. Những chính sách này cũng tạo động lực mạnh
mẽ cho các ngành kinh tế khác.
Từ những đổi thay của thực tiễn, Ngày 13/01/1981, Ban Bí thư Trung
ương Khoá IV đã ra Chỉ thị số 100 - CT/TW cho phép và hướng dẫn áp dụng
rộng rãi hình thức khoán mới trong các HTX, tập đoàn sản xuất trên phạm vi
cả nước. Chỉ thị 100 và những chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Khoá V
thừa nhận và khuyến khích hộ xã viên đầu tư vốn, sức lao động vào ruộng
khoán và HTX để hướng thêm thu nhập từ phần vượt khoán, đã đáp ứng tốt
hơn nguyện vọng và lợi ích của nông dân chặn đứng đà sa sút trong sản xuất,
mở đầu cho quá trình đổi mới và phát triển trong nông nghiệp.
Tuy nhiên, cho đến Đại hội lần thứ V (03/1982), Đảng lại tiếp tục đề ra
mục tiêu hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trên cả nước, kinh tế quốc doanh mở rộng đến tận đơn vị kinh tế xã, tập
đoàn sản xuất.
Nhìn chung, quan điểm về kinh tế tư nhân của Đảng cho đến nửa đầu
thập niên tám mươi của thế kỷ XX đã có những chuyển biến nhất định, thể
hiện quá trình đổi mới ban đầu trong tư duy quản lý kinh tế của Đảng. Tuy
nhiên, những biến chuyển ban đầu đó chưa phải là những đột phá trong đổi
mới cơ chế. Sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy quản lý kinh tế nói chung, và đổi
mới tư duy về kinh tế tư nhân chỉ chính thức được đánh dấu tại Đại hội toàn
quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986).
26
*Thời kỳ Đổi mới: Xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp, thực
hiện đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội đất nước, tư duy của Đảng về kinh
tế tư nhân có nhiều thay đổi lớn lao.
Giai đoạn 1986 - 1990:
Đại hội Đảng VI (12/1986) đã mở ra một thời kỳ lịch sử mới của đất
nước, thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển. Đại hội VI đã đưa ra nhận thức
mới của Đảng về mô hình chủ nghĩa xã hội, con đường phát triển đất nước và
chấn hưng kinh tế. Đại hội đã nêu chủ trương xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kể từ Đại hội này, kinh tế tư
nhân được công nhận sự tồn tại, được khuyến khích phát triển để đóng góp
vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Từ đó, nhiều chủ trương - chính sách
mới của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân lần lượt ra đời.
Đại hội VI công nhận vị trí quan trọng, thừa nhận sự cần thiết của các
loại hình kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa:“Kinh tế gia đình có vị trí quan trọng và khả năng dồi dào, cần được
khuyến khích và giúp đỡ phát triển trong mối quan hệ hỗ trợ và gắn bó với
kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể;… đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng
hóa, Nhà nước thừa nhận sự cần thiết của bộ phận kinh tế này trong thời kỳ
quá độ, hướng dẫn và giúp đỡ nó sản xuất, kinh doanh, liên kết với kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể…Đối với tiểu thương, thông qua nhiều hình
thức tùy theo ngành hàng, để sắp xếp, cải tạo và sử dụng họ thành lực lượng
bổ sung cho thương nghiệp xã hội chủ nghĩa… Nhà nước cho phép những nhà
tư sản nhỏ sử dụng vốn, kiến thức kỹ thuật và quản lý của họ để tổ chức sản
xuất, kinh doanh trong một số ngành, nghề thuộc khu vực sản xuất và dịch vụ
ở những nơi cần thiết trong cả nước” [30, tr. 59 - 60]. Chủ trương này thể
hiện một quan điểm mới và đúng đắn của Đảng về kinh tế tư nhân.
27
Tuy nhiên, đường lối Đại hội VI có tồn tại một hạn chế đó là, mặc dù
thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân, bao gồm kinh tế tiểu thương, tư sản
nhỏ nhằm khai thác tiềm năng của các thành phần kinh tế này để phục vụ cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng tư tưởng chủ đạo vẫn là giới hạn,
cho phép tồn tại trong sự liên kết hạn chế và sự chỉ đạo của thành phần kinh tế
quốc doanh. Quan tâm lớn nhất của Đảng và Nhà nước trong suốt nhiệm kỳ
của Đại hội VI là nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
bằng cách giao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp để đối
mặt với thị trường, đồng thời xác định và xử lý mối quan hệ giữa kinh tế quốc
doanh với các thành phần kinh tế khác. Nghị quyết Trung ương số 3 - NQ/TW
Khóa VI ban hành ngày 28/08/1987 cho thấy rõ hơn tinh thần này: “Cần áp
dụng nhiều hình thức liên kết, liên doanh giữa các đơn vị thuộc các thành
phần kinh tế và các cấp quản lý nhằm mở rộng sự phân công hợp tác về kinh
tế và khoa học kỹ thuật, khai thác tối đa mọi khả năng và thế mạnh về vốn,
lao động và kỹ thuật để làm ra sản phẩm cuối cùng với hiệu quả kinh tế - xã
hội cao nhất” và “các xí nghiệp quốc doanh phải giữ vai trò chủ đạo trong
quan hệ liên kết với các thành phần khác” [31, tr. 299].
Mặc dù vậy, có thể nói Đại hội VI đã mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ
phục hồi và phát triển của kinh tế tư nhân. Dựa trên đường lối đổi mới về kinh
tế và nhận thức mới về kinh tế tư nhân của Đảng, xuất phát từ thực tiễn với
những thành quả ban đầu mà Đổi mới mang lại, Nhà nước đã ban hành những
văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Ngày 29/12/1987, Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành, chính thức chấp
nhận hoạt động kinh doanh của tư bản nước ngoài ở nước ta. Ngày
09/03/1988, Chính phủ ban hành Nghị định 27/NĐ về kinh tế tư doanh và
Nghị định 29/NĐ về kinh tế gia đình, chấp nhận quyền hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp tư nhân.
28
Ngày 21/12/1990, Kỳ họp khóa 8, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Luật
doanh nghiệp tư nhân, có hiệu lực kể từ ngày 15/04/1991, là văn bản đầu tiên
thừa nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều
thành phần, khuyến khích KTTN đầu tư kinh doanh. Kỳ họp này cũng thông
qua Luật công ty, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của loại hình công ty trách
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, đồng thời tăng cường quản lý nhà nước
đối với các loại công ty này.
Các văn bản trên đã thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về kinh
tế tư nhân, tạo điều kiện cho tư nhân mạnh dạn đầu tư sản xuất, kinh doanh,
góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Sự ra đời của Luật
doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty đã thực sự thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ của kinh tế tư nhân. Năm 1991, cả nước mới có 414 doanh nghiệp được
thành lập, thì năm 1992 đã tăng lên 5198 doanh nghiệp, năm 1995 là 15276
doanh nghiệp [62, 54].
Đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội đất nước cùng với những
chuyển biến lớn lao trong tư duy về kinh tế tư nhân của Đại hội VI thực sự đã
mang lại luồng gió mới, tạo động lực phát triển cho nền kinh tế xã hội nước
ta, là cơ sở đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách của thời kỳ tiếp sau
đó, để tiếp tục tiến lên phía trước.
Giai đoạn 1991 - 2000:
Đại hội VII của Đảng diễn ra trong bối cảnh chính trị thế giới đầy phức
tạp và có nhiều thay đổi lớn lao. Liên Xô đã tan rã, kéo theo đó là sự sụp đổ
của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Tình hình đó tưởng chừng sẽ đẩy
nước ta vào tình trạng vô cùng khó khăn với nhiều nguy cơ đe dọa. Thế
nhưng, bằng đường lối đổi mới về kinh tế xã hội đã được đề ra từ Đại hội VI,
với chính sách đối ngoại khôn khéo và phù hợp với xu hướng thời đại của
29
Đảng, đất nước ta vào đầu thập niên 90 đã có bước chuyển mình quan trọng,
vượt qua những khó khăn, thử thách lớn, vững bước tiến vào thời kỳ mới.
Trong 5 năm đầu của thời kỳ đổi mới, dưới tác động của những chủ
trương, chính sách quản lý kinh tế mới của Đảng, kinh tế tư nhân đã có những
đóng góp lớn lao vào cải thiện tình hình khủng hoảng toàn diện của đất nước.
Theo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Khóa VI tại Đại hội
VII, nhiều hộ cá thể và tiểu chủ đã bỏ vốn kinh doanh vào nhiều ngành nghề.
Tuy nhiên, nhiều người có vốn lớn vẫn chưa mạnh dạn đầu tư, nhất là vào
lĩnh vực sản xuất, vì môi trường kinh doanh chưa bảo đảm và có phần chưa
tin vào sự ổn định của chính sách. Trong khi nhiều đơn vị kinh tế tư nhân
đóng góp tích cực và làm giàu chính đáng, một số người đã hoạt động phi
pháp, lừa đảo, trốn lậu thuế [32, tr. 73 - 74].
Tiếp tục đường lối đổi mới của Đại hội VI, tại Đại hội VII, Đảng khẳng
định chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó “mọi người được tự do kinh
doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Các
hình thức sở hữu có thể hỗn hợp, đan kết với nhau hình thành các tổ chức
kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp, không phân biệt quan hệ sở hữu đều
tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp
luật” [32, tr. 26].
Đại hội cũng đề ra những chủ trương cụ thể đối với kinh tế tư nhân. Kinh
tế tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân
sinh được pháp luật quy định. Bên cạnh đó, nhà nước cũng có thể liên doanh
bằng nhiều hình thức với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước, hình thành loại
hình kinh tế tư bản nhà nước. Đối với kinh tế gia đình, Đại hội VII khẳng định
đây là một thành phần kinh tế độc lập, được khuyến khích phát triển mạnh.
30
Đại hội VII cũng đã thông qua hai văn kiện quan trọng khác là Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000.
Cương lĩnh khẳng định định hướng lớn về kinh tế là phát triển một nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
đó, kinh tế tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho
quốc kế dân sinh do luật pháp quy định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước
dưới nhiều hình thức. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển mạnh,
nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập. Các hình thức sở hữu
hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng. Các tổ
chức kinh tế tự chủ và liên kết, hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất và kinh
doanh [32, 159].
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 được xây
dựng với phương châm tiếp tục kiên trì sự nghiệp đổi mới. Chiến lược khẳng
định quan điểm mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ
quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Mọi đơn vị kinh tế, không phân biệt
quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh
tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật [43, tr. 179]. Đối với kinh tế tư
nhân, Chiến lược tiếp tục chỉ rõ: kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không
hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp
không cấm” [32, 184].
Với những quan điểm về kinh tế tư nhân của Đảng có thể khẳng định vai
trò của kinh tế tư nhân ngày càng được nhận thức và đánh giá rõ hơn, yếu tố
bình đẳng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế xã hội được chú trọng nhiều
hơn trước. Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (Khóa VII)
đánh giá: Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang là bộ phận đông đảo và có tiềm năng
to lớn, có vị trí quan trọng lâu dài; kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước
31
đang ngày càng phát triển, có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây
dựng đất nước. Nhà nước tiếp tục khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát
triển trong những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, bảo hộ quyền sở
hữu, lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh tư nhân. Đồng thời cũng lưu ý
ngăn chặn những việc làm phi pháp [35, tr. 40 - 41].
Hội nghị Trung ương 7 (tháng 07/1994) về phát triển công nghiệp, công
nghệ đến năm 2000 theo hướng CNH, HĐH đất nước cũng khẳng định sự tồn
tại của các thành phần kinh tế khác nhau là một yếu tố khách quan trên con
đường đi lên của đất nước. Những hoạt động mang tính xã hội như giáo dục, y
tế cũng đã chấp nhận sự tham gia của các thành phần kinh tế ngoài khu vực
nhà nước. NQTW 4 (01/1993) về giáo dục, y tế khuyến khích phát triển các
trường, lớp dân lập, tư thục; cho phép tổ chức các bệnh viện, phòng khám và
các dịch vụ y tế tư nhân.
Những quan điểm của Đảng về kinh tế tư nhân đã tiếp tục được thể chế
hóa thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo điều kiện pháp lý cho sự
phát triển của thành phần kinh tế này. Hiến pháp năm 1992 ghi: “Công dân
Việt Nam được quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”[59].
Trên cơ sở đó, cơ chế chính sách cụ thể đối với kinh tế tư nhân lần lượt ra đời.
Ngày 03/02/1992, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Nghị định
số 66 - HĐBT về cá nhân và nhóm kinh doanh có vốn thấp hơn vốn pháp định
quy định tại Nghị định số 221/HĐBT ngày 23/07/1991 nhằm khuyến khích
các thành phần kinh tế đầu tư kinh doanh, góp phần giải quyết việc làm, bảo
vệ lợi ích hợp pháp của người kinh doanh, đồng thời tăng cường hiệu lực
quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh
tế.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam (theo Lệnh Chủ tịch nước số 6/LCTN ngày 02/01/1993) có điều khoản
32
cho phép KTTN được liên doanh với đối tác nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Ngày 05/07/1994, Luật khuyến khích đầu tư trong nước được công bố,
trong đó quy định các tổ chức, công dân Việt Nam được khuyến khích đầu tư
vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội, Nhà nước có các chính sách bảo hộ và hỗ trợ
đầu tư. Ngày 12/05/1995, Chính phủ ra Nghị định 29/CP quy định đối tượng
khuyến khích đầu tư là các thành phần kinh tế, bao gồm cả KTTN như doanh
nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, tổ chức và cá nhân mua cổ
phần hoặc góp vốn vào các doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư được mở rộng,
KTTN được tham gia hoạt động kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật
không cấm, chẳng hạn kinh doanh bảo hiểm (theo Nghị định 100/CP ngày
18/12/1993) hoặc kinh doanh nhà ở (theo Nghị định 61/CP ngày 07/05/1994)
là những lĩnh vực trước đây chỉ có kinh tế Nhà nước mới được làm.
Cho đến năm 1996, trải qua 10 năm đổi mới, vai trò và vị trí của KTTN
trong nền kinh tế đất nước dần được Đảng nhận thức rõ ràng hơn. Những
đường lối - chủ trương mới về kinh tế tư nhân của Đảng được thể chế hóa
trong Hiến Pháp, Luật của Nhà nước, tạo hành lang pháp lý nhằm đảm bảo
các điều kiện cơ bản cho sự phát triên của kinh tế tư nhân.
Tiếp tục sự nghiệp Đổi mới, Đại hội VIII khẳng định vị trí quan trọng
của thành phần kinh tế tư nhân đối với sự phát triển chung của đất nước:
“Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài, giúp đỡ kinh tế cá
thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì lợi ích thiết
thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm ăn hợp tác một
cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay HTX.
Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước.
Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài; bảo
hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng
33
cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân
sinh” [19].
Sau Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương đã họp,
và ra Nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, cần kiệm để công nghiệp hoá, phấn đấu
hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đến nǎm 2000. Nghị quyết này đã
nêu ra một khuyết điểm trong chính sách đối với kinh tế tư nhân ở nước ta đó
là thiếu cơ chế phù hợp để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, nhất là làm
chủ về kinh tế, dẫn đến chưa phát huy vai trò của kinh tế tư nhân. Để phát huy
tối đa nội lực, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư nhấn mạnh cần
phải tiếp tục cụ thể hóa chủ trương nhất quán xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần bằng cách hoàn thiện môi trường kinh doanh hợp pháp, tạo điều
kiện khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư phát
triển, mở rộng các hình thức hợp tác, liên kết giữa các thành phần kinh tế.
Kinh tế tư nhân được nhấn mạnh là cần phải được tạo điều kiện phát triển
bằng thiết chế, cơ sở pháp lý rõ ràng và cụ thể. Những vấn đề như chính sách
tự do hóa thương mại, giảm bảo hộ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là
những vấn đề nhạy cảm, có liên quan đến KTTN trước đây thường bị cấm kỵ,
nay đã được nhận thức và nêu rõ.
Dựa trên những quan điểm đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã có những
đổi mới quan trọng trong các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh
tế tư nhân. Kỳ họp thứ 5 - Quốc hội khóa X (06/1999) đã thông qua Luật
doanh nghiệp (có hiệu lực kể từ 01/01/2000), thay thế cho Luật công ty và
Luật doanh nghiệp tư nhân. Luật doanh nghiệp tạo cơ sở pháp lý cho việc xây
dựng môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế; cụ thể hóa và phát triển nguyên tắc tự do kinh doanh theo
quy định của pháp luật, đảm bảo cho mọi người, mọi doanh nghiệp được làm
34
những gì mà pháp luật không cấm. Nội dung của Luật doanh nghiệp về cơ
bản phù hợp với thông lệ quốc tế quy định về các loại hình doanh nghiệp kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường.
Sự ra đời của Luật doanh nghiệp đã tạo ra bước đột phá cho sự phát triển
của kinh tế tư nhân. Theo thống kê, đã có 150.000 doanh nghiệp ra đời sau
khi Luật có hiệu lực, đây là minh chứng rõ nhất cho tính đúng đắn của Luật
này. Bên cạnh đó, thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh cũng được giảm
bớt, Chính phủ đã bãi bỏ 150 loại giấy phép không cần thiết nhằm xóa bỏ và
giảm mạnh rào cản việc gia nhập thị trường của doanh nghiệp [64, tr. 51].
Trong thời kỳ 1996 - 2000, Quốc hội còn ban hành một số luật kinh tế có
liên quan đến KTTN như Luật thương mại (1997), Luật các tổ chức tín dụng
(1997), Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (1997), Luật khuyến khích đầu tư
trong nước (có sửa đổi năm 1997).
Sự ra đời của các chủ trương - chính sách trên của Đảng và Nhà đã thúc
đẩy sự phát triển mạnh mẽ của thành phần kinh tế tư nhân; góp phần huy
động ngày càng nhiều vốn của các tầng lớp nhân dân đầu tư phát triển sản
xuất. Tính từ năm 1990 - 2003, mức huy động vốn của nhân dân đầu tư vào
sản xuất kinh doanh tăng liên tục. Năm 1990, vốn huy động mới chỉ là 3544
tỷ đồng, năm 1999 tăng lên 21000 tỷ đồng, tăng hơn 6 lần năm 1990. Tỷ trọng
đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân trong nước cũng vượt hơn hẳn tỷ trọng
vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Năm 2000, tỷ trọng vốn đầu
tư của doanh nghiệp dân doanh là 19,15%, trong khi đó, tỷ trọng vốn đầu tư
của doanh nghiệp nhà nước là 18,25%. Con số này năm 2001 tương tự là
23,5% và 19,3% [8, tr. 49 - 52].
Như vậy, những chủ trương - chính sách mới của Đảng - Nhà nước về
kinh tế tư nhân trong thời kỳ 1991 - 2000 đã mang lại những kết quả rõ rệt,
35
góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của nền kinh tế - xã hội của đất
nước.
Kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng của nó, tuy nhiên,
cho đến hết nhiệm kỳ của Đại hội VIII, quan điểm của Đảng về vị trí và tầm
quan trọng của kinh tế tư nhân trong toàn bộ định hướng phát triển kinh tế xã
hội đất nước vẫn chưa thực sự thống nhất. Vấn đề này đã được Đảng nghiên
cứu và giải quyết tại nhiệm kỳ Đại hội IX, X.
Giai đoạn 2001 - nay
Đại hội IX (04/2001) diễn ra trong bối cảnh đất nước đạt được nhiều
thành tựu quan trọng sau 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội (1991 - 2000).
Báo cáo chính trị tại Đại hội IX khẳng định: Thực hiện nhất quán chính
sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh
doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí
quan trọng lâu dài. Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi
trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm.
Đại hội IX đã thông qua Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2001- 2005 tiếp tục khẳng định quyền tự do kinh doanh
theo pháp luật của mọi công dân, khuyến khích phát triển mạnh kinh tế cá thể,
tiểu chủ, tư bản tư nhân.
Cụ thể hóa chủ trương Đại hội IX, ngày 18/03/2002, Hội nghị lần thứ 5
Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã họp và ra Nghị quyết sô 14-NQ/TW
về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát
triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết đã đánh giá tình hình phát triển, những thành
tựu và đóng góp quan trọng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế đất nước;
36
những yếu kém, tồn tại và nguyên nhân của nó. Từ đó, Nghị quyết đưa ra
quan điểm thống nhất: Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài
trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa,
góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh
tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội
nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh
theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân; khuyến
khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và định hướng, quản lý sự phát triển của
kinh tế tư nhân theo pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Các hộ
kinh doanh cá thể được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển ở cả
nông thôn và thành thị; khuyến khích các hộ liên kết hình thành các hình thức
tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho doanh nghiệp hoặc phát triển lớn
hơn [24]. Bên cạnh đó, Nghị quyết đề ra các chính sách toàn diện nhằm hỗ trợ
và khuyến khích sự phát triển của thành phần kinh tế này.
Có thể nói rằng đây là bước đổi mới tích cực, có sự đột phá về cả lý luận,
quan điểm, đường lối của Đảng về kinh tế tư nhân. Lần đầu tiên Đảng khẳng
định kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế quốc
dân. Theo như chủ trương này, vai trò và vị trí của kinh tế tư nhân được Đảng
nâng ngang tầm và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Điều đó cho
thấy sự đổi mới lớn lao về tư duy của Đảng đối với thành phần kinh tế này.
Đây là sự đổi mới tích cực, đúng đắn, cần thiết và kịp thời với thực tiễn phát
triển kinh tế xã hội đất nước.
Ngày 12/03/2003, Trung ương Đảng Khóa IX đã họp Hội nghị lần thứ 7
và ra Nghị quyết số 23 - NQ/TW, ngày 12/03/2003 về phát huy sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,dân chủ, văn
minh”. Nghị quyết khẳng định quan điểm khuyến khích mọi tầng lớp nhân
37
dân làm giàu chính đáng. Trong định hướng chính sách với các giai cấp xã
hội, bên cạnh công nhân, nông dân, trí thức đã đề cập đến thành phần các nhà
doanh nghiệp: “Coi trọng vai trò của các doanh nhân trong phát triển kinh tế
- xã hội. Hoàn thiện khung pháp lý chung để các nhà doanh nghiệp yên tâm
phát triển sản xuất - kinh doanh. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
các tổ chức hiệp hội các nhà doanh nghiệp” [26]. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 7 (Khóa IX) là bước hoàn thiện tiếp theo các nội dung của Nghị
quyết Trung ương 5 (Khóa IX) về kinh tế tư nhân. Chủ trương coi trọng vai
trò của doanh nhân có tác dụng vô cùng quan trọng trong việc cải thiện tư
tưởng và tâm lý của xã hội đối với kinh tế tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi về
mặt ý thức xã hội cho sự phát triển của thành phần kinh tế này.
Có thể nói, cho đến hết nhiệm kỳ Trung ương khóa IX, qua điểm về kinh
tế tư nhân của Đảng đã có rất nhiều chuyển biến tích cực, đặc biệt là quan
điểm thể hiện tại Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX). Tuy nhiên trong chính
sách đối với kinh tế tư nhân của Đảng vẫn còn tồn tại một vướng mắc cơ bản,
đó là quy định đảng viên không được làm kinh tế tư nhân. Vấn đề này gây băn
khoăn không chỉ cho những đảng viên có chí, có lực kinh doanh, mà đối với
cả thành phần kinh tế tư nhân. Đảng tiếp tục nghiên cứu, thảo luận và giải
quyết vướng mắc này tại Đại hội Đảng lần thứ X.
Sau 5 năm thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2005; và
sau 20 năm đổi mới, Đảng tiến hành Đại hội toàn quốc lần thứ X (từ 18 đến
25/04/2006). Ở đại hội lần này, chính sách đối với kinh tế tư nhân nói chung
là chú trọng đến các vấn đề như: khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu
chính đáng; xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu.
Vấn đề nổi bật và quan trọng nhất được quyết định và giải quyết tại Đại
hội X đó là vấn đề cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân. Đảng viên làm
kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà
38
nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành
Trung ương.
Đây là quyết định đúng đắn của Đảng, có tác dụng quyết định phá vỡ rào
cản tâm lý không coi trọng kinh tế tư nhân, bên cạnh đó, đảng viên được làm
kinh tế tư nhân sẽ giúp Đảng quản lý và đưa ra các chính sách ngày càng phù
hợp hơn đối với sự phát triển của thành phần kinh tế này, góp phần thúc đẩy
sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế xã hội đất nước, thúc đẩy quá trình hội
nhập của đất nước với nền kinh tế toàn cầu.
Đại hội khẳng định: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh… Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một
trong những động lực của nền kinh tế” [20].
Bên cạnh đó, Đại hội đề ra chủ trương thực hiện Chiến lược quốc gia về
phát triển doanh nghiệp, xây dựng một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam
nhiều về số lượng, có sức cạnh tranh cao….Xóa bỏ mọi rảo cản, tạo tâm lý xã
hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư
nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả
lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế quốc dân mà pháp
luật không cấm [20]. Chủ trương này chứng tỏ rằng Đảng ngày càng thấy
được tầm quan trọng của các loại hình doanh nghiệp của tư nhân trong sự nền
kinh tế xã hội đất nước. Đây là chủ trương rất đúng đắn và cần thiết để thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân nói riêng và nền kinh tế thị trường nói
chung.
Đối với chính sách phát huy các nguồn lực, Đảng đề ra phương hướng
tiếp tục phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh
nghiệp của tư nhân. Tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
39
các hộ kinh doanh được tiếp cận các nguồn vốn tại các tổ chức tín dụng của
Nhà nước, kể cả quỹ hỗ trợ phát triển; được đáp ứng thuận lợi nhu cầu sử
dụng đất làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh. Khuyến khích phát triển các
doanh nghiệp tư nhân lớn, các tập đoàn kinh tế tư nhân. Có chính sách và giải
pháp thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển. Đây là những chính sách và định
hướng rất cụ thể của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trong nông nghiệp,
nông thôn nói riêng và kinh tế tư nhân nói chung.
Ngày 5/2/2007, Trung ương Đảng Khóa X đã họp Hội nghị lần thứ 4, ra
Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững. Nghị quyết đã cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của
Đại hội X về kinh tế tư nhân, trong đó có đề ra các định hướng cho từng loại
hình tổ chức sản xuất - kinh doanh như doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Nghị quyết đưa ra định hướng
khuyến khích nông dân mua cổ phần trong các nhà máy chế biến nông sản,
doanh nghiệp thương mại, dịch vụ trong nông nghiệp; thúc đẩy quá trình tích
tụ ruộng đất gắn liền với việc chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các
ngành nghề khác…
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (Khóa X) đã ra Nghị quyết số 21 về tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong
đó đề ra chủ trương hoàn thiện về thể chế sở hữu, phát triển các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh.
Để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân, Nghị
quyết nêu rõ cần phải thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý
và điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở
hữu, thành phần kinh tế; khuyến khích phát triển các doanh nghiệp tư nhân
trong và ngoài nước vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; tạo điều kiện
để các doanh nghiệp của tư nhân tiếp cận các nguồn lực của Nhà nước trên
40
nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân
liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nhà nước, bán cổ phần cho người
lao động tại doanh nghiệp. Ðồng thời, tăng cường và nâng cao hiệu lực quản
lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân để các doanh nghiệp tư nhân tuân thủ đầy
đủ các quy định của pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước.
Tiếp tục cụ thể hóa chủ trương của Đảng về kinh tế tư nhân, Ngày
29/11/2005, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp 2005. Luật này thay
thế Luật doanh nghiệp năm 1999; Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 166 của Luật này; các quy định về tổ
chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp tại Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam năm 2000.
Những đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng Khóa X về kinh tế
tư nhân nói chung và kinh tế tư nhân trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng
đã hoàn thiện hóa các chủ trương - chính sách về kinh tế tư nhân của Đảng từ
năm 1986 đến nay. Vị thế của kinh tế tư nhân được cải thiện rõ nét kể từ Đại
hội VI của Đảng, đi từ chỗ không được xã hội công nhận, tới việc được công
nhận và được phép hoạt động trong các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không
cấm, và cuối cùng kinh tế tư nhân trở thành vấn đề chiến lược quan trọng
trong sự phát triển chung của kinh tế đất nước.
Chủ trương đảng viên được làm kinh tế tư nhân được thông qua tại Đại
hội X đã rỡ bỏ mọi rào cản tâm lý và quan điểm lệch lạc về thành phần kinh tế
tư nhân.
Từ năm 1986 đến nay, Đảng đã đề ra nhiều chủ trương về sự phát triển
của kinh tế tư nhân nói chung và chủ trương về khuyến khích phát triển kinh
tế tư nhân trong nông nghiệp nói riêng. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Nghị
quyết Trung ương 5 (Khóa VII); Nghị quyết Trung ương 6 (lần 1 – Khóa
41
VIII); đường lối về phát triển kinh tế tư nhân trong nông nghiệp, nông thôn
trong Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết Trung ương 5 Khóa IX, đường lối
Đại hội X là những chủ trương quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế tư
nhân trong nông nghiệp, nông thôn. Việc Đảng coi phát triển kinh tế tư nhân
là chiến lược lâu dài trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, và đảng
viên được phép làm kinh tế tư nhân là hai vấn đề quan trọng bậc nhất, là
những đột phá trong đường lối và tư duy của Đảng về thành phần kinh tế này.
Đường lối đúng đắn của Đảng có sức cổ vũ, khuyến khích và tạo điều kiện tốt
cho sự phát triển của kinh tế tư nhân nói chung và sự phát triển của thành
phần kinh tế này trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
42
CHƢƠNG 2
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN
Ở KHU VỰC NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
2.1 Đƣờng lối của Đảng về phát triển kinh tế tƣ nhân ở nông thôn ĐBBB
Kinh tế xã hội ĐBBB nằm trong tổng thể kinh tế xã hội của cả nước. Tất
cả các vùng kinh tế nói chung và ĐBBB nói riêng, trong quá trình phát triển
của mình, trước hết chịu sự tác động của những đường lối, chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, đối với mỗi vùng kinh tế, Đảng và Nhà
nước lại có chính sách phát triển riêng, phù hợp với đặc điểm và vị thế của
mỗi vùng.
Nghiên cứu đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân ở ĐBBB,
trước tiên, chúng ta tìm hiểu đường lối - chính sách chung của Đảng về phát
triển kinh tế tư nhân trong nông nghiệp, nông thôn.
2.1.1 Đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trong nông nghiệp,
nông thôn
Giai đoạn 1986 - 1990:
Trong toàn bộ quan điểm phát triển kinh tế đất nước, Đảng luôn coi
nông nghiệp là mặt trận quan trọng hàng đầu. Sau Đại hội VI, quá trình đổi
mới nông nghiệp được tiến hành tương đối đồng bộ, đặt trong tổng thể của
công cuộc đổi mới toàn diện về kinh tế - xã hội. Đảng chỉ rõ cần phải thực
hiện một hệ thống các chính sách thật sự khuyến khích sản xuất lương
thực; hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao
động.
Tuy vậy, do quá trình thể chế hóa đường lối Đại hội VI diễn ra tương
đối chậm, nên việc khoán sản phẩm trong nông nghiệp nông thôn vẫn thực
hiện theo tinh thần của chỉ thị 100. Theo chỉ thị này, cơ chế bao cấp chưa
được tháo gỡ, HTX vẫn tồn tại và vai trò của kinh tế hộ chưa được xác lập
43
đúng. Do đó, mà một thời gian sau, sản xuất nông nghiệp và HTX lại đứng
trước nguy cơ mới, sản xuất sút kém, nạn đói đã xảy ra ở một số vùng liền
trong hai năm 1987 - 1988.
Để giải phóng năng lực sản xuất to lớn của hàng chục triệu lao động,
nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu của ba chương trình kinh tế lớn, Hội
nghị lần thứ 2 BCH Trung ương Khóa VI (04/1987) đã đề ra giải pháp cấp
bách trong nông nghiệp: “Ngoài thuế là nghĩa vụ đóng góp bắt buộc, từ nay,
mọi quan hệ trao đổi giữa nông dân và các tổ chức kinh tế của Nhà nước phải
theo nguyên tắc bình đẳng, ngang giá, cùng có lợi, mua bán trên cơ sở thật sự
thoả thuận. Các ngành, các cấp không được giao thêm cho các HTX, tập đoàn
sản xuất và hộ nông dân "nghĩa vụ giao nộp sản phẩm" cho Nhà nước dưới
bất kỳ hình thức nào mang tính chất ép buộc” [31, tr. 61]. Chính sách này
bước đầu cụ thể hóa đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội VI, tháo gỡ từng
bước cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, tạo điều kiện sự phát triển của kinh tế
tư nhân trong nông nghiệp, nông thôn.
Bước đột phá quan trọng trong đổi mới cơ chế chính sách đối với kinh tế
tư nhân trong nông nghiệp, nông thôn là sự ra đời của Nghị quyết 10 - Ban Bí
thư Trung ương (ngày 05/04/1988) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.
Theo Nghị quyết này, ruộng đất được giao khoán tới hộ gia đình với thời
hạn dài hơn. Bên cạnh đó, những tư liệu sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật
mà tập thể quản lý kém hiệu quả được chuyển nhượng, hoặc cho hộ xã viên
đấu thầu. Nghị quyết khẳng định vai trò của xã viên; xoá bỏ chế độ hạch toán
công điểm và phân phối hiện vật theo ngày công; điều chỉnh và ổn định mức
khoán theo hướng tăng thêm phần thu nhập cho hộ xã viên.
Với Nghị quyết này, hộ xã viên đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, cơ chế
quan liêu bao cấp trong nông nghiệp đến thời điểm này mới thực sự được dỡ
bỏ, lực lượng sản xuất được giải phóng. Sự công nhận và khẳng định vai trò
44
quan trọng của kinh tế hộ có nghĩa là công nhận sự tồn tại và khuyến khích sự
phát triển của thành phần kinh tế tư nhân trong nông nghiệp, nông thôn.
Khoán 10 đã đem lại động lực mới cho nông dân. Mọi rào cản của mô
hình HTX cũ đã được rỡ bỏ. Người nông dân từ đây hăng hái làm ăn trên
phần ruộng của mình, tự chịu trách nhiệm với quá trình sản xuất bởi nó trực
tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Kết quả của Khoán 10 mang lại thực sự lớn
lao, đưa Việt Nam từ một nước đang có nguy cơ thiếu đói, chỉ sau 1 - 2 năm
đã trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Đó thực sự là
bước đột phá lớn lao trong sản xuất nông nghiệp và trong sự phát triển chung
của nền kinh tế xã hội đất nước.
Ngày 29/03/1989, Đảng đã thông qua Nghị quyết Trung ương 6 (Khoá
VI). Nghị quyết khẳng định chủ trương thực hiện chính sách một giá, thương
mại hoá vật tư, khẳng định sự cần thiết phải phát huy vai trò đơn vị kinh tế tự
chủ của hộ xã viên đi đôi với đổi mới quản lý của HTX, đồng thời tăng cường
cơ sở vật chất kỹ thuật trong phát triển nông nghiệp.
Như vậy, sau Đại hội VI, các nghị quyết như Nghị quyết Trung ương 2
(Khóa VI); Nghị quyết 10 (Bộ Chính trị); Nghị quyết Trung ương 6 (Khóa
VI) đã dần dần tháo gỡ cơ chế quản lý sản xuất quan liêu bao cấp, tiến tới
công nhận và khuyến khích sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ - một
hình thức của kinh tế tư nhân trong khu vực nông thôn, nông nghiệp.
Giai đoạn 1991 – 2000:
Tiếp tục sự nghiệp Đổi mới của Đại hội VI, Đại hội VII của Đảng khẳng
định nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Đại
hội đã thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm
2000. Chiến lược được xây dựng với phương châm tiếp tục kiên trì sự nghiệp
đổi mới, trong đó nông nghiệp, kinh tế nông thôn được xác định là mặt trận
hàng đầu. Chiến lược cũng nhấn mạnh việc khuyến khích phát triển kinh tế tư
45
nhân trong nông thôn, đặc biệt là kinh tế hộ: “Kinh tế cá thể được khuyến
khích phát triển trong các ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn, không bị
hạn chế việc mở rộng kinh doanh, có thể tồn tại độc lập, tham gia các loại
hình HTX, liên kết với các doanh nghiệp lớn bằng nhiều hình thức”;“Phát
huy tối đa tiềm năng của kinh tế hộ nông dân, kết hợp với hoạt động có hiệu
quả của các tổ chức kinh tế hợp tác thu hút phần lớn số hộ ở nông thôn và
liên kết bằng nhiều hình thức với kinh tế quốc doanh” [32, tr. 188].
Để cụ thể hóa chủ trương của Đại hội VII, ngày 04/12/1991, Hội nghị lần
thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã họp và ra Nghị quyết số
02-NQ/HNTW về nhiệm vụ và giải pháp ổn định, phát triển kinh tế - xã hội
trong những năm 1992 - 1995, trong đó có đề cập đến vấn đề phát triển kinh
tế tư nhân trong nông thôn: “Phát triển kinh tế hộ cá thể, tư nhân trong nông
nghiệp là một chính sách nhất quán, lâu dài trong thời kỳ quá độ. Nhà nước có
chính sách khuyến khích và hướng dẫn họ bỏ vốn kinh doanh trồng trọt, chăn
nuôi, làm dịch vụ, phát triển tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp nông thôn...,
làm giàu đúng pháp luật, liên kết với kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể dưới
nhiều hình thức và làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước” [32, tr. 980]. Để thực
hiện được điều đó, Nghị quyết đề ra cần phải tạo môi trường và điều kiện cho
kinh tế hộ cá thể và tư nhân phát triển sản xuất kinh doanh bằng cách hoàn
chỉnh việc thể chế hóa chính sách ruộng đất, bổ sung, sửa đổi luật đất đai, tạo
điều kiện từng bước tích tụ ruộng đất trong giới hạn để phát triển nông nghiệp
hàng hóa…; thực hiện dứt điểm chủ trương của Nhà nước giao đất cho hộ nông
dân. Đi đôi với chính sách ruộng đất, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu vốn, tài
sản và các tư liệu sản xuất khác của hộ nông dân, quyền tự do kinh doanh và
tiêu thụ sản phẩm, quyền lựa chọn các hình thức hợp tác và rút ra khỏi HTX
theo điều lệ, quyền di chuyển chỗ ở và tài sản đến lập nghiệp ở nơi mới theo
quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, Nghị quyết nêu vấn đề chính sách tài
46
chính - tín dụng phải thật sự khuyến khích và hỗ trợ kinh tế hợp tác và kinh tế
hộ nông dân phát triển.
Để thúc đẩy sự phát triển kinh tế nông thôn, Ngày 10/06/1993, Hội nghị
Trung ương 5 (Khóa VII) của Đảng đã họp, ra Nghị quyết số 05 - NQ/HNTW
về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, với trọng tâm là
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
Nghị quyết đã phân tích thực trạng nông nghiệp, nông thôn nước ta trong
những năm đầu đổi mới, từ đó rút ra những thành tựu cũng như những yếu
kém, trong đó khẳng định chính sách kinh tế nhiều thành phần đã đi vào cuộc
sống, khơi dậy nhiều nguồn lực, làm cho sản xuất kinh doanh ở nông thôn
phát triển năng động hơn, đời sống nông dân và bộ mặt nông thôn có nhiều
biến đổi tích cực; góp phần quyết định đưa nước ta thoát dần ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị. Tuy nhiên, nhìn chung
nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, chưa đáp
ứng nhu cầu cải thiện đời sống của nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp,
hàng hoá cho xuất khẩu, thị trường và nguồn tích luỹ để đẩy mạnh công
nghiệp hoá. Nguyên nhân của tình trạng đó là do kinh tế cá thể, tư nhân trong
nông thôn - nông nghiệp ở nước ta chưa được khuyến khích phát triển đúng
mức, vừa thiếu sự quản lý, hướng dẫn cần thiết để hạn chế, ngăn ngừa những
mặt tiêu cực; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
phát triển nông thôn, nông nghiệp chưa được quán triệt và sâu sắc. Từ đó, Hội
nghị tiếp tục khẳng định quan điểm: “Thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, huy động tối đa tiềm năng của kinh tế hộ xã
viên, hộ cá thể, hộ tư nhân, kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngoài” [33,
tr. 679]. Sự ra đời của chủ trương này đã phá vỡ sự lúng túng trong công tác
lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân trong nông nghiệp, nông thôn.
47
Thể chế hóa đường lối của Trung ương Đảng khóa VII về phát triển nông
nghiệp, nông thôn, tháng 7/1993, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa IX, luật đất
đai (sửa đổi) với nhiều nội dung tiến bộ được phê chuẩn, trong đó có nội dung
quan trọng là Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ gia đình
và cá nhân sử dụng với 5 quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa
kế và thế chấp. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp ra đời với thuế suất thấp
hơn thuế nông nghiệp đã góp phần giảm đóng góp của nông dân và khuyến
khích hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả.
Thực hiện đường lối của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ
đã ban hành các Nghị định cụ thể về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp, Nghị định
về thuế sử dụng đất nông nghiệp (NĐ 74/CP) và nhiều chính sách khuyến
khích phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Việc ban hành luật đất đai sửa đổi và luật thuế sử dụng đất trong năm
1993 đã đáp ứng kịp thời nguyện vọng của hộ nông dân. Đó là quyền làm chủ
thực sự ruộng đất của mình với quyền lợi, nghĩa vụ rất rõ ràng và nói chung
có lợi cho người nông dân với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ.
Nhiệm kỳ Trung ương Đảng khóa VII kết thúc với thành tựu lớn nhất là
đưa nước ta vượt qua được khủng hoảng kinh tế xã hội, mà sự phát triển của
kinh tế nông nghiệp nông thôn có những đóng góp lớn lao. Tiếp tục sự nghiệp
của Đại hội VII, Đại hội VIII của Đảng đã tiếp tục khẳng định vai trò và tầm
quan trọng của phát triển kinh tế nông thôn: “Nội dung cơ bản của CNH,
HĐH trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là: đặc biệt coi trọng CNH,
HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp
gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, phát triển các ngành nghề,
làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp,
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, xuất khẩu, các dịch vụ cho sản xuất và
48
đời sống nông dân, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, tiến
bước hình thành nông thôn mới, văn minh - hiện đại” [19].
Về vấn đề phát triển kinh tế tư nhân trong khu vực nông nghiệp, nông
thôn, ngày 17/10/1998, Hội nghị lần thứ 6 (lần 1) Ban chấp hành Trung ương
Đảng (Khóa VIII) đã ra Nghị quyết số 05 - NQ/TW về nhiệm vụ kinh tế, xã
hội năm 1999, trong đó có khẳng định: “Các thành phần kinh tế trong nông
nghiệp, nông thôn tồn tại lâu dài, mỗi thành phần có vị trí, vai trò riêng và đều
được khuyến khích phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa... Khuyến
khích phát triển tất cả các hình thức sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ có hiệu quả, đúng pháp luật; tạo điều kiện đưa nông nghiệp, nông thôn
nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; củng cố vững chắc liên minh công -
nông và trí thức về kinh tế và chính trị” [23].
Các chủ trương, chính sách của Đại hội VIII về nông nghiệp, nông thôn
đã được thể chế hóa thành Luật và các văn bản pháp lý khác. Luật HTX
(HTX) có hiệu lực từ 01/07/1997, trong đó có nội dung quan trọng là chuyển
đổi các HTX sản xuất nông nghiệp trước đây sang làm chức năng dịch vụ
theo mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới, làm dịch vụ cho kinh tế hộ. Một số
văn bản pháp lý khuyến khích các hình thức tổ chức kinh doanh của KTTN
nói chung và trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã được ban hành như:
Công văn số 681/CP ngày 20/06/1998 quy định tiêu chí tạm thời xác định
doanh nghiệp vừa và nhỏ; Nghị quyết số 3/2000/NQ - CP ngày 02/02/2002 về
kinh tế trang trại, trong đó xác định kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản
xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn được Nhà nước khuyến khích
phát triển và bảo hộ, và nêu rõ 8 chính sách chủ yếu khuyến khích phát triển
kinh tế trang trại. Bên cạnh đó, Chính phủ còn ban hành nhiều chính sách
khác, có tác dụng hỗ trợ rất lớn cho sự phát triển kinh tế tư nhân trong nông
49
nghiệp, nông thôn, tiêu biểu là chính sách đầu tư cho nông nghiệp và nông
thôn theo hướng tăng 50% vốn ngân sách trong năm 1999.
Những chủ trương - chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn của Đảng
cho đến thời điểm này cho thấy sự nhất quán trong tư duy phát triển kinh tế
nhiều thành phần và quan điểm đối với kinh tế tư nhân. Thành phần kinh tế
này được khuyến khích phát triển ở nông thôn, không chỉ đơn thuần là kinh tế
hộ, mà còn là các loại hình khác của kinh tế tư nhân như kinh tế trang trại, các
loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phục vụ phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Tư duy của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân nói chung và phát
triển kinh tế tư nhân trong nông thôn, nông nghiệp nói riêng ngày càng cụ thể
và bám sát nhu cầu thực tiễn.
Giai đoạn 2001- nay:
Nếu như Đại hội VIII đề ra chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn, thì tại Đại hội IX, Đảng chủ trương đẩy mạnh tiến trình này. Đại hội đã
thông qua Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010, trong đó nông
nghiệp, nông thôn được quan tâm đặc biệt. Chiến lược đề ra cần phải “đẩy
nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình thành nền
nông nghiệp hàng hóa lớn” [21]. Từ đó, Chiến lược nhấn mạnh cần phải đổi
mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách
và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho
phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức
sở hữu khác nhau. Kinh tế cá thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành thị được
Nhà nước tạo điều kiện phát triển; cần phải phát huy tính tự chủ của hộ gia
đình, mở rộng các hình thức kinh tế hỗn hợp, liên kết, liên doanh giữa HTX
với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Kinh tế tư bản tư nhân
được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành,
nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm; khuyến khích hợp tác, liên
50
doanh với nhau và với doanh nghiệp nhà nước, chuyển thành doanh nghiệp cổ
phần và bán cổ phần cho người lao động.
Cụ thể hóa đường lối đề ra tại Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 5 Khóa
IX ra Nghị quyết số 15-NQ/TW về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010 (ban hành ngày 18 tháng 3 năm
2002), nội dung của Nghị quyết này cho thấy rõ quan điểm chỉ đạo phát triển
kinh tế tư nhân trong nông nghiệp, nông thôn của Đảng: “Kinh tế hộ nông
dân tồn tại lâu dài trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế
hộ, kinh tế trang trại phát triển sản xuất hàng hoá với quy mô ngày càng lớn.
Kinh tế tư nhân là lực lượng quan trọng có khả năng thu hút vốn và
nhiều lao động để phát triển sản xuất, kinh doanh ngành nghề đa dạng, tăng
năng lực chế biến, tiêu thụ nông sản, làm dịch vụ phục vụ sản xuất và đời
sống ở nông thôn. Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, hướng dẫn
kinh tế tư nhân phát triển” [25]. Nghị quyết thể hiện bước tiến mới trong tư
duy của Đảng đối về phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn ở chỗ
Đảng không chỉ thêm một lần khẳng định tính nhất quán trong quan điểm đối
với kinh tế tư nhân nói chung, mà còn thể hiện nhận thức rõ ràng hơn về vai
trò của thành phần kinh tế này trong phát triển kinh tế nông thôn, từ đó
khuyến khích phát triển thành phần kinh tế này ở nông thôn.
Cho đến Đại hội X của Đảng, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông
thôn được nâng lên tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Đại hội X nhận định
“tam nông” là vấn đề mấu chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của
đất nước ta. Trong chính sách “tam nông” của Đảng đặt nông dân ở vị trí
trung tâm, là nguồn lực quan trọng của kinh tế nông thôn, và cũng chính là
yếu tố động lực, cái đích vươn tới phục vụ của kinh tế nông thôn. Đại hội
nhấn mạnh cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông
51
thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp
chế biến và thị trường. Để thực hiện tốt chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn,
cần phải sớm khắc phục tình trạng manh mún về ruộng đất, khuyến khích việc
dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất, phát triển các khu
công nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh
nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các ngành nghề, làng nghề,
HTX, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao.
Trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 -
2010, Đại hội nhấn mạnh cần phải tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất
nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Theo đó, cần phải có chính sách đủ mạnh
để khuyến khích phát triển nhanh các loại hình doanh nghiệp ở nông thôn,
nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ trong công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn;
phát triển các làng nghề; tiếp tục điều chỉnh chính sách khuyến khích để các
doanh nghiệp và HTX đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ, nhất là công
nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.
Có thể nói nội dung Đại hội X của Đảng đề cập rất nhiều tới việc phát
triển kinh tế tư nhân trong nông nghiệp, nông thôn. Đường lối phát triển kinh
tế tưu nhân trong nông nghiệp, nông thôn tại Đại hội lần này được đề ra khá
toàn diện và cụ thể, có định hướng đối với từng ngành nghề, từng lĩnh vực.
Nội dung về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn được cụ thể hóa
tại Nghị quyết số 21-NQ/TW về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (đề ra tại Hội nghị Trung ương 6 (Khóa X),
ngày 30/1/2008) đã đề cập tới vấn đề phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết
khẳng định Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển các trang
trại, hộ sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong nông nghiệp và ở khu vực nông
thôn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế.
Tạo điều kiện thuận lợi để các trang trại và hộ sản xuất kinh doanh góp vốn
52
phát triển theo hình thức HTX, công ty cổ phần hoặc trở thành doanh nghiệp
tư nhân và các loại hình kinh doanh khác thích hợp.
Vấn đề phát triển kinh tế tư nhân trong nông nghiệp, nông thôn cũng
được Đảng khẳng định trong Hội nghị gần đây của Đảng, Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương 7 Khóa X. Hội nghị đã ra Nghị quyết về nông dân, nông
thôn, nông nghiệp (ngày 05/08/2008). Vấn đề phát triển kinh tế tư nhân trong
nông nghiệp, nông thôn được Nghị quyết đề cập trong các giải pháp nhằm đẩy
mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này.
Nghị quyết khẳng định sau hơn 20 năm đổi mới, nông nghiệp, nông dân,
nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp
phát triển với tốc độ khá cao, thực hiện tốt nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia. Kinh tế nông thôn ngày càng phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa. Đời sống vật chất của dân cư ở nông thôn ngày càng được cải thiện
rõ rệt.
Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng chỉ ra những hạn chế, bất cập của nền
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, đó là phát triển nông nghiệp kém bền
vững; cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm; đời sống vật chất và tinh
thần của người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao…
Từ những đánh giá đó, Nghị quyết đã đề ra quan điểm phát triển nông
nghiệp, nông thôn mới: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến
lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”;
“Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ,
gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng
53
hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [34]. Có thể
nói, đây là quan điểm toàn diện đầu tiên của Đảng về vấn đề nông nghiệp,
nông thôn, nông dân trong thời kỳ Đổi mới. Quan điểm này cho thấy tầm
quan trọng lớn lao của phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong tiến
trình xây dựng và phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó, Đảng
khẳng định rằng giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở đất
nước ta hiện nay không phải nhiệm vụ riêng của bộ phận xã hội nào, mà là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Trong Nghị quyết này, Đảng đã đề ra 8 nhiệm vụ và giải pháp nhằm thúc
đẩy sự phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó có nhiều nội
dung khuyến khích sự phát triển của kinh tế tư nhân. Đảng khẳng định cần
tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ chức
sản xuất có hiệu quả ở nông thôn. Có chính sách khuyến khích phát triển các
mối liên kết giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, HTX, tổ chức khoa học,
hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh tế hộ phát
triển theo hướng gia trại, trang trại có quy mô phù hợp, sản xuất hàng hoá lớn.
Đối với phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn, cần khuyến khích các
thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu
gắn với vùng nguyên liệu và thị trường, đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công
nghiệp, triển khai chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề. Đối với phát
triển cơ sở hạ tầng nông thôn cần khuyến khích các thành phần kinh tế tham
gia đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Đối với lâm nghiệp, Đảng
khẳng định cần có cơ chế, chính sách phù hợp, tạo điều kiện, khuyến khích
các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia bảo vệ, phát triển
rừng.
Nghị quyết này cũng đề cập đến một nội dung quan trọng về điều kiện
sản xuất, kinh doanh ở nông thôn, trong đó Đảng nêu quan điểm cần phải tạo
54
môi trường thuận lợi để hình thành và phát triển mạnh các loại hình doanh
nghiệp nông thôn, nhất là các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sử
dụng nguyên liệu và thu hút nhiều lao động nông nghiệp tại chỗ, doanh
nghiệp dịch vụ vật tư, tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản cho nông dân. Phát triển
mạnh doanh nghiệp công nghiệp chế tạo máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên
liệu... phục vụ nông nghiệp.
Nghị quyết nêu vấn đề phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng
dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại
hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn, trong đó khuyến khích mọi
thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ.
Để huy động cao các nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân, cần phải đổi mới cơ chế chính
sách. Đảng đưa ra định hướng chỉ đạo vấn đề sửa đổi luật đất đai, trong đó
khẳng định cần giao đất cho hộ gia đình sử dụng lâu dài; mở rộng hạn mức sử
dụng đất, thúc đẩy quá trình tích tụ đất đai; công nhận quyền sử dụng đất
được vận động theo cơ chế thị trường, trở thành một nguồn vốn trong sản
xuất, kinh doanh.
Để tạo điều kiện tốt nhất cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nói chung, kinh tế tư nhân trong nông thôn nói riêng, Đảng cam kết: “Tăng
cường phân cấp thu chi ngân sách cho các địa phương, bao gồm cả cấp huyện
và xã; tăng cường hỗ trợ nông dân sản xuất nông sản hàng hoá; tiếp tục dành
nguồn vốn tín dụng ưu đãi và khuyến khích các ngân hàng, định chế tài chính
cho vay đối với nông nghiệp, nông thôn. Có cơ chế, chính sách đủ mạnh
khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn, kể cả huy động vốn ODA và FDI” [27].
Nhìn chung, chủ trương của Đảng về kinh tế tư nhân ở nông thôn ngày
càng hoàn thiện theo hướng phù hợp hơn với những yêu cầu, đòi hỏi của thực
55
tiễn, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của loại hình kinh tế này
trên địa bàn nông thôn, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hàng hóa,
đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
2.1.2 Sự chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn ĐBBB
ĐBBB là vùng kinh tế quan trọng của cả nước, 76% dân số sinh sống ở
nông thôn [6], do vậy trong tiến trình đổi mới đất nước, bên cạnh những
đường lối tổng thể về phát triển kinh tế xã hội đất nước, Đảng cũng ban bố
các chủ trương - chính sách về quy hoạch và phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn đối với từng vùng, trong đó có ĐBBB.
Quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân ở ĐBBB dựa trên đường lối
chung về phát triển kinh tế tư nhân ở nông thôn và đường lối về phát triển
kinh tế vùng ĐBBB của Đảng.
Đổi mới là quá trình Đảng lãnh đạo chuyển đổi, xóa bỏ cơ chế quản lý
kinh tế quan liêu bao cấp, chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Vì vậy, trong thời gian đầu của quá trình Đổi mới, Đảng ban hành
các chủ trương tổng thể trong phát triển kinh tế xã hội, cùng với những chủ
trương khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân nói chung và phát triển nông
thôn, nông nghiệp nói riêng, mà chưa có những chủ trương lớn về phát triển
kinh tế vùng. Tuy vậy, riêng đối với ĐBBB, trong Phương hướng phát triển
kinh tế xã hội 5 năm (1986 - 1990), Đảng có khẳng định đồng bằng sông
Hồng là trọng điểm sản xuất lúa của miền Bắc, có ý nghĩa quyết định đáp ứng
nhu cầu của khu vực.
Từ năm 1991 đến 1995, Đảng tiếp tục tập trung lãnh đạo đất nước vượt
qua những thời khắc vô cùng khó khăn của lịch sử. Về chuyển đổi cơ chế kinh
tế, Hiến Pháp 1992 ra đời cùng với hàng loạt các luật mới về khuyến khích
phát triển kinh tế tư nhân, trong đó Luật đất đai 1993 đã chính thức công nhận
56
hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ về mặt pháp lý. Cho đến hết thời kỳ 1991
- 1995, về cơ bản đất nước ta vượt qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế xã hội,
vững bước đi trên những chặng đường đổi mới tiếp theo, lúc này là thời điểm
thích hợp cho việc hoạch định chiến lược phát triển cụ thể cho từng vùng của
đất nước.
Tại Đại hội VII, Đảng đã nêu ra quan điểm về phát triển kinh tế vùng,
bao gồm xây dựng phương án tổng thể trên từng vùng, hình thành cơ cấu hợp
lý về nông, lâm, ngư, công nghiệp phù hợp với sinh thái vùng, gắn phát triển
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp với phát triển ngành nghề tiểu, thủ công
nghiệp và công nghiệp chế biến bằng công nghệ thích hợp; xây dựng các
điểm kinh tế - kỹ thuật - dịch vụ ở từng vùng và tiểu vùng; xây dựng kết cấu
hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội ở nông thôn [22].
Cho đến Đại hội VIII, Đảng đã đánh giá những kết quả của việc thực
hiện chủ trương phát triển kinh tế vùng được đề ra từ Đại hội VII như: Cơ cấu
vùng đang hình thành từng bước theo quy hoạch kinh tế - xã hội của các địa
phương, các đô thị, các địa bàn lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng
điểm. Các khu công nghiệp, khu chế xuất đang được xây dựng. Một số địa
bàn kinh tế, đặc biệt là một số thành phố lớn, phát huy lợi thế của mình đã đẩy
mạnh đầu tư, đạt nhịp độ tăng trưởng cao. Một số vùng nông thôn đã có bước
phát triển nhanh nhờ chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng khai thác lợi thế
so sánh, gắn với thị trường.
Ngày 23/08/1997, Thủ tướng chính phủ đã ra Quyết định Về việc phê
duyệt quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội vùng ĐBBB thời kỳ 1996 - 2010.
Trong định hướng về mục tiêu phát triển chung, Quyết định chỉ rõ cần phải
phát huy đầy đủ nguồn lực của các thành phần kinh tế; khuyến khích và tạo
điều kiện các thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước cùng phát
triển [10]. Đây là sự cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về quy
57
hoạch phát triển kinh tế xã hội, chủ trương về phát triển kinh tế nhiều thành
phần đối với ĐBBB. Chính sách này thể hiện rõ quyết tâm của Đảng – Nhà
nước nhằm xây dựng ĐBBB thành một vùng kinh tế phát triển năng động,
hiện đại.
Cho đến Đại hội IX, vấn đề phát triển kinh tế vùng, đặc biệt là phát triển
vùng nông nghiệp, nông thôn được Đảng đặc biệt quan tâm. Định hướng lớn
về phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn được đề ra tại Đại hội này là:
Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông
thôn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh phù hợp với tiềm
năng và lợi thế về khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa
phương. Ứng dụng nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhất là ứng
dụng công nghệ sinh học; gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến; gắn
sản xuất với thị trường tiêu thụ; hình thành sự liên kết nông - công nghiệp -
dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn [36]. Đối với nông thôn ĐBBB, Chiến
lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 xác định: Phát triển nông nghiệp
hàng hóa đa dạng. Cùng với lương thực… hình thành các vùng chuyên canh
rau, cây ăn quả, thịt, hoa; mở rộng nuôi, trồng thuỷ sản. Phát triển mạnh
công nghiệp chế biến và cơ khí phục vụ nông nghiệp, các cụm, điểm công
nghiệp, dịch vụ và làng nghề ở nông thôn [36]. Chủ trương này tuy không
trực tiếp đề cập đến vấn đề phát triển kinh tế tư nhân trong nông thôn ĐBBB,
nhưng các nội dung đó phần nào thể hiện quan điểm của Đảng đối với vấn đề
phát triển kinh tế tư nhân trong khu vực nông thôn ở vùng này. Khuyến khích
phát triển một cách đa dạng nông nghiệp hàng hóa và các ngành nghề khác
cùng với dịch vụ và làng nghề ở nông thôn để phục vụ nông nghiệp chính là
những chính sách tích cực tác động mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh
tế tư nhân. Đây là điều chưa từng có trong kinh tế HTX thời kỳ bao cấp.
58
Kể từ khi đất nước tiến hành đổi mới, đặc biệt là từ sau khi chủ trương
phát triển kinh tế vùng được đề ra tại Đại hội VII, những chủ trương cụ thể
của Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 5 Khóa IX, các chủ trương mới được đề
ra tại Đại hội X và các hội nghị Trung ương Khóa X về phát triển kinh vùng
nói chung và phát triển kinh tế tư nhân trong nông thôn ĐBBB nói riêng,
ĐBBB luôn là khu vực có tốc độ phát triển kinh tế nhanh. Tuy nhiên, so với
vùng Đông Nam Bộ thì tỷ trọng đóng góp của vùng ĐBBB vào GDP, và xuất
khẩu của cả nước thấp hơn, cơ sở hạ tầng còn yếu kém và thu hút được ít các
nguồn vốn đầu tư hơn. Nguyên nhân chính của tình hình này là do cả khu vực
còn thiếu cơ chế chính sách đồng bộ, cũng như chưa có một quy hoạch tổng
thể để phát huy lợi thế so sánh của cả vùng.
Để vùng ĐBBB phát triển tương xứng với tiềm năng và vị thế của nó,
tháng 09/2005, Bộ Chính trị đã thảo luận và quyết định những vấn đề quan
trọng về phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBBB đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020. Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 54 Về phát triển kinh tế - xã
hội và đảm bảo quốc phòng an ninh vùng ĐBBB đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020 [6]. Để thực hiện Nghị quyết 54 của Bộ Chính trị, ngày
06/03/2006, Chính phủ và Ban Kinh tế Trung ương phối hợp quán triệt Nghị
quyết và thông qua Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết này. Ngày 03/04/2006, Chính phủ và lãnh đạo của 12 tỉnh đồng bằng
sông Hồng đã thảo luận chương trình hành động của Chính phủ, về triển khai
thực hiện Nghị quyết số 54 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng. Ngày 17/8/2006, Thủ tướng
Chính phủ ra Quyết định số 191/2006/QĐ-TTg về việc ban hành chương trình
hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày
14 tháng 9 năm 2005 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo
đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và định
59
hướng đến năm 2020. Chủ trương - chính sách này của Đảng và Nhà nước thể
hiện tầm quan trọng lớn lao của ĐBBB nói chung và nông thôn ĐBBB nói
riêng trong nền kinh tế đất nước.
Nhìn chung, các chủ trương, chính sách lớn của Đảng về phát triển kinh
tế xã hội ĐBBB, đều nhấn mạnh vai trò của vùng đối với sự phát triển chung
của kinh tế đất nước và đều chủ trương hướng đến xây dựng một nền kinh tế
hàng hóa phát triển mạnh mẽ. Để phát triển nền sản xuất hàng hóa, trong các
chủ trương, chính sách của mình, Đảng và Nhà nước đều nhận thức được sự
cần thiết của việc phát triển kinh tế nhiều thành phần ở khu vực nông thôn,
trong đó có phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực này.
Những thuận lợi có được trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế tư
nhân ở khu vực nông thôn ĐBBB đó là vùng có những điều kiện và ưu thế
sẵn có về vị trí địa lý, nguồn lực tự nhiên và con người. Về mặt vị thế, hầu hết
các tỉnh trong vùng đều nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cận thủ
đô Hà Nội, hệ thống giao thông thuận lợi, có cảng hàng không quốc tế Nội
Bài, các cảng biển quan trọng của vùng (Cái Lân và Hải Phòng), nằm trên
hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hải Phòng. Trong quá trình đổi mới
kinh tế, cơ sở vật chất và hạ tầng kỹ thuật của tỉnh có nhiều thay đổi. Kinh tế
của vùng có mức tăng trưởng tương đối cao. Đó là những tiền đề quan trọng
tạo niềm tin cho doanh nghiệp trong nước và nước ngoài vào đầu tư.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đã nêu trên, Đảng bộ các địa
phương trong vùng ĐBBB cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức trong quá
trình lãnh đạo phát triển KTTN ở khu vực nông thôn của từng tỉnh. Điểm xuất
phát nền kinh tế nói chung của tất cả các tỉnh ở ĐBBB tương đối thấp, quy
mô nền kinh tế còn nhỏ bé. Cơ cấu sản xuất trong từng ngành chưa chuyển
dịch kịp thời với sự biến động thị trường trong và ngoài nước. Trình độ công
nghệ sản xuất của các doanh nghiệp chưa cao, năng lực tiếp nhận và chuyển
60
giao công nghệ còn hạn chế, sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa thấp.
Việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất còn
ít, nhiều cơ sở kinh doanh mới đạt công nghệ trung bình và thấp, công nghệ
cao chưa nhiều, chưa hình thành được ngành kinh tế mũi nhọn thực sự, sản
phẩm chiếm ưu thế tiêu thụ trên thị trường trong và ngoài nước chưa nhiều...
Có thể nói, đây là những yếu tố khiến cho sức cạnh tranh của nền kinh tế
ĐBBB chưa cao, nhất là khi Việt Nam hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế quốc
tế thì sức ép cạnh tranh sẽ càng quyết liệt hơn. Nền nông nghiệp nhìn chung
chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán, manh mún, thực tế cho thấy
sự phát triển nông nghiệp trong thời gian vừa qua mới chỉ dựa vào nhân tố
chiều rộng (nhân tố thô) như đất đai, hàm lượng chất xám trong sản phẩm
thấp…
Những thách thức đó đòi hỏi đảng bộ các tỉnh ĐBBB phải quán triệt và
thực hiện tốt những chủ trương, đường lối về phát triển kinh tế nhiều thành
phần ở nông thôn mà Đảng đã đề ra.
Phải nói rằng, những thách thức trên tác động không nhỏ đến chiến lược
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của các tỉnh trong vùng. Vì vậy, việc xác
định rõ mục tiêu, phân tích, đánh giá thực tại và hạn chế những khó khăn,
thách thức, đồng thời khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh, tận dụng tốt thời cơ
nhằm tăng tốc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của tỉnh đang là những
vấn đề cấp bách quan trọng.
Trên thực tế, Đảng bộ các địa phương ĐBBB đã có nhiều nỗ lực trong
việc lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn của địa phương
mình.
Để tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho sự phát
triển của kinh tế tư nhân, đảng bộ các tỉnh ĐBBB đã tích cực thực hiện công
tác phổ biến, tuyên truyền tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của
61
Đảng, Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế tư nhân. Nhiều tỉnh đã có cố
gắng lớn trong việc tạo môi trường thuận lợi cho hộ cá thể, tiểu chủ, và các
loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư sản xuất, kinh doanh như Hà
Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Vĩnh Phúc.
Ở Bắc Ninh, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn được tỉnh đặt ở vị trí
quan trọng và được thể hiện trong việc đưa các Nghị quyết Đại hội VIII, IX
của Đảng, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) và Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X vào cuộc sống.
Bắc Ninh đã thực hiện các giải pháp nhằm tạo môi trường thuận lợi, thu
hút đầu tư, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở nông thôn như: Phát
triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, đa dạng
các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn;
củng cố và sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà nước, tạo môi trường thuận lợi để
phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân, kinh tế hộ nông thôn; tập trung điều
chỉnh, bổ sung, hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt quy hoạch phát triển kinh
tế nông nghiệp, nông thôn nhằm tránh sự phát triển một cách tự phát; chuyên
môn hóa, tập trung hóa cao kết hợp với đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi và
ngành nghề ở nông thôn, huy động tối đa mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế
- xã hội theo chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Công tác khuyến công được tỉnh Bắc Ninh triển khai thực hiện theo Nghị
định 134/2004 của Chính phủ. Tỉnh đã thực hiện xã hội hóa công tác khuyến
công, nâng cao vai trò trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể xã hội, khuyến
khích các doanh nghiệp tham gia vào chương trình dự án khuyến công, truyền
nghề mới. Bên cạnh đó, Bắc Ninh tiến hành đẩy nhanh việc quy hoạch, xây
dựng và “lấp đầy” các khu công nghiệp tập trung, các khu, cụm công nghiệp
vừa và nhỏ ở các địa phương nhất là các huyện phía nam của tỉnh tạo điều
kiện thu hút lao động nông nghiệp vào làm việc tại các công ty, nhà máy... Để
62
lao động yên tâm với những ngành nghề mới, tỉnh đã đốc thúc địa phương
quan tâm đào tạo nghề có trọng tâm, trọng điểm và bằng nhiều hình thức thích
hợp, đón trước xu hướng phát triển nhằm giảm bớt số lượng lao động thiếu
việc làm sau đào tạo. Đối với khu vực thuần nông, tỉnh có chính sách tác động
mạnh tới các doanh nghiệp thông qua cơ chế để doanh nghiệp có trách nhiệm
cùng các cấp chính quyền tạo việc làm cho người nông dân sau khi phải bàn
giao đất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, tỉnh Bắc Ninh đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao
năng lực hiệu quả quản lý, điều hành, xây dựng bộ máy chính quyền các cấp
trong sạch vững mạnh; chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên; thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Thường xuyên nắm chắc tình hình diễn
biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân để chỉ đạo, định
hướng công tác tư tưởng, kịp thời có các giải pháp vận động phù hợp [84].
Nằm liền kề với Bắc Ninh là tỉnh Hưng Yên, một tỉnh cũng có rất nhiều
nỗ lực trong việc đẩy mạnh thu hút từ các nhà đầu tư trong đó có tư nhân
trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Đảng bộ Hưng Yên nhiệm kỳ 2001
– 2005 đã họp và ra Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh làn thứ 15, trong đó
khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, chuyển dịch nhanh cơ cấu
kinh tế, mọi người tự tạo việc làm tập trung tại chỗ gắn với phân công lao
động giữa các ngành, các vùng… Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, Hưng
Yên đã triển khai nhiều cơ chế chính sách thuận lợi để hỗ trợ, thúc đẩy phát
triển làng nghề, ngành nghề như: công nhận các làng nghề đủ tiêu chuẩn;
thành lập các khu công nghiệp làng nghề để thu hút những tập thể, cá nhân có
điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh… Bên cạnh đó, tỉnh còn thúc đẩy phát
63
triển, mở rộng mạng lưới làng nghề bằng cách khuyến khích những địa
phương có truyền thống làm nghề cũ thì tiếp tục phát triển nghề, còn những
địa phương chưa có nghề thì "cấy" nghề vào làng. Huyện Mỹ Hào đã đưa và
phát triển nghề vào hai xã Hoà Phong vốn có truyền thống làm nghề máy cày
bừa bây giờ chuyển sang làm thủ công mỹ nghệ và xã Ngọc Lâm "cấy" nghề
chạm bạc. Phù Cừ vốn là huyện thuần nông nhưng bằng việc thực hiện chính
sách "cấy nghề vào làng", đã tạo việc làm thường xuyên cho hàng vạn lao
động phổ thông và lao động nông nhàn với các nghề như mây tre đan, thêu
ren xuất khẩu, chế biến nông sản thực phẩm…
Đồng thời, tại Hưng Yên, quỹ "khuyến công" đã được thành lập để
khuyến khích phát triển công nghiệp, làng nghề. Mục đích của quỹ "khuyến
công" là thúc đẩy, hỗ trợ một phần tài chính để doanh nghiệp trong khu vực
nông thôn ra đời và phát triển, tư vấn, hướng dẫn người lao động lập dự án
thành lập cơ sở, doanh nghiệp sản xuất; tạo việc làm, nâng cao tay nghề cho
người lao động mà không tốn kém nhiều về cơ sở sản xuất và kinh phí… Đối
tượng của quỹ "khuyến công" hướng vào những ngành nghề phát triển nhiều
lao động như mây tre đan… Ngoài quỹ "khuyến công", Hưng Yên còn chú
trọng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân để thành lập cơ sở sản
xuất, phát triển kinh tế [51].
Tại Hải Dương, để từng bước khắc phục những hạn chế và tạo điều kiện
thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo các ngành
hữu quan nhất quán quan điểm kinh tế tư nhân là một bộ phân cấu thành quan
trọng của nền kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đồng
thời xác định rõ, cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước
trong đăng lý kinh doanh, quản lý hoạt động và tạo dựng môi trường tâm lý
thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, nhất là công tác tư vấn, trợ giúp
doanh nghiệp.
64
Tại Ninh Bình, để khuyến khích và thu hút các doanh nghiệp đầu tư sản
xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh, ngày 25/12/2007, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh đã
ký thỏa thuận hợp tác hỗ trợ và giúp đỡ doanh nghiệp với Phòng Thương mại
và công nghiệp Việt Nam, triển khai chương trình trợ giúp doanh nghiệp [18].
Có thể nói, để tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế tư
nhân, mỗi tỉnh ĐBBB có một cách chỉ đạo khác nhau phù hợp với đặc điểm
của địa phương mình. Cách làm của mỗi địa phương đều nhằm mục đích tạo
điều kiện thuận lợi về thể chế và tâm lý cho sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Để đạt được mục tiêu đó, về cơ bản, đảng bộ các tỉnh ĐBBB đều thống nhất
triển khai đường lối của Đảng về phát triển KTTN, triển khai tuyên truyền sâu
rộng quan điểm khẳng định kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế quốc dân. Song song với việc làm đó, các địa phương ĐBBB
đều nỗ lực tiến hành cải cách hành chính nhằm giảm thiểu phiền hà cho doanh
nghiệp, lập các dự án, chương trình, quỹ khuyến khích nông dân và nhân dân
khu vực nông thôn làm kinh tế.
Bên cạnh việc tạo ra điều kiện thuận lợi về thể chế và tâm lý, để tạo môi
trường thuận lợi cho sự phát triển của KTTN ở nông thôn ĐBBB, các địa
phương trong vùng còn chú trọng vấn đề xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng
nông thôn.
Ở Hải Dương, Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIII
(năm 2001) đã đề ra chương trình "Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ CNH,
HĐH giai đoạn 2001-2005". Thực hiện Nghị quyết XIII của tỉnh Đảng bộ,
Hải Dương đã xây dựng hệ thống giao thông và hệ thống lưới điện nhằm phục
vụ phát triển kinh xã hội nông thôn. Tỉnh đã đầu tư, cải tạo, nâng cấp 3.464
km đường giao thông, 3.837 m cầu, cống các loại trong đó 3.391 km xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách hỗ trợ, dân đóng góp và Chương trình phát
triển giao thông nông thôn "WB2" (403 tỷ đồng). Triển khai thi công các
65
tuyến đường và cầu thuộc 10 dự án quan trọng của tỉnh như các dự án đã hoàn
thành 100% khối lượng bao gồm đường và cầu đường phía Đông Nam thành
phố Hải Dương (18,7 tỷ đồng), cầu Hải Tân (22,8 tỷ đồng), cầu Tam Giang
(17,5 tỷ đồng), cầu Hồng Quang (3,3 tỷ đồng), cải tạo hồ Côn Sơn (47,7 tỷ
đồng) và cầu Vạn (12,3 tỷ đồng). Hệ thống đường giao thông do địa phương
quản lý đã được trải nhựa khoảng 90%, về cơ bản đạt tiêu chuẩn cấp IV đồng
bằng; đang lập Quy hoạch đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng giao thông
thủy, gồm các cảng Cống Câu, Tiên Kiều, hoàn thành kế hoạch bàn giao lưới
điện trung áp nông thôn sang ngành điện quản lý. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đầu
tư xây dựng hạ tầng khu, cụm công nghiệp và phát triển làng nghề: đã lập
xong quy hoạch với sự thỏa thuận của Bộ Xây dựng 5 khu công nghiệp trong
tổng số 7 khu công nghiệp tập trung; giao cho Nhà đầu tư xây dựng và kinh
doanh hạ tầng 3 khu công nghiệp (Đại An, Phúc Điền, Nam Sách) [47].
Cùng với Hải Dương, Bắc Ninh cũng rất chú trọng xây dựng cơ sở hạ
tầng, nhất là xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp. Trong những năm qua,
tỉnh đã đẩy nhanh tiến độ công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch; tập trung
phát triển công nghiệp, rà soát, hoàn chỉnh quy hoạch các khu, cụm công
nghiệp; xây dựng và thực hiện các tiêu chí công nghiệp hoá, hiện đại hoá bảo
đảm Bắc Ninh về đích trước 5 năm so với cả nước; tiếp tục phát triển nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, nông nghiệp đô thị sinh thái; ưu tiên
đầu tư hạ tầng thương mại và du lịch; đẩy mạnh xuất khẩu, tập trung tăng tỷ
trọng hàng hoá xuất khẩu có giá trị gia tăng cao [84].
Ở Hà Tây, vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng được tỉnh tỉnh xác định cần
chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải, tập trung vốn cho các dự án quan trọng
như: Khu công nghiệp Phú Cát, Khu Đại học Quốc gia, Làng văn hóa du lịch
Việt nam, Khu công nghệ cao Hòa Lạc, hoàn thành quốc lộ 32, đoạn đường
Hồ Chí Minh qua Hà Tây, và dự án xi măng Mỹ Đức, đảm bảo tổng mức đầu
66
tư trên địa bàn là hơn 4.000 tỷ, trong đó vốn Nhà nước trên địa bàn là gần
1.500 tỷ, nhân dân đầu tư là 1500 tỷ, sử dụng có hiệu qủa nguồn vốn tín dụng
thương mại và ưu đãi trên 400 tỷ đồng [12].
Một vấn đề không kém phần quan trọng để tạo môi trường thuận lợi cho
phát triển kinh tế xã hội nói chung và kinh tế tư nhân nói riêng trong nông
nghiệp, nông thôn phát triển là thực hiện chính sách đất đai. Ở ĐBBB, các địa
phương đã có nhiều cố gắng, song vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu, đòi
hỏi của thực tiễn. Việc tiến hành các thủ tục về đất đai, cho thuê đất vẫn còn
nhiều bất cập. Đối với đất đai phục vụ canh tác nông nghiệp, nhiều địa
phương đã có sáng tạo, đi đầu trong thực hiện dồn điền, đổi thửa. Vĩnh Phúc
là một điển hình. Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách trong đó có Nghị quyết 03 với nội dung đẩy mạnh thực hiện chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, hoàn thiện công tác quy hoạch lại đồng ruộng và
dồn ghép ruộng đất, từng bước hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập
trung. Vĩnh Phúc đã triển khai dồn điền đổi thửa ở thành công ở Huyện Yên
Lạc. Trước khi dồn ghép ruộng đất, huyện đã quy hoạch toàn bộ đồng ruộng
thành 4 tiểu vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, gồm vùng chuyên canh lúa
– màu (4.039 ha), vùng sản xuất rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày (694
ha), vùng trồng dâu nuôi tằm (800 ha) và vùng đất thấp, trũng sản xuất không
ăn chắc chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản (1.035 ha). Đến ngày 31/12/2005,
toàn huyện dồn ghép được 5.598/5.786 ha đất nông nghiệp, đạt 96,6%. Bình
quân mỗi hộ đạt 3,5 thửa, giảm 4,6 thửa so với trước khi dồn ghép, bình quân
mỗi thửa là 540 m2. Sau cuộc “đại phẫu” lại ruộng đất, huyện cũng quy hoạch
lại toàn bộ phần đất 5%, đất vùng trũng sản xuất không hiệu quả, chuyển đổi
làm trang trại, gia trại. Nhiều nông dân đã trở nên giàu có từ mô hình tích tụ
ruộng đất ở Huyện Yên Lạc. Trên cơ sở đó, tỉnh ủy Vĩnh Phúc đúc rút kinh
nghiệm và triển khai rộng rãi mô hình đã thực hiện tại Yên Lạc [42].
67
Cùng với Vĩnh Phúc, Hà Tây cũng đã tập trung thực hiện dồn điền đổi
thửa nhằm tạo ra các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung. Quyết
định 804/QĐ-UB ngày 10/5/2006 của UBND tỉnh đã “mở đường” cho hướng
đi mới và phong trào chuyển đổi mới thực sự phát triển. Quyết định 804 của
UBND tỉnh với các phương án táo bạo như liên Sở Tài chính và NN&PTNT
báo cáo các phương án hỗ trợ kinh phí cụ thể cho phương thức chuyển đổi.
Hết năm 2006 đã có 108 dự án được duyệt với diện tích chuyển đổi là 2.805
ha qua nghiệm thu đề nghị tỉnh hỗ trợ trên 37,2 tỷ đồng. 5 tháng đầu năm
2007, theo đăng ký xây dựng của các huyện, thị xã, toàn tỉnh có khoảng 1.000
ha được chuyển dịch cơ cấu theo quy hoạch, với kinh phí đề nghị hỗ trợ
khoảng 8 tỷ đồng. Nhờ vậy, phong trào dồn điền, đổi thửa và chuyển đổi đã
phát triển mạnh mẽ ở các vùng nông thôn [79].
Bên cạnh việc tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, hộ cá thể đầu
tư vào phát triển kinh tế nông thôn, các địa phương ĐBBB đã thực hiện chính
sách hỗ trợ về đào tạo khoa học công nghệ.
Đảng bộ, chính quyền tỉnh Bắc Ninh rất quan tâm tới phát triển, ứng
dụng khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường. Tỉnh xác định khoa học,
công nghệ là yếu tố không thể thiếu đối với quá trình sản xuất trong các
doanh nghiệp. Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bắc
Ninh, việc đẩy nhanh nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới của khoa
học công nghệ được coi là một nội dung tất yếu. Theo đó, trong phát triển
công nghệ ở nông thôn, vấn đề tiên quyết là ưu tiên phát triển công nghệ sinh
học, công nghệ chế biến, công nghệ kỹ thuật cao, phát triển công nghệ sạch và
chế biến, đặc biệt là tập trung phát triển mạnh thị trường khoa học, công
nghệ...
Tỉnh liền kề với Bắc Ninh là Hưng Yên, một tỉnh cũng tập trung rất
nhiều khu công nghiệp, làng nghề, cũng rất quan tâm tới vấn đề hỗ trợ về đào
68
tạo khoa học công nghệ. Tỉnh đã lãnh đạo thực hiện “liên kết 4 nhà” (nhà
nông, nhà khoa học, nhà nước, nhà doanh nghiệp) và đã mang lại hiệu quả
ban đầu tốt đẹp. Nông dân ở một số địa phương quen với việc sản xuất các
loại nông sản phục vụ xuất khẩu như: dưa chuột bao tử, ngô bao tử, cà chua
bi, ớt xuất khẩu… nhiều vùng đất trước đây chỉ trồng hai vụ lúa trong năm thì
nay hệ số quay vòng đất lên đến 3-5 lần/năm, giá trị thu nhập trên một héc-ta
canh tác đạt hàng trăm triệu đồng mỗi năm (gấp 3-4 lần cấy lúa). Sản xuất
nông nghiệp theo khoa học kỹ thuật hiện đại, nông sản nhiều nhưng nông dân
vẫn yên tâm không phải lo chuyện “đầu ra”. Đó chính là thành công bước đầu
của chủ trương xây dựng mối “liên kết 4 nhà”: nhà nông, nhà khoa học, Nhà
nước và nhà doanh nghiệp. Các xã Ngô Quyền, Lệ Xá (Tiên Lữ), thị trấn Trần
Cao, xã Đình Cao, Nhật Quang (Phù Cừ), Hồ Tùng Mậu (Ân Thi)… là những
điển hình cho mối liên kết này. Năm 2004, khi chính thức đi vào hoạt động,
Công ty TNHH Việt Úc (Tiên Lữ) đã ký kết hợp đồng sản xuất, bao tiêu nông
sản cho hàng trăm hộ dân của xã Ngô Quyền và nhiều địa phương lân cận với
sản lượng hàng trăm tấn dưa chuột, cà chua, ớt xuất khẩu mỗi năm. Phương
thức liên doanh liên kết này dựa trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi: doanh
nghiệp có nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định để duy trì sản xuất, nông dân
được doanh nghiệp cung ứng giống, kỹ thuật thâm canh và được doanh
nghiệp bao tiêu toàn bộ sản phẩm theo mức giá trần thấp nhất. Cùng với sự
liên kết này mà nhiều năm qua Công ty cổ phần Đồng Xanh (Kim Động) đã
khẳng định được thương hiệu là một doanh nghiệp chế biến nông sản xuất
khẩu mạnh với mức doanh thu 20-30 tỷ đồng mỗi năm. Không chỉ tạo việc
làm cho hàng chục lao động sản xuất trực tiếp trong nhà máy với mức thu
nhập từ 40 - 70 nghìn đồng/người/ngày thì công ty còn tạo việc làm thường
xuyên cho hàng trăm lao động tại các “vệ tinh” cung cấp nguyên liệu và sơ
chế sản phẩm, góp phần bảo đảm ổn định đời sống nông dân, nông nghiệp
69
nông thôn… Cùng là một doanh nghiệp hình thành từ ngành nghề nông thôn,
ông chủ doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Tiến Bộ, xã Nhân Hoà (Mỹ Hào) đã
phát huy nghề mộc truyền thống của địa phương, đầu tư hàng chục tỷ đồng
xây dựng cơ sở sản xuất đồ gỗ nội thất, văn phòng. Doanh nghiệp này đang
tạo việc làm cho gần 50 lao động với mức lương trung bình từ 1 đến 1,3 triệu
đồng/người/tháng. Hầu hết những người làm việc ở đây là con em của địa
phương và những hộ đã dành đất cho doanh nghiệp. Với đội ngũ công nhân
có tay nghề cao, sản phẩm chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, công ty đang dần
khẳng định được chỗ đứng trên thị trường, doanh thu hàng năm lên đến hàng
chục tỷ đồng. Với vai trò hỗ trợ, tạo việc làm của Công ty TNHH mây tre đan
Liên Khê, Công ty TNHH Ánh Hồng (Khoái Châu) Công ty TNHH Phú Minh
(Mỹ Hào), Công ty TNHH gốm nứa mỹ nghệ Đình Cao (Phù Cừ)... mà hàng
nghìn lao động có việc làm và thu nhập ổn định, nhiều làng nghề cũng vì thế
mà phát triển, được công nhận danh hiệu làng nghề, góp phần chuyển dịch cơ
cấu lao động, cơ cấu kinh tế, tạo diện mạo mới cho khu vực nông thôn [67].
Một điểm mới trong tư duy lãnh đạo phát triển kinh tế ở các địa phương
ĐBBB là Đảng bộ và chính quyền các tỉnh trong vùng đã quan tâm tới việc
thực hiện chính sách hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại. Tại kỳ họp thứ
8 Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội Khóa XII diễn ra từ ngày 11 đến
13/02/2003 đã đề ra Nghị quyết về nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh quốc
phòng của thủ đô năm 2003, trong đó có chủ trương đẩy mạnh xúc tiến
thương mại, củng cố thị trường truyền thống, quan tâm mở rộng và phát triển
thị trường mới [58]. Không chỉ có Hà Nội, Bắc Ninh và một số tỉnh khác cũng
đã có những hoạt động thiết thực nhằm hỗ trợ cho các cơ sở kinh tế tư nhân
phát triển. Tỉnh đã chủ động phối hợp với một số doanh nghiệp, tập đoàn lớn
của nước ngoài tổ chức các buổi tư vấn định hướng cho hộ kinh doanh phát
triển thành doanh nghiệp. Thông qua những buổi tư vấn, các sở ban ngành của
70
tỉnh đã có dịp đối thoại và trao đổi với hộ kinh doanh cá thể để nắm bắt được
những khó khăn mà hộ kinh doanh đang gặp phải và trao đổi những vấn đề
chủ trương chính sách của nhà nước nhằm phát triển khu vực kinh tế dân
doanh và những lợi ích của việc thành lập doanh nghiệp.
Nhìn chung, dưới sự chỉ đạo từ Trung ương, Đảng bộ và lãnh đạo các địa
phương ĐBBB đã có nhiều biện pháp cụ thể khác nhau để triển khai chủ trương,
đường lối về phát triển kinh tế tư nhân của Đảng vào phát triển kinh tế nông
thôn ở địa phương mình. Chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân ở nông thôn là vấn
đề mới và có nhiều phức tạp, bởi vậy đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của các địa
phương.
2.2 Tình hình phát triển kinh tế tƣ nhân ở ĐBBB từ 1986 - 2007 theo chủ
trƣơng - chính sách của Đảng
KTTN nói chung và KTTN ở khu vực nông thôn ĐBBB nói riêng phục
hồi kể từ sau khi Đảng đề ra Đường lối Đổi mới tại Đại hội VI (12/1986). Tuy
nhiên, phải đến khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 10 và hàng loạt các
chính sách mới đề ra của Nhà nước như Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật
công ty được ban hành năm 1990, Luật doanh nghiệp năm 1999, tiếp sau đó là
Luật doanh nghiệp năm 2005 thì kinh tế tư nhân trong nông thôn mới thực sự
bắt đầu phục hồi và phát triển. Các loại hình kinh tế tư nhân ở nông thôn bao
gồm hộ sản xuất kinh doanh cá thể (hộ sản xuất thủ công nghiệp, chế biến
nông sản, thương mại dịch vụ), các loại hình doanh nghiệp kinh doanh ở nông
thôn (công ty TNHH, công ty tư nhân, công ty cổ phần) hoạt động trong các
lĩnh vực chế biến, kinh doanh nông sản, hay phân phối hàng hóa dịch vụ ở
nông thôn, sản xuất nông cụ… đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, góp phần
to lớn vào đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ĐBBB. Do tác
động của các chủ trương - chính sách của Đảng, sự phát triển của kinh tế tư
nhân ĐBBB được chia theo những giai đoạn như sau:
71
Giai đoạn 1986 – 1990:
Ba sự kiện quan trọng tác động trực tiếp đến tình hình và xu thế phát triển
kinh tế tư nhân trong nông nghiệp, nông thôn nước ta giai đoạn này là Đại hội VI
(12/1986) của Đảng đề ra đường lối Đổi mới, trong đó đã đánh giá những sai
lầm và xác định hướng đi mới trong phát triển nông nghiệp, nông thôn; Nghị
quyết 10 của Bộ Chính trị về cải tiến công các quản lý nông nghiệp (04/1988)
từ khoán theo khâu đến khoán gọn theo đơn giá (Khoán 10) đến hộ xã viên và
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 Khóa VI (03/1989), quyết định
bỏ chế độ thu mua lương thực, thực phẩm theo giá thấp, thực hiện cơ chế một
giá, lưu thông lương thực tự do và xác định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ
ở nông thôn. Nhờ đó, kinh tế tư nhân cùng với tình hình kinh tế nói chung
trong nông nghiệp, nông thôn trên cả nước và ĐBBB đã từng bước vượt qua
thời kỳ khó khăn, khủng hoảng, chuyển sang thời kỳ củng cố và phát triển.
Trong nông thôn ĐBBB, quan hệ sản xuất bước đầu được điều chỉnh theo
hướng đổi mới quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ từ cơ chế
quản lý tập trung, bao cấp sang cơ chế hạch toán, tự chủ. Sau Đại hội VI của
Đảng (12/1986) và đặc biệt sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, quan hệ sở hữu
tư liệu sản xuất trong nông nghiệp được điều chỉnh một bước rất quan trọng, từ
chỗ tập thể hóa triệt để máy móc, trâu bò, nông cụ của cơ chế cũ tiến đến thừa
nhận quyền sở hữu (trừ ruộng đất) của các hộ xã viên. Do vậy, nhiều hộ đã
mua thêm máy móc, trâu bò, nông cụ hoặc nhận hóa giá các tư liệu sản xuất
từ các HTX sản xuất nông nghiệp. Vấn đề ruộng đất ở nông thôn được điều
chỉnh từng bước theo hướng giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ xã
viên.
Dưới tác động của những chủ trương - chính sách mới, vai trò điều hành
của các HTX sản xuất nông nghiệp không còn bao trùm lên toàn bộ hoạt động
72
sản xuất kinh doanh mà từng bước chuyển sang làm dịch vụ cho kinh tế hộ.
Trên cả nước, bộ máy quản lý các HTX sản xuất nông nghiệp giảm 50% so
với trước Nghị quyết 10. Quan hệ phân phối bước đầu bảo đảm sự hài hòa
giữa 3 lợi ích: Nhà nước, tập thể và người lao động, tạo thêm động lực mới
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.
Theo đánh giá của Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành trung ương
(Khóa VI) tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII về lĩnh vực sản xuất tiểu,
thủ công nghiệp trên cả nước, khoảng 20% số HTX đã vươn lên thích nghi
được với thị trường [32, tr. 72 - 74]. Một bộ phận lớn lâm vào tình trạng rất
khó khăn, khoảng 20% các HTX, trong đó có những đơn vị chỉ là kinh tế tập
thể về hình thức, đã giải thể hoặc chuyển sang hoạt động dưới dạng tư nhân.
Phần lớn các HTX mua bán kinh doanh thua lỗ và lúng túng về phương
hướng hoạt động. Đây cũng là tình trạng chung của kinh tế HTX ở ĐBBB. Do
hầu hết các làng nghề truyền thống, trong thời kỳ bao cấp được tổ chức thành
HTX sản xuất thủ công nghiệp, nên vào giai đoạn này, với tình hình khó khăn
chung của HTX, sản xuất thủ công nghiệp ở nông thôn có chiều hướng suy
giảm.
Đồng thời với sự suy giảm và chuyển đổi chức năng của HTX là sự phát
triển và nâng cao vai trò của kinh tế hộ, kinh tế cá thể, tiểu chủ. Do hậu quả
của cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp đã dẫn tới tình trạng thiếu lương
thực, thực phẩm trầm trọng trên cả nước, bởi vậy trong giai đoạn đầu đổi mới
này, hộ thuần nông phục hồi mạnh mẽ. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh,
buôn bán nguyên vật liệu, vật tư nông nghiệp đã bắt đầu hình thành và phát
triển. Chủ thể của các hoạt động này chủ yếu là tiểu thương, tiểu chủ.
Trong khi nhiều HTX thủ công nghiệp kiểu cũ tan rã và sản xuất thủ
công nghiệp nói chung ở nông thôn ĐBBB có xu hướng suy giảm, thì hoạt
động kinh tế phi nông nghiệp tại các làng nghề, làng buôn vẫn có dấu hiệu
73
phục hồi. Nhiều hộ cá thể và tiểu chủ đã bỏ vốn kinh doanh vào nhiều ngành
nghề. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất, kinh doanh, buôn bán của tư nhân ở
nông thôn ĐBBB trong thời gian này hầu như còn nhỏ lẻ, yếu ớt. Nhiều người
có vốn lớn vẫn chưa mạnh dạn đầu tư, nhất là vào lĩnh vực sản xuất, vì môi
trường kinh doanh chưa bảo đảm và có phần chưa tin vào sự ổn định của
chính sách. Trong khi nhiều đơn vị kinh tế tư nhân đóng góp tích cực và làm
giàu chính đáng, một số người đã hoạt động phi pháp, lừa đảo, trốn lậu thuế.
Mặc dù vậy, có thể nói nhờ những chính sách mang tính chất “cởi trói”
cho kinh tế hộ và kinh tế tư nhân mà bộ mặt nông thôn đã có nhiều đổi mới,
thu nhập và đời sống của nông dân được cải thiện đáng kể. Trong 2 năm
1989, 1990 tình trạng thiếu đói giáp hạt đã giảm đến mức thấp nhất và các
cơn sốt về thiếu lương thực đã được khắc phục một cách cơ bản.
Có được những thành tựu như trên là do tác động của tư duy đổi mới
đúng đắn của Đảng, thể hiện rõ rệt qua Nghị quyết 10. Nghị quyết này đã tạo
bước đột phá mạnh mẽ vào cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũ,
mở ra thời kỳ thực hiện cơ chế hạch toán tự chủ trong sản xuất nông nghiệp,
lấy hộ nông dân làm đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, tạo động lực mới thúc
đẩy sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn cả nước nói chung, kinh tế
nông thôn ĐBBB nói riêng phát triển.
Giai đoạn 1991 - 2000:
Giai đoạn 1991 - 2000 là giai đoạn mà Đảng và Nhà nước đề ra rất nhiều
chủ trương, chính sách mới về kinh tế tư nhân và chính sách đối với kinh tế
nông thôn. Những chủ trương của Đảng thể hiện quan điểm thống nhất về tạo
điều kiện phát triển kinh tế tư nhân bao gồm đường lối Đại hội Đảng lần thứ
VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, Chiến lược phát
triển kinh tế xã hội 1991 - 2000, Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VII, những
đường lối đề ra tại Đại hội VIII và các Nghị quyết Trung ương khóa VIII. Về
74
chính sách của Nhà nước, có thể kể đến tiêu biểu đó là Luật Công ty, Luật
doanh nghiệp tư nhân, Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế xã hội ĐBBB của Thủ tướng chính phủ. Những chủ trương - chính
sách đó thể hiện quan điểm cụ thể và toàn diện hơn của Đảng về kinh tế tư
nhân và phát triển kinh tế nông thôn, có tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới
phát triển kinh tế nhiều thành phần nói chung và phát triển kinh tế tư nhân nói
riêng ở khu vực nông thôn ĐBBB.
Trong giai đoạn này, tình hình phát triển kinh tế hộ kinh doanh cá thể ở
ĐBBB có nhiều biến chuyển. Nếu như trong những năm đầu sau Đại hội Đảng
VI (12/1986), các hộ cá thể kinh doanh theo tâm lý vừa kinh doanh, vừa thăm
dò, nghe ngóng những thay đổi về quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà
nước, thì bước sang thập niên 90 (Thế kỷ XX), kinh tế hộ kinh doanh cá thể ở
ĐBBB tiếp tục có sự gia tăng ổn định về số lượng, quy mô sản xuất kinh doanh
ngày càng lớn, phát triển rộng khắp với sự đa dạng về ngành nghề, hình thức
kinh doanh, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của đời sống kinh tế xã hội.
Theo số liệu thống kê (bảng 2.1), từ năm 1990 đến năm 2000, tỷ lệ số hộ
chế biến nông sản trong tổng số hộ trên địa bàn ĐBBB tăng từ 4% lên 8,3%;
tỷ lệ số hộ sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp tăng từ 5,6% lên 6,2%. Từ
năm 1990 đến 2000, tỷ lệ số hộ nông nghiệp có chiều hướng giảm dần (từ
80,4% năm 1990 xuống còn 77% năm 2000). Tuy vậy, qua đó có thể thấy số
hộ sản xuất kinh doanh cá thể ở nông thôn ĐBBB có tỷ lệ quá thấp so với tỷ
lệ số hộ nông nghiệp. Thế nhưng trong số hộ nông nghiệp, sự phân hóa diễn
ra ngày càng nhiều, số hộ thuần nông (chỉ sản xuất nông nghiệp) chiếm tỷ lệ
lớn nhất, nhưng giảm dần qua các năm (từ 74,4% năm 1990 xuống 70,6%
năm 2000); bên cạnh hộ thuần nông xuất hiện các hộ kiêm doanh (kiêm doanh
thủ công nghiệp, chế biến nông sản, thương mại), tỷ lệ số hộ kiêm doanh ngày
càng tăng (từ 11,5% năm 1990 lên 12,1% năm 2000).
75
Bảng 2.1: Cơ cấu hộ gia đình ĐBBB
Loại hộ
1990
1995
1998
1999
2000
3.181.569 3.403.707 3.596.020 3.655.692 3.707.151
128.871
218.195
285.486
298.299
311.105
4
6,4
7,9
8,1
8,3
2.558.130 2.741.888 2.808.823 2.831.340 2.856.440
77,4
80,5
80,4
77
74,9
74,4
70,6
71,3
78 2.366.182 2.552.685 2.578.192 2.604.761 2.617.552 71,7 1.647.667 1.752.971 1.776.794 1.783.402 1.786.794 49,4 421.526 11,7
51,8 365.132 11,5
48,2 449.772 12,1
48,7 443.161 12
51,5 398.820 11,7
182.157
200.579
211.074
221.227
223.117
5,7
5,9
5,8
6
6
20.367
24.296
28,741
29,921
31,675
0,6
0,7
0,7
0,8
0,7
95.663
104.500
114.804
119.613
121.241
177.025 5,6
183.873 5,4
227.200 6,3
221.539 6
232.988 6,2
45.996
51.517
72.341
68.346
72.490
1,4 9.478
1,5 12.224
2,0 13.853
1,8 13.860
1,9 14.580
31.615
36.601
47.957
43.197
46.439
0,9 5.008
1,0 5.436
1,3 7.350
1,2 7.776
1,2 7.999
1. Tổng số hộ hiện có trên địa bàn 2. Trong đó hộ có chế biến nông sản Tỷ trọng (%) 3. Trong đó hộ nông thôn Tỷ trọng (%) a/ Hộ nông nghiệp Tỷ trọng (%) - Hộ thuần nông Tỷ trọng (%) - Hộ kiêm doanh Tỷ trọng (%) - Hộ kiêm doanh tiểu, thủ công nghiệp Tỷ trọng (%) Trong đó số có chế biến nông sản Tỷ trọng (%) + Hộ kiêm doanh thương mại, dịch vụ b/ Hộ phi nông nghiệp Tỷ trọng (%) + Hộ phi nông nghiệp chuyên công doanh nghiệp Tỷ trọng (%) Trong đó số có chế biến nông sản + Hộ phi nông nghiệp chuyên doanh thương mại Tỷ trọng (%) Trong đó số có phục vụ nông nghiệp
*Nguồn: [54, tr. 66- 67]
Những con số thống kê đó chứng minh sự phát triển của kinh tế hộ kinh
doanh cá thể trong nông thôn ĐBBB, tuy nhiên sự phát triển này tương đối
chậm chạp qua các năm. Mặc dù vậy, sự phân hóa trong số hộ nông nghiệp
76
cho thấy rõ tình trạng chuyển hướng ngành nghề của nông dân ĐBBB sang
khu vực sản xuất, kinh doanh cá thể ngày càng nhiều. Thực trạng này cho
thấy sự hấp dẫn của khu vực kinh tế tư nhân và sự giảm thu hút lao động của
ngành nông nghiệp ĐBBB. Xu hướng này do nhiều nguyên nhân và yếu tố tác
động, mà nguyên nhân lớn nhất là do kinh doanh thường đem lại nguồn lợi
lớn hơn và giúp cải thiện nhanh chóng tình hình kinh tế của các hộ gia đình
trong khi sản xuất nông nghiệp mang lại nguồn lợi thấp hơn.
Trong xu hướng chuyển sang sản xuất, kinh doanh hàng hóa, một bộ
phận lớn người dân nông thôn ĐBBB đã tham gia hoặc chuyển hẳn sang sản
xuất thủ công nghiệp, công nghiệp. Từ cuối những năm 80 và đầu những năm
90 (thế kỷ XX), trong nông nghiệp ĐBBB có sự thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu
sản xuất có liên quan đến xu thế phát triển công nghiệp nông thôn. Ban đầu là
sự suy giảm mạnh mẽ của các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn.
Biểu hiện là các đội ngành nghề và các HTX tiểu thủ công nghiệp thu hẹp sản
xuất và nhiều đơn vị ngừng trệ hoạt động rồi đi đến tự giải thể. Lý do quan
trọng nhất của hiện tượng đó là do cơ chế kế hoạch hóa tập trung không còn
phù hợp với những điều kiện kinh tế, xã hội mới đang diễn ra ở nông thôn, và
sự thay đổi cơ chế đang làm cho các hộ xã viên trong khu vực trồng trọt
chuyển dần sang tự chủ sản xuất. Do khó khăn về đời sống và do sức hút của
cơ chế mới nên hầu hết hộ nông dân đều tập trung vào sản xuất nông nghiệp
và chủ yếu là lương thực. Lúc này, cả ngành nghề, cả sản xuất hoa màu đều
giảm sút.
Đầu những năm 90 (thế kỷ XX), sản xuất lương thực đã có những bước
tiến, sản lượng tăng lên, nỗi lo về ăn đối với nông dân đã được giải quyết về
cơ bản. Cùng với đó là chủ trương khoán hộ trong nông nghiệp, rồi khuyến
khích ai giỏi nghề gì làm nghề đấy nên xu hướng mới đã xuất hiện ở nông
thôn đó là xuất hiện nhiều hộ làm nghề nông kiêm các nghề khác rồi hộ
77
chuyên tiểu thủ công nghiệp. Các loại hộ này đầu tiên là các hộ vốn vẫn duy
trì ngành nghề thủ công ở một quy mô nào đó dưới những hình thức nào đó
từ thời kỳ hợp tác tập trung và thường là các hộ ở các làng nghề và các làng
nghề truyền thống. Nhưng trong thời kỳ hợp tác hóa tập trung sản xuất của
các hộ trong các làng đó đều đã được tổ chức thành các HTX tiểu thủ công
nghiệp.
Khi có chủ trương khoán hộ, giao ruộng ổn định đất lâu dài (Khoán 10
của Bộ Chính trị tháng 4/1988) trong trồng trọt nhưng chủ trương đó lại chưa
có đối với khu vực sản xuất ngành nghề. Chỉ đến sau này, khi khẳng định hộ
nông dân là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ hạch toán kinh doanh cùng với
những đổi mới về chính sách đẩy mạnh kinh tế hàng hóa trong nông thôn thì
các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp mới được khôi phục mạnh mẽ trước hết
là ở quy mô hộ gia đình. Do sản xuất ngành nghề tiểu thủ công có sự duy trì
liên tục với những quy mô và hình thức khác nhau trong các làng vốn là làng
nghề và làng nghề truyền thống nên khi có những định hướng trong các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thì ban đầu là khôi phục hộ nghề và
sau đó là khôi phục các làng nghề và làng nghề truyền thống đã trở thành một
hiện tượng mới, đem lại nhiều thay đổi về sản xuất, thu nhập và nhiều mặt
văn hóa, xã hội khác cho nông thôn. Với hiệu quả cao trong cơ chế mới, các
làng nghề và làng nghề truyền thống không chỉ khôi phục mà còn phát triển
cả bề rộng và bề sâu và nó đã trở thành xu thế phát triển trong công nghiệp
nông thôn ĐBBB.
Cuối thập niên tám mươi, đầu thập niên chín mươi của thế kỷ XX, hàng
loạt làng nghề ở ĐBBB phục hồi và trở nên nhộn nhịp bởi các hoạt động sản
xuất, buôn bán sôi động, với đủ mọi loại nghề như mây tre đan, làm mành, dệt
chiếu, đồ thủ công mỹ nghệ... Bên cạnh đó ở ĐBBB còn có sự phục hồi của
các làng buôn. Các làng nghề điển hình ở ĐBBB có Tề Lỗ ở Vĩnh Phúc, Đại
78
Bái ở Bắc Ninh, Đồng Kị, Bát Tràng, Thụy Lôi (Đông Anh - Hà Nội), Vạn
Phúc (Hà Tây cũ), Triều Khúc (Từ Liêm - Hà Nội) đã nhanh chóng phục hồi
nghề truyền thống và trở nên nổi tiếng...
Làng nghề quy tập đủ mọi thành phần kinh tế, song đơn vị sản xuất chủ
yếu ở các làng nghề chính là các hộ gia đình, các công ty (quốc doanh hoặc
ngoài quốc doanh) không tổ chức sản xuất tập thể theo xưởng hay nhà máy
sản xuất, mà chỉ đóng vai trò cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, đưa đơn hàng
về các hộ gia đình, trên cơ sở đó, hộ tự hạch toán sản xuất, kinh doanh, khi ra
sản phẩm cuối cùng thì bán lại cho đơn vị phân phối. Với hình thức tổ chức
như vậy, thực chất làng nghề là tập hợp các hộ kinh doanh cá thể, do đó có thể
nói rằng xét về phương diện thành phần kinh tế, thì ở làng nghề chủ yếu là
kinh tế cá thể, tiểu chủ. Các doanh nghiệp chỉ có chức năng cung cấp nguyên
vật liệu, thu mua sản phẩm rồi bán ra thị trường hoặc xuất khẩu là doanh
nghiệp tư nhân, hoặc HTX, hoặc doanh nghiệp Nhà nước chỉ đóng vai trò
phân phối, không có ý nghĩa trong tổ chức và quản lý sản xuất. Bởi vậy, có
thể thấy được tỷ lệ thành phần kinh tế tư nhân ở làng nghề chiếm đa số so với
thành phần kinh tế tập thể hoặc Nhà nước. Theo số liệu điều tra tháng 7/1992
về công nghiệp nông thôn của Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm
cho thấy: về hình thức sở hữu và tổ chức sản xuất thì 98,95% là các cơ sở tư
nhân, cá thể; 0,88% là cơ sở tập thể, và quốc doanh chỉ chiếm 0,17% [5, tr.
45]. Thực trạng này phản ánh kết quả khách quan của quá trình chuyển đổi cơ
chế tổ chức, quản lý tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn.
79
Bảng 2.2: Hộ gia đình nông thôn ĐBBB phân theo sản xuất công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp phân theo địa phương
1990
1995
2000
Tổng số
Hộ công
Hộ tiểu thủ
Tổng số
Hộ công
Hộ tiểu thủ
Tổng số
Hộ công
Hộ tiểu thủ
hộ
nghiệp
công nghiệp
hộ
nghiệp
công nghiệp
hộ
nghiệp
công nghiệp
80.163
31.804
48.359
252.096
41.417
210.679 295.607
54.422
241.158
ĐBBB
1.616
145
1.471
1.685
790
4.895
10.489
1.500
8.989
Hà Nội
13.227
5.067
9.160
14.637
5.280
9.357
19.700
7.000
12.700
Hải Phòng
37.184
15.984
21.200
40.872
18.847
22.025
42.885
15.885
27.000
Hà Tây
6.656
13.753
6.537
7.216
14.500
12.797
6.141
7.100
7.400
Hải Dương
10.362
490
9.872
11.534
560
10.974
16.000
1.000
15.000
Hưng Yên
18.803
2.480
16.323
19.290
2.622
16.668
20.477
3.377
17.100
Hà Nam
10.602
1.200
9.402
11.368
1.268
10.100
21.768
3.700
18.068
Nam Định
-
-
-
132.429
5.222
127.207 140.710
11.500
129.210
Thái Bình
1.082
297
785
2.528
291
2.237
9.078
3.360
5.718
Ninh Bình
*Nguồn: [9, tr. 91]
80
Các hộ sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp nông thôn tồn tại dưới hình
thức hộ kiêm nghề và chuyên nghề. Các hộ chuyên nghề góp phần giải quyết
các vấn đề kinh tế, xã hội ở nông thôn nước ta. Qua số liệu điều tra ở 9 tỉnh đại
diện, có 15,3% số hộ chuyên nghề, 24,3% số hộ kiêm nghề đã thu hút một lực
lượng lao động lớn. Bình quân một hộ làm ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã
tạo được việc làm ổn định cho từ 4 đến 6 lao động, trong đó có lao động ngoài
gia đình được sử dụng dưới hình thức thuê mướn (từ 2 đến 4 lao động/hộ), thu
nhập bình quân một lao động đạt khoảng 430 000đ/tháng. Tuy chiếm tỷ lệ nhỏ
nhưng sản xuất các hộ cũng tham gia vào hầu hết các ngành nghề trong công
nghiệp nông thôn: chế biến nông sản, sản xuất các nông cụ, máy móc và các
hàng tiêu dung, thủ công mỹ nghệ [39, tr. 2].
Mặc dù còn gặp những khó khăn nhất định trong tổ chức sản xuất kinh
doanh nhưng xu thế hình thành mới các hộ công nghiệp nông thôn vẫn không
ngừng tăng lên. Từ 1993 đến 1997, mỗi năm số hộ tăng thêm 10%, hơn 60,6%
số hộ, cơ sở công nghiệp nông thôn hình thành từ sau 1990 trở lại đây [39, tr. 2].
Các hộ chuyên nghề và kiêm nghề đã có vai trò đáng kể trong việc giải
quyết việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn. Với bình quân thu nhập
khoảng 400.000đ đến 500.000đ/tháng/lao động tùy theo cơ sở và ngành nghề
là một cơ hội để cải thiện điều kiện sinh hoạt và hỗ trợ cho sản xuất của hộ.
Mức thu nhập của hộ kiêm nghề tuy có thấp hơn thu nhập của lao động ở cơ
sở chuyên, hộ chuyên nhưng vẫn cao hơn so với lao động thuần nông từ 1,6
đến 2 lần [14, tr. 25].
ĐBBB là nơi tập trung nhiều nhất các ngành nghề truyền thống tiểu thủ
công nghiệp và có số lao động tiểu thủ công nghiệp lớn nhất so với các vùng
kinh tế khác trong cả nước.
Trong những năm qua, các ngành nghề, làng nghề truyền thống được các
địa phương quan tâm khôi phục, mở rộng và đã xuất hiện nhiều mô hình kinh
81
tế đa dạng ở nông thôn, tăng thu nhập cho các hộ và lao động. Bên cạnh làng
nghề truyền thống, ở ĐBBB còn có những làng nghề mới hình thành do nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội.
Sự phát triển của các làng nghề đã thực sự góp phần cải thiện đáng kể bộ
mặt nông thôn ĐBBB, góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho dân cư nông thôn, thúc đẩy
phát triển nền kinh tế xã hội nông thôn ĐBBB.
Bảng 2.3 : Tình hình phát triển của các làng nghề truyền thống
ở ĐBBB phân theo địa phương (1991- 1995 - 2000)
1990
1995
2000
Địa phương
Tổng số
Tổng số
Tổng số
ĐBBB
Hà Nội Hà Tây Hải Dương Hưng Yên Hải Phòng Nam Định Hà Nam Ninh Bình Thái Bình
499 70 84 20 45 71 86 38 29 56
Truyền thống 318 57 69 18 14 40 29 16 19 56
Truyền thống 308 52 69 8 15 34 29 16 19 56
491 65 86 25 45 56 86 37 35 56
Truyền thống 348 49 79 18 15 29 29 16 19 94
581 62 114 54 45 53 86 38 35 94
*Nguồn: [9, tr.90]
Trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ĐBBB thời kỳ
đổi mới, có một mô hình tổ chức, quản lý sản xuất hàng hóa mới ra đời, đang
từng bước phát triển, đó là kinh tế trang trại. Trang trại là một hình thức tổ
chức sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ tự
chủ trong cơ chế thị trường mang tính chất sản xuất hàng hóa rõ rệt. Trang
trại bao gồm các hoạt động trồng trồng trọt, chăn nuôi, nông nghiệp, nuôi
trồng thủy sản và một số dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo
quy mô hộ gia đình là chính. Bên cạnh đặc trưng đó, trang trại có các đặc
trưng khác như: quy mô sản xuất và thu nhập lớn hơn quy mô trung bình của
82
kinh tế hộ; trang trại thường có lao động làm thuê; chủ trang trại là người có
kiến thức, có kinh nghiệm làm ăn, am hiểu thị trường và trực tiếp điều hành
sản xuất [15]. Nếu như hộ sản xuất nông nghiệp đơn thuần không thuộc thành
phần kinh tế tư nhân, thì trang trại với các đặc trưng của nó lại là một bộ phận
thuộc thành phần kinh tế tư nhân ở nông thôn.
Kinh tế trang trại trên cả nước nói chung, ĐBBB nói riêng ra đời và phát
triển sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và là hình thức tổ chức sản xuất cao
của kinh tế hộ nông dân trong cơ chế tự chủ. Số lượng trang trại ngày càng
lớn và trở thành một thực thể quan trọng, đóng góp xứng đáng vào kết quả sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tạo ra nhiều nông sản hàng hóa phục vụ tiêu dung
và xuất khẩu, là mô hình tốt để khai thác tiềm năng đất đai, lao động phục vụ
sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cao hơn kinh tế nông
hộ và đó là sự phát triển tất yếu của quá trình chuyển nền kinh tế nông nghiệp,
nông thôn từ tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn và
kỹ thuật hiện đại, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần,
coi trọng vai trò kinh tế hộ nông nghiệp của Đảng và Nhà nước. Kinh tế trang
trại phát triển ở tất cả các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân.
Hầu hết các trang trại được xây dựng trên đất hoang hóa, rừng nghèo kiệt,
vô chủ, dân cư thưa thớt, lao động thiếu…nên phát triển kinh tế trang trại vừa
đem lại hiệu quả cụ thể và thiết thực, vừa có ý nghĩa bảo vệ tài nguyên, môi
trường, cân bằng sinh thái, phân bố lại lao động, dân cư, góp phần củng cố an
ninh, quốc phòng. Xét về hiệu quả xã hội, các trang trại đã tạo ra hàng chụ vạn
việc làm mới để thu hút lao động dưa thừa ở nông thôn, xóa đói giảm nghèo…
Các chủ trang trại là những nông dân lao động, có vốn, có kiến thức và
kinh nghiệm sản xuất hàng hóa, mới giàu lên trong cơ chế mới, có nguyện
vọng làm giàu chính đáng cho bản thân gia đình họ và cho đất nước. Họ bỏ
83
vốn đầu tư khai phá đất hoang, mua sắm máy móc, nông cụ, thuê mướn lao
động, vốn đang dư thừa ở nông thôn và lấy sản xuất hàng hóa làm hướng
chính. Trong số các chủ trang trại, có nhiều cán bộ hưu trí là đảng viên, là cán
bộ lãnh đạo và quản lý ở địa phương và lão nông tri điền. Sự phân biệt giữa
họ với hộ nông dân bình thường là kiến thức, kinh nghiệm làm ăn, là quyết
tâm cao và phương pháp làm giàu chính đáng. Kết quả điều tra cho thấy chưa
xuất hiện xu hướng bóc lột, bần cùng hóa người nghèo tại các trang trại,
ngược lại lao động làm thuê có thêm việc làm, được trả công phù hợp với số
lượng và chất lượng công việc trên cơ sở thỏa thuận giữa chủ trang trại và
người làm thuê.
Phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam nói chung, ĐBBB nói riêng là
một xu hướng có tính quy luật của sản xuất hàng hóa, phù hợp với đường lối
đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Trang trại là mô hình sản xuất
nông nghiệp hàng hóa, trở thành tấm gương đối với các hộ nông dân trong
vùng, giúp họ kinh nghiệm, kỹ thuật và cả vấn đề thoát nghèo, vươn lên làm
giàu chính đáng. Một bộ phận nông dân nghèo, thiếu đất, thiếu kinh nghiệm
sản xuát nông nghiệp được các chủ trang trại thu hút vào làm việc, có việc
làm và tăng thu nhập, cải thiện đời sống. Mô hình kinh tế trang trại ở ĐBBB
tuy mới xuất hiện nhưng phát triển tương đối nhanh..
Theo thống kê (xem Bảng 2.4) cho thấy, tổng số trang trại vùng ĐBBB
tính đến 1999 là 2.998, trên tổng diện tích 14.132 ha, đã tạo việc làm cho
22.597 lao động, mang lại tổng giá trị sản xuất 277.292 đồng (Trung bình 1
trang trại tạo ra 92,4 triệu đồng).
Về lĩnh vực ngành nghề, trang trại vùng ĐBBB chủ yếu sản xuất kinh
doanh hàng hóa trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia
cầm, sản xuất lúa, trồng hoa màu, cây cảnh. Các trang trại thường sản xuất
kinh doanh trong những ngành nghề thuộc về lợi thế của địa phương mình
84
như nuôi trồng thủy sản ở các địa phương thuộc vùng chiêm trũng tỉnh Thái
Bình, Hà Nội, Ninh Bình, Hải Dương; nuôi tôm ở địa phương gần biển, bãi
bồi thuộc Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình, nuôi gia súc lấy
thịt thuộc các huyện Trung du Hà Tây, Hải Dương, Hà Nội, Ninh Bình; nuôi
gia súc lấy sữa thuộc các huyện, xã ngoại thành thành phố Hà Nội, Hải
Dương, Ba Vì (Hà Tây); trồng hoa, cây cảnh ở các xã ngoại thành thành phố
Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương…
Bảng 2.4: Tình hình trang trại của vùng ĐBBB
phân theo địa phương (tính đến 1999)
Số trang trại
Địa phương
Tổng diện tích các trang trại (ha)
Số lao động các trang trại (người)
Tổng giá trị sản xuất các trang trại (triệu đồng)
2.998 1.010 88 490 75 618 152 565
14.132 465 308 3.836 97 3.353 2.287 3.786
22.597 15.150 594 673 298 3.039 552 2.291
ĐBBB Hà Nội Hà Tây Hải Dương Hưng Yên Hà Nam Nam Định Hải Phòng Thái Bình Ninh Bình
277.292 163.486 3.733 3.450 2.118 35.283 14.222 55.000 *Nguồn: [17, tr. 95]
Về quy mô, trang trại vùng ĐBBB chủ yếu là trang trại gia đình, gồm
những trang trại thuộc loại nhỏ. Ở Hà Nội có tới 1.010 trang trại trên tổng
diện tích 465 ha, tức là trung bình chỉ có 0,46 ha/trang trại.
Trên thực tế, tuy số lượng trang trại đang gia tăng nhưng tính tự phát cao.
Các trang trại trong giai đoạn này (19991 - 2000) vẫn chưa được Nhà nước
thừa nhận về mặt pháp lý, nên chưa có tư cách pháp nhân trong quan hệ giao
dịch với các cơ quan Nhà nước và các tổ chức kinh tế, nhất là với ngân hàng.
Thực tế, chủ trang trại chỉ được xem như là chủ hộ nông dân bình thường,
trong khi quy mô sản xuất của trang trại lớn gấp hàng trăm, thậm chí hàng
85
ngàn lần so với quy mô kinh tế hộ. Thiếu tư cách pháp nhân, chủ trang trại ở
ĐBBB nói riêng và trên cả nước nói chung phải chịu thiệt thòi về nhiều mặt,
do đó họ chưa yên tâm và không có điều kiện để mở rộng sản xuất, kinh
doanh.
Một vấn đề nữa, đó là mặc dù trang trại ở ĐBBB đều thuộc loại nhỏ,
nhưng quy mô ruộng đất của hầu hết các trang trại đều vượt hạn điền theo quy
định của Luật đất đai năm 1993. Phần lớn quỹ đất của trang trại là do khai
hoang, phục hóa và nhận chuyển nhượng từ nguồn vốn và lao động của gia
đình họ. Đó là quỹ đất được tích tụ hợp lý, hợp tình nhưng lại chưa được luật
pháp thừa nhận. Cho đến năm 2000, Nhà nước vẫn chưa có chính sách về đất
đai vượt hạn điền của các trang trại nên họ còn rất băn khoăn. Hiện tượng
phân tán ruộng đất của các trang trại thành nhiều chủ hoặc chuyển nhượng
ngầm còn diễn ra phổ biến.
Kinh tế trang trại là xu hướng mới trong phát triển kinh tế nông nghiệp
nông thôn ĐBBB nói riêng và trên cả nước nói chung. Thúc đẩy loại hình tổ
chức sản xuất nông nghiệp này sẽ là nhân tố đẩy mạnh phát triển nền nông
nghiệp hàng hóa và quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của hộ kinh doanh cá thể với các mức
độ và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau, trong thời kỳ đổi mới,
ở nông thôn ĐBBB còn phát triển các loại hình doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế tư bản tư nhân. Năm 1991 trên địa bàn ĐBBB có 700 xí nghiệp
tư nhân, năm 1992 có 688 xí nghiệp quốc doanh, bằng 25,7% số xí nghiệp
quốc doanh cả nước, trong khi đó số cơ sở công nghiệp ngoài quốc doanh là
133449, chiếm 29,2% số cơ sở ngoài quốc doanh cả nước, trong đó số doanh
nghiệp tư nhân là 959 [57, tr. 37 - 39]. Các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu
hoạt động trong lĩnh vực chế biến nông, lâm, thủy sản, sản xuất công nghiệp,
thủ công nghiệp và dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nông thôn.
86
Bảng 2.5: Hoạt động của doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và thủy sản
ĐBBB tính đến năm 2001
Đồng Bằng Sông Hồng
Đơn vị tính
Cả nước
Số lượng
Tỷ lệ so với cả nước
3599
252
7,01%
Số doanh nghiệp hạch toán độc lập Phân theo loại hình hoạt động Quốc doanh Doanh nghiệp nhà nước Công ty cổ phần có vốn nhà nuơc Doanh nghiệp lực lượng vũ trang Ngoài quốc doanh Công ty cổ phần không có vốn nhà nước Doanh nghiệp tư nhân Công ty TNHH Loại hình khác Doanh nghiệp vốn dầu tư nước ngoài Các cơ sở nông lâm thủy sản khác
Doanh nghiệp " " " " " " " "
881 27 7 2613 19 2525 69 50 21
21,34% 188 40,74% 11 - - 1,72% 45 36,84% 7 0,99% 25 18,84% 13 10,0% 5 3 14,29% *Nguồn: [71]
Qua số liệu thống kê cho thấy tổng số doanh nghiệp hạch toán độc lập
trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tại ĐBBB tính đến 2001
là rất thấp, chiếm 0,71% so với cả nước. Trong đó, tỷ lệ của các công ty ngoài
quốc doanh ở ĐBBB so với cả nước chỉ là 1,72% so với tổng số doanh nghiệp
ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản cả nước. Tỷ lệ
số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong tổng số doanh nghiệp ở ĐBBB là
17,9%, trong khi đó, tỷ lệ số doanh nghiệp nhà nước là 74,6%. Như vậy, số
doanh nghiệp tư nhân (công ty cổ phần không có vốn nhà nước, doanh nghiệp
tư nhân, công ty TNHH) chiếm tỷ lệ rất thấp, đa số doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản ở trong vùng là doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, các
doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân ở ĐBBB còn tham gia sản
xuất công nghiệp (chủ yếu là công nghiệp phục vụ nông nghiệp).
87
Bảng 2.6: Giá trị sản xuất công nghiệp vùng ĐBBB phân theo
các khu vực kinh tế (thời kỳ 1995 - 1999)
1995
1996
1999
1998
1997 Đơn vị Tỷ đồng 103.374,7 118.096,6 134.420,7 151.223,3 166.965,3 29.300,0 Tỷ đồng 17.590,5 17,54 %
23.541,8 17,51
19.923,8 16,87
26.704,7 17,65
17,01
Tỷ đồng 10.158,2
10.859,6
12.182,4
13.240,8
18.282,4
57,74
% Tỷ đồng 4.492,4
54,50 5.038,1
51,74 5.698,7
49,58 6.164,3
47,19 6.895,7
25,53
% Tỷ đồng 2.939,9
25,28 4.026,1
24,20 5.660,7
23,08 7.299,6
23,53 8.575,9
Cả nước ĐBBB Tỷ trọng so với cả nước Phân theo cơ cấu thành phần của vùng - Công nghiệp nhà nước Tỷ trọng - Công nghiệp ngoài quốc doanh Tỷ trọng Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Tỷ trọng
%
16,70
20,20
24,04
27,33
29,26 *Nguồn: [70]
Do sự phát triển chung của nền kinh tế, của kinh tế nông nghiệp, nông
thôn, công nghiệp nông thôn dưới hình thức hộ tư nhân, cá thể cũng phát triển
dần lên. Một số chủ hộ cá thể, tư nhân, một số chủ thầu gặp những cơ hội
kinh doanh thuận lợi đã mở rộng cơ sở sản xuất, củng cố thị trường, củng cố
mặt hàng cũ, mở rộng mặt hàng mới, thị trường mới. Lúc này yêu cầu của sản
xuất, kinh doanh đặt ra vượt quá khả năng của hộ. Vì vậy, một tỷ lệ nhỏ các
cơ sở kinh doanh dưới hình thức xí nghiệp tư nhân, công ty TNHH ra đời.
Các khảo sát nghiên cứu riêng về đối tượng này chưa chiều, thường là khảo
sát chung về công nghiệp nông thôn.
Theo các tài liệu có được, hình thức cơ sở công nghiệp nông thôn loại
này còn bao gồm một dạng tồn tại chủ yếu dưới dạng “trên hộ”. Họ chưa
chuyển thành tổ hợp tác do chưa làm các thủ tục đăng ký hoặc thấy chưa cần
thiết, hoặc chưa nắm vững pháp luật hoặc muốn trốn thuế. Nhưng nó cũng đã
88
vượt khỏi quy mô hộ gia đình về lực lượng lao động tham gia và phân cấp
quản lý sản xuất ở cơ sở.
Phần còn lại trong số các cơ sở này, một tỷ lệ nhất định là các đơn vị sản
xuất dưới hình thức xí nghiệp tư nhân, công ty TNHH. Chúng tồn tại phổ biến
ở các làng nghề, các thị trấn, thị tứ. Ở ĐBBB, tình trạng cũng tương tự. Ví dụ,
tại Huyện Cẩm Bình (Hải Hưng cũ), có 11 doanh nghiệp tư nhân dưới hình
thức công ty TNHH và xí nghiệp tư nhân. Hà Bắc (cũ) ở vào thời điểm tháng
1/1995, trong tổng số 127 công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân được thành
lập, đi vào hoạt động, có 69 doanh nghiệp đóng ở địa bàn nông thôn, phục vụ
phát triển kinh tế xã hội địa phương [56, tr.53].
Hầu hêt các làng nghề như La Phù, Dương Liễu (Hoài Đức – Hà Tây),
Đình Bảng, Đồng Quang (Tiên Sơn, Bắc Ninh), Ninh Hiệp, Bát Tràng (Gia
Lâm, Hà Nội), Nam Giang, Nam Trực, Tống Xá (Thị Trấn Lâm, Ý Yên, Nam
Định)… đều có nhiều cơ sở tư nhân làm ăn, kinh doanh khá, góp phần phát
triển kinh tế xã hội ở nông thôn…
Thực trạng các cơ sở công nghiệp nông thôn dạng này chủ yếu bàn về
các xí nghiệp tư nhân, công ty TNHH
Thứ nhất, về lao động: Các cơ sở thường có quy mô lao động từ 15 đến
20 người, chủ yếu dưới dạng thuê mướn hoặc lao động gia công. Cá biệt có
những xí nghiệp có quy mô hàng trăm lao động. Cùng với các hình thức khác
số lao động được thu hút vào các cơ sở công nghiệp nông thôn tính chung đạt
10 đến 12% lao động nông thôn [3]. Tuy còn những khó khăn về việc làm
nhưng nhìn chung trong thời gian làm việc thu nhập chắc chắn và cao hơn lao
động nông nghiệp. Bình quân thu nhập một lao động trên tháng là 550.000đ
[14, tr. 25].
Thứ hai, về cơ cấu ngành nghề: so với đơn vị sản xuất là các hộ, ngành
nghề trong các cơ sở công nghiệp nông thôn không phong phú bằng. Nhưng
89
các cơ sở này cũng tham gia vào sản xuất hầu hết các mặt hàng chủ yếu phục
vụ sản xuất, đời sống và khai thác hợp lý các nguồn lực ở nông thôn như: chế
biến nông phẩm, cơ khí sửa chữa, chế tạo nhỏ, mộc dân dụng, khảm trai, thêu,
dệt vải, cói, sản xuất vật liệu xây dựng. Điểm khác biệt với các hộ là các cơ sở
này có ưu thế về vốn, công nghệ để tham gia vào sản xuất nhiều loại sản
phẩm yêu cầu kỹ thuật cao, quy mô số lượng lớn, các mặt hàng đã và đang
được xuất khẩu ra nước ngoài. Đó là các cơ sở vốn ở Bát Tràng, mộc ở Đồng
Kỵ, Chương Mỹ, Sơn Đồng. Đặc biệt phải kể đến các mặt hàng cơ khí chế
tạo, sửa chữa máy móc phục vụ cho nông nghiệp và nông thôn. Các xí nghiệp
tư nhân ở Cẩm Bình đã sản xuất cả máy kéo, máy gặt đập nhỏ phục vụ cho
nông nghiệp… 11 cơ sở sản xuất ở Cẩm Bình, năm 1996 đã sản xuất được
2.008 máy các loại, đạt 3,6 tỷ đồng [85, tr.2].
Thứ 3, về vốn: Các cơ sở sản xuất với quy mô lớn hơn hộ nên số lượng
vốn cần thiết cho hoạt động cũng nhiều hơn. Do tiềm năng sẵn có và đã từng
có kinh nghiệm tổ chức sản xuất nên việc tự lo và huy động vốn của các cơ sở
sản xuất về cơ bản đáp ứng được nhu cầu hoạt động trước mắt. Bình quân
chung một cơ sở có 370 triệu đồng vốn (trong khi đó bình quân hộ công
nghiệp nông thôn khoảng 36 triệu đồng). Cá biệt có cơ sở đầu tư hàng tỷ đồng
cho sản xuất. Trong đó vốn vay chiếm khoảng 20% [39, tr. 2].
Thứ 4, trình độ công nghệ, tay nghề lao động: Các cơ sở công nghiệp
nông thôn có tỷ lệ lao động chuyên môn kỹ thuật và thợ giỏi, thợ cả ở mức
tương đối cao: 45,1% so với lao động trong các hộ: 14,6% [14, tr. 20].
Một số cơ sở công nghiệp nông thôn đã tiếp thu công nghệ mới về chế
biến thực phẩm, công nghiệp dệt, may mặc, cơ khí. Điều này cũng nổi rõ ở
các cơ sở công nghiệp nông thôn ĐBBB như công nghệ chế biến thực phẩm
mạch nha theo phương pháp công nghiệp enzim đã lắp đặt ở Dương Liễu [51,
tr. 2], dây chuyền sản xuất hàng sắt ở Đa Hội - Từ Sơn Bắc Ninh, công nghệ
90
nhuộm ở Ninh Hiệp, gốm nung ở Bát Tràng, Gia Lâm. Trong việc đổi mới
công nghệ, các cơ sở đã chú ý tới việc cơ khí hóa các khâu lao động nặng, độc
hại và đặc biệt là có chú ý tới việc HĐH nhưng vẫn giữ gìn công nghệ truyền
thống độc đáo. Mục đích tiêp nhận công nghệ để tăng năng suất lao động,
giảm nhẹ cực nhọc và làm cho các sản phẩm truyền thống thích ứng được với
yêu cầu hiện nay của thị trường.
Công nghiệp ngoài quốc doanh năm 1999/1995 lần lượt là: 153,49%,
tăng 53,49% và bình quân tăng trưởng/năm là 10,69%, cao hơn mức tăng
trưởng của công nghiệp Nhà nước, mặc dù thấp hơn mức tăng trưởng của
vùng và cả nước. Tỷ trọng công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm khoảng 23 -
25% so với toàn vùng và có xu hướng giảm từ năm 1997 lại đây.
Bên cạnh sự hình thành và phát triển của các loại hình doanh nghiệp
trong sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các loại hình doanh nghiệp
trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch ở ĐBBB cũng đã hình thành và
phát triển. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực này có vai trò quan trọng trong
đẩy mạnh lưu thông và phân phối hàng hóa ở nông thôn, bên cạnh đó, còn
thúc đẩy tiêu thụ nông sản của vùng, góp phần phát triển kinh tế hàng hóa.
Việc phân bố số cơ sở thương mại, khách sạn, dịch vụ và du lịch ở
ĐBBB tập trung nhiều ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng (xem số
liệu bảng 2.7). Trong đó, về cơ cấu thành phần kinh tế, số doanh nghiệp Nhà
nước do địa phương quản lý là 316 doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng 20,4% so
với tổng số doanh nghiệp trên toàn vùng, doanh nghiệp tập thể chiếm tỷ trọng
29,49%, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân chiếm khoảng
48,3% .
91
Bảng 2.7: Số doanh nghiệp thương nghiệp, khách sạn nhà hàng,
dịch vụ và du lịch vùng ĐBBB phân theo địa phương năm 1999.
Doanh nghiệp Nhà nước
Tổng số
Công ty TNHH
Doanh nghiệp tư nhân
Công ty cổ phần
Doanh nghiệp tập thể
Trung ương quản lý
Địa phương quản lý
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
2.431 1.259 340
180 141 19
75 41 24
1.083 916 71
316 119 35
45 42 1
717 258 187
15 12 3
37 14
146 85
4 0
6 2
15 29
1 0
83 40
0 0
7
25
1
0
3
0
14
0
22
30
2
2
1
0
3
0
42
104
8
0
16
0
38
0
28
99
4
0
27
1
39
0
12
73
1
0
5
0
55
0
ĐBBB Hà Nội Hải Phòng Hà Tây Hải Dương Hưng Yên Hà Nam Nam Định Thái Bình Ninh Bình
*Nguồn: [70]
Từ đó cho thấy, doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số
doanh nghiệp ở ĐBBB. Tuy nhiên, qua bảng thống kê cũng thấy được số
lượng doanh nghiệp thương mại, du lịch thuộc thành phần kinh tê tư nhân ở
các địa phương (trừ Hà Nội, Hải Phòng) là rất ít. Điều này có thể lý giải bởi
ảnh hưởng lan tỏa từ các trung tâm đô thị lớn. Qua đó chứng tỏ kinh tế tư
nhân trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch ở khu vực nông thôn ĐBBB
còn rất hạn chế.
Qua khảo sát thực trạng phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn 1991 - 2000
ở ĐBBB cho thấy kinh tế tư nhân phục hồi và bước đầu phát triển mạnh, nhất
là kinh tế cá thể, với các loại hình tổ chức sản xuất điển hình là kinh tế hộ, đặc
92
biệt là hộ kinh doanh cá thể và hộ sản xuất thủ công nghiệp, công nghiệp. Sự
hình thành của kinh tế trang trại là bước tiến bộ mạnh mẽ của kinh tế hộ gia
đình thuần nông, góp mặt và là một trong các loại hình tổ chức sản xuất của
kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó, thành phần kinh tế tư bản tư nhân cũng đã hình
thành và có bước phát triển đầu tiên, bằng chứng là sự ra đời của các công ty
tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH chuyên chế biến nông sản, sản xuất
và cung cấp giống cây trồng, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hoặc
làm dịch vụ, phân phối và tiêu thụ hàng hóa ở nông thôn, thu mua và xuất
khẩu nông sản…. Đó là những điểm nổi bật của kinh tế tư nhân ở nông thôn
ĐBBB trong thập niên 90 của thế kỷ XX.
Giai đoạn 2001 – nay
Từ 2001 đến nay, vấn đề phát triển nông thôn cả nước nói chung và nông
thôn ĐBBB nói riêng được Đảng ngày càng quan tâm. Dưới tác động của
những chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là Luật
Doanh nghiệp năm 2000, trong 5 năm 2001 - 2005 thành phần kinh tế tư nhân
phát triển với tốc độ cao, tỷ trọng đóng góp vào ngân sách Nhà nước lớn.
Trong xu thế phát triển chung của kinh tế tư nhân trên cả nước, kinh tế tư
nhân ở nông thôn ĐBBB cũng có bước phát triển mới. Kinh tế cá thể, tiểu chủ
có số lượng cơ sở sản xuất ngày càng tăng. Số đơn vị sản xuất kinh doanh cá
thể phi nông nghiệp ở ĐBBB năm 2006 là 820558 cơ sở, tăng 108,7% so với
năm so với tổng số cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp vào năm
2002. Trong các tỉnh của ĐBBB, Hà Tây là nơi tập trung nhiều cơ sở kinh
doanh cá thể nhất, tuy nhiên, tăng trưởng nhanh nhất về số lượng lại thuộc về
Hà Nội.
93
Bảng 2.8: Số cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp
phân theo địa phương ĐBBB
2002
2003
2004
2005
2006
Cả nƣớc Đồng bằng Sông Hồng Hà Nội Vĩnh Phúc Bắc Ninh Hà Tây Hải Dương Hải Phòng Hưng Yên Thái Bình Hà Nam Nam Định Ninh Bình
2619341 754889 97267 37021 42595 133382 74773 69783 45174 78790 40480 75538 60086
27121 77 739873 97024 37249 42097 134440 72778 66715 4416o 79990 41218 74318 49794
2913907 748947 97984 39457 46685 123913 69081 65867 46597 95103 43148 72467 48645
3053011 769793 108746 41658 50590 120043 69449 66266 47472 99006 43309 72795 50459
3299705 820558 123650 43324 55159 123675 77878 65814 50745 103905 44452 73290 58666 *Nguồn: [73]
Trong sự phát triển của kinh tế cá thể, tiểu chủ thời kỳ này còn ghi nhận
sự phát triển của kinh tế trang trại. Số trang trại ở ĐBBB năm 2007 tăng gần 9
lần so với năm 2000. Hưng Yên là tỉnh có tốc độ tăng trưởng về số lượng
trang trại nhiều nhất ở ĐBBB, nếu như năm 2000 tỉnh này có 14 trang trại thì
đến năm 2007, số lượng trang trại của tỉnh đã tăng lên 2264 trang trại, gấp
161 lần. Bắc Ninh cũng là tỉnh có tốc độ tăng về số lượng trang trại cao, số
trang trại năm 2007 tăng gấp hơn 43 lần so với số trang trại năm 2000. Sự gia
tăng nhanh số lượng trang trại ở ĐBBB từ năm 2000 đến nay là kết quả của
việc Chính phủ ban hành Nghị quyết 03/2000/NQ-CP về kinh tế trang trại và
thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
94
Bảng 2.9: Số trang trại phân theo địa phương
2002
2003
2004
2005
2006
Sơ bộ 2007
2001
2000
CẢ NƢỚC 57069 61017 1834 ĐBBB 140 Hà Nội 124 Vĩnh Phúc 33 Bắc Ninh 181 Hà Tây 171 Hải Dương 344 Hải Phòng 59 Hưng Yên 105 Thái Bình 39 Hà Nam 344 Nam Định 294 Ninh Bình
1646 203 115 43 88 126 243 14 155 19 261 379
61787 1939 145 146 33 190 177 367 44 125 74 344 294
8131 466 482 1501 596 489 889 1535 543 298 761 571
86141 110832 114362 113699 116222 14733 9637 5031 13844 490 462 277 491 832 525 475 686 1859 1757 214 1788 1782 844 491 1574 927 619 240 717 1474 1043 805 1418 2264 1105 947 2186 2920 1182 347 2875 558 273 244 547 997 1134 580 927 630 693 411 635 *Nguồn: [72]
Làng nghề ở ĐBBB trong giai đoạn này cũng có những bước phát triển
mới. Các làng nghề đã dần dần chuyển đổi mặt hàng sản xuất đi đôi với đổi
mới bước đầu về công nghệ theo yêu cầu của thị trường. Ví dụ làng gốm sứ
đã chuyển từ sản xuất gốm sứ thông thường sang gốm sứ mỹ nghệ; làng Đa
Hội chuyển từ sản xuất công cụ phục vụ nông nghiệp sang sản xuất sắt thép
các loại; làng Đồng Kỵ sản xuất các con giống, gỗ mỹ nghệ cao cấp mô
phỏng theo thiết kế của Trung Quốc.
Nhiều làng nghề đã cải tiến quy trình tổ chức sản xuất kinh doanh theo
hướng tiến bộ hơn như nâng cao mức độ chuyên môn hóa lao động và sản
phẩm. Bên cạnh đó, trên địa bàn ĐBBB, trong các làng nghề, các doanh
nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân hình thành và phát triển đã góp phần
mở rộng sản xuất, đẩy mạnh hoạt động thương mại. Theo số liệu năm 2000, ở
làng Đồng Kỵ (Từ Sơn - Bắc Ninh) có tới 50 công ty trách nhiệm hữu hạn,
HTX kinh doanh đồ gỗ. Làng Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh) có trên 10
95
công ty trách nhiệm hữu hạn và một số xí nghiệp liên doanh với Đài Loan sản
xuất giầy da thời trang xuất khẩu [54].
Số doanh nghiệp nông thôn cả nước tại thời điểm 01/01/2007 là 39.414
doanh nghiệp, tăng 12,1% so với năm 2006 và tăng 36,4% so với năm
2005; bình quân 3 năm gần đây, mỗi năm tăng 5.255 doanh nghiệp. Tổng số
lao động khu vực này đang thu hút là: 2,1 triệu người, tăng 16,5% so với năm
2006 và tăng 29% so với năm 2005; bình quân tăng 236 nghìn người một năm
trong 3 năm gần đây. Các doanh nghiệp khu vực NT đã tạo ra 602 nghìn tỷ
đồng doanh thu trong năm 2006, tăng 39,8% so với năm 2005 và tăng 80,6%
so với năm 2004. Năm 2006 các doanh nghiệp khu vực nông thôn tạo ra được
18,5 nghìn tỷ đồng lợi nhuận, tăng 49,9% so với năm 2005 và tăng 63,1% so
với năm 2004. Bình quân 1 doanh nghiệp năm 2006 tạo ra 470 triệu đồng lợi
nhuận; năm 2005 là 351 triệu đồng và năm 2004 là 393 triệu đồng. Đóng góp
cho ngân sách nhà nước năm 2006 là 22,7 nghìn tỷ đồng, tăng 9,9% so với
năm 2005 và tăng 33,4% so với năm 2004. Bình quân năm 2006 mỗi doanh
nghiệp đóng góp 577 triệu đồng cho ngân sách nhà nước, thấp hơn mức đóng
góp bình quân của năm 2005 và 2004 [46].
Cùng với xu hướng phát triển của doanh nghiệp khu vực nông thôn trên cả
nước, doanh nghiệp hoạt động trong nông thôn ĐBBB cũng tăng lên đáng kể.
Số liệu thống kê (Bảng 2.10) cho thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ
đa số trong tổng số doanh nghiệp ở ĐBBB. Tính đến ngày 1/1/2007 trong khu
vực doanh nghiệp trong khu vực nông thôn cả nước, doanh nghiệp ngoài quốc
doanh chiếm tới 92,9%, tiếp đến là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
5,0% và doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 2,1%. Các doanh nghiệp hoạt động
trong ngành CN và XD có số lượng nhiều nhất với 20.074 doanh nghiệp,
chiếm 50,9%; tiếp đến là các doanh nghiệp ngành dịch vụ với 17.886 doanh
nghiệp, chiếm 45,4%; và chiếm tỷ lệ rất thấp là các doanh nghiệp ngành NLN
96
và thủy sản với 1.454 doanh nghiệp, chỉ chiếm 3,7% tổng số doanh nghiệp.
Tổng số doanh nghiệp hoạt động trong nông thôn chiếm 30% tổng số doanh
nghiệp trên cả nước, trong khi số doanh nghiệp khu vực thành thị chiếm 70%
tổng số doanh nghiệp trong cả nước.
Bảng 2.10: Số doanh nghiệp đang hoạt động tại thời điểm 31/12/2006
Phân theo quy mô vốn và phân theo địa phương
Tổng số
Dưới 0,5 tỷ đồng
Từ 0,5 đến dưới 1 tỷ đồng
Từ 1 đến dưới 5 tỷ đồng
Từ 5 đến dưới 10 tỷ đồng
Cả nƣớc ĐBBB Hà Nội Vĩnh Phúc Bắc Ninh Hà Tây Hải Dương Hải Phòng Hưng Yên Thái Bình Hà Nam Nam Định Ninh Bình
131318 35967 21739 1009 1273 1703 1766 3730 809 1029 642 1368 899
15908 3272 1622 107 94 113 325 299 72 122 41 282 195
21809 5614 3611 126 170 193 267 516 65 186 126 191 163
64137 18983 12288 469 613 950 738 1899 357 407 347 567 348
12487 3207 1607 131 202 194 199 301 118 166 66 137 86 *Nguồn: [73]
Xét về quy mô vốn tại thời điểm 01/01/2007, các doanh nghiệp khu vực
nông thôn chỉ chiếm 15,8% tổng vốn của khu vực doanh nghiệp, và chỉ bằng
18,7% tổng vốn của các doanh nghiệp khu vực thành thị. Các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (có vốn dưới 10 tỷ đồng) thực tế đang hoạt động ở khu vực nông
thôn chiếm 87,1% trong tổng số. Còn lại là các doanh nghiệp lớn (vốn từ 10
tỷ đ trở lên) chiếm 12,9%. Có tới 92% số doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở
khu vực nông thôn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tỷ lệ này ở các doanh
nghiệp nhà nước là 39,4%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 20,7%. Có
tới 94% số doanh nghiệp ngành dịch vụ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tỷ lệ
97
này ở ngành công nghiệp và xây dựng là 81,8%, và ngành nông lâm nghiệp và
thủy sản là 56,9% [46].
Các thống kê trên cho thấy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng vai
trò quan trọng trong cộng đồng doanh nghiệp ở nông thôn, vì nó chiếm đại đa
số so với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các số liệu thống kê đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong
nông thôn trên phạm vi cả nước trong giai đoạn này cũng phản ánh tình trạng
chung của doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động ở nông thôn ĐBBB.
2.3. Những thành tựu và hạn chế của phát triển kinh tế tƣ nhân ở nông
thôn ĐBBB
2.3.1 Thành tựu
Từ sau khi Đảng đề ra đường lối đổi mới kinh tế xã hội đất nước, đặc
biệt là sau hàng loạt các chính sách lớn của Đảng cởi trói cho kinh tế tư nhân
và các chính sách cụ thể về phát triển kinh tế vùng, trong đó có ĐBBB, sự
phát triển của thành phần kinh tế này đã phát triển nhanh chóng. Từ chỗ trên
toàn bộ khu vực nông thôn ĐBBB, nông dân đi vào làm ăn tập thể với mô
hình HTX, kinh tế hộ gia đình và kinh tế tư nhân không có chỗ đứng, đến nay
số lượng HTX đã giảm đáng kể, những HTX còn tồn tại thì đã đổi mới về
chất, phù hợp với yêu cầu và sự phát triển kinh tế nông thôn theo kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính đến năm 2000 có 1681 HTX kiểu
mới ra đời, hoạt động dịch vụ cho kinh tế hộ và kinh tế trang trại [17, tr. 97].
Sự phát triển của các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc thành
phần kinh tế tư nhân ở nông thôn ĐBBB cho thấy quá trình HĐH về tư duy
làm ăn của cư dân ĐBBB đang diễn ra khá mạnh mẽ. Các loại hình tổ chức
sản xuất kinh doanh như kinh tế hộ kinh doanh cá thể, trang trại, các doanh
nghiệp tư nhân ra đời đã góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa ở
ĐBBB. Sản xuất nông nghiệp nói chung và nông nghiệp hàng hóa liên tục
98
tăng trưởng và phát triển ổn định. Sự phát triển của kinh tế nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông nghiệp phát triển theo
hướng CNH, HĐH, đa dạng hóa chủng loại hàng hóa, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế, góp phần giải quyết việc
làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống dân cư nông thôn.
Số liệu thống kê (Bảng 2.11) cho thấy tỷ suất hàng hóa trong sản xuất
nông nghiệp ở ĐBBB ngày càng tăng, trong đó cao nhất là Hà Tây. Mặc dù
vậy, vẫn có địa phương tỷ suất hàng hóa trong sản xuất nông nghiệp tăng rất
chậm như Hà Nội, hoặc thậm chí có nơi giảm xuống như Hưng Yên.
Yếu tố kinh tế tư nhân tác động đến phát triển kinh tế hàng hóa ở ĐBBB
ở chỗ nó tạo động lực thúc đẩy phát triển sản xuất bằng lợi nhuận cao hơn
hẳn, cụ thể là các hộ gia đình sản xuất hoặc kinh doanh hàng hóa có thu nhập
cao hơn hẳn hộ thuần nông.
Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ ở
nông thôn trong các lĩnh vực cung cấp giống cây trồng, phân bón, công cụ sản
xuất… góp vai trò quan trọng trong chuyển giao khoa học kỹ thuật ở nông
thôn, giúp nông dân nâng cao trình độ canh tác, làm cho sản lượng cây trồng
vật nuôi ngày một cao hơn. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp
thương mại, dịch vụ, hoặc các hộ kinh doanh cá thể tạo điều kiện cho nông
dân dễ dàng tiêu thụ sản phẩm của mình làm ra, và đó cũng là yếu tố kích
thích người nông dân sản xuất hàng hóa để thu lời.
Trên thực tế, tuy nông nghiệp vẫn là ngành chính (chiếm khoảng 57% giá
trị sản xuất năm 2005) nhưng tỷ trọng và quy mô trồng lúa chất lượng cao (trong
đó có xuất khẩu) đã không ngừng tăng lên. Bên cạnh trồng cây lương thực, nhiều
loại cây trồng khác cũng đã được khôi phục và phát triển. Đặc biệt, do quá trình
đô thị hóa nhanh nên nhiều tỉnh đã phát triển mạnh sản xuất rau, hoa, quả, cây
cảnh như Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hải Dương và ngoại thành Thủ đô…
99
Bảng 2.11: Tỷ suất hàng hóa nông nghiệp vùng ĐBBB thời kỳ 1990 – 2000 (tính theo giá năm 2002)
Địa phương
Đặc điểm
2000
1999
1997
1995
1990
ĐBBB
Hà Nội
Hải Phòng
% Triệu đồng Triệu đồng % Triệu đồng Triệu đồng %
Hải Dương
Hưng Yên
Hà Tây
Hà Nam
Nam Định
Ninh Bình
Thái Bình
Giá trị sản xuất nông nghiệp Giá trị hàng hóa Tỷ suất hàng hóa Giá trị sản xuất nông nghiệp Giá trị hàng hóa Tỷ suất hàng hóa Giá trị sản xuất nông nghiệp Giá trị hàng hóa Tỷ suất hàng hóa Giá trị sản xuất nông nghiệp Giá trị hàng hóa Tỷ suất hàng hóa Giá trị sản xuất nông nghiệp Giá trị hàng hóa Tỷ suất hàng hóa Giá trị sản xuất nông nghiệp Giá trị hàng hóa Tỷ suất hàng hóa Giá trị sản xuất nông nghiệp Giá trị hàng hóa Tỷ suất hàng hóa Giá trị sản xuất nông nghiệp Giá trị hàng hóa Tỷ suất hàng hóa Giá trị sản xuất nông nghiệp Giá trị hàng hóa Tỷ suất hàng hóa Giá trị sản xuất nông nghiệp Giá trị hàng hóa Tỷ suất hàng hóa
7.368.457 37,3 1.425.722 320.787 22,4 1.875.042 764.000 42,4 2.679.423 1.661.242 61,9 2.062.030 1.120.446 54,3 3.129.700 657.200 20,9 1.185.244 465.910 39,3 2.744.720 992.976 36,1 1.221.460 445.511 36,4 3.393.276 908.394 26,7
6.800.966 35,1 1.153.637 259.568 22,4 1.576.090 649.000 41,1 2.884.815 1.370.889 60,0 1.852.261 981.571 52,9 3.153.600 567.600 17,9 1.179.146 452.792 38,3 2.656.634 899.045 33,8 1.156.551 384.520 33,2 3.725.641 875.999 23,5
9.138.971 37,6 1.567.510 352.689 22,4 2.209.864 964.000 42,8 3.319.425 2.124.432 64,0 2.810.242 1.334.957 47,5 3.880.933 892.380 29,0 1.421.738 580.069 40,7 3.310.721 1.141.767 34,4 1.476.737 528.889 42,5 4.262.308 1.137.788 26,6
Đơn vị tính Triệu đồng 6.748.355 19.338.375 19.716.617 24.259.478 25.069.065 9.435.664 Triệu đồng 2.214.956 37,6 32,8 1.627.075 345.356 357.960 75.978 22,0 21,9 2.324.305 333.000 1.015.000 130.000 43,6 39,3 3.468.800 Triệu đồng 1.333.270 2.209.900 799.961 Triệu đồng 59,9 % 63,7 3.000.000 Triệu đồng 1.382.399 Triệu đồng 46,0 % 4.077.000 Triệu đồng 1.346.331 937.500 161.550 Triệu đồng % 29,0 11,9 1.289.700 370.481 Triệu đồng 532.646 113.367 Triệu đồng 41,2 30,5 % 3.393.489 Triệu đồng 1.881.104 1.170.311 642.082 Triệu đồng 34,4 34,1 % 1.488.687 240.311 Triệu đồng 710.348 79.893 Triệu đồng 47,7 33,2 % 4.400.000 901.520 Triệu đồng 1.119.600 212.125 Triệu đồng 25,4 23,5 % *Nguồn: [17, tr.74]
100
Song song với việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tỷ trọng chăn nuôi trong
cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp cũng không ngừng tăng. Nhiều hộ dân đã
chuyển sang chăn nuôi gia súc lấy sữa và xuất khẩu, hình thành các trang trại
lớn và các nhà máy chế biến thực phẩm xuất khẩu tại Nam Định, Hải Phòng, Hải
Dương… Một số mô hình nuôi bò sữa ở Ba Vì (Hà Tây), Gia Lâm (Hà Nội)
đang trở thành kiểu mẫu. Việc nuôi trồng thủy sản cá nước ngọt, nước mặn và
nước lợ đã được phát triển tại Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định… Do vậy, các
sản phẩm thủy sản không chỉ đáp ứng nhu cầu cho các khu công nghiệp, đô thị,
các tỉnh bạn mà còn được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới, thậm chí vào
những thị trường khắt khe và khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ…
Sự phát triển của các làng nghề đã mang lại lợi ích kinh tế lớn lao. ĐBBB
chiếm hơn 50% tổng số làng nghề của cả nước [11]. Hàng ngàn sản phẩm của
các làng nghề đã có mặt tại thị trường trong nước và nước ngoài, trong đó nổi
tiếng có đồ gỗ Đồng Kỵ (Bắc Ninh), Chuyên Mỹ, Hữu Bằng (Hà Tây), La
Xuyên (Nam Định), lụa Vạn Phúc (Hà Đông), sản phẩm mây tre đan của Ý Yên
(Nam Định), Phú Nghĩa (Hà Tây), gốm Bát Tràng (Hà Nội), Phù Lãng (Bắc
Ninh). Sản phẩm của làng nghề này đã xâm nhập sâu rộng vào thị trường Trung
Quốc, Nhật Bản, các nước Tây Âu, Hoa Kỳ, Bắc Mỹ và thậm chí cả Châu Phi xa
xôi. Nhiều hộ nông dân đã biết tổ chức sản xuất tốt, trở thành những triệu phú,
tỷ phú.
Sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân ở nông thôn, đặc biệt là kinh tế
hộ kinh doanh cá thể đã góp phần tăng thu nhập và tạo việc làm ổn định cho lao
động nông thôn. Bình quân một hộ làm lành nghề tiểu thủ công nghiệp đã tạo
được việc làm ổn định cho từ 4 - 6 lao động trong đó số lao động ngoài gia đình
được sử dụng dưới hình thức thuê mướn là từ 2 - 4 lao động/hộ. Có thể thấy một
ví dụ điển hình, đó là làng nghề Vạn Phúc, Hà Đông có 1.650 lao động, chiếm
72,3% lực lượng lao động của làng; Ninh Bình có làng nghề Kim Sơn đã sử
101
dụng 2000 lao động sản xuất nguyên liệu và hơn 9000 lao động sản xuất các mặt
hàng cói…mức thu nhập của hộ kiêm nghề tuy có thấp hơn của lao động ở cơ sở
chuyên, hộ chuyên, nhưng vẫn cao hơn so với lao động thuần nông từ 1,6 đến 2
lần [14]. Thu nhập của một hộ lao động chuyên nghề ở nông thôn thường cao
gấp 2 đến 3 lần trở lên so với hộ thuần nông. Theo số liệu điều tra của Viện
Kinh tế học, ở làng nghề gốm sứ Bát Tràng cho thấy có 35% số hộ có mức giá
trị sản xuất hơn 100 triệu đồng/năm và có thu nhập từ 25 - 35 triệu đồng/năm;
36% số hộ có mức thu nhập từ 20 - 25 triệu đồng/năm; 28,3% số hộ có mức thu
nhập từ 10 - 20 triệu đồng/năm. Ở Nam Định đến nay phần lớn các làng nghề
đều có hàng hóa xuất khẩu; năm 1998 giá trị xuất khẩu các mặt hàng của làng
nghề là 2,48 triệu USD, năm 1999 đạt hơn 3,2 triệu và năm 2000 đạt hơn 5 triệu
USD [13]. Các làng nghề, xã nghề ở Thái Bình đã giải quyết việc làm cho
150000 lao động, tập trung chủ yếu ở các vùng nông thôn. Giá trị sản xuất của
các làng nghề đạt trên 1000 tỷ đồng [68]. Riêng xã Xuân Quan (Châu Giang –
Hưng Yên) sản xuất gốm xứ, mỗi ngày thu hút từ 5000 đến 1 vạn lao động trong
huyện và từ các địa phương khác đến [1].
Thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa, góp phần tăng thu nhập và tạo việc
làm cho người nông dân là những tác dụng thấy rõ nhất của việc phát triển kinh
tế tư nhân ở ĐBBB. Các mô hình tổ chức, quản lý sản xuất hàng hóa mới ra đời
và phát triển đã thực sự đưa kinh tế cả nước nói chung và ĐBBB nói riêng thoát
khỏi cái vỏ bọc của nền kinh tế tự nhiên, lạc hậu, chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3.2 Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình khôi phục và phát triển
trong những năm qua của kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn ĐBBB còn nhiều
hạn chế.
102
Mô hình hộ kinh doanh cá thể còn nhỏ lẻ. Đa phần hộ kinh doanh cá thể,
ngay cả ở các làng nghề, xã nghề có điều kiện, khả năng phát triển ngành nghề
cũng không giám từ bỏ nông nghiệp, mặc dù thu nhập từ nông nghiệp rất thấp và
bấp bênh. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các hộ nông thôn trong vùng ngày càng
mạnh mẽ, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng. Số hộ không bắt kịp cơ chế
mới, thiếu vốn, thiếu lao động, lúng túng trong sản xuất kinh doanh, thua lỗ kéo
dài, nợ nần chồng chất không phải là ít, đã xuất hiện di dân tự do ra thành phố
hoặc tới các địa phương khác để tìm kế sinh nhai….
Về kinh tế trang trại, trong cả quá trình từ 1986 - 2007, mặc dù số lượng
trang trại có tăng lên rõ rệt, song loại hình tổ chức sản xuất này còn gặp rất
nhiều khó khăn do diện tích đất (theo luật định) của từng hộ quá thấp. Mặt khác,
việc tích tụ, tập trung ruộng đất để hình thành các trang trại thông qua chuyển
đổi, chuyển nhượng lại diễn ra chậm chạp và tỷ lệ rất thấp (thấp nhất so với các
vùng kinh tế trong cả nước). Nguồn vốn để phát triển kinh tế trang trại cũng còn
nhiều hạn chế, nhất là chính sách vay vốn. Hầu hết các chủ trang trại vẫn dựa
vào vốn tự có là chủ yếu, họ thực hiện phương châm “lấy ngắn nuôi dài”, vốn
vay vẫn còn quá ít, theo điều tra chỉ chiếm khoảng gần 10% tổng số vốn. Cơ
chế, thủ tục vay vốn còn nhiều phiền hà, phức tạp cho người vay, thời gian vay
vốn chủ yếu là ngắn hạn, không phù hợp với sản xuất kinh doanh trong ngành
nông nghiệp nên khoảng 90% trang trại hiện nay vẫn trong tình trạng thiếu vốn.
Tỷ lệ áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh ở trang trại rất thấp,
khâu chế biến, bảo quản kém, giảm chất lượng sản phẩm. Lao động trong các
trang trại (kể cả lao động của gia đình và lao động làm thuê) đến nay chủ yếu là
lao động thủ công, sử dụng các loại công cụ sản xuất truyền thống, lạc hậu, năng
suất lao động thấp. Đội ngũ chủ trang trại trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn
kỹ thuật thấp (tính cả nước, số chủ trang trại có bằng từ sơ cấp đến đại học mới
chiếm 31% số chủ trang trại dự các lớp bồi dưỡng khuyến nông, khuyến lâm
103
mới đạt 13%) [53]. Thị trường tiêu thụ, giá cả sản phẩm thiếu ổn định, mang
nhiều rủi ro cho các chủ trang trại, đặc biệt rơi vào các sản phẩm hàng hóa chủ
yếu của ĐBBB.
Những kết quả ban đầu về năng suất, hiệu quả của kinh tế trang trại cao hơn
kinh tế hộ nông dân thì phần lớn là do “thiên thời, địa lợi” và tập trung được số
lao động nhiều hơn, giải quyết được những công việc kịp thời vụ. Chỉ một phần
nhỏ kinh tế trang trại có đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới công
tác quản lý. Nhìn chung, để phát triển kinh tế nông thôn theo hướng kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ hơn nữa, thì vấn đề kinh tế trang
trại cần được Nhà nước các cấp quan tâm và giải quyết một cách đồng bộ, khẩn
trương, nếu không sẽ gây ra những tổn thất cho kinh tế trang trại nói riêng và
nền kinh tế xã hội nói chung.
Đối với các làng nghề, tình hình sản xuất kinh doanh có nhiều bất cập. Sản
xuất của làng nghề chưa tác động đáng kể tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
vùng và từng tỉnh. Điều này thể hiện ở chỗ số lượng làng nghề còn ít, sản xuất
nhỏ bé, trình độ lạc hậu. Giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp do các làng nghề
tạo ra chiếm khoảng 20% giá trị sản xuất của các tỉnh và số làng nghề chỉ chiếm
khoảng 5% trên tổng số làng của toàn vùng. Tỷ lệ hộ làm công nghiệp còn rất
nhỏ. Số liệu thống kê 1999 cho thấy tỷ lệ hộ kinh doanh công nghiệp và xây
dựng ở ĐBBB chỉ chiếm 3,69%. Mặc dù quy mô sản xuất kinh doanh còn nhỏ
bé, song vấn đề tiêu thụ các sản phẩm làng nghề cũng không phải lúc nào cũng
thuận lợi. Thị trường của các làng nghề còn nhỏ bé, bấp bênh do khả năng cạnh
tranh yếu. Các làng nghề chủ yếu nhận làm gia công cho doanh nghiệp thành thị,
sau đó lại bán thẳng cho các chủ bao tiêu. Theo kết quả điều tra làng nghề, tới
66% sản phẩm của doanh nghiệp, 85% sản phẩm của hộ chuyên nghề, 92,6%
sản phẩm của hộ kiêm nghề là tiêu thụ ngay ở thị trường trong tỉnh; chỉ có
16,7% sản phẩm của doanh nghiệp; 2 - 2,5% sản phẩm của hộ kiêm nghề và
104
chuyên nghề được xuất khẩu, phần còn lại tiêu thụ ở thị trường ngoài tỉnh [54,
tr. 89].
Về phát triển các loại hình doanh nghiệp trong nông thôn cũng gặp phải
những vấn đề khó khăn tương tự. Số doanh nghiệp hoạt động ở nông chỉ chiếm
tỷ lệ nhỏ bé trong tổng số doanh nghiệp trên địa bàn ĐBBB, doanh nghiệp hoạt
động ở thành thị chiếm đa số. Chưa có thống kê cụ thể số doanh nghiệp ở ĐBBB
trong thời kỳ Đổi mới, nhưng căn cứ vào số liệu thống kê số lượng doanh nghiệp
cả nước chúng ta cũng có thể hình dung được thực trạng về doanh nghiệp ở
nông thôn ĐBBB. Vào thời điểm cuối năm 2002, số doanh nghiệp nông thôn
chiếm khoảng 14% tổng số doanh nghiệp cả nước; đến năm 2003 giảm xuống
còn trên 11%, và nay chỉ còn khoảng 10%. Theo số liệu từ dự án VIE 01/025,
của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), nước ta hiện có
khoảng 16.000 doanh nghiệp nông thôn. Qua khảo sát 300 doanh nghiệp nông
thôn ở 8 tỉnh, thành chỉ có 3,6% doanh nghiệp có số lao động trên 300 người;
5,7% doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng. Nếu bình quân vốn của 1 doanh
nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp là 3,04 tỷ đồng thì quy mô và vốn
doanh nghiệp nông thôn quá ít. Về kinh doanh, trong số 300 doanh nghiệp nông
thôn được khảo sát chỉ có 27% làm ăn có lãi trên 100 triệu đồng/năm; 32,3% lãi
dưới 20 triệu đồng/năm [87]. Qua những số liệu vừa nêu có thể rút ra kết luận:
Phần lớn doanh nghiệp hoạt động ở nông thôn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình
độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh còn thấp, kỹ thuật lạc hậu, làm ăn còn
manh mún, chưa có quy hoạch, chiến lược, định hướng phát triển rõ ràng, thiếu
vốn, do đó làm ăn kém hiệu quả, khó mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh
nghiệp khi lâm vào hoàn cảnh khó khăn đã tự khắc phục bằng cách đa dạng hóa
sản xuất, có khi phải tạo ra những loại sản phẩm rất khác nhau về công nghệ và
chất liệu. Ví dụ, Công ty sản xuất xuất nhập khẩu Thái Bình sản xuất từ mặt
hàng dệt, nhuộm đến cả nuôi tôm sú, bia…[61, tr. 2]. Cũng có thể do khó khăn
105
về việc làm, thu nhập, cơ sở phải đa dạng hóa ngành nghề. Nhưng trong hướng
phát triển tiếp theo, để giữ được chất lượng sản phẩm, năng suất và hiệu quả sản
xuất kinh doanh thì việc duy trì một cơ cấu đa dạng như vậy không hẳn phù hợp.
Bên cạnh đó, giá cả không ổn định do không đủ điều kiện để nâng cao chất
lượng hàng hóa, do công nghệ, kỹ thuật sản xuất còn hạn chế, nhất là với các
hàng hóa nông sản chế biến; các hàng hóa tiêu dùng khác; do hàng ngoại nhập
cạnh tranh. Chính vì vậy phỏng vấn ở 122 cơ sở công nghiệp nông thôn, có 27%
ý kiến cho rằng giá cả không ổn định là điều kiện không thuận lợi cho sản xuất
kinh doanh [4, tr. 8]. Sự liên kết, tương hỗ qua lại giữa doanh nghiệp và nông
dân chưa tốt, vai trò chuyển giao khoa học kỹ thuật đến nông dân của doanh
nghiệp còn yếu, đây cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sản xuất kinh
doanh của cả hộ nông dân và doanh nghiệp không đạt hiệu quả mong muốn. Với
những khó khăn đó, doanh nghiệp nông thôn, vốn hình thành nên chủ yếu từ các
hộ kinh doanh, các HTX, trang trại những năm qua chưa thể đảm đương được
trách nhiệm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn.
Hiện nay, trên dọc các tuyến quốc lộ lớn ở ĐBBB (quốc lộ 1, quốc lộ 5),
xuất hiện hàng loạt các khu công nghiệp lớn nhỏ, quy tụ đủ mọi loại hình doanh
nghiệp, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Về mặt tích cực, có thể thấy rõ ràng là các
doanh nghiệp này giải quyết được một phần lực lượng lao động dư thừa ở nông
thôn, đóng góp phần quan trọng vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, sự thành
lập ngày càng nhiều các khu công nghiệp cũng đặt ra một số vấn đề cần phải lưu
tâm, đó là trong số các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp, chỉ có phần nhỏ là
các doanh nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, không góp nhiều vai trò trong
đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn. Sự phát triển của các khu công
nghiệp, khu chế xuất có tác dụng lớn trong phát triển kinh tế chung của vùng,
song lại chiếm nhiều đất đai của sản xuất nông nghiệp, một tác hại nữa là nhiều
106
doanh nghiệp chỉ chạy theo lợi nhuận, ít quan tâm đến bảo vệ môi trường, dẫn
đến ô nhiễm, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân.
Nhìn chung, những khó khăn của các mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh
thuộc thành phần kinh tế tư nhân ở ĐBBB gặp phải đều là quy mô nhỏ bé, manh
mún, thiếu vốn, thiếu có quy hoạch, định hướng phát triển, khả năng quản lý
yếu, trình độ kỹ thuật, tay nghề của lao động nông thôn còn kém, dẫn đến hiệu
quả sản xuất không cao, thị trường tiêu thụ nhỏ hẹp, sản phẩm làm ra chất lượng
không cao, ít có tính cạnh tranh.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do cả khu vực còn thiếu cơ chế
chính sách đồng bộ, chưa hình thành được thị trường vốn cũng như chưa có một
quy hoạch tổng thể để phát huy lợi thế so sánh của cả vùng.
Hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội như giao thông, thủy lợi, điện, khu công
nghiệp, làng nghề còn nhiều bất cập… Bên cạnh đó tính năng động, sáng tạo của
các địa phương còn hạn chế, các bộ, ngành còn nhiều lúng túng, chưa chủ động
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, cải cách thủ tục hành chính và không chịu
đổi mới cơ chế kinh tế …
Các hộ thuần nông, hộ kinh doanh cá thể, trang trại, làng nghề, doanh
nghiệp hầu như đều gặp phải vấn đề thiếu vốn với nhiều nguyên do khác nhau,
trong đó nguyên nhân chủ yếu là người làm kinh tế ở nông thôn ít có cơ hội vay
vốn với lãi suất ưu đãi, chính sách tín dụng chưa hỗ trợ cho người nông dân. Bên
cạnh đó, phần vốn do ngân sách Nhà nước cấp còn phân tán, dàn trải, cho vay
ngắn hạn là chủ yếu; vốn ODA giải ngân chậm, vốn FDI quá ít. Những chương
trình đầu tư của Nhà nước và nước ngoài không đáng kể cho nông nghiệp, nông
thôn.
Hầu hết cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tư nhân hoạt
động ở nông thôn, hoặc trong các làng nghề đều phải tự lo đầu vào, đầu ra; chủ
các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, tiểu chủ, hay chủ doanh nghiệp ngoài quốc
107
doanh ở nông thôn ĐBBB phần nhiều thiếu thông tin về thị trường, trình độ
quản lý kém do chưa có sự hỗ trợ nhiều từ phía nhà nước.
Nhiều yếu tố để phát triển kinh tế hàng hóa ở nông thôn còn sơ khai, hệ
thống thị trường còn mờ nhạt, quy mô hẹp, trình độ thấp, chưa đồng bộ, nên
mức lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ và vốn chậm, do vậy chưa phát huy được đầy
đủ sức mạnh các nguồn lực, trong đó có nguồn lực của tư nhân để phát triển
kinh tế nông thôn theo hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tình trạng ruộng đất bị xé nhỏ, manh mún, rất khó khăn cho việc thâm
canh, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng là một trở ngại
cho kinh tế tư nhân phát triển. Tàn dư của tư duy sản xuất kinh tế tự nhiên vẫn
còn tồn tại ở nơi này, nơi kia với lối tư duy bằng lòng với công cụ lao động thô
sơ, kỹ thuật lạc hậu, lao động thủ công, năng suất thấp; các mối quan hệ kinh tế
bó hẹp, khép kín trong từng gia đình, từng dòng họ, hoặc trong từng làng, xã đã
ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế hàng hóa ở nông thôn.
Bên cạnh đó, trong những năm qua, việc triển khai và thực hiện Luật
Doanh nghiệp ở nông thôn cả nước nói chung và ĐBBB nói riêng chưa tốt.
Cuộc hội thảo về tình hình triển khai Luật Doanh nghiệp ở nông thôn do Bộ Kế
hoạch và Đầu tư tổ chức vào cuối tháng 3/2005 đã cũng công bố kết quả khảo
sát ở 300 doanh nghiệp nông thôn, theo đó có tới 47% không nhận được bất cứ
sự hỗ trợ nào của Nhà nước. Doanh nghiệp nông thôn khó tiếp cận đất đai và
vốn để cơ sở xây dựng hạ tầng. Chỉ có 45% số doanh nghiệp nông thôn được
thuê đất của Nhà nước, còn lại phải đi thuê các nguồn khác, như: thuê lại doanh
nghiệp Nhà nước, cá nhân có đất cho thuê. Ngoài chi phí cao, doanh nghiệp
không thể đầu tư một cách ổn định lâu dài và không thực hiện được các quyền
về đất, nhất là thế chấp đất vay vốn ngân hàng phục vụ sản xuất, kinh doanh. Có
đến 80% doanh nghiệp nông thôn khó khăn về vốn, đặc biệt ở Hà Nội, 91,7%
doanh nghiệp cho rằng vay vốn ngân hàng khó và rất khó [87]. Do Luật Doanh
108
nghiệp chưa thực sự đi vào các doanh nghiệp nông thôn, nên các hộ sản xuất,
kinh doanh, các chủ trang trại vẫn chưa tự trả lời được câu hỏi họ sẽ được gì và
mất gì khi chuyển mô hình từ kinh tế hộ sản xuất kinh doanh lên mô hình doanh.
Đa số họ sợ thuế cao sợ các loại giấy tờ, thủ tục phiền hà. Bên cạnh đó, sự
nhũng nhiễu gây phiền hà của một số cán bộ chính quyền địa phương cũng là
một cản trở lớn đối với sự ra đời, phát triển của doanh nghiệp nông thôn.
Về phía các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang còn nhiều yếu kém, nhất
là về khả năng tìm hiểu thị trường, trình độ lập dự án, xác định chiến lược kinh
doanh; khả năng ứng dụng khoa học, công nghệ mới; cũng như trình độ, kỹ năng
quản lý doanh nghiệp, v.v... Khó khăn lớn nhất hiện nay là nguồn nhân lực: là
trình độ hạn chế của đội ngũ doanh nhân cũng như của người lao động trong
doanh nghiệp khi phải đối mặt với yêu cầu nâng cao khả năng cạnh tranh của
từng sản phẩm, dịch vụ cũng như của cả doanh nghiệp.
Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp, mỗi doanh nhân phải xem lại mình,
nhận rõ chỗ mạnh, chỗ yếu, để đề ra cho được những giải pháp thiết thực, bảo
đảm hiệu quả. Mỗi doanh nghiệp đề ra cho mình một chiến lược kinh doanh phù
hợp với tình hình mới, khi bao cấp không còn, hàng rào bảo hộ phải gỡ bỏ ...
Mỗi doanh nghiệp tư nhân phải đề cao văn hóa kinh doanh, tôn trọng pháp luật,
tôn trọng người tiêu dùng, tôn trọng bạn hàng, khắc phục tình trạng trốn thuế,
lậu thuế, kinh doanh bất hợp pháp.
Để giải quyết những vấn đề tồn tại trên, Đảng, Nhà nước cần phải quan tâm
hơn nữa đến phát triển kinh tế nói chung và kinh tế tư nhân nói riêng ở nông
thôn ĐBBB và trên cả nước. Cần phải xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách
kinh tế đồng bộ đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân; tăng cường đầu tư
phát triển ngành nghề trong nông thôn; đầu tư cơ sở hạ tầng; mở các chương
trình đào tạo, phổ biến kiến thức, không chỉ kiến thức khoa học công nghệ, mà
phải bao gồm cả những kiến thức, kỹ năng về quản lý, tổ chức sản xuất, kiến
109
thức về kinh doanh, về thị trường… cho người nông dân, chủ hộ kinh doanh cá
thể, chủ trang trại, chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
*
* *
Quá trình phục hồi và phát triển KTTN ở nông thôn ĐBBB thực sự bắt đầu
từ sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, với sự phục hồi của kinh tế hộ. Mặc dù
kinh tế hộ không được xếp vào KTTN, nhưng đây lại là tiền đề quan trọng cho
sự phục hồi và phát triển của thành phần kinh tế này trong thời kỳ Đổi mới. Khi
hộ gia đình ở nông thôn được tự do làm kinh tế, những hộ thuần nông có khả
năng sẽ mở rộng sản xuất, hoặc chuyển hướng sang sản xuất thủ công nghiêp,
hay tham gia vào lĩnh vực dịch vụ, và dần dần họ trở thành hộ sản xuất kinh
doanh cá thể, hoặc tiến thêm một bước nữa, các hộ có đủ tiềm lực sẽ thành lập
những cơ sở sản xuất, nhà xưởng và trở thành tiểu chủ, hoặc có thể thành lập
công ty.
Trong suốt quá trình từ 1986 đến 2007, sự phục hồi và phát triển của KTTN
ở nông thôn ĐBBB diễn ra không đều, mạnh mẽ và nở rộ nhất diễn ra tại các các
khu vực làng nghề, làng buôn ngay từ cuối thập niên tám mươi, đầu thập niên
chín mươi của thế kỷ XX. Ở những khu vực thuần nông, KTTN trong những
năm đầu đổi mới phát triển chậm, nhỏ lẻ, có phần yếu ớt. Mặc dù ngay từ sau
khi Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị được ban hành, hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh mới ở nông thôn ĐBBB như trang trại và các loại hình công ty sản
xuất, kinh doanh các sản phẩm thuộc về nông nghiệp, hoặc cung cấp dịch vụ, vật
tư nông nghiệp đã ra đời, song phải đến nửa cuối thập niên chín mươi của thế kỷ
XX, bước sang thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, với những chủ trương, chính
sách mới của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân và kinh tế nông nghiệp - nông
thôn, đặc biệt là các nghị quyết được đề ra tại Hội nghị Trung ương 5 Khóa IX
110
của Đảng, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh này mới thực sự có dấu
hiệu phát triển rõ nét.
Thực trạng phát triển KTTN ở nông thôn ĐBBB từ 1986 đến 2007 đã phản
ánh quá trình hoàn thiện dần những chủ trương - chính sách của Đảng về KTTN
và đường lối đối với phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn.
111
CHƢƠNG 3
MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KHUYẾN NGHỊ
RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƢ NHÂN Ở KHU VỰC NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
3.1 Một số nhận xét
*Đường lối của Đảng về phát triển KTTN, trong đó có phát triển KTTN
trong nông thôn, nông nghiệp được xây dựng và hoàn thiện từng bước, trên cơ
sở đúc kết kinh nghiệm thực tiễn
Tại Đại hội Đảng VI, mặc dù đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế xã
hội đất nước đã được ban hành, nhưng kinh tế tư nhân không phải đã ngay lập
tức được Đảng thừa nhận và xác định là một bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân.
Từ tư tưởng đổi mới tại Đại hội VI, đến đường lối đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế nông nghiệp của Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị là cả một quãng thời
gian Đảng tiếp tục tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn, đấu tranh tư tưởng
một cách nghiêm túc và tìm hướng đi mới cho nông nghiệp Việt Nam.
Cho đến năm 1988, mặc dù đường lối đổi mới đã được đề ra từ Đại hội VI,
song về mặt lý luận, kinh tế tập thể cùng với quốc doanh có nghĩa là chủ nghĩa
xã hội. Chia ruộng, khoán cho hộ nông dân, coi kinh tế hộ là chủ thể sản xuất thì
bất cứ lúc nào cũng có thể bị coi là “phá chủ nghĩa xã hội”. Tuy nhiên đứng
trước thực trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng, 80% dân số là những người
nông dân phải chịu nhiều cực khổ nhiều nhất, chỉ có 5% đất đai đã đem lại hơn
một nửa thu nhập cho nông hộ, thì trong Đảng đã có ý kiến cho rằng tại sao
không biến 5% đó thành 100%.
Trong khi đó, hình thức khoán vẫn áp dụng cho tới thời điểm này là Khoán
100, sau 7 năm thực hiện đã bộc lộ rất nhiều hạn chế. Với việc khoán sản phẩm
và khoán việc đến nhóm và người lao động, khoán 5 khâu hay 3 khâu là tùy
112
thuộc vào từng địa phương, tuyệt đối không khoán trắng, ban đầu nông dân đã
hăng hái hơn trong công việc, nhưng đây mới chỉ là khoán sản phẩm, khoán một
số khâu đến nhóm và người lao động, sản phẩm làm ra vẫn không trực tiếp
thuộc về người nông dân, cho nên họ vẫn không yên tâm làm ăn, dẫn đến nhiều
người bỏ mặc đất đai để chạy chợ buôn bán. Vì vậy mà năng suất và sản lượng
lương thực sụt giảm, thậm chí còn sụt giảm nhiều hơn trước khi có Chỉ thị 100.
Trước tình hình đó, Đảng bộ một số địa phương đã mạnh dạn có những cải
tiến, sáng tạo mới, tiêu biểu là ở Vĩnh Lạc, Vĩnh Phúc, Đảng bộ địa phương đã
lãnh đạo nhân dân tiến hành thử nghiệm khoán gọn đến hộ xã viên. Hình thức
khoán hộ được triển khai ở các địa phương này đã cho kết quả tốt đẹp.
Bám sát tình hình thực tiễn, nhìn nhận khách quan những sáng tạo ở Vĩnh
Phúc, Trung ương Đảng đã thông qua Nghị quyết 10 (05/04/1988), không chỉ có
ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nông dân, nông nghiệp Việt Nam, mà còn
tác động sâu rộng đến toàn bộ quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội của
đất nước.
Sự ra đời của Nghị quyết 10 là kết quả của quá trình nghiêm túc nhìn nhận
thực tiễn, rút kinh nghiệm, đấu tranh có lúc căng thẳng và khó khăn về lý luận
bởi có rất nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau trong Đảng, bởi đây là quyết
định có tác động đến hàng chục triệu nông dân, đến vấn đề cơ bản của đất nước,
của hệ thống lý luận, nếu đúng sẽ có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển
của đất nước, nếu không đúng có thể dẫn đến đổ vỡ, chệch hướng XHCN.
Chỉ hai năm sau khi Nghị quyết 10 ra đời, nông nghiệp Việt Nam như hồi
sinh trở lại, không chỉ cung cấp đầy đủ lương thực trong nước, mà còn phục vụ
xuất khẩu, Việt Nam từ đó được biết đến là một trong những nước xuất khẩu
gạo hàng đầu trên thế giới. Thành quả to lớn mà Nghị quyết 10 đưa lại là động
lực để Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đề ra những đường lối, chủ trương cụ
113
thể hơn trong việc khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong
đó có KTTN.
Quá trình từ Đại hội VI đến hết nhiệm kỳ Trung ương khóa VII, Đảng đề ra
những chủ trương thừa nhận sự tồn tại của KTTN, cho phép KTTN hoạt động,
xác định các lĩnh vực, phạm vi của KTTN. Từ Đại hội VIII, Đảng bắt đầu đề cập
đến vai trò và vị trí quan trọng của KTTN trong tổng thể kinh tế xã hội đất nước.
Cho đến Hội nghị Trung ương 5 (Khóa IX), Đảng đã khẳng định một vấn đề vô
cùng quan trọng đối với việc phát triển KTTN ở nước ta: phát triển KTTN là vấn
đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã
hội chủ nghĩa. Tiếp sau đó, tại Hội nghị Trung ương 7 (Khóa IX), Đảng nêu chủ
trương coi trọng vai trò của các doanh nhân trong phát triển kinh tế xã hội.
Trong đường lối Đại hội X của Đảng có nêu quan điểm KTTN là một động lực
của nền kinh tế, cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân. Riêng về nông nghiệp,
nông thôn, Hội nghị Trung ương 7 đã ra nghị quyết về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn, trong đó có nhiều chủ trương khuyến khích sự phát triển của các loại
hình tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc thành phần KTTN ở nông thôn như các
loại hình doanh nghiệp tư nhân, trang trại, gia trại…
Có thể thấy rằng từ Đại hội VI (12/1986 đến nay), Đảng đã đi từng bước, từ
việc công nhận, cho phép sự tồn tại và phát triển của KTTN, đến khuyến khích
và coi phát triển KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế
nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là quá trình Đảng hoàn
thiện dần quan điểm của mình đối với KTTN dựa trên rút kinh nghiệm từ thực
tiễn phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Công nhận sự tồn tại và khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là hợp với quy luật về lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, là vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào
thực tiễn quá trình tiến lên CNXH của đất nước ta trong thời đại ngày nay.
114
*Sự đổi mới quan điểm của Đảng về phát triển KTTN đã tạo điều kiện phục
hồi và phát triển KTTN ở nông thôn ĐBBB, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh
tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân
Trước khi tiến hành hợp tác hóa trong nông nghiệp vào những năm sáu
mươi của thế kỷ XX, nông thôn ĐBBB mang đặc trưng của nền kinh tế tự nhiên,
tực túc, tự cấp. Người nông dân chỉ đem ra chợ bán hoặc đổi sản phẩm thừa để
lấy những nhu yếu phẩm mà họ thiếu. Nền kinh tế hàng hóa còn rất sơ khai. Bên
cạnh sản xuất nông nghiệp, ở ĐBBB còn có một bộ phận dân cư làm ăn sinh
sống bằng nghề thủ công. Các gia đình sản xuất thủ công truyền thống quy tụ
theo làng. ĐBBB là nơi tập trung rất nhiều làng nghề như vậy. Hoạt động của
các làng nghề đã góp phần hình thành và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
hàng hóa còn sơ khai của vùng.
Tuy nhiên bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ XX cho đến nửa đầu thập niên
80 của thế kỷ XX, Đảng lãnh đạo nhân dân miền Bắc tiến hành CNH xã hội chủ
nghĩa và hợp tác hóa ở nông thôn, thì kinh tế hộ và làng nghề đã không còn tồn
tại, thay thế vào đó, kinh tế tập thể trở thành chủ đạo ở nông thôn. Hộ gia đình
trở thành hộ xã viên của HTX. Tất cả mọi hình thức tổ chức sản xuất không phải
kinh tế tập thể hay kinh tế nhà nước bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
nhân, đều bị coi như gắn liền với chủ nghĩa tư bản, không được thừa nhận và là
đối tượng phải cải tạo.
Không thể phủ nhận vai trò và đóng góp to lớn của kinh tế HTX trong việc
huy động tối đa và nhanh chóng sức người sức của ở miền Bắc để chi viện cho
kháng chiến, làm tốt chính sách hậu phương quân đội, góp phần quan trọng vào
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Song ngay từ trong kháng chiến, tính
kém hiệu quả của mô hình kinh tế này đã bộc lộ. Tuy nhiên, do hoàn cảnh đất
nước có chiến tranh và được quản lý bởi cơ chế kế hoạch hóa tập trung, cộng với
sự tăng cường đầu tư của Nhà nước đã che dấu những hạn chế cơ bản của mô
115
hình HTX [69, tr. 31]. Sau khi đất nước thống nhất, cơ chế quản lý kinh tế kế
hoạch hóa tập trung vẫn tiếp tục áp dụng, đồng thời với nó là mô hình HTX ở
nông thôn ĐBBB tiếp tục được củng cố. Việc áp dụng cơ chế quản lý, cùng với
mô hình sản xuất kinh doanh không phù hợp đã dẫn đến kinh tế ĐBBB nói riêng
và cả nước nói chung dần dần lâm vào tình trạng suy thoái trầm trọng. Kết quả
là cho đến giữa thập niên tám mươi của thế kỷ XX, đất nước lâm vào tình trạng
khủng hoảng với mức độ lạm phát lên tới hơn 700 %. Việt Nam là nước nông
nghiệp vậy mà lại đứng trước nguy cơ thiếu đói, phải liên tục nhận viện trợ
lương thực, thực phẩm từ Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa khác. Đây rõ
ràng là một nghịch lý.
Đứng trước thực trạng đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã bám sát tình hình
thực tiễn, nghiên cứu, rút ra những sai lầm và bài học kinh nghiệm. Trên cơ sở
đó, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện
nền kinh tế xã hội, xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp,
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
trong đó kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận và tạo điều kiện phát triển.
Đại hội VI đã mở ra bước ngoặt vô cùng quan trọng đưa đất nước tiến vào thời
kỳ Đổi mới. Trên cơ sở đường lối đổi mới, tháng 4/1988, Bộ Chính trị đã ra
Nghị quyết 10, khẳng định trở lại vai trò của kinh tế hộ, chế độ hạch toán công
điểm và phân phối hiện vật theo ngày công được xóa bỏ, mức khoán được điều
chỉnh ổn định theo hướng tăng phần thu nhập cho hộ xã viên. Theo đó, các hộ xã
viên tự chịu trách nhiệm phần công việc và thành quả sản xuất của chính mình
làm ra, vì thế sẽ không còn xảy ra tình trạng “cha chung không ai khóc”, sản
phẩm không còn chia đều theo kiểu cào bằng, người làm nhiều hay làm ít đều
hưởng thành quả như nhau nữa. Khoán 10 đã thực sự giải phóng sức lao động
của người nông dân và tạo động lực cho họ hăng hái sản xuất. Đường lối của
Nghị quyết 10 đã đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn. Thành quả rõ rệt của
116
nó là chỉ sau hai - ba năm thực hiện Khoán 10, Việt Nam từ một nước có nguy
cơ thiếu đói trở thành một trong ba nước dẫn đầu về xuất khẩu gạo trên thế giới,
trong đó, ĐBBB - một trong hai vựa lúa lớn nhất đất nước đã góp phần quan
trọng vào thành quả đó.
Tiếp sau Nghị quyết 10, các đại hội và hội nghị tiếp theo của Đảng đều coi
phát triển nông nghiệp, nông thôn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp
đổi mới đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 Khóa VII về tiếp tục đổi
mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5
Khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
thời kỳ 2001 - 2010; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 Khóa IX về tiếp tục đổi
mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân;
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn là những chủ trương lớn của Đảng, thể hiện nhất quán quan điểm khuyến
khích phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư
bản tư nhân ở nông thôn nhằm đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn. Trên cơ sở những đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã
ban hành nhiều chính sách tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Về mặt luật
pháp, Quốc hội đã ban hành Luật đất đai mới (Luật đất đai năm 1993, sửa đổi
năm 2003); Luật doanh nghiệp (Luật doanh nghiệp năm 2000, sửa đổi năm
2005). Đảng bộ các tỉnh ĐBBB đã có nhiều cố gắng trong triển khai, đưa các
đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về nông nghiệp nông thôn, trong
đó có phát triển kinh tế nhiều thành phần vào thực tiễn và đã đem lại nhiều kết
quả tốt đẹp, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của vùng.
Kể từ sau khi đường lối đổi mới của Đảng được đề ra (tại Đại hội VI của
Đảng tháng 12/1986), nhất là từ sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 10
(4/1988), bộ mặt kinh tế xã hội nông thôn ĐBBB đã có nhiều chuyển biến.
Người nông dân chăm lo sản xuất hơn, kinh tế hộ gia đình hồi phục. Bên cạnh
117
đó, trong nông thôn dần xuất hiện các hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, hoạt động
trao đổi hàng hóa ngày một nhộn nhịp hơn. HTX nông nghiệp dần chuyển sang
hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Theo thời gian, ở nông thôn
xuất hiện thêm những mô hình tổ chức sản xuất mới, điển hình là kinh tế trang
trại và các loại hình doanh nghiệp ở nông thôn. Những mô hình tổ chức sản xuất
mới này đã và đang góp phần tạo nên bộ mặt mới ở nông thôn ĐBBB.
Trong quá trình đổi mới, bên cạnh sự phục hồi của kinh tế hộ, sự ra đời của
trang trại và các loại hình doanh nghiệp, có một mô hình tổ chức sản xuất thủ
công nghiệp truyền thống của vùng được phục hồi mạnh mẽ, đó là làng nghề.
ĐBBB là nơi tập trung tới hơn một nửa số làng nghề của cả nước. Các tỉnh có số
lượng làng nghề lớn điển hình là Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh. Làng nghề đã trỗi
dậy thực sự mạnh mẽ sau khi đường lối đổi mới của Đảng ra đời, góp phần giải
quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống của người dân trong
vùng. Không những vậy, làng nghề còn là nơi lưu giữ và phát huy những ngành
nghê truyền thống, chính là những di sản văn hóa dân tộc mà lịch sử để lại. Về
mặt tổ chức, làng nghề quy tập những hộ gia đình chuyên hoặc kiêm nghề sản
xuất thủ công nghiệp. Về mặt quan hệ sản xuất, có thể xếp những hộ này vào
thành phần hộ sản xuất kinh doanh cá thể, một bộ phận của kinh tế tư nhân.
Trong làng nghề có nhiều mô hình và quy mô sản xuất khác nhau, phần đa số là
các gia đình sản xuất riêng lẻ, có một số lượng ít hộ tổ chức sản xuất với quy mô
lớn hơn hộ (nhưng chưa phải là doanh nghiệp), cũng có một số lượng nhất định
doanh nghiệp sản xuất thủ công nghiệp đã hình thành và hoạt động hiệu quả. Ở
các làng nghề, thường xuất hiện vai trò quan trọng của các công ty kinh doanh
đồ thủ công, mỹ nghệ, hoặc đồ gốm xuất khẩu. Các công ty này là đầu mối bao
tiêu hàng hóa cho các hộ sản xuất ở làng nghề, đại đa số là các công ty ngoài
quốc doanh.
118
Như vậy, dưới tác động của đường lối đổi mới, hoạt động kinh tế ở nông
thôn ĐBBB đa dạng, phong phú và năng động hơn trước. Dựa vào thực trạng
phát triển kinh tế tư nhân ở ĐBBB được trình bày ở chương 2, chúng ta có thể
thấy được vai trò to lớn của các mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc
thành phần kinh tế tư nhân ở nông thôn ĐBBB trong việc thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm, nâng cao đời sống nhân dân trong vùng.
* Chủ trương - đường lối của Đảng, chính sách - pháp luật của Nhà nước
về phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nông thôn ngày càng phù hợp với yêu
cầu của thực tiễn phát triển kinh tế xã hội nông thôn cả nước nói chung và nông
thôn ĐBBB nói riêng
Kể từ Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, một cái mốc quan trọng trong quá
trình chuyến biến trong tư duy của Đảng về vấn đề phát triển kinh tế tư nhân
trong nông thôn, nông nghiệp ra đời, hàng loạt các chủ trương, chính sách mới
về khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần và kinh tế tư nhân được
Đảng đề ra. Điều đáng nói là những biến chuyển trong đường lối, chủ trương
của Đảng về kinh tế tư nhân đã diễn ra vào thời đoạn quan trọng của lịch sử đất
nước, đó là thời điểm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, khi nước ta bắt đầu bước
vào quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới trong bối cảnh tình hình chính trị
- kinh tế thế giới có nhiều biến động lớn, đòi hỏi mỗi quốc gia, đặc biệt là những
đất nước còn nghèo như nước ta phải có những nỗ lực vượt bậc để vươn lên để
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu - hậu quả tất yếu nếu như nền kinh tế không
đương đầu và vượt qua được những mặt trái do toàn cầu hóa mang đến.
Ở ĐBBB, ngay từ sau khi đường lối đổi mới ra đời, kinh tế xã hội nông
thôn đã bắt đầu có những chuyển biến theo hướng tích cực. Trước tiên phải nói
đến chuyển biến trong sản xuất nông nghiệp, người nông dân quan tâm và có
trách nhiệm với công việc của mình bởi giờ đây công sức họ bỏ ra là để phục vụ
trực tiếp cho họ và gia đình của họ. Với chủ trương chính sách mới, quyền lợi và
119
nghĩa vụ của người nông dân rõ ràng và cụ thể hơn, chứ không phải mơ hồ như
thời kỳ HTX. Thành tựu của nông nghiệp cả nước nói chung và sản xuất nông
nghiệp ở ĐBBB nói riêng, như chúng ta đã thấy, có được là quyết sách đổi mới
đúng đắn của đã động viên được sức dân.
Một nét mới dễ dàng thấy được đó là hoạt động sản xuất, kinh doanh của
người dân ở nông thôn được phục hồi. Nếu như trong thời kỳ bao cấp, tổ chức
sản xuất tư nhân, hoặc tư thương bị coi là đối tượng của cải tạo xã hội chủ nghĩa,
thì trong thời kỳ đổi mới, các hoạt động sản xuất, thương mại được khuyến
khích phát triển. Do đó làng nghề ở ĐBBB phục hồi và trỗi dậy mạnh mẽ. Cư
dân làng nghề nhiều người trở thành triệu phú bằng chính nghề truyền thống mà
cha ông truyền lại. Bên cạnh mô hình sản xuất chủ yếu là hộ gia đình, ở nhiều
nơi, nhiều hộ còn mạnh dạn mở rộng thành công ty. Ngoài ra, ở ĐBBB đã và
đang xuất hiện nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh do dân trong vùng thành
lập hoặc từ nơi khác đến đầu tư sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực ngành
nghề như phân phối hàng tiêu dùng, phân bón, giống cây trồng, sản xuất dụng cụ
sản xuất cho nông dân…. Bên cạnh các loại hình doanh nghiệp, sự hình thành và
phát triển của kinh tế trang trại là biểu hiện rõ rệt của chuyển biến cơ cấu kinh tế
nông thôn ĐBBB từ nền kinh tế tự nhiên, khép kín sang sản xuất hàng hóa.
Doanh nghiệp tư nhân và trang trại ở nông thôn ĐBBB hiện nay chiếm tỷ lệ
chưa nhiều, song nó phản ánh xu hướng phát triển mới của kinh tế xã hội khu
vực nông thôn trong vùng, và phản ánh xu hướng phát triển chung của kinh tế xã
hội nông thôn cả nước nhờ những chủ trương đúng đắn của Đảng.
Thực tiễn phát triển kinh tế nông thôn ĐBBB đã đặt ra nhiều vấn đề mới. Ở
nông thôn ĐBBB thời kỳ đổi mới, kinh tế nông nghiệp là chủ đạo, nhưng bên
cạnh đó còn có các ngành kinh tế khác như công nghiệp (công nghiệp chế biến,
sản xuất công cụ cho ngành nông nghiệp .v.v.), dịch vụ và du lịch (phân phối
hàng tiêu dùng, phân bón, giống cây trồng, du lịch sinh thái.v.v.. Trong quá trình
120
đổi mới nền kinh tế xã hội ở nông thôn của vùng, các hộ kinh doanh cá thể, các
loại hình doanh nghiệp ra đời ở nông thôn đã đóng vai trò quan trọng trong vấn
đề tạo việc làm, giải quyết một phần lao động dư thừa ở nông thôn, nâng cao đời
sống cho một bộ phận dân cư, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế khu vực nông thôn, cần phải tạo điều
kiện hơn nữa cho các mô hình tổ chức sản xuất thuộc thành phần kinh tế tư nhân
được phát triển thuận lợi.
Với vai trò quan trọng hàng đầu của kinh tế nông thôn, Đảng luôn bám sát
nhu cầu của thực tiễn để tiếp tục điều chỉnh, đề ra những định hướng phát triển
kinh tế xã hội đúng đắn và phù hợp hơn. Nghị quyết Trung ương 5 (số 14-
NQ/TW, ngày 18 tháng 3 năm 2002) Khóa IX về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính
sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân đã khẳng định
kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát
triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết thể hiện quan điểm đúng
đắn của Đảng đối với phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh đất nước đang
trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Nghị quyết đã chấm dứt những nghi ngại
của bộ phận kinh tế tư nhân về tương lai phát triển của họ và tạo cho bộ phận
kinh tế này yên tâm làm ăn lâu dài, đóng góp vào sự phát triển chung của đất
nước. Gần đây nhất, tại Hội nghị Trung ương 7 Khóa X, Đảng đã ban hành Nghị
quyết số 26-NQ/TW (ngày 5/8/2008) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn,
trong đó có nêu rõ quan điểm của Đảng khuyến khích phát triển kinh tế nhiều
thành phần, trong đó nhấn mạnh tới các loại hình doanh nghiệp ở nông thôn.
Về mặt lý luận, quan điểm coi kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng, phát
triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là quan điểm đúng đắn. Hiện tại, nước ta đang
trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, và phát triển kinh tế nhiều thành
121
phần, trong đó có thành phần kinh tế tư nhân là một đặc trưng của thời kỳ này.
Trong thực tiễn phát triển nền kinh tế xã hội đất nước, chỉ có tạo điều kiện phát
triển thành phần kinh tế tư nhân, chúng ta mới huy động được tối đa nguồn lực
cho phát triển kinh tế xã hội, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH. Những
đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp
nông thôn được đề ra kịp thời với thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, khi bộ phận kinh tế tư nhân đang trên đà phát triển mạnh mẽ với những
đóng góp ngày càng quan trọng vào nền kinh tế quốc dân và cần một định hướng
cụ thể, rõ ràng từ phía Đảng, Nhà nước.
Những đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân đã
nhanh chóng được cụ thể hóa thành những chính sách cụ thể của nhà nước, môi
trường pháp lý cũng đã được đổi mới, hoàn thiện dần theo hướng thông thoáng,
thuận lợi, nhất quán, tạo sự hợp tác và cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt
giữa các thành phần kinh tế đã đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân, nhất là Luật
doanh nghiệp đã tạo nên bước đột phá quan trọng trong cải cách hành chính đối
với việc quản lý thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư
nhân, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.
Rõ ràng những chủ trương mới của Đảng về phá triển kinh tế tư nhân đã
thổi một luồng gió mới vào nền kinh tế đất nước, tạo nguồn động lực kích thích
người dân đứng lên làm kinh tế, góp phần vào sự phát triển chung của xã hội.
Kinh tế phát triển rất nhanh từ khi có chính sách đổi mới, kinh tế tư nhân góp
phần đáng kể vào thu nhập quốc dân, tăng thu nhập, nâng cao dân trí cho một bộ
phận lớn nhân dân, tạo thêm việc làm, phát huy được nguồn tài nguyên thiên
nhiên, nhân lực và tay nghề.
* Đảng bộ các địa phương ĐBBB đã có nhiều nỗ lực trong triển khai thực
hiện đưa đường lối - chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát
triển kinh tế tư nhân ở nông thôn
122
Cấp ủy và chính quyền địa phương có tác động trực tiếp đối với sự phát
triển của khu vực kinh tế tư nhân ở nông thôn ĐBBB. Đảng bộ và chính quyền
các tỉnh ĐBBB trong những năm qua đã tích cực triển khai đưa đường lối của
Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế nhiều thành phần trong
nông nghiệp nông thôn vào thực tiễn.
Những việc mà các tỉnh đã rất nỗ lực thực hiện bao gồm quán triệt quan
điểm của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó có kinh tế tư
nhân, triển khai sâu rộng nhằm thay đổi nhận thức của các tầng lớp trong xã hội,
xóa bỏ những kỳ thị đối với thành phần kinh tế này. Bên cạnh đó, để phục vụ
phát triển kinh tế xã hội nói chung và thu hút vốn đầu tư của khối doanh nghiệp
tư nhân cũng như vốn đầu tư nước ngoài, các tỉnh không ngừng chỉ đạo xây
dựng và phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn, cải cách hành chính, đẩy mạnh
xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại… Ở nhiều tỉnh đã xây dựng kế hoạch phát
triển kinh tế cụ thể đối với từng khu vực và lĩnh vực ngành nghề cụ thể, ví dụ
như quy hoạch phát triển làng nghề, đẩy mạnh CNH, HĐH. Việc dồn điền đổi
thửa cũng đã được một số tỉnh triển khai thực hiện thí điểm để đẩy mạnh sản
xuất hàng hóa trong nông nghiệp.
Thực tế ở những địa phương khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh là
những nơi cấp ủy và chính quyền địa phương quán triệt và tận dụng sang tạo
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhận thức đúng về vai
trò của khu vực kinh tế tư nhân, đã tập trung sự phát triển của doanh nghiệp nhà
nước vào những ngành, lĩnh vực then chốt, các ngành và lĩnh vực còn lại tạp
điều kiện để kinh tế tư nhân tham gia, phân công rõ ràng và phối hợp chặt chẽ
giữa các sở, ngành, cơ quan, cải cách hành chính, giáo dục cản bộ, để có thái độ
ứng xử đúng đắn, tạo thuận lợi, quản lý sâu sát các hoạt động sản xuất kinh
doanh của nhân dân.
123
* Quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân ở ĐBBB còn tồn tại nhiều
hạn chế
Mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực trong lãnh đạo phát triển kinh tế nhiều thành
phần, trong đó có phát triển kinh tế tư nhân ở nông thôn ĐBBB, song việc triển
khai thực hiện đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước vào thực tiễn
vẫn còn nhiều hạn chế.
(1) Chủ trương - chính sách về KTTN còn thiếu đồng bộ, Đảng bộ các địa
phương chậm trễ trong cụ thể hóa chủ trương, đường đổi mới.
Ở nước ta chưa chính thức có một quan niệm cụ thể, có tính chuẩn mực để
định hình các tiêu thức xác định kinh tế tư bản tư nhân, về vai trò, vị trí của nó
trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự thay đổi các
chính sách không được tiến hành đồng thời với cơ chế quản lý thích ứng đã gây
nhiều trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương ĐBBB chưa nhận thức đầy đủ ý
nghĩa của những chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân của Đảng,
ảnh hưởng tới sự phát triển của khu vực này như: đặc điểm và vai trò cụ thể của
khu vực kinh tế tư nhân nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện nay và trong suốt quá trình CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế;
định hướng chiến lược phát triển khu vực kinh tế tư nhân về phạm vi, quy mô,
trình độ nói chung và trong từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế.
Vai trò và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức cơ sở chưa phát huy được
đầy đủ. Hầu hết các địa phương còn triển khai chậm, ở một số địa phương chưa
lập được chi bộ đảng tại các doanh nghiệp của tư nhân. Bên cạnh đó, nhìn chung
đảng bộ, đoàn thể nhân dân địa phương vẫn tập trung nhiều hơn vào khu vực
kinh tế nhà nước mà chưa sâu sát với khu vực kinh tế tư nhân, còn thiên về quản
lý hơn là tạo điều kiện, tháo gỡ khó khăn.
124
Các cơ chế, chính sách tuy cơ bản đã được ban hành và thực hiện chung
cho mọi thành phần kinh tế, nhưng còn chưa đồng bộ và nhất quán. Kinh tế tư
nhân còn ít được hưởng những ưu đãi. Đồng thời nhiều quy định của pháp luật
chưa được cụ thể hóa đồng bộ, còn xen lẫn những hạn chế trước đây của sự phân
biệt đối xử, quan hệ “xin cho”, chưa tạo điều kiện đúng mức để khuyến khích,
hỗ trợ phát triển, để phát huy tiềm năng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân. Tình
trạng buôn lậu, làm hàng giả, vi phạm pháp luật trong sản xuất kinh doanh chưa
ngăn chặn có hiệu quả.
Trên thực tế, khi đánh giá về môi trường kinh doanh hiện nay ở nông thôn,
giới doanh nhân cho rằng các cơ chế, chính sách của Đảng rất thông thoáng và
rõ ràng, đặc biệt từ sau khi ra đời Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 về đẩy
mạnh phát triển KTTN. Các địa phương ĐBBB đã có những chương trình hành
động cụ thể quy hoạch phát triển làng nghề, các khu công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp nhằm thu hút đầu tư. Song ở một số địa phương, môi trường kinh doanh
vẫn chưa dược quan tâm, tâm tư của nhiều doanh nhân cho rằng chỉ cần chính
quyền địa phương, các cơ quan chức năng thực hiện đạt được 70% yêu cầu của
các cơ chế chính sách hiện hành thì môi trường kinh doanh ở địa phương sẽ
được cải thiện rõ nét hơn rất nhiều [46]. Từ khi Đảng ban bố các chủ trương,
đường lối mới về phát triển kinh tế tư nhân đến nay, doanh nghiệp tư nhân vẫn
còn bị đối xử không bình đẳng, từ sản xuất đến lưu thông, từ đào tạo đến ứng
dụng khoa học, công nghệ ...
Hạn chế nổi cộm nhất là trong việc tìm kiếm mặt bằng sản xuất và tín dụng.
Về vốn, có đến 7- 80% vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh
được dành cho doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp tư nhân rất khó vay vốn;
trong đó ngoài những nguyên nhân khác, có một nguyên nhân không kém quan
trọng là: ngân hàng cho doanh nghiệp nhà nước vay, nếu không thu hồi được thì
Nhà nước sẽ thực hiện nhiều biện pháp để khắc phục, ngân hàng có thể yên tâm,
125
nhưng nếu cho doanh nghiệp tư nhân vay mà không thu hồi được vốn, ngân
hàng rất dễ bị "hình sự hóa", bị xét hỏi về lập trường, quan điểm. Về mặt bằng,
doanh nghiệp tư nhân đi tìm đất cũng rất khó khăn. Ngay tại Hà Nội, nơi hiện có
khoảng 40.000 doanh nghiệp tư nhân, nhưng có đến 8.000 doanh nghiệp thiếu
mặt bằng sản xuất nghiêm trọng; thành phố có 20 cụm công nghiệp nhỏ và vừa
nhưng cũng chỉ thu hút có 143 doanh nghiệp tư nhân, giải quyết được hơn 10%
nhu cầu. Nếu tìm đất ngoài khu công nghiệp, thì quy trình cũng rất phức tạp: từ
việc doanh nghiệp tự đi tìm đất, tự thỏa thuận đền bù với dân, xin địa phương
phê duyệt dự án đầu tư, v.v... đến khi có đất, tất cả tới 8 bước, vài chục con dấu,
chữ ký và nhanh nhất cũng mất gần một năm. Trong khi đó, có nhiều doanh
nghiệp nhà nước lại đang thừa đất, doanh nghiệp tư nhân buộc phải thuê lại,
nhưng với giá cả khá cao và thời gian không hạn định chắc chắn [78]. Đối với
đất đai phục vụ cho phát triển kinh tế trang trại, do cơ chế quản lý còn nhiều bất
cập, đất nông nghiệp phân chia quá manh mún, gây trở ngại cho phát triển sản
xuất và áp dụng kỹ thuật tiên tiến.
(2) Phần lớn các địa phương chưa xây dựng được chiến lược, quy hoạch
phát triển kinh tế tư nhân cụ thể phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội từng vùng.
Đường lối chỉ đạo phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nhiều tỉnh hầu như
chỉ đưa ra định hướng chung khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần ở
nông thôn, chưa có quy hoạch, kế hoạch riêng, cụ thể phát triển thành phần kinh
tư nhân. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đó chưa có được sự quan tâm cần thiết từ
đảng bộ và các cấp chính quyền, bởi vậy, sự hình thành và phát triển mang tính
tự phát, mức độ bền vững và ổn định không cao, tính cam kết giữa nông dân và
doanh nghiệp lỏng lẻo.
(3) Đảng bộ và lãnh đạo các địa phương ĐBBB còn yếu kém trong công tác
dự báo thông tin, hướng dẫn đối với kinh tế tư nhân. Những hộ gia đình sản
xuất, kinh doanh hàng hóa ở nông thôn và những doanh nghiệp hoạt động tại
126
khu vực này gặp nhiều bất lợi trong quá trình sản xuất, kinh doanh do thiếu
thông tin về thị trường, thiếu thông tin về khoa học công nghệ mới. Bên cạnh đó,
các địa phương ĐBBB vẫn chưa quan tâm tới việc tổ chức đào tạo nâng cao
trình độ quản lý kinh doanh cho đội ngũ chủ doanh nghiệp, chủ hộ sản xuất kinh
doanh cá thể ở nông thôn.
(4) Đảng bộ và chính quyền địa phương ĐBBB chưa quan tâm đầy đủ đến
quyền lợi của người nông dân khi thực hiện chủ trương khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư vào địa phương mình. Người nông dân là chủ thể lớn nhất của
kinh tế nông thôn, là đối tượng phục vụ của các loại hình kinh tế ở nông thôn,
đồng thời cũng là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế, trong đó có
kinh tế tư nhân. Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi của người nông dân sẽ trở thành
nguyên liệu cho các doanh nghiệp, cơ sở chế biến lương thực, thực phẩm; người
nông dân cũng là khách hàng của các doanh nghiệp, cơ sở phân phối hàng tiêu
dùng, sản phẩm phục vụ trồng trọt, chăn nuôi; và người nông dân cũng có thể
trở thành những chủ doanh nghiệp, hay người lao động cho các doanh nghiệp
trong quá trình vận động và phát triển của kinh tế nông thôn theo hướng CNH,
HĐH. Bởi vậy, khi thực hiện các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế nói
chung và kinh tế tư nhân nói riêng ở nông thôn, cần phải quan tâm đến vai trò và
quyền lợi của người nông dân.
Hiện nay, nhiều tỉnh tăng cường mời gọi các doanh nghiệp đầu tư, các khu
công nghiệp được mở ra ngày càng nhiều nhằm thực hiện mục tiêu CNH, HĐH
của các địa phương đó. Mời gọi đầu tư, mở các khu công nghiệp cũng chính là
một chính sách quan trọng của các tỉnh nhằm khuyến khích phát triển kinh tế tư
nhân. Mặt bằng các khu công nghiệp có được chính là từ thu hồi ruộng đất của
người nông dân. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nhằm mục đích thúc đẩy
kinh tế xã hội nông thôn phát triển theo hướng văn minh, hiện đại. Với mục đích
này, các tỉnh ĐBBB đã rất cố gắng mời gọi các nhà đầu tư, mở các khu công
127
nghiệp, khu chế xuất. Các khu công nghiệp, các khu chế xuất này, tất nhiên phục
vụ tốt cho việc tăng nguồn thu cho ngân sách, giải quyết việc làm cho một bộ
phận người lao động nông thôn. Thế nhưng, không phải tất cả nông dân mất đất
do bị thu hồi để xây dựng khu công nghiệp đều tìm được việc làm ở chính khu
công nghiệp đó sau khi không còn tư liệu sản xuất, và hầu như ở các khu công
nghiệp chưa tập trung nhiều những doanh nghiệp phục vụ trực tiếp cho phát
triển nông nghiệp ở nông thôn.
Sở hữu quan trọng nhất của người nông dân là ruộng đất. Trong lịch sử,
cuộc CMT8 (1945) do Đảng lãnh đạo đã bùng nổ và thành công bởi cuộc cách
mạng này đã đoàn kết được mọi giai cấp, tầng lớp xã hội, đông đảo nhất là nông
dân. Người nông dân đứng lên theo cách mạng với mục đích cao cả là đánh đổ
thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc, bên cạnh đó còn vì quyền lợi thiết thân
của họ: ruộng đất. Từ sau khi miền Bắc được giải phóng, Đảng đã thực hiện
cuộc cải cách ruộng đất – mặc dù đã để lại những sai lầm lớn, song không thể
phủ nhận một kết quả rõ ràng rằng cải cách ruộng đất đã hiện thực hóa giấc mơ
“người cày có ruộng” của nông dân. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện tại, nông
dân nhiều nơi dường như lại vô tình trở thành bộ phận hy sinh cho CNH, HĐH.
Việc thu hồi đất đai của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp, cơ sở
hạ tầng nông thôn là vô cùng cần thiết, để khuyến khích phát triển kinh tế tư
nhân. Tuy nhiên, khi thu hồi đất, người nông dân không được bàn bạc, chỉ được
thông báo là thu hồi. Họ là những chủ thể đất ở nông thôn, nhưng khi bị thu hồi
đất, họ rất bị động và mờ nhạt. Đất đai thuộc sở hữu nhà nước, nhưng người
nông dân đang gữ quyền sử dụng mảnh đất của họ, và trong thời đại ngày nay,
đất cũng là một loại hàng hóa. Vì vậy, phải song phẳng khi thu hồi đất của nông
dân [63].
Một vấn đề nữa đáng quan tâm là trong khi đất đai có thể giao cho doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp, dịch vụ, người nước ngoài tới 50 hoặc 90 năm thì
128
tại sao lại không thể giao đất lâu dài cho nông dân để canh tác. Đây là một vấn
đề quan trọng mà Đảng và Nhà nước cần phải nghiên cứu lại để có cơ chế, chính
sách thỏa đáng cho người nông dân.
Để khuyến khích người nông dân tích cực làm ăn theo hướng sản xuất hàng
hóa, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, Đảng đã có chủ trương tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ chế tín dụng cho
nông dân. Thế nhưng trên thực tế, cũng giống như những doanh nghiệp ngoài
quốc doanh hoặc hộ kinh doanh cá thể, người nông dân vay vốn rất khó khăn và
hạn chế. Bất lợi lớn của nông dân là thiếu vốn để sản xuất, các cơ chế, chính
sách về tín dụng cho người nông dân chưa thực sự hữu ích, bởi thế họ phải tự
xoay sở, vay mượn là chính, dẫn đến tình trạng đầu tư không đồng bộ, làm được
đến đâu hay đến đấy, hiệu quả sản xuất nông nghiệp không cao. Bên cạnh đó,
việc triển khai phổ biến khoa học kỹ thuật cho nông dân chưa được tiến hành bài
bản, công tác khuyến nông thực hiện chưa tốt, người nông dân chưa được phổ
biến những thông tin về thị trường.
Nếu như được khuyến khích, hướng dẫn và tạo điều kiện tốt, hộ thuần nông
sẽ có cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh, trở thành nguồn lực tiềm năng của
kinh tế tư nhân. Kinh tế trang trại ở ĐBBB hiện nay hầu như được hình thành
nên từ các hộ thuần nông mở rộng quy mô để sản xuất kinh doanh theo hướng
hàng hóa. Bởi thế, quan tâm đến quyền lợi của người nông dân là vấn đề vô
cùng quan trọng trong thúc đẩy và phát triển kinh tế tư nhân, thúc đẩy phát triển
kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp.
Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay, phát
triển các mô hình sản xuất, kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tư nhân bao
gồm hộ sản xuất, kinh doanh cá thể; trang trại; các loại hình doanh nghiệp ngoài
quốc doanh có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi vậy, Đảng, Nhà nước cùng với
129
đảng bộ và lãnh đạo các tỉnh ĐBBB cần có những chủ trương, chính sách quan
tâm sát sao hơn nữa tới việc phát triển thành phần kinh tế này ở nông thôn.
3.2 Những khuyến nghị rút ra từ việc nghiên cứu quá trình lãnh đạo phát
triển kinh tế tƣ nhân ở khu vực nông thôn ĐBBB
Dựa trên những phân tích về đường lối, chính sách của Đảng về phát triển
kinh tế tư nhân ở nông thôn, từ những vấn đề còn tồn tại trong vấn đề phát triển
kinh tế tư nhân và lãnh đạo phát triển thành phần kinh tế này, xin được rút ra
một số khuyến nghị như sau:
Thứ nhất, Đảng cần xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế tư
nhân nói chung và trên từng địa bàn trong đó có vùng ĐBBB nói riêng. Việc
xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế tư nhân có ý nghĩa hết sức
quan trọng để đưa thành phần kinh tế này phát triển phục vụ cho quá trình tiến
lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta.
Chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế tư nhân ở nông thôn phải được tiến
hành đồng bộ cùng với các giải pháp về vốn, mặt bằng đất đai, thị trường, các
biện pháp bảo vệ môi trường, .v.v. và giải quyết thỏa đáng quyền lợi của người
nông dân, đẩy mạnh đào tạo nghề ở nông thôn, đặc biệt là đối với nông dân
không còn ruộng đất sau giải tỏa.
Thứ hai, cần xóa bỏ những thể chế, chính sách còn thể hiện sự phân biệt
đối xử giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân, giữa doanh nghiệp nhà nước
với doanh nghiệp tư nhân. Trong thực tế, một môi trường kinh doanh thuận lợi,
các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật là yêu cầu hàng đầu để phát
triển đất nước trong tình hình mới. Hơn nữa, khi hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng đi vào chiều sâu, việc phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước với
doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ bị thu hẹp
dần, môi trường kinh doanh bình đẳng không thể không thiết lập.
130
Thứ ba, Đảng bộ các tỉnh ĐBBB cần phải chỉ đạo hoàn thiện công tác công
tác quản lý đất đai của vùng. Tiếp tục thực hiện các định hướng phát triển vùng
của chiến lược 10 năm 2001 – 2010 và các nghị quyết của Bộ Chính trị khóa IX
về phát triển kinh tế vùng ĐBBB, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
vùng ĐBBB thời kỳ 1996 – 2010 của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Quyết định số
145/2004/QĐ/TTg về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Cần đẩy nhanh tiến bộ cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân. Tiếp tục thực hiện công việc dồn điền, đổi
thửa để tạo thành những vùng sản xuất lớn, có thể thực hiện canh tác nhiều loại
sản phẩm hàng hóa nông nghiệp trên cùng một diện tích đất gieo trồng.
Thứ tư, cần phải có cơ chế linh hoạt và giảm lãi suất cho nông dân, hộ sản
xuất, kinh doanh cá thể và doanh nghiệp ở nông thôn vay vốn. Ở ĐBBB sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu, phần lớn nông dân vẫn là các hộ có thu nhập trung
bình hoặc nghèo, các cơ sở sản xuất hoặc doanh nghiệp (doanh nghiệp ngoài
quốc doanh chiếm đa số) đề có quy mô nhỏ hoặc vừa, đều thiếu vốn để mở rộng
sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, trong thời gian tới, để tiếp tục đẩy mạnh phát triển
kinh tế tư nhân trong nông thôn, không thể không cải tiến quy trình và thủ tục
cho vay vốn ở nông thôn, giảm phiền hà, nhiêu khê thậm chí là tiêu cực trong
thực hiện chính sách tín dụng của Nhà nước.
Thứ năm, cần đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng - kỹ thuật nông thôn.
Đây là vấn đề thiết yếu đối với phát triển kinh tế xã hội nông thôn nói chung và
phát triển kinh tế tư nhân ở nông thôn nói riêng. Mặc dù kết cấu hạ tầng nông
thôn của vùng này khá tiến bộ so với những vùng khác trong cả nước nhưng vẫn
còn nhiều yếu kém. Vì vậy, trong thời gian tới, phải tập trung hợp lý các nguồn
lực cho việc hoàn thiện và nâng cấp các công trình kết cấu hạ tầng đã có, đồng
thời xây dựng mới các công trình trình hạ tầng khác phục vụ cho việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn phù hợp với lợi thế của Vùng và hướng ưu tiên
131
của Nhà nước bằng nguồn vốn trong và ngoài nước, vốn của nhân dân, của
doanh nghiệp và từ ngân sách Nhà nước.
Thứ sáu, cần xã hội hóa các hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế tư nhân bằng việc xây dựng kế hoạch cụ thể về đào tạo kỹ năng quản lý,
phổ biến thông tin thị trường tới đội ngũ chủ doanh nghiệp, chủ hộ kinh doanh
cá thể, và hộ nông dân trong vùng. Đây là vấn đề hết sức quan trọng để thúc đẩy
phát triển kinh tế tư nhân ở ĐBBB. Kinh tế tư nhân ở nông thôn ĐBBB còn
nhiều hạn chế, một phần là do kỹ năng quản lý, kiến thức về thị trường còn thiếu
và yếu của đội ngũ chủ doanh nghiệp, chủ hộ kinh doanh cá thể, và của chính
những người nông dân. Tình trạng phát triển manh mún, nhỏ lẻ, tự phát, liên kết,
hỗ trợ với nông dân không tốt cũng xuất phát từ hạn chế về kiến thức, kỹ năng.
Thứ bảy, cần có kế hoạch cụ thể để phát triển các loại hình tổ chức sản
xuất thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở nông thôn như kinh tế hộ sản xuất, kinh
doanh hàng hóa; trang trại; các loại hình doanh nghiệp ở nông thôn, phát triển
làng nghề.
Giải pháp thúc đẩy nhanh, mạnh nền nông nghiệp hàng hóa là việc tạo ra
nhanh các điều kiện để chuyển kinh tế hộ nông dân sản xuất hàng hóa mang
nặng tính tự cấp tự túc sang mô hình kinh tế hộ nông dân sản xuất hàng hóa hay
kinh tế trang trại gia đình. Trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, lâm nghiệp,
ngư nghiệp, phải lấy kinh tế trang trại gia đình làm hình thức tổ chức đặc trưng
của sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn.
Để phát triển kinh tế trang trại - giải pháp cho phát triển nông nghiệp hàng
hóa, trong thời gian tới cần tiếp tục tạo dựng một số điều kiện sau đây:
Hoàn thiện việc giao đất, thuê đất thông qua chuyển nhượng, điều chỉnh
hợp lý hóa ruộng đất giữa các hộ theo hướng liền khoảnh tạo thuận lợi
cho kinh tế trang trại canh tác theo quy mô lớn và hiện đại.
132
Trên cơ sở đẩy nhanh nhịp độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp -
nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết thỏa đáng mối quan
hệ giữa người cung ứng lao động và người sử dụng sức lao động trên thị
trường sức lao động ở nông thôn theo quy luật lao động, từ đó tạo điều
kiện cho sự hoạt động của quy luật tích tụ và tập trung ruộng đất phát
triển một cách có tự giác, định hướng. Bằng cách đó, thúc đẩy kinh tế
trang trại gia đình phát triển rộng rãi ở các địa phương trong vùng.
Nâng cao trình độ kinh tế và quản lý kinh tế cho các chủ trang trại theo
phương châm xã hội hóa giáo dục đào tạo.
Hộ tiểu chủ công nghiệp và hộ dịch vụ cần được khuyến khích phát triển.
Các địa phương cần có những chủ trương khuyến khích để các hộ có tiềm năng,
kinh nghiệm yên tâm đầu tư sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sơ chế và chế biến
lương thực, thực phẩm; củng cố và phát triển mạnh các làng nghề truyền thống;
khuyến khích các tiểu thương và các hộ dịch vụ khác mở rộng kinh doanh phục
vụ nông nghiệp và thủ công nghiệp gắn với thị trường đầu vào và đầu ra của họ.
Từ đó, góp phần thúc đẩy kinh tế hàng hóa nông thôn phát triển, thúc đẩy xuất
khẩu hàng hóa ra ngoài vùng trong nước và nước ngoài.
Tiếp tục phát triển những các loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế tư nhân. Đa số các doanh nghiệp tư nhân ở nông thôn hoạt động trong
lĩnh vực công nghiệp chế biến, ngành nghề và dịch vụ chủ yếu là những xí
nghiệp nhỏ, kỹ thuật công nghệ còn thấp. Mặc dù vậy, nó phải được coi là khu
vực rất năng động, có tiềm năng lớn để phát triển sản xuất, tạo việc làm và tăng
thu nhập cho dân cư nông thôn, là lực lượng quan trọng góp phần thúc đẩy phát
triển nhanh kinh tế hàng hóa trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông
thôn. Các địa phương trong vùng cần có những chủ trương biện pháp khuyến
khích hỗ trợ để doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận nguồn vốn tín dụng nhà nước
nhất là vốn trung hạn và dài hạn; điều chỉnh chính sách thuế, hỗ trợ các doanh
133
nghiệp tư nhân thu hút nhiều sức lao động, hỗ trợ về đào tạo tay nghề cho công
nhân, tăng cường cung cấp thông tin về công nghệ và thị trường, tạo điều kiện
cho họ hoạt động thuận lợi có hiệu quả kinh tế - xã hội ở nông thôn trong vùng.
Bằng cách đó, làm cho các chủ thể kinh tế thuộc thành phần kinh tế này yên tâm
phấn khởi hăng hái đầu tư sản xuất kinh doanh; khắc phục sự kỳ thị đối với họ
trong một bộ phận dân cư. Có phát triển kinh tế tư nhân mới tạo điều kiện để
hình thành kinh tế tư bản nhà nước ở nông thôn.
Để kinh tế tư nhân ở nông thôn phát triển và phục vụ đắc lực cho phát triển
nông nghiệp, nông thôn, Đảng bộ các địa phương ĐBBB cần chỉ đạo thực hiện
kết hợp và liên minh chặt chẽ 4 “nhà”: nhà nông (hộ sản xuất hàng hóa), nhà
doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nước. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng không phải
hộ kinh tế gia đình và những trang trại gia đình ở ĐBBB hiện nay đủ khả năng,
điều kiện để liên doanh được với các nhà tư bản tư nhân trong nước và nước
ngoài. Vì vậy các địa phương trong thời gian tới cần:
Tạo môi trường và cơ chế thuận lợi để kinh tế trang trại có quy mô lớn,
phát triển mạnh, sớm có điều kiện liên doanh với tư bản tư nhân bằng
những hình thức thích hợp.
Tiếp tục khuyến khích kinh tế tư nhân trong các ngành công nghiệp
nông thôn và các ngành thương mại – dịch vụ phát triển mạnh mẽ theo
tinh thần „lọt sàng xuống nia‟ và phát huy nội lực, tạo cơ sở thực lực
kinh tế để họ có thể liên doanh, liên kết, hợp tác với ta nhân những lĩnh
vực vừa có lợi cho họ, vừa có lợi cho Nhà nước XHCN
Tăng cường, củng cố và phát triển kinh tế tư nhân ở nông thôn để đủ sức
thu hút tư bản trong nước và tư bản nước ngoài đầu tư vào nông thôn.
Tiếp tục tạo môi trường hấp dẫn trong đó khuyến khích kinh tế tư nhân
trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh trong nông
134
nghiệp, nhất là đầu tư vào công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp và xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn.
Thứ tám, cần quan tâm hơn nữa đến quyền lợi của người nông dân. Kinh tế
tư nhân ở nông thôn không nằm riêng rẽ, mà phát triển trong mối liên hệ chặt
chẽ và tương tác với các thành phần kinh tế khác. Trong các mối liên hệ kinh tế
ở nông thôn, nông dân cần luôn luôn được đặt ở vị trí trung tâm. Trong việc đẩy
mạnh phát triển doanh nghiệp trên địa bàn nông thôn, khi quy hoạch, xây dựng
khu công nghiệp, địa phương cần quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng của người
nông dân trong các vấn đề đất đai, mối liên hệ giữa nông dân với các doanh
nghiệp về đầu vào, đầu ra, thị trường tiêu thụ sản phẩm….
135
KẾT LUẬN
Trong hơn 20 năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng,
nền kinh tế xã hội nước ta đã đạt được nhiều thành tựu lớn. Kinh tế tư nhân dần
dần hồi phục, phát triển và trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế quốc dân. Trong các chính sách phát triển kinh tế xã hội, Đảng luôn đặt
vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn lên vị trí hàng đầu, và trong lĩnh vực
này, kinh tế tư nhân cũng đã góp phần tích cực vào đẩy nhanh công cuộc CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Với vai trò là một đầu tàu kinh tế của cả nước, kinh tế ĐBBB trong suốt
thời kỳ đổi mới đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nông thôn ĐBBB đã có
nhiều đóng góp vào quá trình phát triển chung của vùng, và cho nền nông
nghiệp cả nước. Góp phần lớn lao làm thay đổi bộ mặt nông thôn ĐBBB không
thể không nhắc tới vai trò của kinh tế tư nhân ở khu vực này. Đầu tiên là sự
“hưng khởi” của các làng nghề truyền thống sau khi đường lối đổi mới, và đặc
biệt là Nghị quết 10 của Bộ Chính trị ra đời, thực sự cởi trói cho kinh tê hộ, công
nhận sự tồn tại của kinh tế nhiều thành phần ở nông thôn. Bên cạnh sự phục hồi
của làng nghề là sự phục hồi trở lại và phát triển của các hoạt động kinh doanh,
buôn bán, giao thương hàng hóa ở nông thôn. Kinh tế xã hội nông thôn ĐBBB
ngày càng trở nên nhộn nhịp. Cho đến thời gian tiếp theo, với những chủ trương,
chính sách khuyến khích, mời gọi, huy động đầu tư của Đảng, Nhà nước và
Đảng bộ, chính quyền các địa phương ĐBBB, các loại hình doanh nghiệp ngoài
quốc doanh ở nông thôn bắt đầu hình thành và phát triển. Đây là một yếu tố mới,
vô cùng quan trọng trong đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, nhằm tiến tới xây
dựng xã hội nông thôn văn minh hiện đại ở ĐBBB nói riêng và trên cả nước nói
chung.
Có được những đổi thay tích cực nói trên ở ĐBBB là do Đảng và Nhà nước
đã ban hành những đường lối, chính sách đúng đắn, và sự vận dụng sáng tạo của
136
đảng bộ và chính quyền các địa phương ĐBBB cùng với sự cố gắng vươn lên
của khu vực kinh tế tư nhân (bao gồm hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tiểu chủ,
các loại hình doanh nghiệp) ở nông thôn.
Cho đến Đại hội và các Hội nghị Trung ương Khóa X của Đảng, có thể nói
về cơ bản, quan điểm của Đảng về phát triển các mô hình tổ chức sản xuất kinh
doanh thuộc thành phần kinh tế tư nhân ở nông thôn là đã nhất quán. Chủ trương
coi kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc
dân đã được Đảng khẳng định từ Hội nghị Trung ương 5 Khóa IX. Vai trò, vị trí
của kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội của đất nước
đã được Đảng xác định rõ ràng.
Tuy nhiên, sự phát triển của kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn ĐBBB
còn gặp nhiều khó khăn do tác động của những nguyên nhân chủ quan cũng như
khách quan, vì thế kết quả phát triển chưa được như mong muốn, chưa thực sự
phát huy được vai trò của nó ở nông thôn. Đảng, Nhà nước và đảng bộ, chính
quyền các tỉnh ĐBBB cần phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề phát triển kinh tế
tư nhân ở nông thôn, để bộ phận kinh tế này vượt qua được những khó khăn
thách thức, phát huy vai trò và ngày càng có những đóng góp tích cực hơn nữa
cho sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
ĐBBB là đầu tàu kinh tế của đất nước, quá trình phát triển kinh tế xã hội
nông thôn của vùng mang nhiều đặc trưng tiêu biểu của nông thôn cả nước. Do
vậy, những khó khăn, thuận lợi, thành tựu và hạn chế trong quá trình lãnh đạo
phát triển kinh tế tư nhân ở ĐBBB có nhiều điểm tương đồng với quá trình lãnh
đạo phát triển kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn cả nước. Do vậy, những nhận
xét, khuyến nghị rút ra từ việc nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo phát triển
kinh tế tư nhân ở nông thôn ĐBBB có thể là những tham khảo cần thiết cho quá
trình lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân nói riêng, và tổng thể kinh tế xã hội
nông thôn cả nước nói chung.
137
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thúy Anh (2002), “Một huyện đi lên từ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế”, Tạp chí Cộng sản, ngày 7/3/2002.
2. Vũ Đình, Bách (2004), "Phát triển kinh tế tư nhân trong quá trình chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng
sản, Số 16 (tháng 8 năm 2004).
3. Báo cáo kết quả nghiên cứu Đề tài KX 08-07 chuyên đề: “Đánh giá hiện
trạng và xu thế phát triển công nghiệp nông thôn tỉnh Hà Bắc”, Chương
trình KX-08, Hà Nội, 12/1993.
4. Báo cáo kết quả nghiên cứu Đề tài KX-08-07 chuyên đề: “Phương pháp
phát triển nông nghiệp đinh hướng phát triển cơ khí hóa nông nghiệp và
chế biến nông sản trong chiến lược công nghiệp hóa nông thôn Việt Nam từ
nay đến 2010”, Chương trình KX-08, Hà Nội, 3/1995.
5. Báo cáo tổng hợp kệt quả nghiên cứu năm 1993, Đề tài KX- 08-07 chuyên
đề: “Định hướng và chuyển giao công nghệ nhằm phát triển công nghiệp
nông thôn”, Chương trình KX-08, Hà Nội, 2/1994.
6. "Biến đồng bằng sông Hồng thành đầu tàu kinh tế",
http://bannhanong.com, 4/4/2006.
7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2005), Khoa học công nghệ nông
nghiệp và phát triển nông thôn 20 năm đổi mới, Tập I (Kinh tế - chính sách
nông nghiệp và phát triển nông thôn), Nxb CTQG, Hà Nội.
8. Trần Ngọc Bút (2002), Phát triển kinh tế tư nhân định hướng Xã hội chủ
nghĩa, Nxb CTQG, Hà Nội.
9. Bùi Văn Can (2001), Phát triển kinh tế hàng hóa trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Đồng bằng Sông Hồng,
Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
138
10. Chính phủ nước CHXHCNVN (1997), “Quyết định Số 677/TTg (ngày 23
tháng 08 năm 1997) của TTg CP về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể kinh
tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 1996 – 2010”,
http://www.moit.gov.vn.
11. "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng Đồng bằng Sông Hồng - mạnh nhưng
chưa đủ", Tạp chí Tài chính, Tháng 4/2007.
12. "Chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở tỉnh cửa ngõ Thủ đô", Thời báo Tài Chính, Số
ra ngày 16/01/2004.
13. Lương Ngọc Chương (2000), Báo Nhân Dân, ngày 16/08/2000.
14. Cơ - điện khí hóa nông nghiệp với vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1998.
15. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi
mới (1986 - 2002), Nxb CTQG, Hà Nội.
16. Cục Thống kê Hà Nội (2000), Tài liệu thống kê tình hình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn 1990 – 2000.
17. Nguyễn Tiến Dũng (2002), Phát triển kinh tế nông thôn vùng Đồng bằng
Sông Hồng trong quá trình hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
18. Tiến Dũng (2007), “Ninh Bình: Đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp”,
http://www.dddn.com.vn, 26/12/2007.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), “Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng”, http://www.cpv.org.vn.
20. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng”, http://www.cpv.org.vn.
139
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001 – 2010”, http://www.cpv.org.vn.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), “Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII của Đảng: Thông qua "Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương (khoá VI) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ngày 27-6-
1991", http://www.cpv.org.vn.
23. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), “Nghị quyết số 05-NQ/TW Hội nghị lần
thứ sáu (lần 1) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về nhiệm vụ
kinh tế, xã hội năm 1999”, http://www.cpv.org.vn.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), “Nghị quyết sô 14-NQ/TW về tiếp tục
đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế
tư nhân”, http://www.cpv.org.vn.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), “Nghị quyết số 15-NQ/TW về đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 –
2010”, http://www.cpv.org.vn.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), “Nghị quyết số 23 - NQ/TW về phát huy
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh””, http://www.cpv.org.vn.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), “Nghị quyết về nông dân, nông thôn,
nông nghiệp”, http://cpv.org.vn.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 40 (1979),
Nxb CTQG, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 43 (1982),
Nxb CTQG, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn Kiện Đảng toàn tập, Tập 47 (1986),
Nxb CTQG, Hà Nội.
140
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 48 (1987),
Nxb CTQG, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 51 (6-
12/1991), Nxb CTQG, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 52, Nxb
CTQG, Hà Nội.
34. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), “Văn Kiện Đại hội IV - Kế hoạch 5 năm
(1976 - 1980)”, http://www.cpv.org.vn, Ngày 6/2/2006.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ Khóa VII, tháng 1 - 1994, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), "Văn kiện Đại hội IX - Phương hướng,
nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 2005",
http://www.cpv.gov.vn.
37. Nguyễn Hữu Đạt (2000), "Động thái phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam
giai đoạn 1990 - 2000", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 262 (tháng 3/2000).
38. Nguyễn Hải Đăng (2004), Kinh tế tư nhân ở Hà Nội trong tiến trình Đổi
mới, Luận ăn Thạc sĩ Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
39. Hoàng Điển (1997), "Đa dạng các ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn",
Báo Nhân dân, ngày 24/7/1997.
40. "Đồng bằng Bắc Bộ", http://www.v-i.com.vn.
41. Hương Giang (2008), "Nông dân chính là "Doanh nghiệp nông thôn",
http://www.Vietnamnet.vn.
42. Trường Giang, "Tích tụ ruộng đất - Lựa chọn đột phá? Bài 3: Đi trước một
bước", Báo Nông nghiệp Việt Nam, 04/07/2008.
43. Lê Mậu, Hãn (2003), Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập III, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
141
44. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình Kinh tế
học chính trị Mác - Lênin, Hà Nội.
45. "Hội nghị phát triển KT-XH vùng đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2006-
2010 (tại Hà Nội, ngày 03/04/2006)", http://tienphong.com.vn.
46. Hội thảo: “Cơ hội đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trong bối cảnh mới”,
Báo Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với Viện Chính sách và Chiến lược
phát triển nông nghiệp nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn) tổ chức ngày 19/8/2008.
47. "Kết quả thực hiện chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng Phục vụ công
nghiệp hóa - Hiện đại hóa của tỉnh Hải Dương", Tạp chí Người xây dựng,
Số tháng 2-2004.
48. Trần Hoàng Kim (1995), Tiềm năng kinh tế Đồng bằng Sông Hồng, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
49. Hồ Sỹ Lộc (1997), "Quá trình phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh ở
Việt Nam (1986 - 1995)", Tạp chí Lịch sử Đảng, Số 3 (năm 1997).
50. Đình Luyện và Minh Sang (1996), "Sống động vùng quê Dương Liễu", Báo
Nhân Dân, ngày 29/10/1996.
51. Thu Lương (2005), "Giải bài toán việc làm cho lao động nông thôn",
http://www.hungyen.gov.vn, 2/6/2005.
52. Nguyễn Quang Ngọc (2001), Tiến trình Lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo Dục,
Hà Nội.
53. Nguyễn Thế Nhã (1999), “Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước
ta”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 257 Tháng 10/1999.
54. Nguyễn Đình Phan - Trần Minh Đạo - Nguyễn Văn Phúc (2002), Những
biện phát chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn vùng Đồng bằng Sông Hồng, Nxb CTQG, Hà Nội.
142
55. "Phát triển công nghiệp nông thôn đồng bằng sông Hồng", Hội thảo khoa
học, tổ chức tại Tiên Sơn, Hà Bắc, ngày 5/2/1996.
56. Nguyễn Trọng Phúc (2007), Đổi mới ở Việt Nam - thực tiễn và nhận thức lý
luận, Nxb CTQG, Hà Nội.
57. Nguyễn Trung Quế (1995), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn ĐBBB, Nxb Nông nghiệp, HN.
58. Lê Hưng Quốc (2008), "Nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng vươn lên
dẫn đầu về thu nhập", http://www.ajc.edu.vn.
59. Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp
1992, Hà Nội.
60. Chu Hữu Quý (1996), Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, nông
nghiệp Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.
61. Trần Văn Sen (1997), "Từ làng nghề cổ truyền vươn lên công nghiệp hóa",
Báo Nhân Dân, ngày 23/9/1997.
62. Mai Tết (2006), Sự vận động, phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,Nxb CTQG, Hà Nội.
63. Đoàn Duy Thành (2002), Đảng lãnh đạo kinh tế và đảng viên làm kinh tế
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb CTQG, Hà
Nội.
64. Đinh Thị Thơm (2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới -
Thực trạng và những vấn đề, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
65. Trần Đình Thụ - Nguyễn Minh Phong (2004), "Kết quả phát triển các thành
phần kinh tế ở Hà Nội thời kỳ Đổi mới", Tạp chí Những vấn đề Kinh tế Thế
giới, Số 11 (103).
66. Anh Thư (2002), "Vai trò của Đảng trong đổi mới cơ chế quản lý nông
nghiệp ở Việt Nam (1981 - 1985)", Tạp chí Lịch sử Đảng, Số 10.
143
67. Lệ Thu (2008), "Hỗ trợ doanh nghiệp nông thôn phát triển",
http://www.hungyen.gov.vn, 20/06/2008.
68. Nguyễn Thủy (1998), Báo Nhân Dân, ngày 16/01/1998.
69. Trương Thị Tiến (1999), Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt
Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.
70. Tổng cục Thống kê (2000), Niên giám thống kê 1999, Nxb Thống Kê, Hà
Nội.
71. Tổng cục Thống kê (2001), Hoạt động của các doanh nghiệp nông, lâm,
thủy sản, http://www.gso.gov.vn.
72. Tổng cục Thống kê (2007), "Số trang trại phân theo địa phương",
http://www.gso.gov.vn.
73. Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê 2007, Nxb Thống Kê, Hà
Nội.
74. Lê Khắc Triết (2005), Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam -
thực trạng và giải pháp, Nxb Lao Động, Hà Nội.
75. Trung tâm tư vẫn đầu tư hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn
VACVINA (1997), Nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nxb CTQG, Hà Nội.
76. Trường Đại học Kinh tế quốc dân - Khoa Kinh tế nông nghiệp và phát triển
nông thôn (2001), Nông nghiệp nông thôn Việt Nam bước vào Thế kỷ XXI,
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
77. Nguyễn Đức Truyền (2003), Kinh tế hộ gia đình và các quan hệ xã hội ở
nông thôn Đồng bằng Sông Hồng trong thời kỳ Đổi mới, Nxb KHXH, Hà
Nội.
78. Vũ Quốc Tuấn (2006), "Kinh tế tư nhân: đường phát triển rộng mở",
http://Vnep.org.vn, 3/2006.
144
79. Nguyễn Tuấn (2008), "Hà Tây: "Gió mới" trong chuyển đổi cơ cấu nông
nghiệp", Báo Bưu Chính Viễn thông, 27/10/2008.
80. Đào Duy Tùng (1994), Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội.
81. Đỗ Thế Tùng (2006), "Bàn thêm về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân",
Tạp chí Cộng sản, Số 12 (tháng 6 năm 2006).
82. Nguyễn Thanh Tuyền (2002), Thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Sách tham khảo), Nxb CTQG, Hà
Nội.
83. UNDP (2001), Việt Nam hướng tới 2010 - Tuyển tập Báo cáo phối hợp
nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các chuyên gia quốc tế
và Việt Nam, Tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội
84. Ủy ban Nhân dân Tỉnh Bắc Ninh (2008), "Phiên họp thường kỳ các cấp
ngày 27/03/2008”, http://www.bacninh.gov.vn.
85. Lê Hồng Văn (1997), "Cẩm Bình phát triển mạnh tiểu, thủ công nghiệp",
Báo Nhân dân, ngày 17/2/1997.
86. Hồ Trọng Viện (2004), "Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 318
(tháng 11/2004).
87. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) (2005), "Dự án VIE
01/025", Thời báo kinh tế Việt Nam, Ngày 11/05/2005.
88. Viện Ngôn ngữ học (2007), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb Phương
Đông, Hà Nội.
89. Hồ Văn Vĩnh (1995), Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đề tài Khoa học cấp Bộ số 128 của Học viện
CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.