ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

* LÊ MẬU NHIỆM ĐẢNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TỪ NĂM 1993 ĐẾN NĂM 2007 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2008

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1

6

6 Chương 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM 1993-2003 1.1. Cơ sở tư tưởng của sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ......................................................................................................................................................................

6 1.1.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đại đoàn kết toàn dân tộc ........................................................................................

14 1.1.2. Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam trong quá trình tập hợp vận động nhân dân qua các giai đoạn cách mạng (1930-1993) ....................

1.2. Những chủ trương và biện pháp của Đảng xây dựng khối 20 đại đoàn kết toàn dân lên tầm cao mới, chiều sâu mới (1993-2003)

1.2.1. Chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ............................................................. 20

42

1.2.2. Tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và phát huy vai trò Mặt trận Dân tộc Thống nhất .................................................................................................................. Chương 2: ĐẢNG TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG 56 KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM

56

2003-2007 2.1. Chủ trương và biện pháp của Đảng nhằm tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc (2003-2007) ........................................................................................

67 2.2. Bước phát triển mới về đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò của Mặt trận Dân tộc Thống nhất ..................................................................................................................

75

Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ 3.1. Một số nhận xét tổng quát về sự lãnh đạo của Đảng .............................................. 75 3.2. Những ưu điểm và hạn chế ......................................................................................................................... 78 88 3.3. Bài học kinh nghiệm ...........................................................................................................................................

89 3.4. Đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trước yêu cầu phát triển mới của đất nước .............................................................................

KẾT LUẬN

101

TÀI LIỆU THAM KHẢO

105

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận cấu thành trong đường lối chiến

lược cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam sáng

lập, lãnh đạo. Nhờ có đường lối đúng đắn, có nguồn sức mạnh vô địch của

khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân Việt Nam đã liên tiếp giành được

những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất

nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trước đây và trong công

cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đều nhất quán: Đại

đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp

nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến

lược của cách mạng Việt Nam. Đây là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và

là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hiện nay, Đảng chủ trương phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào

dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài

nước, không phân biệt thành phần xã hội và dân tộc, quá khứ và ý thức hệ, tôn

giáo và tín ngưỡng, miễn là tán thành công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu giữ

vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện

thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà

hạt nhân là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thực hiện bằng

2

nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách,

pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam (bao gồm các đoàn thể nhân dân). Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong việc củng cố, tăng cường khối đại

đoàn kết toàn dân tộc, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà

nước, góp phần tạo nên sự đồng thuận cao trong xã hội, động viên nhân dân

phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính

quyền trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân.

Với tình hình quốc tế và trong nước hiện nay, chiến lược tăng cường

phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đang trở thành nhiệm vụ thường

xuyên, quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Việc chọn

đề tài Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ

năm 1993 đến năm 2007 làm luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử là cần thiết.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Cho đến nay, các công trình lớn, tiêu biểu viết về việc xây dựng khối

đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam trong tình

hình mới chủ yếu là: Lịch sử Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, quyển

III (1975-2004) (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007); Đại đoàn kết dân

tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh (Đỗ Mười-

Lê Quang Đạo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); Đại đoàn kết dân tộc

phát huy nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế thực hiện công nghiệp

hoá hiện đại hoá đất nước (Vũ Oanh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998);

Đại đoàn kết dân tộc - động lực chủ yếu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học-thực tiễn, Hà Nội, 2002); Phát huy sức

mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo

3

tư tưởng Hồ Chí Minh (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kỷ

yếu Hội thảo khoa học-thực tiễn, Hà Nội, 2005); Tư tưởng Hồ Chí Minh về

Đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất (Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, 1996); Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát

huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới (Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội 2004) ...

Ngoài ra, trên các sách, tạp chí khoa học, báo cũng có một số bài viết,

nghiên cứu về đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã khái quát, đề cập tương

đối rộng và phản ánh được nhiều khía cạnh về xây dựng khối đại đoàn kết,

góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận trong thời kỳ mới. Song, chưa có

một công trình chuyên khảo trực tiếp nào về Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng

khối đại đoàn kết trong thời kỳ từ năm 1993 đến năm 2007.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đánh giá, tìm hiểu thực trạng Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng khối đại

đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,

vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu tư tưởng và quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản

Việt Nam về đại đoàn kết dân tộc và quá trình tập hợp, vận động nhân dân

qua các giai đoạn cách mạng (1930-1993).

- Làm rõ những nội dung cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc

lãnh đạo, tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm 1993 đến

năm 2007. Trên cơ sở đó, rút ra những kinh nghiệm, ý nghĩa thực tiễn để góp

phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới hiện nay.

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Quá trình xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương đại đoàn kết

toàn dân tộc và phát triển Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của Đảng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm

1993 đến năm 2007 là một đề tài rộng, nên luận văn chỉ đề cập, khái quát có

hệ thống đến các chủ trương chính liên quan đến việc xây dựng sự nghiệp đại

đoàn kết toàn dân tộc thông qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản

Việt Nam. Luận văn còn đánh giá những thành tựu chính việc đưa các chủ

trương đó vào cuộc sống.

5. Cơ sở lý luận, tư liệu và phương pháp

5.1. Cơ sở lý luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc và Hội nghị Trung ương từ Đại

hội VI (12-1986) đến nay. Các Văn kiện Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

toàn quốc và Hội nghị Đoàn Chủ tịch, Hội nghị Uỷ ban Trung ương từ Đại

hội III (11-1988) đến nay.

5.2.Nguồn tư liệu

Nguồn tài liệu chủ yếu: Các văn kiện Đại hội Đảng và một số Nghị

quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn từ

năm 1993 đến năm 2007 liên quan đến đại đoàn kết toàn dân tộc.

Ngoài ra, các bài phát biểu của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam các thời kỳ; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

nhiệm kỳ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khoá III, IV, V, VI); các văn kiện các

Hội nghị Đoàn Chủ tịch, Hội nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt

5

Nam (khoá III, IV, V, VI) và một số công trình nghiên cứu về sự nghiệp đại

đoàn kết toàn dân tộc.

5.3. Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn, sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp logíc, tổng hợp,

tiếp cận hệ thống, so sánh, phân tích... để làm nổi bật những quan điểm của

Đảng về lãnh đạo, tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

6. Đóng góp khoa học của luận văn

Luận văn góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống những nội dung

cơ bản các chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về lãnh đạo, tổ chức xây

dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm 1993 đến năm 2007.

Khẳng định sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược

của cách mạng Việt Nam; là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết

định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bước đầu nêu lên một số kinh nghiệm nhằm thiết thực góp phần nghiên

cứu và phát triển sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm có 3 chương.

6

Chương 1

ĐẢNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM 1993-2003

1.1. Cơ sở tư tưởng của sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn

dân tộc

1.1.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản

Việt Nam về đại đoàn kết toàn dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và thực hiện đại đoàn kết toàn

dân tộc là tư tưởng lớn ở tầm chiến lược, thể hiện nhuần nhuyễn và tinh tế sự

thống nhất giữa tư tưởng, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh luôn có

tính thời sự. Người là nhà thiết kế và thực hành kiểu mẫu của đoàn kết và đại

đoàn kết toàn dân tộc, là biểu tượng nổi bật nhất và là linh hồn của khối đại

đoàn kết toàn dân tộc.

Cơ sở tạo thành tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc Hồ Chí Minh là chủ

nghĩa nhân văn, là truyền thống yêu nước thương dân. Nhìn từ góc độ cá

nhân, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh mang đậm tính vị tha, lòng

nhân ái và đức tin mãnh liệt vào con người, vào nhân dân. Hồ Chí Minh

không chỉ kêu gọi, vận động mọi người đoàn kết, đại đoàn kết, mà chính

Người còn cảm hoá, cuốn hút, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân bằng tấm

lòng “trung với nước, hiếu với dân”, bằng cuộc đời “cần, kiệm, liêm, chính,

chí công, vô tư”, bằng phẩm chất “phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di,

uy vũ bất năng khuất” (tạm dịch: Giàu sang không thể cám dỗ, nghèo khó

không thể chuyển lay, quyền uy không thể khuất phục)... Với Hồ Chí Minh,

suốt cả cuộc đời “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho

7

nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai

cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [17, tr. 161].

Sự thống nhất hài hoà giữa tư tưởng, hành động, đạo đức, nhân cách Hồ

Chí Minh đã làm cho đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ và không còn là

khẩu hiệu tư tưởng mà thật sự đã trở thành động lực, sức mạnh quy tụ toàn

dân tộc vào sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc là một chiến lược của

cách mạng. Đây là nội dung cơ bản nhất, chung nhất, vì có đại đoàn kết thì

mới chiến thắng được kẻ thù của dân tộc và mới chiến thắng được nghèo nàn,

lạc hậu. Theo Người, đoàn kết dân tộc là đoàn kết rộng rãi, không phân biệt

bất cứ một ai, miễn là người Việt Nam yêu nước, chống đế quốc, tán thành

xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đại đoàn kết toàn dân tộc với Hồ Chí

Minh không phải là một thủ đoạn chính trị nhất thời, mang tính chất sách lược

mà là một vấn đề chiến lược, có ý nghĩa sống còn, lâu dài, quyết định sự

thành bại của cách mạng. Ở những giai đoạn cách mạng khác nhau, phương

pháp cách mạng, bố trí lực lượng, tổ chức...có thể thay đổi, điều chỉnh cho

phù hợp, còn đại đoàn kết toàn dân tộc là một chiến lược không thể thay đổi.

Đối với Người, đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là phương pháp tập hợp,

tổ chức lực lượng cách mạng mà nó có ý nghĩa cao hơn, nó trở thành một bộ

phận hữu cơ, một tư tưởng xuyên suốt trong đường lối chiến lược của cách

mạng. Bởi vì, đường lối chiến lược đúng đắn thì phải đề ra được mục tiêu,

nhiệm vụ, phương pháp phù hợp với nguyện vọng của đa số nhân dân lao

động, từ đó mới có thể huy động được sức mạnh to lớn của họ vào sự nghiệp

chung.

Hồ Chí Minh luôn khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,

đại đoàn kết phải dựa trên sự đồng tâm nhất trí của mọi người, mọi tầng lớp

nhân dân. Đoàn kết dựa trên sự giác ngộ về mục đích chung, cùng tranh đấu

8

cho độc lập tự do của dân tộc, ở đó có sự thống nhất của lợi ích chung và lợi

ích riêng, cuộc sống và số phận của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi tập thể nằm

trong cuộc sống và số phận chung của cả cộng đồng dân tộc. Lý tưởng và mục

đích chung đó được giác ngộ sẽ làm cho mỗi người tự nguyện, tự giác gắn bó

với nhân dân và dân tộc mình, chung sức, chung lòng, phấn đấu hy sinh cho

thắng lợi của sự nghiệp mà mình theo đuổi và vì vậy, đoàn kết toàn dân tộc

phải trở thành nhu cầu, trở thành một đòi hỏi khách quan của bản thân quần

chúng trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng. Đoàn kết là thắng lợi. Người

nói: “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”

[21, tr. 276]. Đoàn kết toàn dân tộc theo Hồ Chí Minh, không chỉ có ý nghĩa

trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn có ý nghĩa rất to lớn trong cách

mạng xã hội chủ nghĩa. Người nêu rõ: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là

một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một

xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Để thực

hiện điều đó, Người nhắc luôn nhắc nhở phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà

đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và tầng lớp nhân dân lao động

khác. Ngay cả với giai cấp tư sản dân tộc, chiến lược đại đoàn kết dân tộc Hồ

Chí Minh vẫn xem họ là một thành viên của dân tộc, cần được cải tạo hoà

bình và vì mục đích bảo vệ, xây dựng đất nước.

Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc Hồ Chí Minh có nội dung

phong phú và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Chiến lược đại đoàn kết dân tộc

Hồ Chí Minh là hệ thống những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp và biện

pháp giáo dục, tổ chức, hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng

nhằm phát huy tới mức cao nhất sức mạnh của toàn thể dân tộc trong sự

nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Trong hệ thống nội dung phong phú của tư tưởng Hồ Chí Minh trên các

lĩnh vực, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc là sự thể hiện tư duy độc lập, tự

9

chủ của Người trong việc kế thừa truyền thống cố kết dân tộc của tổ tiên, tiếp

thu và phát triển biện chứng tư tưởng tập hợp quần chúng của các nhà tư

tưởng cách mạng phương Đông và phương Tây, của học thuyết cách mạng

thời đại của Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam. Đó là, nếu không giải

phóng dân tộc thì cũng không giải phóng được giai cấp. Người chỉ rõ: Muốn

giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông vào mình. Đối với cách mạng Việt

Nam muốn giành được thắng lợi phải dựa trên lực lượng cách mạng to lớn

của cả dân tộc, trong đó có sự tham gia đông đảo của các lực lượng công nhân,

nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân khác.

Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, các tổ chức

cách mạng như: Thanh niên, Phụ nữ, Công đoàn... trong đó tổ chức Mặt trận

Thống nhất dân tộc được nêu ra trong Chỉ thị ngày 18-11-1930 của Ban

Thường vụ Trung ương Đảng về vấn đề thành lập Hội Phản đế đồng minh là

một minh chứng về đường lối tập hợp rộng rãi lực lượng của các tầng lớp

nhân dân vào cuộc đấu tranh giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam.

Luôn luôn theo dõi, chỉ đạo mỗi bước đi của cách mạng Việt Nam, tháng

2-1941, Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Pháp-

Nhật, giành độc lập tự do cho dân tộc. Bối cảnh trong nước và thế giới có

những chuyển biến hết sức mau lẹ mà nếu không nắm chắc thời cơ vận hội

đánh Tây, đuổi Nhật thì dân tộc Việt Nam mãi mãi chịu kiếp ngựa trâu. Người

đã sáng lập Mặt trận Việt Minh, kêu gọi các giai cấp, tầng lớp, thanh niên phụ

nữ, thiếu nhi, binh lính, sĩ phu, điền chủ... tập hợp dưới ngọn cờ độc lập tự do

của Việt Minh để chuẩn bị lực lượng, tiến lên Tổng khởi nghĩa để giành chính

quyền Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà

nước chung của cả dân tộc.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong tình thế nước Việt Nam

dân chủ cộng hoà đang bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây, tấn công từ

10

nhiều phía, Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Hồ Chí Minh đã lãnh

đạo hướng mọi nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân vào việc vận động nhân dân

diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm nhằm giữ vững chính quyền. Khẩu hiệu

chiến lược của chúng ta lúc này là: "Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết". Hội

Liên hiệp Quốc dân được thành lập. Thống nhất dân tộc là một vũ khí sắc bén

để nhìn thẳng quân thù.

Với mục tiêu chiến lược và phương châm trên, Hồ Chí Minh đã đặt nền

móng vững chắc về lý luận và thực tiễn cho việc đa dạng hoá các hình thức

tập hợp nhân dân, trong đó phát huy vai trò của từng tổ chức chính trị-xã hội,

dân tộc, tôn giáo và cá nhân tiêu biểu là hiện thân tinh thần đoàn kết trong

cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và công cuộc xây dựng đất nước sau

này. Theo Người, hễ ai là người Việt Nam thì ít nhiều đều có lòng yêu nước

hướng về cội nguồn dân tộc. Từ đó, Người phát hiện, động viên, uốn nắn,

chia sẻ, hướng họ về với chính nghĩa, phát huy những mặt tốt, hạn chế những

bất đồng lầm lạc. Vì vậy, cùng với lực lượng tổ chức chính trị-xã hội to lớn,

từ các nhân sĩ tiêu biểu như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Bùi Bằng

Đoàn, Phạm Khắc Hoè,... đến các thủ lĩnh, tù trưởng Vi Văn Định, Vương

Chí Sình, các chức sắc tôn giáo và hàng trăm trí thức tài giỏi đều theo Người

tham gia vào kháng chiến.

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, chính quyền nhân dân được thiết lập,

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân

và vì dân. Đó là điểm xuất phát, là cơ sở nền tảng của công tác dân vận và

Mặt trận của Hồ Chí Minh: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều

vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là

trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân"

[18, tr .698]. Người đề cập đến Đảng và các đoàn thể quần chúng, hệ thống

chính trị (theo cách mới hôm nay) đều có bản chất chung là của dân, do dân

11

và vì dân. Người căn dặn đội ngũ cán bộ phải gần dân, phải xuất phát từ lợi

ích của nhân dân, đồng thời chỉ ra những biểu hiện tham nhũng, sa đoạ của số

ít cán bộ lúc bấy giờ. Người xem đó là thứ giặc "nội xâm" mà giặc nội xâm

cũng nguy hiểm không kém gì giặc ngoại xâm.

Riêng đối với công tác dân vận không phải bao giờ cũng được các cấp,

các ngành quan tâm. Trước tình hình nhiều địa phương một số cán bộ chưa

hiểu thấu đáo công tác dân vận, ngày 15-10-1949 trong bài báo Dân vận, Hồ

Chí Minh phê phán thái độ coi thường công tác dân vận, Người chỉ rõ: "Dân

vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một

người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc

nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho" [18, tr .698].

Tất cả chủ đề, đối tượng, nội dung, mục tiêu và phương pháp hoạt động được

chứa đựng trong khái niệm trên. Ở đây, Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến nội

dung vận động là xây dựng từ mỗi người dân cho đến toàn dân để thực hiện

mục tiêu cách mạng trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, để tập hợp vận động có

hiệu quả, vấn đề lợi ích của nhân dân phải được thể hiện ở đường lối, chủ

trương, chính sách pháp luật của Nhà nước thì mới tập hợp được nhân dân và

tạo thành các phong trào cách mạng của quần chúng. Người luôn dạy các cán

bộ đảng viên: "Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến

dân, ta phải hết sức tránh" [16, tr.56-57].

Quan tâm, chăm lo lợi ích cho nhân dân, phải đi đôi với chống quan

liêu, tham nhũng, lãng phí. Đây là những vấn đề được Hồ Chí Minh luôn trăn

trở, đồng thời cảnh báo nguy cơ sa đoạ của một số cán bộ đảng viên, do đó

Người luôn quan tâm giáo dục cán bộ, đảng viên phải gương mẫu nâng cao

đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn quan

tâm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chăm lo củng cố và nâng cao vai

12

trò, vị trí của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam: "Chính sách mặt trận là

một chính sách rất quan trọng. Công tác mặt trận là một công tác rất quan

trọng trong toàn bộ công tác cách mạng" [23, tr 605]. Dù trong bất kỳ giai

đoạn cách mạng nào, công tác mặt trận đều đóng vai trò quan trọng. Do đó,

người cán bộ làm công tác dân vận, mặt trận phải rèn luyện phẩm chất và

năng lực, phải có quan điểm quần chúng, hiểu dân và thương dân, phải có tác

phong: Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm chứ không

phải chỉ nói suông, có như vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ mặt trận trong

thời kỳ mới.

Dựa trên cơ sở tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, kế thừa phát huy truyền

thống cố kết dân tộc của tổ tiên, qua các giai đoạn của cuộc đấu tranh trường

kỳ gian khổ chống ách áp bức bóc lột của thực dân và phong kiến, Đảng đã

xác định và đánh giá đúng vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân. Thực tiễn

hơn 78 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã thể hiện

rõ vai trò quyết định của mình trong đấu tranh cách mạng, và ngày nay, trong

sự nghiệp đổi mới nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Từ ngày thành lập Đảng đến nay, trải qua mười lần đại hội, không có

đại hội nào, Đảng Cộng sản Việt Nam không đề cập đến vị trí, vai trò, nội

dung của công tác vận động nhân dân và xác định trách nhiệm của các tổ chức

đảng, của cán bộ, đảng viên tiến hành công tác vận động nhân dân theo nhiệm

vụ và vai trò của mình. Sự đóng góp to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sự

nghiệp đại đoàn kết dân tộc đã được Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đảng ta có chính sách

mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết rất vẻ

vang của dân tộc ta" [23, tr.605].

Đánh giá những thành tích của công tác mặt trận, Đảng cũng nghiêm khắc

uốn nắn sai lầm thiếu sót về nhận thức và bố trí cán bộ, đồng thời đề ra yêu cầu

13

gấp rút chỉnh đốn về công tác này, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, các cấp

uỷ cần đưa những đồng chí có uy tín và năng lực vào các cấp mặt trận và các

ngành dân vận để vận động toàn dân thi hành chính sách của Đảng.

Trong quá trình vận động nhân dân, đại đoàn kết là tư tưởng bao trùm

khi xác định vị trí, tính chất hoạt động của các đoàn thể, các tổ chức chính trị

trong xã hội ta. Đoàn kết, tương trợ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau là một

trong những nét nổi bật trong đời sống tinh thần người Việt Nam. Truyền

thống đại đoàn kết toàn dân tộc được bắt nguồn từ trong cuộc sống dựng xây

và bảo vệ Tổ quốc đã trở thành một trong những truyền thống nổi bật trong

đời sống tinh thần người Việt Nam. Tầm sâu văn hoá đó đã được soi sáng

nâng cao và mở rộng khi tư tưởng Hồ Chí Minh về: "Đoàn kết, đoàn kết, đại

đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công" [23, tr.605] truyền bá vào

nước ta trên một bình diện mới, chất lượng mới được tiếp tục thực hiện.

Tinh thần đó được Đảng Cộng sản Việt Nam thấm nhuần, vận dụng và

nâng cao trong điều kiện mới, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới toàn diện

đất nước hiện nay. Những quan điểm tư tưởng của Đảng và của Hồ Chí Minh

được tiếp tục khẳng định trong các Đại hội Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc VI của Đảng (12-1986) đã tổng kết bài học

số một của cách mạng nước ta là: "Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng

phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ

của nhân dân lao động" [47, tr.188], phê phán tệ quan liêu, đi ngược lại lợi ích

nhân dân, làm suy yếu sức mạnh của Đảng.

Nghị quyết số 8B/NQ-TW của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khoá VI) Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng

cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ngày 27-3-1990, là nghị quyết

vừa có tính chiến lược cơ bản vừa cấp bách thể hiện trên bốn quan điểm:

Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Động lực

14

thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và

kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân.

Các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng. Công tác dân vận là trách

nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.

Đề cập về đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, Nghị quyết số 8B có nêu:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò to lớn trong việc củng cố

và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến cơ sở

phải thực hiện tốt vai trò của Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh

đạo của Mặt trận, trình bày các chủ trương, chính sách của Đảng, lắng

nghe ý kiến và cùng bàn bạc, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống

nhất hành động giữa các thành viên của Mặt trận, động viên phong trào

hành động cách mạng rộng lớn của nhân dân. Công tác Mặt trận cần đi

sâu vận động các cụ phụ lão, các nhân sĩ, công thương gia, những

người tiêu biểu của các dân tộc thiểu số, các chức sắc tôn giáo và của

người Việt ở nước ngoài [47, tr.312].

Đại hội đại biểu toàn quốc lẩn thứ VII của Đảng (6-1991) và Hội nghị

toàn quốc giữa nhiệm kỳ (01-1994) đều nhấn mạnh tầm quan trọng của công

tác vận động nhân dân, mở rộng khối đại đoàn kết, hoàn chỉnh các chính sách

đảm bảo lợi ích và phát huy vai trò của công nhân, nông dân, trí thức, thanh

niên, phụ nữ, dân tộc, tôn giáo, nhà công thương, cộng đồng người Việt Nam

định cư ở nước ngoài.

1.1.2. Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam trong quá trình tập

hợp vận động nhân dân qua các giai đoạn cách mạng (1930-1993)

Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông

Dương đã ra Chỉ thị Về vấn đề thành lập "Hội Phản đế đồng minh". Chỉ thị

15

nêu rõ: "Giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông

Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật đông,

thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công" [2, tr. 227].

Chỉ thị ra đời giữa lúc cao trào cách mạng trong toàn quốc đã diễn ra

sôi nỗi, mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Qua thực tiễn phong trào, ý thức

phản đế trong nhân dân thể hiện mạnh mẽ, trong đó có cả trí thức, sĩ phu, phú

nông, tiểu địa chủ,... Vì vậy, tổ chức Hội Phản đế Đồng Minh là một công tác

khẩn cấp của Đảng. Đây là một chỉ thị đặc biệt quan trọng thể hiện quan

điểm, chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất của Đảng. Là một văn

kiện lịch sử quan trọng về Mặt trận của Đảng, của dân tộc Việt Nam. Chính

với tầm quan trọng lịch sử đó, ngày 18-11-1930 trở thành ngày truyền thống

lịch sử của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam.

Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam và các tổ chức chính

trị xã hội là một yêu cầu khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở một

nước thuộc địa như ở Việt Nam. Đây là sự nhận thức đúng đắn của Hồ Chí

Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ trương huy động sức mạnh của cả

dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột và xây dựng

xã hội mới.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, căn cứ vào bối cảnh cụ

thể của cách mạng mà các hình thức tập hợp, vận động nhân dân được thể

hiện dưới hình thức, tên gọi khác nhau. Tuy nhiên, dù dưới hình thức, tên gọi

nào vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu. Thời kỳ vận

động dân chủ (1936-1939), Đảng đề ra chủ trương mới, tập hợp lực lượng

quần chúng rộng rãi, chống phản động thuộc địa, chống chiến tranh, đòi hoà

bình, quyền dân chủ, dân sinh, v.v... Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng chủ

trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi, sau đổi thành Mặt trận

dân chủ thống nhất là một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong thời kỳ này.

16

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nỗ, phát xít Nhật nhảy vào Đông

Dương, nhân dân các nước ở Đông Dương lại bị hai tròng áp bức của Pháp và

Nhật. Vận mệnh của các dân tộc ở Đông Dương nguy vong không lúc nào

bằng. Trước hoàn cảnh mới đó, Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (5-1941) do Hồ Chí Minh chủ trì đã quyết định thay đổi

chiến lược, coi cách mạng ở Đông Dương lúc này là cách mạng giải phóng

dân tộc nên phải thống nhất lực lượng toàn dân tộc, không phân biệt thợ

thuyền, dân cày, phú nông, tiểu tư sản, tư sản bản xứ... ai có lòng yêu nước

thương nòi vào Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi là Việt Nam Độc lập

đồng minh (Việt Minh) nhằm đánh Pháp, đuổi Nhật giành quyền độc lập tự

do cho các dân tộc Đông Dương... Đảng và Hồ Chí Minh đã kêu gọi, thu hút,

hiệu triệu tất cả các lực lượng nhân dân đông đảo, không phân biệt các thành

phần, giai cấp, dân tộc, ý thức hệ... đứng về phía cách mạng giành lấy chính

quyền khi thời cơ đến. Nhờ chính sách đoàn kết rộng rãi, dưới sự lãnh đạo của

Đảng và Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám đã thành công, lập nên nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong thời kỳ kháng chiến 1946-1954, Hội

Liên Việt đã được thành lập và đến năm 1951, Việt Minh và Hội Liên Việt

hợp nhất thành một Mặt trận chung là Mặt trận Liên Việt. Tại Đại hội thống

nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt (3-1951)

Hồ Chí Minh khẳng định và nêu rõ kết quả tiềm năng to lớn của sức mạnh đại

đoàn kết: "Hôm nay, trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và

gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai:

"trường xuân bất lão". Vì vậy cho nên lòng tôi sung sướng vô cùng" [19,

tr.181]. Lời khẳng định của Hồ Chí Minh trên đây không chỉ nói lên niềm vui

trước sự lớn mạnh của Mặt trận dân tộc thống nhất mà còn là sự cần thiết phải

mở rộng mặt trận trong tương lai với vai trò to lớn trong việc cổ vũ động viên

17

nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với một sức sống

"trường xuân bất lão".

Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng

lợi, lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc. Năm

1955, dưới yêu cầu mới của cách mạng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được

thành lập thay cho Mặt trận Liên Việt.

Đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, Hồ Chí Minh khẳng định:

Một mặt trận của nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi là một lực lượng tất

thắng. Hiện nay đồng bào ta ở miền Nam cũng có Mặt trận Dân tộc giải

phóng với chương trình hành động thiết thực và phù hợp với nguyện vọng

chính đáng của nhân dân. Do đó, có thể đoán rằng đồng bào miền Nam nhất

định thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ thống nhất, Nam Bắc sẽ sum họp một

nhà. Ở miền Bắc đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ở miền Nam

đoàn kết trong Mặt trận dân tộc giải phóng, nhân dân ta thực hiện lời di chúc

của Hồ Chí Minh, đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào, giang sơn thu về

một mối. Sau khi Tổ quốc được thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã

đoàn kết toàn dân bước vào thời kỳ cả nước tiến lên thực hiện cách mạng xã

hội chủ nghĩa.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò trách nhiệm

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thể chế hoá tập trung ở Điều 9 Hiến

pháp năm 1992:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở

chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống

đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong

nhân dân, tham gia xây dựng củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà

nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên

nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và

18

Pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử

và cán bộ viên chức Nhà nước [28, tr.66].

Quán triệt các quan điểm, Nghị quyết và đặc biệt thực hiện những quy

định của Hiến pháp, đối với công tác mặt trận trong thời kỳ đổi mới, Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam đã và đang là hiện thân của khối đại đoàn kết, không

ngừng lớn mạnh đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam (1977), Đại hội II (1983), Đại hội III (1988), Đại hội IV

(1994) đã đánh dấu những bước trưởng thành của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết

toàn dân, tích cực đổi mới phương thức tổ chức hoạt động, phát huy tinh thần

yêu nước, tích cực sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, góp phần xây dựng,

củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thông qua các cuộc vận động, các

phong trào thi đua yêu nước.

Trong điều kiện nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất

cầm quyền đã lãnh đạo dân tộc giành những thắng lợi vẻ vang được toàn thể

nhân dân ủng hộ, được quy định ở Điều 4 của Hiến pháp. Đồng thời, trong

điều kiện không có các đảng chính trị làm đối trọng như các thể chế chính trị

khác, Đảng phải tự đổi mới mình: nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng,

không ngừng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, chống quan liêu,

tham nhũng, thoái hoá, biến chất đánh mất lòng tin của nhân dân. Hồ Chí

Minh đã khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa Đảng với nhân dân và Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam: Đảng không hề đòi hỏi Mặt trận phải thừa nhận

quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là bộ phận trung thành nhất và trung

thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi

thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới

giành được vị trí lãnh đạo.

19

Là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng lớn nhất, Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam không ngừng vươn lên, làm cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và

nhân dân, phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời, Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam còn làm chức năng phản biện xã hội. Để Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam làm được chức năng này, các cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp

phải tạo cơ chế điều kiện cho Mặt trận tham gia giám sát và tổ chức cho nhân

dân phản biện xã hội. Trên lĩnh vực này, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải là

diễn đàn để các thành viên và các cá nhân bày tỏ những chính kiến của họ mà

không trái với luật pháp quy định, Mặt trận phải là nơi để Đảng và nhân dân

bàn việc nước.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức cụ thể của Mặt trận

Dân tộc Thống nhất Việt Nam chủ trương:

Phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự

lực, tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước,

không phân biệt thành phần xã hội và dân tộc, quá khứ và ý thức hệ, tôn

giáo và tín ngưỡng, miễn là tán thành công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu

giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ,

thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Xây dựng một nước Việt Nam

hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh", góp phần tích

cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội

trên thế giới [30, tr.80-81].

20

1.2. Những chủ trương và biện pháp của Đảng xây dựng khối đại

đoàn kết toàn dân lên tầm cao mới, chiều sâu mới (1993-2003)

1.2.1. Chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc

Năm 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản

Việt Nam tiếp tục giải đáp nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về công cuộc đổi

mới nói chung, về đại đoàn kết dân tộc, về Mặt trận Dân tộc Thống nhất nói

riêng và đã nhấn mạnh: từ sau Đại hội VI của Đảng, nhất là từ sau Hội nghị

lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các

đoàn thể nhân dân đã cố gắng đổi mới tổ chức và hoạt động. Đại hội của

nhiều đoàn thể đã được tiến hành theo tinh thần: đổi mới - dân chủ - đoàn kết.

Các đoàn thể, các tổ chức xã hội đã coi trọng việc đoàn kết, tổ chức đoàn

viên, hội viên cùng chăm lo giải quyết những lợi ích thiết thực. Bộ máy của

các đoàn thể ở các cấp được sắp xếp lại một bước. Thêm nhiều tổ chức xã hội,

tổ chức theo nghề nghiệp được thành lập (Hội Cựu Chiến binh Việt Nam,...),

thu hút đông đảo hội viên, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, nhất là ở cơ

sở. Trước yêu cầu đổi mới hiện nay, nhiều đoàn thể chưa xác định được thật

rõ chức năng, nhiệm vụ, còn lúng túng về phương thức hoạt động và xây dựng

tổ chức, do đó Đảng xác định: Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần

được đổi mới về tổ chức và hoạt động để thực sự góp phần thực hiện dân chủ

và đổi mới xã hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tham

gia các công việc quản lý nhà nước; giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật

thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân. Các đoàn thể có nhiệm vụ giáo

dục chính trị tư tưởng và đạo đức mới, động viên, phát huy tính tích cực xã

hội của các tầng lớp nhân dân, đoàn kết toàn dân, phấn đấu cho sự thành công

của công cuộc đổi mới.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 thông qua tại Đại hội VII khẳng

21

định loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, đồng thời

bước đầu đề ra những quan điểm cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi

lên chủ nghĩa xã hội trong kỳ quá độ ở nước ta. Vì vậy, văn kiện này đã đặt cơ

sở cho việc đoàn kết tập hợp lực lượng trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã nêu lên một bài học lớn về sức mạnh của quần

chúng, đó là:

Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân

dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt

động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của

nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân.

Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không

lường được đối với vận mệnh của đất nước [47, tr. 366].

Từ đó, Cương lĩnh khẳng định:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất

quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và

đổi mới xã hội, giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và

nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân

dân [47, tr. 366].

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội của Đảng còn xác định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị

của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã

hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận.

Ngày 21-2-1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) ban hành

Chỉ thị số 06-CT/TW Về việc chỉ đạo Đại hội các cấp Mặt trận Tổ quốc và

các đoàn thể đã nhấn mạnh: Trong bối cảnh mới của tình hình trong nước và

22

thế giới, Đại hội Mặt trận và các đoàn thể phải thực sự đổi mới về nội dung,

tổ chức và hình thức tiến hành. Nội dung Đại hội Mặt trận và các đoàn thể cần

quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của

Đảng và Nghị quyết đại hội Đảng các cấp; tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt

động của Mặt trận và các đoàn thể theo nội dung Nghị quyết 8B của Ban

Chấp hành Trung ương khoá VI tập trung vào những vấn đề quan trọng về

dân sinh, dân chủ; tham gia đấu tranh chống buôn lậu, chống tham nhũng; tích

cực tham gia xây dựng Đảng, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng và

nhân dân. Ban Bí thư yêu cầu nhân sự ban chấp hành các cấp cần được chuẩn

bị tốt, bảo đảm dân chủ, đúng quy trình, tránh tình trạng cập rập, thiếu chu

đáo.

Từ thực tiễn bước đầu của công cuộc đổi mới và những bài học kinh

nghiệm mà Đại hội lần thứ VI, Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt

Nam đã rút ra, đặc biệt là những kết quả qua 3 năm thực hiện Nghị quyết 8B

(ngày 27-3-1990) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Về đổi mới công tác

quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, đã

thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. Ngày 17-11-

1993, Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khoá VII) ra Nghị quyết số 07-NQ/TW

Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất. Nghị

quyết chỉ rõ trong tình hình mới, yếu tố dân tộc trở thành một đặc điểm cực

kỳ quan trọng. Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh

đạo, nhân dân ta đã thu được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, tạo ra

thế phát triển mới của đất nước. Đó là những điều kiện rất thuận lợi để tăng

cường khối đại đoàn kết toàn dân, đồng tâm nhất trí đưa nước ta ra khỏi lạc

hậu, nghèo nàn và tiếp tục phát triển. Đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề

mới cần quan tâm giải quyết. Để tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, làm

thất bại âm mưu và hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, chúng ta phải

23

ra sức củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố, mở rộng Mặt

trận dân tộc thống nhất.

Nghị quyết số 07-NQ/TW tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ chung của Mặt

trận dân tộc thống nhất là:

Phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực

tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới,

nhằm mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, chủ quyền quốc gia và

toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh [47, tr. 419].

Để hoàn thành nhiệm vụ trên, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ

trương cần quán triệt các chủ trương lớn sau đây:

- Đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc

Việt Nam, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo,

người trong nước và người định cư ở nước ngoài, vì mục tiêu chung nêu trên.

Đại đoàn kết chủ yếu phải lấy mục tiêu chung đó làm điểm tương đồng, đồng

thời chấp nhận những điểm khác nhau, không trái với lợi ích chung của dân

tộc, cùng nhau xoá bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù, hướng về tương lai, xây

dựng tinh thần đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau, tất cả vì độc lập của Tổ

quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.

- Đại đoàn kết dân tộc là đường lối cơ bản của Đảng và Nhà nước. Tư

tưởng đại đoàn kết phải được thể hiện trong mọi chủ trương, chính sách, pháp

luật của Nhà nước, trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an

ninh, quốc phòng, đối ngoại, nhằm đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng

của các giai tầng xã hội, gắn quyền lợi với trách nhiệm, lợi ích riêng của mỗi

người với nghĩa vụ công dân, lấy lợi ích dân tộc làm trọng. Khuyến khích

toàn dân thực hiện tốt các chính sách xã hội: đền ơn đáp nghĩa đối với những

người có công với nước, tham gia vào các việc công ích, các hoạt động nhân

24

đạo và từ thiện, giúp nhau xoá đói giảm nghèo, phát huy truyền thống nhân

nghĩa của cha ông.

- Xây dựng chính quyền nhân dân trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực

cao, thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Chính quyền nhân dân phải

bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của dân, giữ vững trật tự, kỷ cương

phép nước. Phát huy vai trò tích cực của những người tiêu biểu trong các giai

cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo. Hướng hoạt động tới địa bàn dân

cư xã, phường và hộ gia đình. Củng cố liên minh giữa giai cấp công nhân với

giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, thực sự làm nền tảng cho khối đại đoàn

kết toàn dân.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, Bộ Chính trị chủ trương tiếp tục củng cố,

mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận làm việc theo nguyên tắc: hiệp

thương dân chủ, hợp tác bình đẳng, đoàn kết chân thành, tôn trọng lẫn nhau,

phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên theo chương trình hành

động chung. Chú trọng kiện toàn Uỷ ban Mặt trận các cấp theo hướng tăng

thêm những người tiêu biểu có tín nhiệm và năng lực trong các giai tầng xã

hội, các dân tộc, các tôn giáo, giới trí thức, các doanh nghiệp tư nhân, v.v...

Bộ máy giúp việc Uỷ ban Mặt trận các cấp cần được tổ chức gọn nhẹ, trọng

chất lượng, thu hút được nhiều chuyên gia giỏi vào từng lĩnh vực hoạt động

của Mặt trận. Uỷ ban Mặt trận các cấp chủ trì trong việc phối hợp chung giữa

các tổ chức thành viên với chính quyền cùng cấp, trong công tác vận động

người cao tuổi, các nhân sĩ trí thức tiêu biểu, công thương gia, những người

tiêu biểu trong các dân tộc, các chức sắc tôn giáo, người Việt Nam ở nước

ngoài và thân nhân ở trong nước. Mở rộng hơn nữa các hoạt động đối ngoại

nhân dân của Mặt trận.

Bộ Chính trị yêu cầu: Các cơ quan nhà nước thể chế hoá trách nhiệm và

quyền hạn của Mặt trận để Mặt trận thực sự là cơ sở chính trị của chính quyền

25

nhân dân, nhất là tham gia quá trình bầu cử các cơ quan dân cử, xây dựng các

chính sách và đạo luật, tham gia quản lý kinh tế - xã hội, giám sát các hoạt

động của cơ quan nhà nước, các đại biểu dân cử và cán bộ, nhân viên nhà

nước. Các cơ quan nhà nước phối hợp hành động với Uỷ ban Mặt trận các

cấp, thực hiện đầy đủ những điều quy định trong Hiến pháp và pháp luật; tạo

điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động

có hiệu quả.

Bộ Chính trị còn nêu rõ:

Với trách nhiệm vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt

trận, Đảng phải thực hiện đúng vai trò tiên phong của mình; cán bộ,

đảng viên của Đảng phải gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách

và pháp luật, gắn bó mật thiết với nhân dân, thường xuyên tự phê bình

và lắng nghe ý kiến phê bình của nhân dân, của Mặt trận. Đảng lãnh

đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận và Đảng đoàn các tổ chức

thành viên của Mặt trận [47, tr.422].

Trong lịch sử Mặt trận, "đây là bản Nghị quyết chuyên đề thứ hai về

công tác mặt trận của Bộ Chính trị Trung ương Đảng" [43, tr. 358] (bản Nghị

quyết lần thứ nhất ra đời ngày 9-5-1962, là Nghị quyết Bộ Chính trị số 53-

NQ/TW về công tác Mặt trận dân tộc thống nhất). Nghị quyết số 07-NQ/TW

của Bộ Chính trị Trung ương Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, không chỉ

đặt cơ sở lý luận, thực tiễn mà còn là bước đột phá mới trong quan điểm nhận

thức về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất. Nghị quyết này

của Bộ Chính trị còn có ý nghĩa chiến lược, giải quyết những vấn đề cơ bản

lâu dài, đồng thời cũng chỉ ra những nhiệm vụ trước mắt của sự nghiệp đại

đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất. Những luận điểm

mới của nghị quyết là việc tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân

tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất cần phải được tiến hành đồng bộ về nhận

26

thức, về cơ chế, chính sách, pháp luật và tổ chức cán bộ; đại đoàn kết dân tộc

và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất phải được mở rộng về tổ chức và

phong trào hành động cách mạng của quần chúng.

Ngày 29-11-1993, Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khoá VII) có Nghị

quyết số 08-NQ/TW Về chính sách và công tác đối với người Việt Nam ở

nước ngoài. Những quan điểm cần thấu suốt trong chính sách và công tác vận

động là xem Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của

cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính

đáng của người Việt Nam ở nước ngoài trên cơ sở luật pháp nước sở tại, luật

pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế. Chính sách đại đoàn kết mọi người Việt

Nam ở trong nước và ở nước ngoài bắt nguồn từ truyền thống của dân tộc

Việt Nam. Cơ sở của sự đoàn kết, hoà hợp là ý thức dân tộc và lòng yêu nước

của mọi người Việt Nam, hướng vào mục tiêu độc lập dân tộc, dân giàu nước

mạnh, xã hội văn minh.

Nghị quyết nêu rõ:

Chính sách và công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài

phải đáp ứng những yêu cầu chính là: Bảo vệ quyền lợi chính đáng của

người Việt Nam ở nước ngoài. Nâng cao ý thức cộng đồng, tăng cường

đoàn kết tương trợ, đùm bọc giữa những người Việt Nam cùng sống ở

nước ngoài, giúp nhau ổn định cuộc sống và thành đạt trong sự nghiệp,

cùng nhau gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc và phẩm giá con người Việt

Nam, tôn trọng luật pháp nước sở tại, hoà nhập với xã hội và nhân dân

sở tại [47, tr. 425].

Việc tập hợp và đoàn kết kiều bào phải thông qua nhiều hình thức hoạt

động linh hoạt, thiết thực, thích hợp với các đối tượng khác nhau, trên cơ sở

tự nguyện và phù hợp với luật pháp và phong tục tập quán nước sở tại. Phát

triển rộng rãi phong trào phải đi đôi với việc phát hiện và giúp đỡ những

27

người hoạt động tích cực phát huy được vai trò cổ vũ, lôi cuốn đoàn kết của

những người này trong phong trào. Công tác vận động người Việt Nam ở

nước ngoài vừa thuộc chức năng của Nhà nước vừa là hoạt động mang tính

quần chúng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị coi người

Việt Nam ở nước ngoài và thân nhân của họ ở trong nước là một đối tượng

quan trọng trong công tác vận động của mình.

Ngày 24-12-1993, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) có chỉ thị

số 30-CT/TW Về việc thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị "Về đại đoàn

kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất". Ban Bí thư Trung

ương Đảng yêu cầu các cấp uỷ đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng làm tốt việc

tổ chức quán triệt nghị quyết trong các cấp uỷ đảng, đảng đoàn, ban cán sự,

nắm vững những nội dung cơ bản của nghị quyết, có liên hệ kiểm điểm việc

thực hiện chính sách và công tác mặt trận của Đảng nhằm phát huy ưu điểm,

khắc phục những nhận thức và hành động không đúng; chỉ đạo hướng dẫn

việc phổ biến nghị quyết đến tận chi bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Các Ban cán sự Đảng chỉ đạo cơ quan nhà nước cụ thể hoá nghị quyết bằng

các văn bản pháp quy; sửa đổi, bổ sung những chính sách liên quan trực tiếp

đến đại đoàn kết dân tộc; xây dựng quy chế phối hợp hoạt động giữa Nhà

nước với Mặt trận; giải quyết kinh phí và các điều kiện cần thiết khác để Mặt

trận hoạt động có hiệu quả. Tăng cường sự lãnh đạo và đổi mới phương pháp

lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận: cấp uỷ đảng sớm kiện toàn Đảng đoàn

Mặt trận các cấp, cử Phó Bí thư hoặc Uỷ viên Thường vụ tham gia Uỷ ban

Mặt trận cùng cấp và trực tiếp làm Bí thư Đảng đoàn; quán triệt nội dung cơ

bản của nghị quyết này vào nội dung văn kiện hội nghị đại biểu của Đảng

giữa nhiệm kỳ ở từng cấp; bố trí đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực

chuyên trách làm công tác mặt trận. Chỉ đạo việc củng cố và mở rộng Uỷ ban

Mặt trận các cấp theo hướng tăng tỉ lệ những người ngoài Đảng có tín nhiệm

28

và năng lực tiêu biểu cho các giai tầng xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, giới

trí thức, các doanh nghiệp tư nhân. Các cấp uỷ đảng thông qua Đảng đoàn

Mặt trận và đảng đoàn các đoàn thể chỉ đạo Uỷ ban Mặt trận các cấp chủ trì

phối hợp với các tổ chức thành viên tổ chức các phong trào hành động cách

mạng của quần chúng theo chương trình chung thực hiện các mục tiêu kinh tế

- xã hội, các nhiệm vụ an ninh - quốc phòng, đáp ứng nhu cầu về nghề nghiệp

và đời sống của nhân dân ở địa phương, cơ sở; mở rộng các hình thức tập hợp

quần chúng; vận động những thành phần xã hội.

Để tiếp tục đưa công cuộc đổi mới tiến lên, cần xem xét tình hình đất

nước sau 8 năm đổi mới, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận, đường lối

và thực tiễn, bổ sung một số chủ trương, giải pháp lớn. Đó là lý do tiến hành

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng Cộng sản Việt

Nam được tổ chức vào tháng 1-1994. Hội nghị đã khẳng định những thành

tựu to lớn của công cuộc đổi mới và có đề cập đến việc:

Mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố mối quan hệ mật thiết

giữa Đảng và nhân dân. Thấm nhuần tư tưởng của Bác Hồ, thực hiện đoàn kết

rộng rãi mọi người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới, vì độc lập dân tộc,

phấn đấu thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội

công bằng, văn minh. Lấy đại nghĩa dân tộc làm điểm tương đồng, đồng thời

chấp nhận những điểm khác nhau mà không trái với lợi ích chung, cùng nhau

xoá bỏ mặc cảm, hận thù, hướng về tương lai. Tư tưởng đại đoàn kết phải thể

hiện trong mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước [8. tr.60].

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng Cộng

sản Việt Nam còn chủ trương: Hoàn thiện các chính sách bảo đảm lợi ích và

phát huy vai trò của công nhân, nông dân, trí thức. Bồi dưỡng, phát huy lực

lượng thanh niên, phụ nữ. Bổ sung và thực hiện tốt các chính sách của Đảng

và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các nhà công thương,

29

cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Các cấp uỷ đảng, các đảng đoàn và

ban cán sự phải tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết của

Trung ương và Bộ Chính trị về đại đoàn kết dân tộc, công tác mặt trận và các

đoàn thể nhân dân; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chính quyền

và các đoàn thể. Đổi mới nội dung, phương thức và phong cách hoạt động của

Mặt trận và các đoàn thể.

Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng mở ra một chặng đường mới cho sự

nghiệp đại đoàn kết dân tộc, đánh dấu một thời kỳ tiếp tục ổn định kinh tế-xã

hội của Việt Nam. Cùng với việc mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá quan

hệ quốc tế là việc các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế và Mỹ bỏ cấm vận với

Việt Nam, từng bước bình thường hoá quan hệ Việt-Mỹ. Tình hình mới đòi

hỏi Đảng, Nhà nước, Mặt trận cần bổ sung, hoàn chỉnh những chủ trương,

chính sách đã ban hành không chỉ ở lĩnh vực kinh tế mà còn đặc biệt chú

trọng tới lĩnh vực xã hội, văn hoá, giáo dục.

Ngày 30-7-1994, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương

Đảng (khoá VII) ra Nghị quyết Về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm

2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai

cấp công nhân trong giai đoạn mới, đã đề ra yêu cầu phát huy vai trò của Mặt

trận và các đoàn thể nhân dân một cách cụ thể:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy vai trò to lớn trong việc

đoàn kết toàn dân, thống nhất ý chí và hành động vì thành công của sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuyên truyền, hướng dẫn mọi

người cần kiệm làm ăn, mở mang sản xuất kinh doanh ích nước lợi nhà,

làm tròn nghĩa vụ với nhà nước; tích cực tham gia đóng góp các kế sách

làm cho dân giàu, nước mạnh [43, tr 361].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam tổ

chức cuối tháng 6-1996 đã tổng kết 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới,

30

kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng, đề ra mục

tiêu, phương hướng và giải pháp đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đến năm 2020 và trước mắt năm 2000. Đại hội đưa ra 6 bài

học chủ yếu của 10 năm đổi mới; trong đó có bài học về mở rộng và tăng

cường khối đại đoàn kết toàn dân và Mặt trận dân tộc thống nhất.

Khi đề cập đến việc tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai

trò làm chủ của nhân dân, xây dựng và hoàn thiện nhà nước, Đảng xác định

sự nghiệp xây dựng đất nước đòi hỏi mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết dân

tộc, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí

thức làm nền tảng, đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam

dù sống trong nước hay đang định cư ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả

cộng đồng, nêu cao truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc, lấy mục

tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, văn minh làm điểm tương đồng; đồng thời chấp nhận những điểm khác

nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xoá bỏ định kiến,

mặc cảm, hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần đại đoàn kết, cởi mở và tin

cậy. Đảng nhấn mạnh: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Chế độ ta là chế

độ do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phát huy vai trò làm chủ

của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược [47, tr.484].

Đảng chủ trương, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò làm

chủ của nhân dân trước hết phải thể hiện ở các chính sách cụ thể, thiết thực,

đáp ứng lợi ích hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn

giáo, tạo ra động lực mới thúc đẩy phong trào cách mạng. Thực hiện tốt cơ

chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực tiếp cùng

các hình thức tự quản tại cơ sở. Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt

động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, làm cho Mặt trận và các

31

tổ chức thành viên thực sự là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, dưới

sự lãnh đạo của Đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam còn xác định: Mở rộng và tăng cường khối

đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Cách mạng là sự

nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến,

nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối

đổi mới của Đảng. Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên, giành những

thành tựu lớn hơn, cần thực hiện tốt hơn nữa việc mở rộng, tăng cường khối

đại đoàn kết toàn dân, cả ở trong nước và ở nước ngoài, phát huy dân chủ,

động viên tối đa sức mạnh của toàn thể dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Đảng còn chủ trương, trong những năm tới, cần động viên mọi tiềm

năng sáng tạo, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân nhằm đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của kế hoạch 5

năm phát triển kinh tế-xã hội từ năm 1996 đến năm 2000. Bằng các chính

sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc trong nước, tạo ra

những động lực mới thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân. Xây dựng

cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực

hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện là các

cơ quan dân cử và các đoàn thể; làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân

dân tự quản, bằng các quy ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp

của Nhà nước.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng

định: Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Củng cố, mở rộng tổ chức và hoạt

động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức liên minh chính trị, liên

32

hiệp tự nguyện của các đoàn thể chính trị - xã hội và các cá nhân tiêu biểu

trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo. Mặt trận và

các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi phối

hợp thống nhất hành động của các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối,

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham gia với Đảng và Nhà

nước thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ, chăm lo và bảo vệ lợi ích

chính đáng của các tầng lớp nhân dân; bảo vệ Đảng và chính quyền, thực hiện

các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; góp

phần tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Thực hiện thành nền nếp việc Đảng và Nhà nước cùng bàn bạc và tham khảo

ý kiến của Mặt trận về những quyết định, chủ trương lớn.

Trên cơ sở đường lối do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của

Đảng đề ra, toàn dân Việt Nam ra sức đẩy mạnh các phong trào thi đua, tiếp

tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đưa công tác mặt trận và sự

nghiệp đại đoàn kết toàn dân lên bước phát triển mới.

Ngày 24-8-1998, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá

VIII) ban hành Chỉ thị số 40/CT-TW Về tăng cường lãnh đạo Đại hội Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam các cấp. Tinh thần cơ bản của Chỉ thị đã nêu: mở rộng

tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

trên cơ sở củng cố vững chắc nền tảng khối liên minh giai cấp công nhân với

giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm phát

huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Chỉ thị nhấn mạnh:

Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ Trung

ương đến cơ sở và khu dân cư, đảm bảo cho Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam thực sự là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, động viên

33

các tầng lớp nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình theo

quy định của Hiến pháp và pháp luật [47, tr.579-580].

Để thực hiện chủ trương trên, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

các cấp uỷ đảng tăng cường lãnh đạo việc tổng kết về tình hình thực hiện chủ

trương chính sách đại đoàn kết toàn dân, làm rõ nguyên nhân những mặt làm

được và chưa làm được; trên cơ sở đó kiến nghị với Đảng, Nhà nước những

vấn đề cấp thiết và lâu dài nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng

cường vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Chỉ thị số 40/CT-TW Về tăng cường lãnh đạo Đại hội Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam các cấp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng còn yêu cầu trên

cơ sở tổng kết về tình hình khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng đoàn Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam, các cấp uỷ đảng chỉ đạo Uỷ ban Mặt trận cùng cấp xây dựng

thật tốt Báo cáo chính trị và Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam trong nhiệm kỳ mới. Báo cáo chính trị cần đánh giá đúng thực chất

tình hình các tầng lớp nhân dân và hoạt động của hệ thống Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam; khẳng định những việc đã làm được, những mô hình và phương

thức hoạt động có hiệu quả, chỉ rõ những mặt chưa làm được của hệ thống

Mặt trận, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và xác định đúng phương hướng,

nhiệm vụ chủ yếu của Uỷ ban Mặt trận các cấp trong nhiệm kỳ mới. Chương

trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phải nhằm động viên

toàn dân tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước: "Tất cả vì mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh", thực hiện thắng lợi kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước; vận động các tầng lớp nhân

dân triển khai thực hiện thật tốt cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng

đời sống văn hoá", trong đó coi trọng nâng cao chất lượng và tiếp tục đẩy

mạnh thực hiện cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới

ở khu dân cư", thực hiện và giám sát thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tích

34

cực tham gia đấu tranh chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội; thực hiện nếp

sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.

Bộ Chính trị Trung ương Đảng còn yêu cầu: Đại hội Mặt trận Tổ quốc

các cấp phải thực sự tạo ra bước đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt

động của hệ thống mặt trận. Nhân sự Uỷ ban Mặt trận các cấp cần được chuẩn

bị chu đáo, đảm bảo dân chủ, đúng quy trình. Uỷ ban Mặt trận các cấp đảm

bảo tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân. Tham gia Uỷ ban Mặt trận phải

là những người có phẩm chất, có trí tuệ và năng lực vận động quần chúng, là

những người tiêu biểu và có uy tín trong các tầng lớp nhân dân, có khả năng

tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước liên quan đến khối đại đoàn kết toàn dân và hoạt động của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cơ cấu thành phần tham gia Uỷ ban Mặt trận các

cấp cần được mở rộng theo hướng tăng tỷ lệ người ngoài đảng, người có uy

tín và tiêu biểu trong các dân tộc, tôn giáo, trong các nhân sĩ, trí thức, công kỹ

nghệ gia, và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nên có đại biểu

là người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Các cấp uỷ cử cấp uỷ viên có năng

lực, có nhiệt tình, có tín nhiệm với nhân dân để giới thiệu vào cương vị chủ

chốt của Uỷ ban Mặt trận. Quá trình chuẩn bị và tiến hành đại hội phải thực

sự là một sinh hoạt chính trị rộng lớn của các tầng lớp nhân dân, tăng cường

sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong các tầng lớp nhân dân ủng hộ sự

nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng

và lãnh đạo.

Ngày 23-11-1998, Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương

Đảng có Thông báo số 183-TB/TW Về tổng kết việc thực hiện chủ trương,

chính sách đại đoàn kết dân tộc, nói rõ: Nhằm tăng cường lãnh đạo Đại hội

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 40-CT/TW,

ngày 24-8-1998, trong đó chỉ thị rõ Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

35

các cấp uỷ đảng tăng cường lãnh đạo việc tổng kết về tình hình thực hiện chủ

trương chính sách đại đoàn kết toàn dân, làm rõ nguyên nhân những mặt làm

được và chưa được, trên cơ sở đó kiến nghị với Đảng, Nhà nước những vấn

đề cấp thiết và lâu dài, nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường

vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Thông báo số 183 của Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng còn

nói rõ:

Những năm qua, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về

tăng cường đại đoàn kết dân tộc, việc thực hiện những nghị quyết đó

đã mang lại những thành tựu to lớn. Tuy vậy, trong thực tế việc thực

hiện chủ trương này cũng đang bộc lộ một số vấn đề bức xúc cần được

nghiên cứu giải quyết. Vì vậy, tổng kết tình hình khối đại đoàn kết

toàn dân là một công tác rất quan trọng, giúp Đảng và Nhà nước ta

thấy rõ thực trạng khối đại đoàn kết toàn dân để đề ra chủ trương,

chính sách và giải pháp nhằm tăng cường tập hợp mọi tầng lớp nhân

dân, phát huy nội lực, thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn

minh [47, 591-592].

Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng còn yêu cầu các cấp uỷ

đảng cần tăng cường lãnh đạo Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổng

kết, đánh giá đúng thực trạng về khối đại đoàn kết toàn dân, nêu rõ những mặt

tích cực và những hạn chế. Trong đó đi sâu đánh giá thực trạng khối liên minh

giữa giai cấp công nhân, nông dân và trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết

dân tộc; nhận thức và thực hiện chủ trương lấy mục tiêu chung làm điểm

tương đồng. Phân tích những yếu tố tác động đến đại đoàn kết dân tộc và tăng

cường Mặt trận dân tộc thống nhất trong điều kiện hiện nay. Làm rõ vị trí, vai

trò thực tế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện đại đoàn kết

36

dân tộc, những chuyển biến tích cực và những mặt còn hạn chế. Tổng kết việc

thực hiện chủ trương tăng cường củng cố khối đại đoàn kết dân tộc là trách

nhiệm của cả hệ thống chính trị. Trước mắt, gắn cuộc tổng kết với việc tiến

hành đại hội Mặt trận Tổ quốc các cấp.

Sau một thời gian Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

các cơ quan hưu quan của Nhà nước soạn thảo, lấy ý kiến của các tổ chức

thành viên, Uỷ ban Mặt trận các cấp, các cơ quan liên quan về dự thảo Luật

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ngày 10-4-1999, Bộ Chính trị đã có Thông báo

số 208/TB-TW Về dự án Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói rõ, tại phiên

họp ngày 3-4-1999, sau khi nghe Đảng đoàn Quốc hội báo cáo và ý kiến của

các ngành về dự án Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Chính trị có ý kiến

chỉ đạo: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể

nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân

tộc, các tôn giáo, là cơ sở của chính quyền nhân dân. Trong các thời kỳ cách

mạng và trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao

và phát huy vai trò to lớn của Mặt trận trong việc củng cố và tăng cường khối

đại đoàn kết toàn dân. Bộ Chính trị nhấn mạnh:

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ

xã hội chủ nghĩa, thực hiện có hiệu quả nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà

nước quản lý và nhân dân làm chủ, việc ban hành Luật Mặt trận là cần

thiết. Luật Mặt trận nhằm cụ thể hoá Cương lĩnh của Đảng và Điều 9

Hiến pháp 1992, tạo cơ sở pháp lý để khẳng định rõ và làm cho mọi

người nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vị trí vai trò, quyền hạn, trách

nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; làm rõ mối quan hệ giữa Mặt

trận với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức thành viên, nhân dân trong

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [47,

tr 599].

37

Bộ Chính trị Trung ương Đảng còn yêu cầu: Luật Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam có nội dung chính trị sâu sắc thể hiện chính sách lớn - đại đoàn kết

toàn dân của Đảng và Nhà nước ta. Do vậy, phải được chuẩn bị thật chu đáo,

xử lý thận trọng những vấn đề còn vướng mắc trước khi trình ra Quốc hội.

Cần lưu ý những vấn đề cơ bản sau đây: Việc xác định vị trí, tính chất, mục

tiêu hoạt động của Mặt trận và mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận phải căn

cứ vào Cương lĩnh, các nghị quyết của Đảng, Hiến pháp 1992, Điều lệ của

Mặt trận và những yêu cầu thực tế trong giai đoạn hiện nay, để bảo đảm sự

phù hợp về chính trị và pháp lý. Về quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên nên quy định một cách khái quát,

xác định rõ phạm vi những quyền hạn và trách nhiệm trên một số vấn đề lớn

như: tập hợp đoàn kết toàn dân; tham gia xây dựng, củng cố chính quyền;

giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và cán bộ, viên chức nhà nước. Về

tổ chức của Mặt trận, chỉ quy định những vấn đề mang tính chất nguyên tắc

chung, không nên quy định cụ thể những vấn đề mang tính nội bộ của Mặt

trận. Về điều kiện bảo đảm cho hoạt động của Mặt trận, phải căn cứ vào nghị

quyết của Đảng và pháp luật hiện hành để quy định cho phù hợp. Căn cứ vào

ý kiến chỉ đạo nêu trên và ý kiến phát biểu của các đồng chí Bộ Chính trị tại

phiên họp này, Đảng đoàn Quốc hội và Đảng đoàn Mặt trận chỉ đạo việc

chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật và báo cáo Bộ Chính trị trước khi trình Quốc

hội.

Căn cứ vào ý kiến chỉ đạo trên, Đảng đoàn Quốc hội và Đảng đoàn Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam chỉ đạo việc chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật. Sau nhiều

lần bổ sung, sửa chữa, dự thảo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được kỳ

họp thứ 5 Quốc hội khoá X thông qua vào ngày 1-6-1999. Đây là một trong

những sự kiện quan trọng trong lịch sử xây dựng, củng cố và phát triển Mặt

trận dân tộc thống nhất.

38

Ngày 15-9-1999, Thường trực Bộ Chính trị có Thông báo số 23/TB-

VPTW Về đề án xây dựng và phát huy vai trò giai cấp công nhân, giai cấp

nông dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước, nhấn mạnh: Đề án xây dựng và phát huy vai trò giai cấp công nhân, giai

cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước đã được chuẩn bị khá công phu, đề cập nhiều vấn đề phải giải quyết.

Thường trực Bộ Chính trị lưu ý một số vấn đề sau đây: Trên nền của Đề án

này, Tiểu ban cần chuẩn bị thêm, cố gắng làm rõ trong công cuộc đổi mới đất

nước thì giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, khối liên

minh công - nông - trí có chuyển động gì, ưu điểm nào là nổi bật và đặt ra

những vấn đề gì phải giải quyết. Tiểu ban chuẩn bị đề án cần soát xét các chủ

trương, giải pháp về xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp công nhân, giai

cấp nông dân và đội ngũ trí thức đã nêu trong các nghị quyết của Ban Chấp

hành Trung ương và của Bộ Chính trị trong những năm gần đây, đối chiếu với

thực tiễn để phân tích có tính tổng kết xem cái gì làm được, chưa được, vấn

đề nào đã rõ và những vấn đề nào phải bổ sung hoặc nghiên cứu. Trên cơ sở

đó đề xuất một số giải pháp cụ thể thực sự cấp bách, vừa có tính khả thi cao

để tập trung thực hiện, tạo cho được sự chuyển biến cả về nhận thức và hành

động. Đồng ý có một nghị quyết chung về xây dựng và phát huy vai trò của

giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó có các phần riêng về

từng giai cấp, đội ngũ trí thức nhưng các nội dung phải quyện gắn với nhau

theo tinh thần phát huy khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh

công - nông - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Thường vụ Bộ Chính trị nêu rõ: Nghị quyết này cần tập trung làm rõ và

có những giải pháp cụ thể giải quyết một số vấn đề cấp bách mà thực tiễn

đang đặt ra. Một số vấn đề cơ bản có thể sẽ đề cập tại phần phương hướng,

39

quan điểm để thống nhất nhận thức. Đối với các giải pháp cần tập trung chỉ

đạo thực hiện, nhất là các chính sách cụ thể, Tiểu ban cần bàn kỹ với Chính

phủ để thống nhất trước khi trình Bộ Chính trị. Cần xác định rõ trách nhiệm

của tổ chức đảng đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp công

nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong tình hình mới.

Trong suốt quá trình chuẩn bị và tiến hành Đại hội IX của Đảng, chủ đề

Phát huy sức mạnh toàn dân tộc luôn được đề cao và nhấn mạnh là tư tưởng

xuyên suốt của đại hội. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng năm 2001

đã tổng kết 15 năm đổi mới, đã rút ra 4 bài học, trong đó có bài học về không

ngừng tăng cường củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội lần thứ IX của

Đảng đã bổ sung, phát triển những nội dung mới về thời kỳ quá độ, làm sáng

tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn về đường lối chung tạo cơ sở, điều kiện và

đặt ra yêu cầu mới về tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và đổi

mới tổ chức, hoạt động của Mặt trận các cấp.

Với chủ đề Đại hội là: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi

mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và Bảo vệ tổ quốc

Việt Nam xã hội chủ nghĩa [6, tr. 60], Báo cáo Chính trị đã nhấn mạnh:

Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng luôn luôn giương cao

ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức

mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng khối đại

đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của hệ cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành

phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong

Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi

thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước

ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý

40

chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống

nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm

tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của

dân tộc, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành

phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai. Khối đại

đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn luôn được củng cố và

phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai

cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ

trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện dân chủ trên các

lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở tất cả các cấp, các ngành. Chính

sách và pháp luật của Nhà nước là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực

hiện đại đoàn kết toàn dân và sinh hoạt dân chủ trong xã hội. Đổi mới và hoàn

thiện các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các

tôn giáo, đặc biệt là các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phân phối, tiêu

dùng, bảo đảm quyền lợi và trách nhiệm của công dân.

Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò

rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát huy dân chủ,

nâng cao trách nhiệm công dân của hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương

phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân

với Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn chỉnh các quy

chế để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân phát huy quyền làm chủ của

nhân dân tham gia phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện “dân biết, dân bàn,

dân làm, dân kiểm tra”, qua đó tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố sự nhất

trí về chính trị và tinh thần trong xã hội.

41

Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở

chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp

khối đại đoàn kết toàn dân góp sức xây dựng Nhà nước trong sạch, vững

mạnh; phát huy khả năng tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội

đồng nhân dân các cấp; xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật, tuyên

truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, thực hiện giám sát

của nhân dân đối với công tác và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên,

công chức, đại biểu dân cử và các cơ quan Nhà nước; giải quyết những mâu

thuẫn trong nội bộ nhân dân. Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp

nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề

nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện - nhân đạo... Tiếp tục đổi mới phương

thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân,

khắc phục tình trạng hành chính hoá, phô trương, hình thức, quan liêu, xa dân.

Nghị quyết số 17-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung

ương Đảng (khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở

cơ sở xã, phường, thị trấn (ngày 18-3-2002) phần về Đổi mới công tác Mặt

trận và các đoàn thể nhân dân đã nhấn mạnh đến việc Mặt trận và các đoàn

thể nhân dân đóng vai trò nòng cốt xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và

thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở:

Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể nhân dân sát hợp với nhu cầu và lợi ích của hội

viên, đoàn viên; trên cơ sở đó, tập hợp rộng rãi và nâng cao tính tự giác

của hội viên, đoàn viên, xây dựng tổ chức vững mạnh; tuyên truyền các

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến mọi người dân; vận

động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc

phòng; tiến hành có hiệu quả các cuộc vận động và phong trào thi đua

[47, tr. 652].

42

Nghị quyết số 17-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung

ương Đảng (khóa IX) còn nêu rõ Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thúc đẩy

việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phản ánh ý kiến của quần chúng về

xây dựng Đảng và chính quyền, phát giác hành vi tham nhũng, lãng phí, vi

phạm dân chủ; tham gia hoà giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, bày tỏ

thái độ đối với những khiếu kiện của dân để góp phần giải quyết từ gốc. Đa

dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng; coi trọng và mở rộng các tổ chức

và hoạt động tự quản của nhân dân dưới nhiều hình thức phong phú; các hội

viên, đoàn viên chủ động tham gia vào các tổ chức đó, làm nòng cốt vận động

và tổ chức hoạt động đúng mục đích, đúng pháp luật.

Đổi mới cơ chế bảo đảm kinh phí hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và

các đoàn thể nhân dân ở cơ sở. Phát huy tính chủ động của các đoàn thể ở cơ

sở trong việc tạo nguồn và sử dụng kinh phí. Sửa đổi những quy định không

còn phù hợp về hội phí, đoàn phí; thu đủ hội phí, đoàn phí và ưu tiên dành

cho cơ sở. Nhà nước cấp một phần kinh phí hoạt động cho Mặt trận và các

đoàn thể nhân dân và tạo điều kiện để các đoàn thể gây quỹ theo đúng pháp

luật. Kinh phí do Nhà nước cấp được Hội đồng nhân dân ở cơ sở giao khoán

cho Mặt trận và từng đoàn thể nhân dân chủ động quyết định việc chi tiêu, kể

cả việc trả phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách.

1.2.2. Tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và vai trò Mặt

trận Dân tộc Thống nhất

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

(tháng 11-1988) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam (tháng 8-1994) là một thời kỳ có nhiều biến động ở trong nước và

quốc tế. Trong thời gian này sự đổ vỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ

nghĩa Đông Âu đã tác động nhiều đến công cuộc đổi mới của Việt Nam. Tuy

nhân dân Việt Nam đã đạt được một số thành tựu bước đầu hết sức quan trọng

43

nhưng công cuộc đổi mới, đặc biệt là những thay đổi về cơ cấu xã hội, sự

chênh lệch về mức sống và hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội gia tăng, các thế

lực thù địch ra sức hoạt động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân...

Những yếu tố đó diễn ra trong điều kiện những hậu quả của cuộc khủng

hoảng kinh tế - xã hội kéo dài, đã đặt sự nghiệp xây dựng đất nước của nhân

dân ta trước thử thách to lớn chưa từng có. Chính ở thời điểm đó, Đảng Cộng

sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân kiên trì con đường đổi mới do Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra. Sự ra đời của Cương lĩnh xây dựng

đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược kinh tế -

xã hội cùng với nhiều nghị quyết, chính sách, pháp luật tiếp tục được cụ thể

hoá, thể chế hoá đã từng bước trở thành hiện thực cuộc sống, dần đưa Việt

Nam thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, giữ vững ổn định chính trị,

nâng cao đời sống nhân dân, từng bước hội nhập kinh tế với thế giới bằng nội

lực của dân tộc.

Cùng với việc đẩy mạnh đổi mới sâu rộng về kinh tế gắn với đổi mới

hệ thống chính trị bằng những bước đi phù hợp, đã đặt cơ sở lý luận, thực tiễn

cho việc tăng cường mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc

thống nhất, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực và đảm bảo vững chắc cho

công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, họp

từ ngày 17 đến ngày 19-8-1994 tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội. Đại

hội đã kiểm điểm lại chặng đường hơn 5 năm, khẳng định những kết quả hoạt

động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, rút ra một số kinh nghiệm và chỉ ra

phương hướng hoạt động trong thời gian tới. Đại hội đã long trọng công bố

Chương trình 12 điểm Đại đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước - đó

là Chương trình thể hiện ý nguyện của toàn Đảng, toàn dân quyết tâm chiến

44

thắng nghèo nàn lạc hậu tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn

minh thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Theo Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Chương trình

đại đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gồm 12 điểm của Đại hội IV

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã khẳng định quan điểm đại đoàn kết mọi người

Việt Nam không có sự phân biệt đối xử, đoàn kết mọi người Việt Nam tán

thành mục tiêu chung dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh,

chấp nhận những sự khác nhau không trái với lợi ích chung của Tổ quốc.

Nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, tạo mọi điều kiện

để mọi người phát huy tài năng, sáng tạo để cống hiến cho đất nước, khơi dậy

tiềm năng mọi cá nhân và tập thể và cả cộng đồng để chăm sóc và phát huy

nhân tố con người; thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa

các dân tộc; tôn trọng và thực hiện đúng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;

vận động nhân dân bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và xây dựng

lực lượng vũ trang nhân dân, nền quốc phòng toàn dân; tạo điều kiện chăm lo

thế hệ trẻ về học tập, sức khoẻ, giúp đỡ, bảo vệ lợi ích chính đáng của kiều

bào; tích cực thực hiện đoàn kết quốc tế theo đường lối đối ngoại của Đảng và

Nhà nước ta.

Chương trình 12 điểm của Mặt trận định hướng về chính sách đại đoàn

kết với mọi người Việt Nam, đối với từng giai cấp và tầng lớp xã hội nhằm

đoàn kết mọi người Việt Nam hoà hợp thành một khối để chiến thắng nghèo

nàn, lạc hậu, đưa đất nước tiến lên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hoá.

Chương trình đã thể hiện tư tưởng cơ bản của Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị

Trung ương Đảng (ngày 17-11-1993), nói lên truyền thống đại đoàn kết của

dân tộc, chứng tỏ sự trưởng thành của nhân dân ta với những thành tựu mọi

mặt của công cuộc đổi mới đất nước, là thông điệp với toàn dân và bạn bè

45

quốc tế về cương lĩnh hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai

đoạn mới thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ

Mười đã tham dự đại hội và phát biểu yêu cầu trong tình hình mới Mặt trận

phải ra sức xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy truyền

thống yêu nước, tinh thần độc lập, tự chủ, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự

cường, tạo ra sức mạnh của nhân dân cả nước để thực hiện mục tiêu dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, đưa nước ta tiến kịp các nước phát

triển trong cộng đồng thế giới. Tổng Bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh nhân dân ta

đã thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất của cách

mạng Việt Nam:

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn ý thức rằng: Đảng ở trong

lòng dân, Đảng tồn tại vì nhân dân, Đảng đại diện trung thành cho lợi

ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc... Mặt trận

Dân tộc Thống nhất Việt Nam đã gắn bó keo sơn với Đảng trong mọi

thời kỳ cách mạng lúc khó khăn sóng gió cũng như khi thắng lợi vẻ

vang... Đảng rất tự hào vì đã xứng đáng là một thành viên tích cực của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [28, tr. 20].

Theo đánh giá của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:

Qua 6 năm tiến hành đổi mới tổ chức, việc đổi mới phương thức

hoạt động của Mặt trận Tổ quốc đã đạt được một số kết quả, chuyển

biến rõ nét, tạo ra một số phong trào, cuộc vận động, góp phần thiết

thực vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế-xã hội cấp bách. Đổi mới

phương thức hoạt động, chuyển mạnh về cơ sở, đưa công tác mặt trận

đến với mỗi gia đình đã hình thành mạng lưới công tác mặt trận rộng

khắp trong các địa phương, cơ sở trong cả nước. Chương trình đại đoàn

kết dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gồm 12 điểm do Mặt trận Tổ

46

quốc công bố nói lên những thành tựu bước đầu rất quan trọng của khối

đại đoàn kết dân tộc thể hiện quyết tâm, kiên trì đẩy mạnh công cuộc

đổi mới với mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, phấn đấu đưa đất

nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, văn minh [43, tr.371].

Để đạt được mục tiêu đó, phải mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn

kết mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Không chỉ đoàn kết với

người yêu nước, mà đoàn kết với tất cả mọi người tán thành phấn đấu vì mục

tiêu nêu trên. Mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc là yêu cầu cấp bách của sự

nghiệp cách mạng, phù hợp với sự phát triển xã hội, đáp ứng nguyện vọng của

các tầng lớp nhân dân. Nhiệm vụ của Mặt trận đã được khẳng định trong các

nghị quyết của Đảng, trong Hiến pháp mới và các đạo luật; tuy nhiên vẫn còn

lúng túng trong khi triển khải thực hiện. Nhận thức và thực hiện việc tăng

cường, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và đổi mới tổ chức, hoạt động của

Mặt trận và các tổ chức, đoàn thể nhân dân vẫn cần phải tiếp tục tìm tòi cả về

nhận thức và thực tiễn.

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

(tháng 8-1994) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam (tháng 8-1999) là thời gian thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ

VII và bước đầu triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng. Đây

cũng là thời kỳ công cuộc đổi mới được triển khai sâu rộng, đưa đất nước

thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, chuyển sang thời kỳ phát triển. Sự đổi

mới chính trị cũng từng bước được thực hiện, tạo cơ sở và điều kiện cho sự

tăng cường, mở rộng đoàn kết, phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc trên các lĩnh

vực đời sống xã hội. Tuy nhiên tình hình quốc tế, trong nước không hoàn toàn

thuận lợi. Do nhiều nguyên nhân, sự tăng trưởng kinh tế đã bị ảnh hưởng, tình

47

trạng thiểu phát lần đầu xuất hiện, sức mua xã hội giảm cũng gây không ít

khó khăn cho sản xuất, đời sống.

Sau hơn 10 năm kể từ khi chính thức phát động công cuộc đổi mới toàn

diện đất nước, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn cần tìm tòi những giải

pháp về nhiều vần đề mới phát sinh ảnh hưởng không tốt đến khối đại đoàn

kết dân tộc và Mặt trận thống nhất, đó là tệ nạn tiêu cực xã hội ngày càng phát

triển, sự phân cực giàu nghèo ngày càng đậm nét; đặc biệt là tình trạng vi

phạm quyền làm chủ của người dân. Kinh tế tăng trưởng khá cao nhưng phát

sinh nhiều vấn đề xã hội, sự suy giảm về văn hoá, đạo đức, sự gia tăng lối

sống thực dụng, chạy theo đồng tiền trong một bộ phận không nhỏ nhân dân,

đặc biệt là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm xói mòn niềm tin của dân đối

với Đảng và Nhà nước. Những nhân tố ảnh hưởng đến khối đoàn kết dân tộc

và Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn còn tiềm ẩn.

Hoạt động tăng cường, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất đã đạt

được một số kết quả, chuyển biến rõ nét. Việc đi sâu, cụ thể hoá chính sách,

công tác mặt trận - dân vận trên từng lĩnh vực đã trở thành hiện thực, đặc biệt

trong các lĩnh vực gắn với các chương trình, mục tiêu kinh tế-xã hội, xoá đói

giảm nghèo. Nhất là, từ tháng 5-1995, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam khởi xướng và chủ trì thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết

xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư" (sau đó đổi tên thành cuộc vận động

"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư") là một cuộc

vận động có 6 nội dung, mang tính toàn dân, toàn diện và toàn quốc được

phát động trong thời kỳ đổi mới của đất nước; trên cơ sở kế thừa, phát huy

những kinh nghiệm và kết quả các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu

nước của nhân dân trong cả nước. Các chính sách, công tác mặt trận - dân vận

nhằm tăng cường, mở rộng đoàn kết, phát huy vai trò của các giai cấp, tầng

lớp xã hội và các tổ chức, đoàn thể đã đi vào giải quyết những vấn đề cụ thể

48

đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của mỗi giai tầng và ngày càng thông thoáng,

cởi mở hơn theo tinh thần Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng. Đây là thời kỳ các chủ trương,

chính sách về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất

được quán triệt thực hiện sâu rộng. Sự đổi mới chính trị được tiến hành từng

bước, thể hiện trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì

dân.

Bước tiến mới trong việc tăng cường, phát huy vai trò của Mặt

trận và mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận thông qua việc ra đời

Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đánh dấu sự tăng cường mối quan hệ

giữa Nhà nước với Mặt trận là một tổ chức liên minh chính trị, nền tảng

của chính quyền nhân dân. Cùng với Luật Mặt trận là nhiều văn bản

quy phạm pháp luật cụ thể hoá mối quan hệ và phương thức công tác,

Quy chế phối hợp công tác giữa Mặt trận với Chính phủ, nghị quyết

liên tịch với các ngành, tạo cơ sở để nâng cao vị thế của Mặt trận và

làm cho các tổ chức, phong trào mặt trận nâng cao tính hiệu quả thiết

thực trong đời sống xã hội [43, 456-457].

Sự đổi mới tổ chức phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc được

đánh giá là khởi sắc, rõ nét trên các mặt theo ba định hướng đề ra từ Đại hội

lần thứ III của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1988), trong đó nổi bật đã tổ

chức, phát động một số phong trào, cuộc vận động mang tính toàn dân, toàn

quốc, tổng hợp được các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của

các ngành, giới, đoàn thể gắn với các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế

- văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng, phát huy quyền làm chủ của nhân

dân. Một trong những thành tựu đó là việc ban hành bộ Luật Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam (6-1999) và Điều lệ sửa đổi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam những

nhiệm kỳ tiếp theo.

49

Cũng theo đánh giá của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, sự đổi mới tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc tuy đã có sự khởi

sắc và tạo ra được một số chuyển biến rõ nét nhưng vẫn chưa ngang tầm

nhiệm vụ và càng chưa tương xứng vai trò, vị trí như đã được xác định trong

nghị quyết của Đảng, luật pháp của Nhà nước. Những hạn chế trước hết vẫn

là quan điểm, nhận thức về vai trò, vị trí Mặt trận vẫn chưa được nâng lên

trong xã hội. Tình trạng xem nhẹ, thậm chí coi thường tổ chức, hoạt động của

Mặt trận vẫn chưa được khắc phục. Những đổi mới trong tổ chức, phương

thức hoạt động thực tiễn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân chính vẫn là sự tự

nỗ lực vươn lên, tự khẳng định, tự đổi mới của Mặt trận chưa theo kịp yêu

cầu; mặt khác là sự phối hợp chưa thường xuyên và thiếu chặt chẽ của chính

quyền và các tổ chức thành viên.

Yêu cầu đang đặt ra là cần tiếp tục cụ thể hoá, thống nhất quan niệm

nhận thức về nguyên nhân và phương hướng đổi mới, đồng thời, đi sâu tìm tòi

đổi mới tổ chức và hoạt động nhằm phát huy vai trò Mặt trận, góp phần đưa

sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất lên tầm cao

mới, chiều sâu mới.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, họp

từ ngày 26 đến ngày 28-8-1999 tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội. Đại

hội diễn ra vào lúc sự nghiệp đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu

rất quan trọng. Chương trình 12 điểm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được

Đại hội lần thứ IV đề ra được toàn dân hưởng ứng và đạt kết quả tốt đẹp, Luật

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được ban hành, vị thế của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam được nâng cao. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam là cột mốc quan trọng đánh dấu việc thực hiện chính sách đại đoàn

kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ phát triển

mới của đất nước, là Đại hội "Phát huy tinh thần yêu nước, sức mạnh của

50

khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất, đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

xã hội chủ nghĩa" [29, tr. 38].

Báo cáo của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khoá IV

trình đại hội đã đánh giá tình hình khối đại đoàn kết toàn dân. Công cuộc đổi

mới đã giành được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, đưa đất nước

thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội ổn định, đời sống nhân dân

được cải thiện, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao, trong bối cảnh ấy,

khối đại đoàn kết dân tộc đã không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên, vẫn còn

nhiều yếu tố gây mất ổn định, ảnh hưởng đến khối đoàn kết và lòng tin của

nhân dân. Báo cáo cũng nghiêm túc tự phê bình, nêu lên trách nhiệm của Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam trước những mặt yếu kém của tình hình đất nước, nhất

là sự suy giảm lòng tin của nhân dân.

Kiểm điểm về bước phát triển mới và những hạn chế trong hoạt động

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, báo cáo chỉ rõ những tiến bộ cùng hạn chế

của Mặt trận trong viêc tập hợp, đoàn kết nhân dân, phát huy quyền làm chủ

của nhân dân, tham gia xây dựng, giám sát, bảo vệ Nhà nước, mở rộng và đổi

mới hoạt động đối ngoại nhân dân...Đồng thời cũng phân tích nguyên nhân

của những thực trạng đó.

Báo cáo đã nêu lên 5 bài học kinh nghiệm lớn, đó là: phát huy chủ

nghĩa yêu nước, xây dựng khối đại đoàn kết trên cơ sở mục tiêu chung và

điểm tương đồng thể hiện trong đường lối, chính sách đúng đắn; đảm bảo hài

hoà lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội; không ngừng mở rộng Mặt trận

dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công, nông, trí và thu hút mọi tầng

trong xã hội; phát huy vai trò cả hệ thống chính trị đối với xây dựng khối đại

đoàn kết dân tộc; đổi mới và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc làm cầu

nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.

51

Báo cáo đã đề ra mục tiêu và chương trình hành động của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam trong nhiệm kỳ tới (1999-2004) tập trung vào 5 nội dung lớn:

đa dạng hoá việc tập hợp toàn dân, động viên phong trào thi đua yêu nước,

góp phần đổi mới hệ thống chính trị, tham gia bảo vệ an ninh chính trị và xây

dựng quốc phòng, củng cố đoàn kết quốc tế. Để hoàn thành chương trình hành

động đó, cần tiếp tục đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam một cách sâu sắc và toàn diện.

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê

Khả Phiêu đến dự và phát biểu đánh giá cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã khẳng định:

Những thắng lợi mà nhân dân ta phấn đấu đạt được đã chứng

minh: sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu nước

mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội

là đúng đắn, phù hợp với lòng dân, được nhân dân cả nước đem hết sức

mình quyết tâm và kiên trì thực hiện. Đạt được những thành tựu ấy là

nhờ Mặt trận đã hưởng ứng chủ trương và đường lối vì dân, vì nước của

Đảng, tích cực phát huy sức mạnh yêu nước, tự lực tự cường của khối

đại đoàn kết toàn dân, thống nhất được ý chí và hành động của tất cả

các giai cấp, các tầng lớp, các thế hệ, các nhân tài, nhân sĩ về một

hướng. Công lao đó của Mặt trận và các thành viên trong Mặt trận ở tất

cả các cấp thật vô cùng to lớn...Tổ quốc Việt Nam vô cùng tự hào đã có

một Mặt trận dân tộc thống nhất, đoàn kết và bền vững xuyên suốt tiến

trình đấu tranh yêu nước và cách mạng gần một thế kỷ [29, tr. 12-13].

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam, giai đoạn từ năm 1999-2003, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

luôn bám sát nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ đất nước, coi đó là nhiệm vụ thường

52

xuyên, ra sức phấn đấu thực hiện chương trình hành động của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam do Đại hội V đề ra và đạt được kết quả thiết thực, góp phần

tích cực vào những thành tựu chung của đất nước. Vị trí, vai trò của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam tiếp tục được khẳng định và nâng cao trong đời sống xã

hội, đó là:

- Một là, việc tập hợp các tầng lớp nhân dân vào các hình thức tổ chức

có tiến bộ, đã góp phần tích cực vào việc củng cố và mở rộng khối đại đoàn

kết toàn dân tộc. Mặt trận Tổ quốc các cấp đã tích cực mở rộng tổ chức bằng

nhiều hình thức đa dạng, kết nạp thêm các tổ chức thành viên mới (Ở Trung

ương, kết nạp Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội Liên lạc

người Việt Nam ở nước ngoài, Hội Nạn nhân chất độc da cam/điôxin Việt

Nam,...), phát huy vai trò của các cá nhân tiêu biểu, thu hút thêm nhiều các

nhân sĩ trí thức, chuyên gia tham gia các hoạt động của Mặt trận; Ban công

tác Mặt trận được củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động; thông qua các

phong thi đua, các cuộc vận động, các tầng lớp nhân dân đã gắn bó và tham

gia các hoạt động của Mặt trận tích cực hơn.

- Hai là, ra sức động viên nhân dân hưởng ứng các phong trào thi đua,

các cuộc vận động, phát huy mọi nguồn lực thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Ba là, qua việc chủ trì, phối hợp tổ chức các phong trào, các cuộc vận

động mang tính toàn dân, toàn quốc trên các lĩnh vực, hoạt động của Mặt trận

Tổ quốc ngày càng rõ nét hơn, mang lại hiệu quả tốt hơn, góp phần thiết thực

cùng Đảng và Nhà nước giải quyết những nhiệm vụ quan trọng của đất nước

và những vấn đề do cuộc sống của nhân dân đặt ra ngay từ mỗi cộng đồng dân

cư, mỗi cơ sở xã, phường. Kết quả nổi bật là cuộc vận động “Toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”; phong trào “Đền ơn đáp

53

nghĩa” và đặc biệt là cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” được Uỷ ban

Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động ngày 17-10-2000 thực sự

là những điểm sáng trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiệm

kỳ qua.

- Bốn là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tích cực tham gia đổi mới và

nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ tham

gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng và

Nhà nước với nhân dân.

- Năm là, nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình, Mặt trận Tổ quốc

các cấp đã coi việc tham gia cùng Đảng, Nhà nước xây dựng chủ trương,

chính sách, pháp luật là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên. Với tinh thần chủ

động, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp cùng các tổ chức thành viên đã tham

gia tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XI, bầu cử Hội

đồng nhân dân ba cấp nhiệm kỳ 1999-2003. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc nhiều

địa phương đã xây dựng quy chế phối hợp công tác với đoàn đại biểu Quốc

hội, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đồng thời phối hợp với ngành tư

pháp, ngành công an… tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục trong nhân

dân và vận động nhân dân sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật.

- Sáu là, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc được quan tâm, ở

nhiều địa phương có cách làm thiết thực và có bước tiến mới, Uỷ ban Mặt

trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên các cấp đã phối hợp với các cấp chính

quyền triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, góp phần thiết thực nâng

cao ý thức và trách nhiệm làm chủ của nhân dân, củng cố hệ thống chính trị

xã, phường, thị trấn ngày càng vững mạnh. Trong nhiệm kỳ qua, Uỷ ban Mặt

trận Tổ quốc đã hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động của thanh tra nhân dân có

nhiều chuyển biến tốt, đã phối hợp với các cấp chính quyền tổng kết 10 năm

hoạt động của thanh tra nhân nhân, rút những bài học kinh nghiệm về tổ chức

54

và hoạt động đồng thời kiến nghị với Nhà nước những vấn đề nhằm nâng cao

chất lượng hoạt động thanh tra nhân nhân.

- Bảy là, hoạt động đối ngoại nhân dân được tăng cường và mở rộng

hơn trước. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên đã tăng cường

củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng

và các tổ chức tương ứng, mở rộng quan hệ với các nước, các tổ chức phi

chính phủ, các tổ chức quốc tế… tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân

thế giới, góp phần thực hiện có hiệu quả đường lối chính sách đối ngoại của

Đảng và Nhà nước ta.

- Tám là, công tác xây dựng, củng cố tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ và đổi mới phương thức hoạt động đã được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các

cấp coi trọng. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đã được củng cố kiện toàn

mở rộng về cơ cấu, thành phần, nâng cao tính thiết thực, tính tiêu biểu và tính

quần chúng. Các tổ chức tư vấn được hình thành, đội ngũ cộng tác viên được

mở rộng, các cá nhân tiêu biểu được phát huy, tiếp tục hướng mạnh hoạt động

về cơ sở. Đội ngũ cán bộ chuyên trách ngày càng được đổi mới và tăng

cường, công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động của cán bộ được coi

trọng và có nhiều tiến bộ. Việc thực hiện qui chế phối hợp công tác giữa Uỷ

ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức thành viên dã đạt

được những kết quả thiết thực. Mối quan hệ phối hợp giữa Uỷ ban Mặt trận

Tổ quốc các cấp và các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước đã được tăng

cường.

Thời kỳ này, tuy phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức, song

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình trước

nhân dân, trước lịch sử, đã nỗ lực phấn đấu, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ

do Đại hội V Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đề ra và đã đạt được kết quả thiết

thực, góp phần quan trọng vào việc củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết

55

toàn dân tộc, tăng thêm sự đồng thuận trong xã hội, tham gia xây dựng Đảng,

xây dựng, củng cố chính quyền, mở rộng quan hệ đoàn kết, hữu nghị, hợp tác

quốc tế, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, góp

phần quan trọng vào thành tựu chung của đất nước.

56

Chương 2

ĐẢNG TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM 2003-2007

2.1. Chủ trương và biện pháp của Đảng nhằm tăng cường xây dựng

khối đại đoàn kết toàn dân tộc (2003-2007)

Các tư tưởng chỉ đạo của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của

Đảng Cộng sản Vịêt Nam về đại đoàn kết dân tộc đến Hội nghị lần thứ bảy

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã được cụ thể hoá một cách toàn diện,

đồng bộ về những vấn đề cơ bản trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết

toàn dân tộc nói chung và công tác dân tộc, tôn giáo nói riêng.

Nghị quyết số 23-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung

ương Đảng (khoá IX) Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì

“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (ngày 12- 3-

2003), nhận định: Từ sau Đại hội VI, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ

thị về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, về đại đoàn kết toàn

dân tộc, về dân tộc, tôn giáo, về Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Thông

qua việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị đó, quyền làm chủ của nhân dân

trong tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội đã từng bước được

phát huy. Việc tập hợp nhân dân với các hình thức đa dạng có bước phát triển

mới. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên được mở rộng, vai trò và vị

trí trong xã hội được nâng cao, nội dung hoạt động phong phú, thiết thực hơn,

đã động viên, lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia các

cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước.

Nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai

cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là

57

nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định

chính trị - xã hội của đất nước. Đạt được thành tựu trên là do nhân dân Việt

Nam có truyền thống yêu nước, đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng là

ngọn cờ đoàn kết, tập hợp nhân dân trong thời kỳ phát triển mới của đất

nước. Tổ chức đảng và chính quyền các cấp có bước chuyển biến về công

tác dân vận. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân nỗ lực đổi mới công tác,

hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, Đảng đánh giá: khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ

giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước

những thách thức mới. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ

phận nhân dân chưa vững chắc, phần vì đời sống còn nhiều khó khăn, phần vì

bất bình trước những bất công xã hội và tình trạng tham nhũng, quan liêu. Các

vụ khiếu kiện đông người vẫn còn nhiều, có lúc, có nơi rất gay gắt. Việc tập

hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn

chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài, ở một số vùng có đồng bào theo đạo, đồng bào các tộc ít người...

Nguyên nhân chủ yếu là do chưa phân tích và dự báo đầy đủ những biến đổi

trong cơ cấu giai cấp-xã hội và những mâu thuẫn mới nảy sinh trong nhân

dân, trong một thời gian dài, Đảng chưa có chủ trương khắc phục những mâu

thuẫn ấy một cách đúng đắn, kịp thời. Nhiều tổ chức của các đảng bộ, chính

quyền còn coi nhẹ công tác dân vận. Một số chủ trương, chính sách của Nhà

nước chưa thể hiện đầy đủ quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc; việc thực

hiện còn nhiều thiếu sót. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở

nhiều nơi còn hình thức và nặng về hành chính, không sát dân.

Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy

sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ

quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

58

vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,

vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất

của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá

khứ, thành phần, giai cấp xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng

hướng tới tương lai. Bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích

thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết

hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội; thực hiện

dân chủ gắn liền với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng

phí; không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân

tộc, thống nhất Tổ quốc.

Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng đã vạch ra chủ trương và giải pháp chủ

yếu nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát triển mạnh mẽ nền

kinh tế nhiều thành phần, lấy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân là

nhiệm vụ trung tâm; gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và

bảo vệ môi trường sinh thái trong từng bước phát triển; đẩy mạnh xoá đói,

giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng. Tổ chức việc kết nghĩa, giúp

đỡ nhau giữa các vùng, các địa phương có kinh tế phát triển với vùng nghèo,

miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Phát triển văn hoá, y tế, giáo dục -

đào tạo và khoa học - công nghệ, phấn đấu nâng dần độ đồng đều về trình độ

dân trí, văn hoá và mức độ hưởng thụ, chăm sóc sức khoẻ của nhân dân các

vùng trong nước; gìn giữ và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp của từng

dân tộc; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của cộng

đồng các dân tộc Việt Nam.

Đảng chủ trương: Không ngừng hoàn thiện các cơ chế dân chủ trực tiếp

và dân chủ đại diện. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở

59

cơ sở, cụ thể hoá để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra” trong tất cả các loại hình tổ chức và đơn vị cơ sở thuộc các cấp, các

ngành, kể cả trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể

nhân dân. Trước khi ban hành những chủ trương, chính sách quan trọng, cần

tổ chức chu đáo, thiết thực việc lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân có liên quan,

bảo đảm để nhân dân có thể thẳng thắn bày tỏ được ý kiến đóng góp. Khuyến

khích trao đổi, tranh luận với tinh thần xây dựng về những vấn đề có ý kiến

khác nhau, tránh chụp mũ, áp đặt. Nhà nước chăm lo đào tạo, bồi dưỡng chính

trị, nghiệp vụ, giáo dục đạo đức cho cán bộ chính quyền các cấp. Xây dựng

phong cách và phương thức công tác của cán bộ, công chức phù hợp với đạo

đức cách mạng và đáp ứng yêu cầu tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân; đẩy mạnh và

nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội

nghề nghiệp, các tổ chức xã hội và các tổ chức nhân dân. Sớm ban hành luật

về hội quần chúng. Xây dựng các văn bản dưới luật để cụ thể hoá những nội

dung nói trên và để Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy hiệu lực tốt hơn

trong đời sống xã hội. Xây dựng các cộng đồng dân cư tự quản ở các thôn,

làng, bản, ấp, tổ dân phố, hoạt động trên cơ sở hương ước, quy ước không trái

pháp luật. Chú trọng bồi dưỡng và hướng dẫn những người có uy tín trong

cộng đồng tham gia đóng góp cho phong trào chung. Mặt trận và các đoàn thể

nhân dân phối hợp với các cơ quan nhà nước hướng hoạt động nhiều hơn về

cơ sở, đến từng hộ dân. Đi sát để hiểu tâm tư, nguyện vọng nhân dân, phát

huy, nhân rộng những sáng kiến tích cực; vừa làm tốt chức năng tuyên truyền,

giáo dục, vừa quan tâm bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Cử

đại diện của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia các uỷ ban, hội đồng,

ban điều hành một số dự án, chương trình kinh tế – xã hội có quan hệ trực tiếp

đến quyền lợi và trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân ở cơ sở.

60

Nghị quyết số 24-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung

ương Đảng (khoá IX) Về công tác dân tộc (ngày 12- 3- 2003) nhấn mạnh:

Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống.

Đồng bào các dân tộc nước ta có truyền thống đoàn kết lâu đời trong đấu

tranh chống ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục thiên tai và xây dựng

đất nước. Mỗi dân tộc có sắc thái văn hoá riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng,

phong phú của nền văn hoá Việt Nam thống nhất. Sau khi khẳng định thời

gian qua, một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội miền

núi, tình hình miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số có bước chuyển

biến quan trọng. Tuy nhiên, kinh tế ở miền núi và các vùng dân tộc còn chậm

phát triển, nhiều nơi còng lúng túng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập

quán canh tác còn lạc hậu. Tình trạng du canh, du cư, di cư tự do còn diễn

biến phức tạp, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:

Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,

đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Phát

triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng trên

địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các

vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc. Công tác dân tộc và thực hiện

chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các

cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị. Do đó, nhiệm vụ chủ yếu và

cấp bách là đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của

đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng

xa; trong những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, các dân tộc

đặc biệt khó khăn giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tình trạng thiếu

lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất,

dụng cụ sinh hoạt tối thiểu; xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng

sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

61

Nghị quyết số 24-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung

ương Đảng (khoá IX) còn đề ra một số giải pháp chủ yếu là nâng cao nhận

thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn thể xã hội

về vị trí, nhiệm vụ của công tác dân tộc trong hình mới. Đây là nhiệm vụ

thường xuyên và quan trọng của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt

trận, đoàn thể từ trung ương đến địa phương. Trong đó, coi trọng việc tiếp tục

thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc và miền

núi; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những chính sách đã có và

nghiên cứu ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu cầu phát triển các

vùng dân tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới.

Nghị quyết số 25-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung

ương Đảng (khoá IX) Về công tác tôn giáo (ngày 12- 3- 2003), nhấn mạnh:

Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước luôn xác định công tác tôn

giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng; xác định hoạt động tôn

giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn

giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của

dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,

xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã

hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là

công tác vận động quần chúng và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo

với sự nghiệp chung.

Có thể đánh giá, những chuyển biến mạnh mẽ về tư duy, nhận thức của

Đảng về vai trò, vị trí khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống

nhất được thể hiện trong nhiều chủ trương chính sách cụ thể trên các lĩnh vực.

Các Nghị quyết số 23, 24 và 25 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khoá IX) năm 2003 Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết

62

dân tộc và Về công tác dân tộc, công tác tôn giáo ra đời là một dấu mốc có ý

nghĩa quan trọng.

Ngày 26-3-2004 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban

hành Nghị quyết số 36 -NQ/TW Về công tác đối với người Việt Nam ở nước

ngoài, nhấn mạnh: Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn coi cộng đồng

người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng

dân tộc Việt Nam, đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách mở rộng và biện

pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho đồng bào về

thăm đất nước, người thân, đầu tư kinh doanh, hợp tác khoa học-công nghệ,

hoạt động văn hoá-nghệ thuật. Tuy nhiên, các chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài chưa đựơc quán

triệt sâu sắc, thực hiện đầy đủ. Cơ sở của sự đoàn kết là ý thức dân tộc và lòng

yêu nước, niềm tự hào dân tộc và mục tiêu chung của mọi người Việt Nam là

giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, làm cho dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xoá bỏ mặc cảm, định

kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần

cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi

người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa

vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên

đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng ta nhấn mạnh:

Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực

của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các ngành, các cấp từ Trung ương

đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước và toàn dân ta còn coi đây là một

nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

63

Đổi mới và đa dạng hoá các phương thức vận động, các hình thực tập

hợp với mục đích đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài quan tâm giúp đỡ

lẫn nhau, khuyến khích những hoạt động hướng về Tổ quốc của bà con, nhất

là của thế hệ trẻ trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với pháp luật và phong tục tập

quán nước sở tại. Hỗ trợ các dự án của người Việt Nam ở nước ngoài nhằm

mục tiêu trên. Chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người Việt Nam ở

nước ngoài, kể cả với những người còn có định kiến, mặc cảm với Nhà nước

và chế độ ở Việt Nam.

Ngày 16-11-2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng có Thông báo số 161-

TB-TW Về đề án Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia giám sát cán bộ, đảng

viên ở khu dân cư. Ban Bí thư hoan nghênh Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam đã chủ động xây dựng đề án nhằm thông qua hoạt động giám sát của

nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc để giúp đảng viên, cán bộ, công chức ở khu

dân cư và gia đình họ nâng cao ý thức trách nhiệm, gương mẫu chấp hành chủ

trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, chấp hành những

quy định ở khu dân cư, gần gũi với dân hơn. Qua đó cũng giúp cấp uỷ đảng,

chính quyền các cấp nắm chắc hơn tình hình đảng viên, cán bộ, công chức

thuộc diện mình quản lý về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, quan hệ

với dân; trên cơ sở đó mà có hướng bồi dưỡng, sử dụng cán bộ tốt hơn, ngăn

chặn, phòng ngừa những hành vi tiêu cực, kịp thời giáo dục xử lý những đảng

viên, cán bộ, công chức có sai phạm, góp phần đẩy mạnh cuộc đấu tranh

chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, làm trong sạch đội ngũ đảng viên, cán

bộ, công chức. Thông báo nhấn mạnh:

Thông qua hoạt động giám sát mà nâng cao vai trò trách nhiệm

của Mặt trận Tổ quốc, của các tổ chức thành viên, của toàn dân tham

gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững

mạnh; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và

64

Nhà nước. Tinh thần chính là vừa xây, vừa chống, qua phong trào toàn

dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư để thực hiện việc

giám sát [47, tr. 719-720].

Ban Bí thư Trung ương Đảng yêu cầu: Đối tượng giám sát là đảng viên,

cán bộ, công chức cư trú, làm việc ở xã, phường, thị trấn, khu dân cư và

những cán bộ, công chức tuy ở nơi khác nhưng công tác trên địa bàn dân cư.

Giám sát cả cá nhân và tổ chức. Về nội dung giám sát, cần bám sát nội dung

Quy chế dân chủ cơ sở và chức năng của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể,

tập trung vào những cơ quan, tổ chức thường xuyên tiếp xúc với dân, phụ

trách giải quyết những việc trực tiếp liên quan đến quyền lợi người dân,

những lĩnh vực và những vấn đề ở khu dân cư thường nảy sinh những sự việc

gây bức xúc trong dân, mà Mặt trận, các đoàn thể và nhân dân có thể giám

sát, phát hiện góp ý kiến được. Cần xác định rõ quyền và trách nhiệm của

người giám sát, cũng như quyền và trách nhiệm của người và tổ chức được

giám sát. Có quy định cụ thể và chặt chẽ để vừa bảo vệ người góp ý đấu tranh

xây dựng, vừa ngăn ngừa việc lơi dụng quyền giám sát để gây rối, làm mất uy

tín hoặc tổn hại đến danh dự của cá nhân và tổ chức được giám sát. Các cấp

uỷ đảng có trách nhiệm chủ động lãnh đạo và tạo điều kiện cho Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể phát huy được dân chủ, thực hiện tốt chủ trương. Các

cấp Mặt trận trong quá trình triển khai thực hiện cần chủ động tranh thủ sự

lãnh đạo của cấp ủy đảng, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các tổ chức thành

viên, với các cấp chính quyền, với các cơ quan thanh tra, kiểm tra và tạo sự

thống nhất cao để chỉ đạo thực hiện tốt các nội dung giám sát, phát hiện và

giải quyết, xử lý đúng đắn các vấn đề phát hiện qua giám sát theo đúng quy

định của pháp luật và thẩm quyền của Mặt trận Tổ quốc. Cần xây dựng cơ chế

cụ thể để thực hiện những sự phối hợp nói trên.

65

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4-2006) xác định: Phát

huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt

động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Đại đoàn kết

toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân

và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của

cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý

nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng

để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong

nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xoá bỏ mọi mặc cảm, định

kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý

kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân

nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định

chính trị và đồng thuận xã hội.

Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà

hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp,

hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà

nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua đường lối và chính

sách, liên hệ mật thiết với nhân dân. Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ

thống pháp luật và quản lý, tạo điều kiện để nhân dân được làm những việc

mà pháp luật không cấm. Nhà nước và nhân dân cùng nỗ lực phấn đấu cho sự

phát triển của đất nước, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi

ích toàn xã hội.

66

Thực hiện đồng bộ các chính sách và luật pháp của Nhà nước nhằm

phát huy dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của

cộng đồng dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội. Tổ chức và động viên

nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế giỏi, phát

triển kinh tế đi liền với phát triển văn hoá - xã hội; mỗi người, mỗi hộ đều

phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước, thu nhập chính

đáng, nâng cao đời sống. Chăm lo và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân

dân, bảo đảm công bằng xã hội. Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu,

dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân

tộc, các tôn giáo.

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các

đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn

kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của

nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương

trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống, góp phần

xây dựng sự đồng thuận trong xã hội.

Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực

hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các cấp uỷ đảng và cấp chính

quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên lắng

nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà

nước những vấn đề mà nhân dân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương,

chính sách, pháp luật. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quy

chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân

tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.

Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể

nhân dân và các hội quần chúng, khắc phục tình trạng hành chính hoá, phô

67

trương, hình thức; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần

dân và có trách nhiệm với dân.

2.2. Bước phát triển mới về đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò của

Mặt trận Dân tộc Thống nhất

Ngay sau Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày

20-3-2003, Ban Bí thư ra Chỉ thị về lãnh đạo Đại hội Mặt trận các cấp và Đại

hội lần thứ VI Mặt trận Tổ quốc, xác định đây là một sự kiện quan trọng diễn

ra trong bối cảnh đất nước đang ra sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội

lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng về Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quá trình tiến hành

Đại hội Mặt trận ở từng cấp phải thực sự là đợt sinh hoạt chính trị sâu sắc

trong toàn Đảng, toàn dân, trong hệ thống chính trị.

Những thành tích và kết quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

bắt nguồn từ đường lối đổi mới đúng đắn và sự quan tâm lãnh đạo của Đảng

cộng sản Việt Nam. Một nhân tố quan trọng khác là việc Nhà nước thể chế

hoá vị trí, vai trò, quyền hạn trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã

tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của Mặt trận.

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

(tháng 8-1999) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam (tháng 9-2004) là thời gian toàn dân ta nỗ lực phấn đấu cao nhất

thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và triển khai sâu rộng Nghị

quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. Đó cũng là thời kỳ công cuộc đổi mới, sự

hội nhập nền kinh tế nước ta với khu vực và thế giới được mở rộng, phát triển

đa phương, đa dạng hơn.

Đây cũng là thời kỳ những khó khăn, thách thức, những yếu kém, hạn

chế, khuyết điểm từ nội bộ nền kinh tế quốc dân cũng bộc lộ rõ ràng, sâu sắc

68

hơn. Tuy nhiên, nền kinh tế của đất nước vẫn duy trì được nâng cao; chính trị-

xã hội vẫn ổn định, khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng được củng cố, mở

rộng, sự đồng thuận xã hội, đặc biệt là mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh ngày càng trở thành lợi ích và tiếng nói chung

giữa các thành viên trong cộng đồng dân tộc ở trong và ngoài nước.

Có được những thành tựu lớn lao như trên là nhờ kết quả của đường lối

mới, với những thành tựu to lớn không những về kinh tế-xã hội, mà còn là kết

quả của đổi mới chính trị, đặc biệt là chủ trương, chính sách, phát huy vai trò

của Mặt trận.

Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đã được cụ

thể hoá cho từng giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế và các tổ chức đoàn

thể quần chúng. Các chủ trương, chính sách, biện pháp tăng cường mở rộng

đoàn kết dân tộc và phát huy vai trò, vị trí Mặt trận Tổ quốc được tiếp tục cụ

thể thể hoá, đặc biệt là Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số văn bản

quy phạm luật khác đã có tác dụng rõ rệt. Những chuyển biến mạnh mẽ về tư

duy, nhận thức của Đảng ta về vai trò, vị trí khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt

trận dân tộc thống nhất được thể hiện trong nhiều chủ trương chính sách cụ

thể trên các lĩnh vực. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung

ương Đảng (2003) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và về công tác

dân tộc, công tác tôn giáo ra đời là một dấu mốc có ý nghĩa quan trọng trong

lịch sử lãnh đạo của Đảng và lịch sử hình thành và phát triển Mặt trận dân tộc

thống nhất.

Những thành quả của công cuộc đổi mới và những chuyển biến trong

quan điểm nhận thức về vai trò, vị trí, mối quan hệ giữa đại đoàn kết dân tộc

với công cuộc đổi mới đã tạo nên diện mạo mới của khối đại đoàn kết dân tộc

thống nhất. Khối đại đoàn kết dân tộc đứng vững trước mọi khó khăn, thách

69

thức, đặc biệt là sự khơi dậy ý chí tự lực, tự cường để đưa đất nước thoát khỏi

nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng trở thành động lực để phát huy sức mạnh nội

lực của dân tộc.

Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Việt Nam, họp từ ngày 21 đến

ngày 23-9-2004 tại Hội trường Ba Đình, thủ đô Hà Nội, với chủ đề: Phát huy

sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh [30, tr. 24]. Đánh giá

tình hình khối đại đoàn kết toàn dân tộc và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc

nhiệm kỳ 1999-2004, báo cáo khẳng định những thành tựu to lớn, rất quan

trọng về nhiều mặt. Báo cáo rút ra 5 bài học kinh nghiệm về phát huy sức

mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của Mặt

trận; về thực hiện đoàn kết và dân chủ; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa và sự gương mẫu thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách,

pháp luật, nói đi đôi với làm của cán bộ, đảng viên, đó là những yếu tố để Mặt

trận Tổ quốc vận động nhân dân có kết quả.

Trên cơ sở phân tích bối cảnh thế giới, trong nước và những thời cơ

thách thức, trong đó có cả những yếu kém, tồn tại chưa được khắc phục, Báo

cáo đề ra phương hướng, nhiệm vụ chung của Mặt trận Tổ quốc và Chương

trình hành động nhiệm kỳ 2004-2009 nhằm tiếp tục tăng cường tổ chức và đổi

mới phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại

hóa.

Phương hướng, nhiệm vụ chung của Mặt trận Tổ quốc trong nhiệm kỳ

tới được chỉ ra là cần tiếp tục mở rộng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân

tộc, tăng cường đoàn kết quốc tế đi đôi với nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ

70

quốc Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và các lĩnh vực

khác của cuộc cách mạng.

Chương trình hành động đã cụ thể hoá 5 nội dung cơ bản, đó là củng

cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên nhân dân tham gia

các phong trào thi đua, các cuộc vận động thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã

hội; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ

quốc, bảo vệ an ninh chính trị-trật tự an toàn các hội; phát huy quyền làm chủ

của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và mở rộng hoạt động

đối ngoại, trong đó nhiệm vụ phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc,

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được xác định là nhiệm vụ trọng tâm.

Về nhiệm vụ tăng cường tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động,

báo cáo chỉ rõ cần xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trách

nhiệm và tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Ủy ban Mặt trận các

cấp, nhất là cấp cơ sở và địa bàn dân cư và nhấn mạnh hoạt động của Mặt trận

Tổ quốc phải thực sự đổi mới, bám sát nhiệm vụ kinh tế-xã hội quan trọng

của đất nước, của địa phương, sát với cơ sở, cộng đồng dân cư. Các hoạt động

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiệm kỳ 2004-2009 phải góp phần tích cực

thực hiện yêu cầu phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng chỉnh

đốn Đảng là then chốt và không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần

của xã hội, tăng cường sức mạnh quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và

trật tự an toàn xã hội, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất

nước.

Bản Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Đại hội thông qua gồm 8

chương, 37 điều. So với Điều lệ do Đại hội lần thứ V thông qua, đã tăng thêm

2 chương, 10 điều và bổ sung sửa đổi lời mở đầu và những điều khoản khác.

Những sửa đổi, bổ sung của bản Điều lệ thể hiện sự đổi mới trong tư duy,

71

nhận thức về tổ chức, hoạt động của Mặt trận theo hướng mở rộng và đáp ứng

yêu cầu chức năng, nhiệm vụ của từng cơ cấu tổ chức Mặt trận.

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Nông Đức Mạnh đến dự và phát biểu tại Đại hội nhấn mạnh: Trong công cuộc

đổi mới hiện nay, để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải

lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc vì "dân giàu, nước mạnh,

xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm,

định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, xây dựng tinh

thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau. Phải bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội,

chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp

nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và lợi ích xã hội; thực hiện

dân chủ gắn liền với kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng; không ngừng

bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập, thống nhất Tổ quốc.

Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đề nghị trong những năm trước mắt, Mặt trận

cần tập trung tiếp tục củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng

cường sự đồng thuận xã hội; đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân;

thực hiện đại đoàn kết từ cơ sở, từ cộng đồng dân cư. Nói về đổi mới sự lãnh

đạo của Đảng với Mặt trận, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh:

Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân

làm chủ, với trách nhiệm vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt

trận, Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức coi trọng việc đổi mới sự lãnh

đạo của mình đối với công tác mặt trận... Đảng yêu cầu các cấp uỷ đảng

thực hiện tốt vai trò là một tổ chức thành viên, đồng thời tiếp tục đổi

mới phương thức lãnh đạo, kết hợp thực hiện chế độ tập trung dân chủ

trong Đảng và chế độ hiệp thương dân chủ trong tổ chức mặt trận để

phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [30, tr. 22].

72

Thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam là một bước tiến mới của khối đại đoàn kết dân tộc, của Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng

và Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh.

Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VI Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam, hệ thống Mặt trận đã và đang động viên nhân dân thực hiện

tốt:

- Một là, việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh để

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vẫn là nhiệm vụ hàng đầu mà Mặt trận quan tâm,

như động viên công nhân, nông dân, trí thức; động viên các dân tộc, các tôn

giáo và bà con Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài tin tưởng đường lối đổi

mới của Đảng, góp sức thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước và các

cuộc vận động lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhất là hai cuộc vận động

"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư" (chỉ tính năm

2007, cả nước có trên 13 triệu hộ đạt Gia đình văn hoá, 60.180 khu dân cư đạt

danh hiệu Khu dân cư tiên tiến, trong đó, có 47.488 khu dân cư được công

nhận danh hiệu Khu dân cư văn hoá) và cuộc vận động "Ngày vì người

nghèo" (chỉ tính năm 2007, Quỹ "vì người nghèo” các cấp thu được trên 322

tỷ đồng, riêng Quỹ Trung ương vận động được trên 45 tỷ đồng, gấp 4 lần năm

trước, năm 2006 vận động được 11,3 tỷ đồng), góp phần thực hiện thắng lợi

kế hoạch nhà nước hàng năm để sớm đua nước ta ra khỏi tình trạng kém phát

triển, nhân dân ta ngày càng no ấm, hạnh phúc hơn.

- Hai là, vận động các tầng lớp nhân dân để mọi người đều nêu cao ý

thức công dân, thực hiện tốt nhiệm vụ của mình; đồng thời chủ động thực hiện

và giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương

73

Mặ trận Tổ quốc Việt Nam về thực hiện Luật phòng chống tham nhũng, Thực

hành tiết kiệm chống lãng phí để góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng

viên ngày càng vững mạnh, tạo sự đồng thuận xã hội cao, khối đại đoàn kết

dân tộc ngày càng được củng cố vững mạnh.

- Ba là, các cấp Mặt trận tuyên truyền vận động nhân dân ra sức thi đua

học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; năm 2007, năm 2008 tổ

chức tốt Đại hội Mặt trận các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VII Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dự kiến sẽ tổ chức vào quý III năm 2009, làm

cho nhân Việt Nam trong và ngoài nước ai cũng phấn khởi thi đua thực hiện

thắng lợi các mục tiêu, công trình nhằm hoàn thành kế hoạch Nhà nước và

chào mừng Đại hội Mặt trận các cấp, làm cho Đại hội Mặt trận các cấp là đợt

sinh hoạt chính trị sâu rộng tới mọi người dân; ai cũng thấy nghĩa vụ và trách

nhiệm với dân tộc, với đất nước; góp sức phấn đấu thực hiện mục tiêu “dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; mọi người đều đề

cao cảnh giác với âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực

thù địch thông qua các luận điệu xuyên tạc về dân chủ, tôn giáo, nhân

quyền… ở nước ta.

- Bốn là, vận động nhân dân cả nước, các cấp, các ngành, các địa

phương và nhân dân hướng về đồng bào các vùng, các miền bị bão lũ, vận

động nhân dân giúp đỡ thiết thực nhất để đồng bào các tỉnh bị bão lũ vượt qua

khó khăn, nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất cho nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với vai trò là trung tâm phối hợp, tập hợp

quần chúng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, là đầu mối trong

các cuộc vận động, chăm lo cho các đối tượng xã hội, đồng thời là một tổ

chức chính trị có vai trò vô cùng thiết yếu và quan trọng trong hệ thống chính

trị nước ta, tổ chức Mặt trận đã và đang tiếp tục nỗ lực phấn đấu, làm tốt vai

74

trò và chức năng của mình, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền,

xây dựng kinh tế, xã hội quốc gia ngày càng phát triển vững mạnh.

Cùng với sự nghiệp đổi mới, có thể nói qua việc thực hiện Nghị quyết

Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 2004 đến 2007 và qua hơn 2

năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, vai trò và vị trí

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng được khẳng định trong hệ thống

chính trị, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân

tộc. Chính sách đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được triển khai rộng rãi góp

phần giải quyết công tác dân tộc, tôn giáo, công tác kiều bào theo chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ngày càng hiệu quả

hơn.

Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu cho mục tiêu chung

vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” tiếp tục

được tăng cường và phát huy. Lòng tin vào Đảng, chế độ tiếp tục được củng

cố trong các tầng lớp nhân dân. Các phong trào, các cuộc vận động của Mặt

trận ngày càng thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, góp phần

xây dựng đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; tích cực tham gia phát

triển kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, đảm bảo trật tự, an toàn xã

hội.

Nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm đối với tổ chức Mặt trận và

công tác mặt trận của các cấp uỷ đảng, chính quyền được tăng cường; công

tác mặt trận ngày càng được quan tâm chỉ đạo sâu sát hơn. Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam các cấp không ngừng được củng cố về tổ chức; nội dung, phương

thức hoạt động từng bước được đổi mới với phương châm hướng về cơ sở,

nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, các đối tượng nhân dân,

người nghèo; quyền lợi chính đáng của đoàn viên, hội viên từng bước được

quan tâm, giải quyết.

75

Chương 3

MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ

3.1. Một số nhận xét tổng quát về sự lãnh đạo của Đảng

Đại đoàn kết dân tộc là đường lối cơ bản và nhất quán của Đảng Cộng

sản Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh trong suốt quá trình lãnh

đạo cách mạng. Kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân

tộc, ở mỗi thời kỳ, căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ cách mạng, Đảng càng

nâng cao tư duy đoàn kết dân tộc ngày càng có tính chất toàn dân tộc để đề ra

những chủ trương đúng đắn, cụ thể về đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghị quyết

8B, ngày 27-3-1990 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) Về đổi

mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và

nhân dân, Nghị quyết 07, ngày 17-11-1993 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khoá VII) Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận

Dân tộc Thống nhất, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đại

hội IX và Đại hội X của Đảng…, đặc biệt là Nghị quyết số 23, ngày 12-3-2003

của Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết

toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là

những văn kiện quan trọng đã tổng kết thực tiễn và đề ra những quan điểm cơ

bản của Đảng ta về đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ đổi mới đất nước.

Qua các văn kiện đó thể hiện khá rõ hơn những điều chỉnh, phát triển

trong tư duy, nhận thức của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc. Cương lĩnh

xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của

Đảng Cộng sản Việt Nam , xác định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn

thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc”, đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX năm 2001,

76

Báo cáo chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nâng quan điểm

“đoàn kết toàn dân" lên thành "Đại đoàn kết toàn dân” và đến Hội nghị lần

thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX), Đảng ra nghị quyết (số 23-

NQ/TW, ngày 12-03-2003) về phát huy sức mạnh “đại đoàn kết toàn dân

tộc”. Từ đó đến nay vai trò đó tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và trong các văn bản khác của Đảng.

Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước Việt Nam đã có những bước phát

triển rất to lớn. Đường lối, chủ trương về đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng

đã và đang đi vào cuộc sống, là một nhân tố hết sức cơ bản tạo nên sự phát

triển đó. Tuy nhiên, tình hình xã hội thay đổi nhanh chóng, nhiều vấn đề mới

đã và đang đặt ra, trong đó có vấn đề củng cố, tăng cường và phát huy sức

mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc của nước ta hiện nay.

Từ thực tiễn Đảng lãnh đạo, tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn

dân tộc từ năm 1993 đến năm 2007, có thể nêu lên một số nhận xét như sau:

3.1.1. Qua bốn lần đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước

phát triển, cụ thể hóa và bổ sung tư duy, nhận thức về Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, các đoàn thể nhân dân với xu hướng ngày càng nâng cao vai trò, vị trí

của Mặt trận, đoàn thể, nhất là đoàn thể chính trị - xã hội

- Đảng tiếp tục khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể

nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vai trò này được bổ sung, phát triển sau 20 năm

đổi mới, với “vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết

rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của

nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương

trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống” [7, tr. 124].

Nhà nước ban hành cơ chế (pháp lý, nhân lực, điều kiện phương tiện hoạt

77

động) để Mặt trận, các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và

phản biện xã hội.

- Xác định Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội là bộ phận của hệ

thống chính trị do Đảng lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.

- Xác định rõ hơn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh

chính trị, bao gồm tổ chức chính trị, các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu

biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người

Việt Nam định cư ở nước ngoài, thay vì trước đây trong thành phần khối liên

minh chính trị đó chỉ có các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu.

3.1.2. Đại đoàn kết dân tộc và quan điểm, chính sách đối với các giai

cấp và tầng lớp xã hội được phát triển về tư duy qua từng giai đoạn phát triển

của đất nước

- Đại đoàn kết toàn dân tộc được nâng lên là đường lối chiến lược, là

động lực chủ yếu và là nhân tố bảo đảm thắng lợi biền vững của sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của

cả hệ thống chính trị, mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực

hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp, trong đó chủ trương của Đảng và chính

sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu; Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc

tập hợp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Nhân dân ta rất coi trọng dân

chủ, đoàn kết thì phải dân chủ; dân chủ là tăng cường đoàn kết.

- Các quan điểm và chính sách đối với các giai cấp và tầng lớp xã hội

ngày càng được phát triển cùng với sự phát triển của đất nước, đó là chính

sách đối với công nhân, nông dân, trí thức, tôn giáo, dân tộc, người Việt Nam

ở nước ngoài ngày càng thể hiện rõ quan điểm nền tảng của đại đoàn kết toàn

dân tộc, các chủ trương chính sách nhằm quan tâm, bảo vệ lợi ích của các giai

cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo; mở rộng dân chủ về kinh tế, xã hội,

78

phát huy truyền thống yêu nước là những yếu tố quan trọng để tập hợp đoàn

kết hết thảy mọi người dân phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, dân chủ, văn minh.

3.1.3. Đảng đã đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để thực hiện

vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân

- Các Đại hội Đảng cụ thể hóa, với chủ trương ngày càng rõ về đổi mới

phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể là đa dạng hóa các

hình thức để mở rộng về tổ chức để tập hợp quần chúng; hướng mạnh các

hoạt động về cơ sở, cộng đồng dân cư, từng hộ gia đình; xây dựng cộng đồng

dân cư tự quản trên cơ sở hương ước, quy ước ở từng thôn, làng, ấp, bản, khu

phố, tổ dân phố. Nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận, đoàn thể, khắc

phục bệnh quan liêu, hành chính, xa dân.

- Cùng với đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận, các

đoàn thể, Đảng tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Mạt trận, đoàn

thể qua chủ trương được đề ra tại các đại hội, gần đây nhất là Nghị quyết Hội

nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) với những nội

dung đổi mới cụ thể hóa quan điểm Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh

đạo Mặt trận. Nhà nước ngày càng thể chế hóa chủ trương của Đảng về Mặt

trận, đoàn thể thành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội về vai trò,

quyền, trách nhiệm tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.

3.2. Những ưu điểm và hạn chế

3.2.1. Những ưu điểm

Một là, đất nước Việt Nam hiện nay đoàn kết và ổn định, nhân dân cả

nước và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài đồng tình ủng hộ đường lối đúng

đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các tầng lớp

nhân dân, đồng bào các dân tộc thiểu số, các tôn giáo ủng hộ đường lối đổi

mới, tham gia có hiệu quả các phong trào thi đua lao động sản xuất, xoá đói

79

giảm nghèo, làm giàu chính đáng, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa...;

đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, thiếu kỷ

cương; đã phát hiện và xử lý một số vụ tham ô, hối lộ, buôn lậu và những vụ

việc tiêu cực khác, được dư luận nhân dân đồng tình.

- Khối liên minh công - nông - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết

dân tộc tiếp tục được giữ vững. Sự gắn bó trong khối liên minh công nông trí

thể hiện ở giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức tin tưởng và đi theo đường lối

của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng quan tâm hơn đến việc thực

hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhất là dân chủ ở cơ sở và dân chủ trong kinh

tế, tôn trọng những ý kiến khác nhau, miễn là không trái với lợi ích chung.

Không khí dân chủ trong xã hội có tiến bộ hơn trước. Các phương tiện thông

tin đại chúng đã cố gắng phản ánh tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của nhân

dân. Sinh hoạt dân chủ trong các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân

các cấp), trong Mặt trận, các đoàn thể có nhiều tiến bộ. Nhiều kiến nghị chính

đáng của dân được các cơ quan có trách nhiệm xem xét giải quyết.

- Thông qua các phong trào, các cuộc vận động, qua việc thực hiện các

chính sách đền ơn đáp nghĩa, các tầng lớp nhân dân, đồng bào theo đạo, các dân

tộc thiểu số đã đoàn kết với nhau hơn. Nhân dân ở nhiều nơi đã đoàn kết khi có

khó khăn; giúp đỡ những người gặp rủi ro, người già cô đơn, trẻ em lang thang

cơ nhỡ, bệnh nhân hiểm nghèo, những người bị ảnh hưởng chất độc da cam

trong chiến tranh...

- Nhiều chủ trương chính sách mới về kinh tế - xã hội được ban hành

nhằm phát huy các thành phần kinh tế, từng bước tháo gỡ khó khăn, động

viên thu hút đồng bào Việt Nam ở trong và ngoài nước, củng cố khối đoàn kết

các tôn giáo, các dân tộc tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng cuộc

80

sống mới ở khu dân cư và gia đình văn hoá, phát triển kinh tế, xoá đói giảm

nghèo, chống tiêu cực, phòng chống tội phạm, phòng chống HIV/AIDS...

- Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước Việt

Nam đã tiếp tục tạo điều kiện cho những người đã từng làm việc dưới chế độ

Sài Gòn cũ và thậm chí cả người đã từng chống đối quyết liệt được trở về

thăm quê hoặc hoạt động phát triển kinh tế của đất nước. Với chế độ mới, với

chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhiều người tuỳ

năng lực đã được tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị-xã hội. Chính

sách đối với họ thông thoáng hơn, nhiều người được tạo điều kiện đoàn tụ gia

đình sau nhiều năm xa cách. Đời sống của họ nói chung ổn định, sự phân biệt,

mặc cảm ngày càng giảm.

Hai là, Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có nhiều đổi

mới trong việc đề ra chủ trương, chính sách về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã

hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... giải quyết các mối quan hệ lợi ích trong

xã hội, từng bước đáp ứng yêu cầu của nhân dân nhằm động viên toàn dân

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Về kinh tế, chính sách kinh tế nhiều thành phần được toàn dân hoan

nghênh. Luật doanh nghiệp ra đời cùng với các chính sách, pháp luật khác về

kinh tế từng bước đổi mới đã phát huy được tiềm năng trong dân, giảm bớt

khó khăn trong sản xuất và đời sống nhân dân, bước đầu có tác dụng tốt đối

với khối đoàn kết toàn dân.

- Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội: các chủ trương, chính sách, pháp luật

của Đảng và Nhà nước những năm gần đây đã có tác động tốt đến bầu không

khí đoàn kết trong xã hội.

Đối với đồng bào theo đạo đã và đang được Đảng, Mặt trận tiếp tục

thực hiện chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, thừa

nhận tôn giáo là một nhu cầu khách quan trong đời sống tinh thần của một bộ

81

phận dân cư, có những điểm tương đồng giữa đạo đức và việc xây dựng cuộc

sống mới. Đó là những chủ trương đúng đắn được đa số đồng bào có đạo

đồng tình.

- Về chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã có nhiều đổi

mới, như việc Chính phủ ban hành Quy chế về miễn thị thực và cho mua nhà

ở trong nước,...được người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài hoan

nghênh. Một số người tiêu biểu trong cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống

ở một số nước đã tham gia vào Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Nhiều người tâm huyết đã có những việc làm tốt đẹp ủng hộ công cuộc xây dựng

đất nước.

- Các chính sách về an sinh xã hội như chính sách tiền lương, tiền thưởng,

xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, phòng chống tệ nạn xã

hội, dân số kế hoạch hoá gia đình... đã có nhiều đổi mới và được thực hiện có kết

quả ở nhiều nơi. Các chính sách về giáo dục, y tế có nhiều đổi mới, việc phổ

cập giáo dục, xoá nạn mù chữ và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân có những

tiến bộ. Việc thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa luôn luôn được Nhà

nước, các cấp, các ngành coi trọng, động viên được những gia đình có công

với nước.

- Công tác đối ngoại của Nhà nước và của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

và các đoàn thể quần chúng trong những năm qua đã tranh thủ sự đồng tình

ủng hộ của các nước, nâng cao uy tín của nước ta trên thế giới, góp phần tạo

nên môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước, thúc đẩy công cuộc

công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Ba là, những năm qua, Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã

cố gắng thực hiện nhiều chủ trương và biện pháp để củng cố chính quyền,

phát huy vai trò quản lý và làm trong sạch bộ máy nhà nước. Nhờ đó đã tạo

điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững ổn định

82

chính trị xã hội. Nhà nước Việt Nam đã làm được nhiều việc có lợi cho dân,

công tác điều hành, quản lý xã hội đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của

công cuộc đổi mới đất nước, nâng cao uy tín của nước ta trên quốc tế. Việc

ban hành và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (nay là Pháp lệnh Quy chế

dân chủ ở xã, phường) đã và đang dần đi vào nề nếp và thu được những kết

quả thiết thực.

Bốn là, việc tập hợp quần chúng bằng các tổ chức, các phong trào đã có

bước phát triển mới. Các tổ chức thành viên của Mặt trận đã tăng thêm, nhất

là các hội quần chúng đã ngày càng phát triển rộng rãi, đa dạng. Nhiều tổ

chức có tôn chỉ, mục đích rõ ràng, hoạt động thiết thực và bổ ích, có tác dụng

tập hợp, động viên quần chúng, góp phần tăng cường đoàn kết trong nhân

dân, phục vụ cho việc thực hiện chủ trương, chính sách và các chương trình

phát triển kinh tế - xã hội.

Các phong trào, các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc, các ngành, địa

phương đề xướng đã được đông đảo nhân dân tự nguyện tham gia, thu hút

nhiều đối tượng, mang tính toàn dân, toàn diện và thiết thực. Với mức độ

khác nhau, các phong trào đều có tác dụng giáo dục, tập hợp, động viên nhân

dân tăng cường đoàn kết, thương yêu đùm bọc, giúp đỡ nhau về những vấn đề

thiết thực của cuộc sống, nhất là trong những lúc gặp thiên tai, khó khăn, hoạn

nạn. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu

dân cư” và “Ngày vì người nghèo” do Mặt trận khởi xướng và chủ trì là

những phong trào có ý nghĩa chính trị, kinh tế rộng lớn với phương châm “lấy

sức dân mà xây dựng cuộc sống cho dân”.

Có những thành công trên là trước hết là do nhân dân Việt Nam có

truyền thống đoàn kết trong quá trình dựng nước và giữ nước. Truyền thống

đó đã trở thành tài sản quý báu, thành bản sắc văn hoá Việt Nam truyền từ đời

này qua đời khác.

83

Trên cơ sở truyền thống đó, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã

tiếp tục phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết của dân tộc ta trên cơ sở

lý luận cách mạng và tinh hoa trí tuệ của thời đại, làm cho tư tưởng và truyền

thống đại đoàn kết dân tộc trở thành nền tảng tư tưởng để Đảng vạch ra đường

lối chiến lược qua các thời kỳ kể từ khi Đảng đảm nhận sứ mạnh trò lịch sử lãnh

đạo cách mạng Việt Nam đến nay.

Bước vào giai đoạn mới, Đảng đã tổng kết kinh nghiệm cách mạng nước

Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm cách mạng thế giới, kịp thời đề ra chủ trương,

đường lối đổi mới đúng đắn về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với đặc điểm tình

hình hiện nay của đất nước và sự biến đổi của thế giới. Chủ trương, đường lối về

đại đoàn kết dân tộc của Đảng đề ra thể hiện những quan điểm đổi mới quan

trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tư duy lãnh đạo khối đại đoàn kết dân

tộc ở thời kỳ mới đã được khẳng định và phát triển qua các kỳ đại hội của Đảng,

đã nâng cao, tiếp tục phát triển tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí

Minh đáp ứng yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới đất nước.

Vị trí, vai trò và tầm quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong

việc tập hợp, vận động khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong những năm qua đã

được khẳng định trong thực tế. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối

hợp của chính quyền các cấp, sự tham gia nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân,

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn đi đầu trong việc tập hợp đoàn kết toàn dân tộc.

Thông qua nhiều hình thức tổ chức và vận động quần chúng, Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam đã góp phần cùng với Đảng, Nhà nước giải quyết những khó khăn,

bức xúc, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để các tầng lớp nhân dân phát

triển kinh tế - xã hội, khơi dậy và phát huy những giá trị đạo đức – văn hóa

truyền thống tốt đẹp của dân tộc như sự tương thân, tương ái, tình dân tộc, nghĩa

đồng bào.

3.2.2 Một số hạn chế

84

Bên cạnh những thành tựu cơ bản và to lớn nói trên, trong thời gian đã

qua khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã và đang đứng trước nhiều thách thức khá

phức tạp.

Niềm tin vào Đảng và chính quyền các cấp trong một bộ phận nhân

dân, cán bộ đảng viên đang có xu thế giảm sút. Những mâu thuẫn trong nội

bộ nhân dân phát sinh ngày càng nhiều, đang có xu hướng tích tụ, biểu hiện

tập trung ở sự thiếu công bằng xã hội, ở chỗ chưa đáp ứng yêu cầu về dân chủ

ngày càng cao và sự xuống cấp trong đạo đức xã hội.

Sự phân hoá giàu nghèo, sự cách biệt ngày càng lớn giữa thành thị và

nông thôn, lao động trí óc và lao động chân tay, công nhân và nông dân, giữa

nhân dân miền xuôi và đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng sâu, vùng

xa, vùng căn cứ địa cũ của cách mạng, giữa người đương chức và người đã về

hưu, người về hưu trước đây và người mới về hưu, giữa cán bộ già và cán bộ

trẻ, người có chức quyền và người không có chức quyền… đã tác động tiêu

cực đối với khối đại đoàn kết dân tộc.

Tình trạng đặc quyền đặc lợi, phân biệt về quyền lợi chính trị, quyền lợi

kinh tế giữa cán bộ có chức có quyền và người không có chức có quyền chưa

được khắc phục. Chính sự đặc quyền đặc lợi đó đã làm cho “quốc nạn” tham

nhũng có chiều hướng gia tăng đang làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết dân

tộc.

Mặt trái của cơ chế thị trường với những tiêu cực như tệ quan liêu,

tham nhũng, buôn lậu, nạn hối lộ, lối sống thực dụng cá nhân vị kỷ, buông

lỏng kỷ cương phép nước, lạm quyền, ô dù, bao che… tồn tại khá phổ biến.

Tình hình khiếu kiện gay gắt và kéo dài ở nhiều nơi (60 - 70% là về đất đai);

một số vụ án tham nhũng lớn, những băng, nhóm hoạt động theo kiểu xã hội

đen; tệ quan liêu cửa quyền, thiếu trách nhiệm, buông lỏng kỷ cương của một

số cán bộ, đảng viên, có chức quyền… và nhiều vấn đề nóng bỏng, bức xúc

85

khác chậm được giải quyết, đã tác động bất lợi đến việc tăng cường đại đoàn

kết dân tộc.

Chưa bảo đảm thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, vẫn còn

dè chừng, nghi ngại, chưa thông thoáng và thiếu nhất quán trong việc đối xử

với thành phần kinh tế tư nhân, do đó chưa đoàn kết và phát huy được đông

đảo những người làm kinh tế tư nhân để phát triển sản xuất, giải quyết việc

làm cho người lao động. Luật Doanh nghiệp, Hiến pháp sửa đổi và Nghị

quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) về kinh tế

tư nhân đã có tác dụng tích cực giải toả tâm lý cho giới kinh tế tư nhân, song

các doanh nhân vẫn còn chờ đợi ở việc thực hiện trên thực tế.

Còn thiếu nhiều chính sách hướng dẫn, khuyến khích sản xuất, nhất là

với nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Các chính sách liên quan đến đầu tư

trong nước và ngoài nước vẫn chưa tạo được môi trường đầu tư thật thuận lợi

để phát triển sản xuất, giải quyết việc làm và đời sống của người lao động, nhất

là ở nông thôn và những vùng tuy có nhiều tiềm năng nhưng điều kiện phát

triển hiện nay tạm thời còn nhiều khó khăn. Tình trạng thất nghiệp, bán thất

nghiệp còn nhiều, nhất là ở nông thôn.

Nhiều chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài chưa được xây

dựng và thực hiện tốt nhằm thu hút tiềm năng kiều bào, nhất là chất xám vào

công cuộc xây dựng đất nước.

Trong việc thực hiện chính sách tôn giáo cũng còn nhiều bất cập.

Nhiều cán bộ, đảng viên chưa nắm vững chính sách tôn giáo của Đảng, còn

nghi kỵ những người có đạo, nhất là các chức sắc tôn giáo. Ở nhiều nơi chính

quyền còn can thiệp vào các hoạt động thuần tuý tôn giáo, đồng thời lại có

nhiều mặt buông lỏng (như các hiện tượng mê tín dị đoan, tạp đạo...). Thiếu

sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các tổ chức, còn tình trạng không nhất

quán, không đồng bộ, làm cho những người có đạo sinh ra mặc cảm, e ngại.

86

Bộ máy và hoạt động của Nhà nước vẫn bất cập trước đòi hỏi của nhân

dân, việc xây dựng nhà nước pháp quyền chưa gắn với việc phát huy quyền

làm chủ của dân, nhiều cán bộ còn xa dân, không hiểu dân, chưa thể hiện

được vai trò là công bộc của dân. Ở nhiều nơi, tệ quan liêu, hách dịch, cửa

quyền, mất dân chủ, thiếu trách nhiệm, gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân,

thậm chí có nơi ức hiếp dân, xâm phạm quyền dân chủ và lợi ích hợp pháp

của dân, kỷ cương xã hội bị buông lỏng...

Việc tập hợp quần chúng vào các tổ chức hội vẫn còn tình trạng vừa

buông lỏng lại vừa bảo thủ. Sự phát triển của các hội quần chúng là nhu cầu

dân chủ hoá đời sống xã hội, là nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp

nhân dân. Nhiều nơi không giúp đỡ việc lập hội quần chúng. Các hội hiện có

chưa được chăm lo củng cố, Nhà nước thiếu sự hướng dẫn quản lý và tạo điều

kiện về mọi mặt, nên hoạt động còn khó khăn và một số hội được lập ra còn

mang tính hình thức. Dự thảo luật về hội quần chúng đã chuẩn bị từ nhiều

năm, song đến nay vẫn chưa được ban hành. Nhiều phong trào quần chúng có

tác dụng rất thiết thực được nhân dân hưởng ứng, song sự phối hợp giữa các

tổ chức để hướng dẫn, chỉ đạo còn chưa đồng bộ, chặt chẽ, sự lãnh đạo của

cấp uỷ đảng, sự giúp đỡ các mặt của Nhà nước còn hạn chế.

Còn có những hạn chế trên, trước hết là do trước yêu cầu nhiệm vụ và

đặc điểm tình hình mới của đất nước và thế giới, Đảng, Nhà nước chưa kịp

thời phân tích đầy đủ những biến đổi trong cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp

cùng những mâu thuẫn trong quan hệ xã hội, chưa đánh giá đúng hết tình hình

khối đoàn kết trong nhân dân, chưa chú ý nắm bắt tình hình và lắng nghe ý kiến

các tầng lớp nhân dân, nhất là tiếng nói từ các cơ sở báo cáo trực tiếp hoặc phản

ánh qua hệ thống Mặt trận và các tổ chức quần chúng.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, một bộ phận không nhỏ trong cán bộ

công chức nhà nước đã bị quan liêu hoá, không giữ gìn đạo đức cách mạng,

87

không tận tụy phục vụ nhân dân, nên đường lối, chủ trương đại đoàn kết dân

tộc đã không được thể hiện đầy đủ trong cơ chế, chính sách, luật pháp, hơn

nữa còn làm cho sai lệch trong khi thực hiện, gây mất lòng tin trong nhân dân.

Tình trạng mất đoàn kết trong cấp uỷ đảng, trong bộ máy nhà nước có xu

hướng tăng lên.

Còn thiếu một cơ chế công bằng, công tâm, dân chủ, công khai trong

việc sử dụng và đánh giá con người trong các ngành, các cấp, các địa phương.

Nhiều người có đức có tài chưa được trọng dụng. Một số người ít tài, kém

đức lại được đề cao. Sự thiếu công bằng trong cách đánh giá, sử dụng con

người đã có tác dụng tiêu cực đối với việc củng cố sự đoàn kết trong nhân

dân.

Không ít cán bộ cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp còn coi nhẹ công tác

mặt trận và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… Một số đảng viên được

Đảng phân công làm công tác Mặt trận thì năng lực hạn chế và ít hiểu biết về

Mặt trận nhưng ít chịu nghiên cứu, học tập. Nhiều nơi cấp uỷ cử người sang

làm công tác mặt trận là để giải quyết chính sách, tạm chờ về hưu.

Bản thân Mặt trận ở nhiều nơi chưa tích cực vươn lên, nâng cao chất

lượng hoạt động để tự khẳng định vị trí, vai trò của mình trong xã hội. Sau khi

có Nghị quyết của Đảng, Mặt trận chưa mạnh dạn xây dựng tổ chức theo

hướng đổi mới, nhất là xây dựng tổ chức cơ sở, chưa xây dựng được đội ngũ

cán bộ chuyên sâu công tác mặt trận, đổi mới phương thức hoạt động chưa

đồng đều ở các cấp.

Sự đổi mới của cả hệ thống chính trị chưa đồng bộ, chưa có đủ cơ chế,

chính sách, điều kiện đảm bảo để cán bộ trong hệ thống chính trị, nhất là bộ

máy Nhà nước hiểu rõ hơn về Mặt trận. Đó là nguyên nhân quan trọng ảnh

hưởng đến tình hình hoạt động của Mặt trận trong thời gian qua.

88

3.3. Một số kinh nghiệm lịch sử

- Một là, trải qua hơn 20 năm đổi mới đất nước, các nghị quyết của

Đảng đã không ngừng đi vào cuộc sống và khẳng định những nội dung đúng

đắn của đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là tăng cường đại đoàn kết

toàn dân tộc trên cơ sở khơi dậy và phát huy sức mạnh dân tộc đến mức cao

nhất, đặt lợi ích chung của dân tộc, của con người lên hàng đầu, coi đó là

điểm xuất phát để xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước, nhằm chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu; tăng cường, mở rộng quan hệ

hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi nguồn lực của thời đại để xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc.

- Hai là, Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy

mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào

các dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân, đồng bào ở trong nước cũng như

đồng bào định cư ở nước ngoài vì sự nghiệp chung. Trong nhận thức cũng

như trong hành động, phải thật sự xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối

xử do quá khứ, thành phần, giai cấp, nghề nghiệp, vị trí xã hội, xây dựng tinh

thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai để xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc.

Để đưa đất nước phát triển vững chắc, yêu cầu đại đoàn kết toàn dân

tộc trong tình hình mới càng quan trọng hơn bao giờ hết. Đảng ta luôn giương

cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là đường

lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống

chính trị và toàn xã hội.

- Ba là, nghiên cứu làm rõ lý luận về đảng cầm quyền, mối quan hệ

giữa dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn

89

dân tộc, về đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam. Phải chú trọng nghiên cứu những biến đổi về cơ cấu xã hội, phân

tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo ở nước ta, trong đó cần chú trọng nghiên

cứu để có chính sách quốc gia và chiến lược phát triển giai cấp công nhân,

nghiên cứu chương trình phát triển toàn diện, đồng bộ nông thôn - nông

nghiệp - nông dân, chính sách tạo động lực phát triển đội ngũ trí thức, trọng

dụng hiền tài; thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng,

khuyến khích sự sáng tạo trong nghiên cứu, đặt biệt là khoa học xã hội; thực

hiện đại đoàn kết toàn dân tộc và có đường lối, chính sách tôn giáo, tín

ngưỡng đúng đắn.

- Bốn là, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên

trong việc vận động, tập hợp, xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân

tộc. Trong xã hội luôn tồn tại sự khác biệt, cần đi sâu tìm hiểu và phân tích để

tìm ra sự tương đồng, lấy điểm tương đồng làm chỗ dựa để đoàn kết mọi người,

đồng thời tôn trọng những ý kiến khác nhau, miễn là không trái với lợi ích

chung, không làm tổn hại đến lợi ích của các thành viên khác trong xã hội. Do

vậy, Đảng, Nhà nước phải thực sự coi trọng vai trò của Mặt trận dân tộc thống

nhất để qua đó lãnh đạo, tổ chức, đoàn kết các tầng lớp nhân dân. Hơn lúc nào

hết tổ chức "dân - chính - đảng" cần phải được hiểu đúng, làm đúng như Bác

Hồ từng quan tâm trước đây.

3.4. Đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam trước yêu cầu phát triển mới của đất nước

3.4.1. Đại đoàn kết toàn dân tộc trước yêu cầu phát triển mới của đất

nước

Đại đoàn kết toàn dân tộc đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc theo nhiệm vụ cách mạng Việt Nam mà Cương lĩnh xây dựng

đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của Đảng Cộng

90

sản Việt Nam đề ra đã khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là một chiến lược

của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại khi mà yếu tố dân

tộc trở thành một đặc điểm cực kỳ quan trọng.

Nội dung cơ bản của đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng

Cộng sản Việt Nam bao gồm những vấn đề chủ yếu sau đây: Đảng Cộng sản

Việt Nam xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách

mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu và là nhân tố có ý

nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc. Đây không phải là chủ trương nhất thời, mà là một vấn đề cốt tử

của cách mạng. Điểm tương đồng, mẫu số chung để Đảng Cộng sản Việt Nam

đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước, mọi dân tộc, mọi tôn

giáo, xóa bỏ mọi định kiến, mặc cảm, phân biệt đối xử trong xã hội... đó là

mục tiêu giữ vững độc lập và thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trên cơ sở điểm tương đồng ấy,

tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Trong

đoàn kết dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đề cao truyền thống

nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn

định chính trị và đồng thuận xã hội. Đây là nét đặc thù của đại đoàn kết toàn

dân tộc ở nước ta, là thể hiện truyền thống văn hóa của dân tộc ta.

Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết

toàn dân là trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, mà Đảng là

hạt nhân lãnh đạo, thực hiện đoàn kết thông qua nhiều biện pháp, hình thức đa

dạng, trong đó vấn đề quan trọng hàng đầu là chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật hợp lòng dân của Nhà nước và vai trò gương mẫu thực hiện

của đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên. Trong điều kiện ngày nay, hoạt

động của bộ máy và đội ngũ cán bộ viên chức trong sạch, vững mạnh là một

91

yếu tố cực kỳ quan trọng để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố lòng

tin của nhân dân với chế độ.

Trên cơ sở những quan điểm cơ bản đó, Đảng đã đề ra những chủ

trương cụ thể nhằm đưa đường lối đại đoàn kết toàn dân vào cuộc sống, tập

hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân như: công nhân, nông dân, trí thức, chủ

doanh nghiệp, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các dân tộc

thiểu số, đồng bào theo đạo, kiều bào ta ở nước ngoài... Mỗi tầng lớp trong xã

hội ta có yêu cầu và nguyện vọng riêng, Đảng và Nhà nước có chủ trương cụ

thể sát với từng tầng lớp, nhằm đoàn kết động viên mọi nguồn lực thật rộng

rãi của mọi người Việt Nam yêu nước trong công cuộc phát triển đất nước.

Muốn đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác nhau, phải có chính sách đáp ứng

yêu cầu lợi ích của mỗi giai tầng. Đảng đề ra chủ trương đối với mỗi giai

tầng, chính là nhằm thỏa mãn yêu cầu chính đáng, hợp pháp của mọi giai

tầng, kết hợp hài hòa lợi ích chung của đất nước với lợi ích riêng, kết hợp lợi

ích của mỗi cá nhân, của tập thể và lợi ích toàn xã hội.

Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, một trong những nhiệm vụ chủ yếu

mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra,

những năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều cố gắng và thu được

nhiều kết quả đáng phấn khởi trong việc thực hiện đoàn kết các dân tộc, các

tôn giáo, các giai cấp, tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế, mọi giới,

mọi lứa tuổi, mọi vùng miền của đất nước, người trong Đảng, ngoài Đảng,

người đương chức, người nghỉ hưu, đoàn kết mọi người trong đại gia đình các

dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay ở nước ngoài. Nhờ có đoàn kết

rộng rãi, chân thành mà Việt Nam luôn được ổn định, sự đồng thuận xã hội

được củng cố và tăng cường, trở thành sức mạnh góp phần tạo nên những

thành tựu rất quan trọng trong những năm qua và những thành tự to lớn, có ý

nghĩa lịch sử qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới.

92

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX

của Đảng và những bài học qua 20 năm đổi mới, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí

Minh về đại đoàn kết, Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng

định: Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân

với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường

lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động

lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững

của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của

Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm

điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp

nhân dân ở trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc

cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng

những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc; đề cao truyền thống

nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, giữ gìn

sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội vì tương lai tươi sáng của dân tộc.

Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị

mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện

pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật

của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Các chính sách và pháp luật

của Nhà nước phải nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa dân chủ (dân chủ đại

diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của cộng đồng dân cư), đồng thời

giữ vững kỷ cương xã hội và đạo lý dân tộc. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện

các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn

giáo; chú trọng chính sách đối với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội

ngũ trí thức, các doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao

tuổi, đồng bào định cư ở nước ngoài, v.v...

93

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân

tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta. Các

dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ

nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng

Cộng sản Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm

quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền

sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn

giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Đấu

tranh ngăn chặn các hành vi lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo

để hoạt động trái pháp luật, kích động, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, tôn

giáo, làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước.

Thực hiện đại đoàn kết, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, vì thắng lợi

của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một nội dung trọng yếu

trong chủ đề của Đại hội X của Đảng, là quyết tâm không gì lay chuyển nổi

của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

3.4.2. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tăng cường

khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, đoàn kết mọi

tầng lớp nhân dân trong nước, các giai tầng trong xã hội đóng vai trò rất quan

trọng trong việc tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đại diện cho

quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, là cầu nối bền

chặt giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Vai trò quan trọng đó đã được

chứng minh trong thực tiễn lịch sử 78 năm tồn tại và phát triển của Mặt trận, đã

là một nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam

trong các thời kỳ, đã được Hiến pháp và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy

định:

94

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên

hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ

chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã

hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là

cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng,

tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,

nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên,

góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ,

thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì

mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh [44,

tr 203-204].

Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, Mặt trận tiếp tục đổi mới

mạnh mẽ về tổ chức, phương thức hoạt động và phong cách làm việc cho phù

hợp tình hình mới, theo hướng hiệu quả và thiết thực, hướng về cộng đồng dân

cư, góp phần chăm lo đời sống vật chất tinh thần của các tầng lớp nhân dân, qua

đó tăng cường tập hợp và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tổng kết nhiệm kỳ Đại hội IX và thực tiễn 20 năm đổi mới, Đại hội X

Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: Mặt trận Tổ quốc và các đoàn

thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết

rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện

vọng chính đáng của nhân đan; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà

nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng thành

hoạt động thực tiễn sinh động trong cuộc sống của nhân dân.

Nhà nước ban hành và bổ sung pháp luật để Mặt trận và các đoàn thể nhân

dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các cấp ủy đảng và các cấp

95

chính quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên

lắng nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà

nước những vấn đề mà nhân dân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương, chính

sách, pháp luật sát hợp với cuộc sống. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, Quy chế dân chủ ở cơ sở để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân

tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị. Về phần mình, Mặt

trận, các đoàn thể và các hội quần chúng cần đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất

lượng hoạt động, khắc phục cho được tình trạng hành chính, hình thức; làm tốt

công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có

trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.

Phát huy thành tựu và những bài học kinh nghiệm quý báu của nhiệm kỳ

Đại hội IX và 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ X với chủ đề: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu

của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi

mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển đã, đang và sẽ đi vào

cuộc sống, mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

sẽ trở thành hiện thực.

3.4.3. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và nâng cao vai trò của Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, theo chúng

tôi:

- Một là, trước hết Mặt trận Tổ quốc các cấp phải nhận thức đầy đủ sâu

sắc vần đề nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ phát

triển mới của đất nước để chủ động tự đổi mới, tự khẳng định mình và thường

xuyên chăm lo củng cổ mở rộng tổ chức, đối mớiphương thức hoạt động, thực

hiện tốt chức năng nhiệm vụ đã được luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các

đạo luật khác quy định.

96

- Hai là, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát

huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ

trọng tâm hàng đầu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đó cũng là vai trò vốn có

của Mặt trận. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức của dân, do dân và

vì dân. Mặt trận đại diện cho lợi ích chung của các tầng lớp nhân dân cùng

với Nhà nước chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tầng lớp

nhân dân, điều hòa lợi ích giữa các thành viên tham gia liên minh, hòa giải

các mâu thuẫn trong xã hội, thực hiện được vai trò này thì tổ chức mặt trận

mới được củng cố và mở rộng.

- Ba là, Mặt trận tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân là

nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, là vai trò đương nhiên vì Mặt trận là một

tổ chức liên minh chính trị, là thành viên của hệ thống chính trị, là cơ sở chính

trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phải phát huy đầy đủ vai trò đại diện

nhân dân trong tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân

các cấp, tham gia xây dựng chủ trương chính sách pháp luật, thực hiện tốt vai

trò phản biện xã hội trong quá trình tham gia xây dựng chủ trương chính sách

pháp luật vì các chủ trương chính sách pháp luật đều tác động trực tiếp hoặc

gián tiếp đến việc củng cổ và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Hiện nay

ở một số địa phương, Mặt trận xã, phường, thị trấn đã chủ trì việc bỏ phiếu tín

nhiệm các chức danh chủ chốt của chính quyền cơ sở đã đem lại những kết

quả bước đầu. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần làm tốt hơn nữa việc tuyên

truyền vận động nhân dân tham gia xây dựng chỉnh đốn Đảng, để Đảng thực

sự trong sạch vững mạnh, xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân, thực hiện

giám sát của nhân dân đối với việc thực thi trách nhiệm và đạo đức, lối sống

của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và hoạt động của các cơ

quan nhà nước trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật

trong cuộc sống. Làm tốt những việc đó chẳng những để thực hiện vai trò của

97

Mặt trận mà còn đáp ứng yêu cầu của cơ quan Nhà nước như Hồ Chí Minh đã

chỉ rõ: “Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê

bình để làm tròn nhiệm vụ”.

- Bốn là, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã xác định: Mặt trận tham

gia phối hợp với các cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động, các phong

trào thi đua yêu nước, vận động nhân dân đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển

kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội, xây dựng

nền quốc phòng toàn dân, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Thông qua các cuộc vận động và các phong trào thi đua, Mặt trận sẽ không

ngừng phát huy tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân , tăng cường

khối đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận có nhiệm vụ phối hợp đưa đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân, để

nhân dân hiểu biết và thực hiện đồng thời lắng nghe, thu thập tâm tư, nguyện

vọng của các tầng lớp nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước

thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, ....

Tóm lại, trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có

vai trò rất quan trọng tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân phát huy các nguồn

lực vật chất trí tuệ, tinh thần của các tầng lớp nhân dân trong mọi hoạt động

kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh và đối ngoại.

Đảng Cộng Sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt

trận. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là vấn đề có tính nguyên tắc, là

yếu tố quyết định đảm bảo cho Mặt trận không ngừng được củng cố và mở

rộng, hoạt động ngày càng đạt được hiệu quả thiết thực. Đảng đặt vấn đề nâng

cao vai trò của Mặt trận không có mục đích nào khác là củng cố và tăng

cường đại đoàn kết toàn dân, mở rộng việc tập hợp lực lượng, phát huy sức

mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

98

hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với sự nỗ lực phấn đấu của

Mặt trận trong việc thực thi vai trò, trách nhiệm của mình thì sự quan tâm

lãnh đạo của Đảng đối với công tác mặt trận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.

Trước hết đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng

quy luật khách quan, đáp ứng ý nguyện và lợi ích cơ bản của các tầng lớp

nhân dân, đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng là ngọn cờ tập hợp đoàn

kết toàn dân, là phương hướng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Đảng phải thường xuyên chăm lo lãnh đạo và chỉ đạo cả hệ thống chính trị và

toàn xã hội làm công tác mặt trận, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt

trận. Đảng giáo dục đảng viên phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của

mình trong việc thực hiện và tuyên truyền vận động thuyết phục nhân dân

thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước. Sự đoàn kết nhất trí trong Đảng là cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân.

Đảng tôn trọng tính độc lập về tổ chức, tạo điều kiện, khuyến khích mọi hoạt

động sáng tạo của Mặt trận vì lợi ích của nước của dân.

Nhà nước ta là trụ cột của hệ thống chính trị, là nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Nhà nước điều hành quản lý xã

hội bằng pháp luật. Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật, mọi hoạt động

quản lý của Nhà nước đều quan hệ đến các giai cấp, dân tộc, tôn giáo, các

tầng lớp xã hội, đều ảnh hưởng và tác động đến việc củng cố và tăng cường

khối đại đoàn kết toàn dân. Nhà nước và Mặt trận đều là thành viên của hệ

thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Sự phối hợp giữa Mặt trận và Nhà nước là

tất yếu và xuất phát từ nhu cầu tự thân của Mặt trận và của cả Nhà nước. Sự

phối hợp có hiệu qủa giữa Mặt trận và Nhà nước sẽ tạo ra sức mạnh của bản

thân Nhà nước. Nhà nước cần tạo cơ sở pháp lý và những điều kiện cần thiết

đảm bảo cho Mặt trận thực hiện vai trò, trách nhiệm của mình. Nhà nước thể

chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng và những điều khoản của

99

Hiến pháp và một số đạo luật đã quy định quyền hạn, trách nhiệm của Mặt

trận trong việc tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giám sát hoạt động

của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức nhà nước... thành

các văn bản pháp quy để Mặt trận thực thi quyền hạn, trách nhiệm đó trong

cuộc sống.

Nhà nước phối hợp chặt chẽ và tạo điều kiện để Mặt trận tổ chức thực

hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động sâu rộng trong

các tầng lớp nhằm góp phần giải quyết các vấn đề trọng đại của đất nước,

những vấn đề bức xúc của cuộc sống nhân dân. Hệ thống chính trị ở Việt

Nam bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể

nhân dân đang không ngừng đổi mới và hoàn thiện. Sự vận hành thông suốt,

nhịp nhàng của hệ thống chính trị có ý nghĩa quan trọng đảm bảo cho hệ

thống chính trị vững mạnh họat động có hiệu quả. Tuy phương thức hoạt

động của mỗi thành viên trong hệ thống chính trị có khác nhau nhưng mọi

hoạt động của Đảng, Nhà nước và Mặt trận đều có một mục đích chung,

phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Vấn đề quan trọng là xác định rõ ràng

nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi tổ chức và mối quan hệ phối hợp

giữa các thành viên sao cho mọi nhiệm vụ chính trị, kinh tế-xã hội, quốc

phòng an ninh, đối ngoại của đất nước đều đạt kết quả tốt đẹp. Sự lãnh đạo

của Đảng, việc quản lý điều hành của Nhà nước có ảnh hưởng và tác động rất

lớn đến việc nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm của Mặt trận được xác định rõ, có

cơ sở pháp lý, có các điều kiện đảm bảo tổ chức thực hiện nhưng điều đó có

thành hiện thực hay không còn phụ thuộc phần lớn vào chất lượng đội ngũ

cán bộ mặt trận ở mỗi cấp. Vì vậy phải quan tâm chăm lo xây dựng, đào tạo

bồi dưỡng độ ngũ cán bộ mặt trận vững về chính trị, thành thạo về công

việc, chủ động sáng tạo, có tình thần trách nhiệm cao trước nhân dân, luôn

100

rèn luyện phấn đấu nâng cao năng lực trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

được giao.

101

KẾT LUẬN

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất đã thật sự

được khẳng định rõ trong Nghị quyết số 8B/NQ-TW Hội nghị Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khoá VI) tháng 3-1990 khi đề cập đến việc phát huy khả

năng to lớn, tạo nên sức mạnh của cộng đồng dân tộc. Từ đó cho đến Đại hội

Đảng lần thứ VII của Đảng, là một bước chuyển biến quan trọng trong quan

điểm nhận thức về vai trò khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống

nhất. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

năm 1991, vấn đề này đã được khẳng định rõ ràng, không chỉ thể hiện qua

việc tổng kết 5 bài học lớn, trong đó có bài học về đại đoàn kết dân tộc, đồng

thời thể hiện trong nhiều nội dung của cương lĩnh.

Đến Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung

ương khoá VII Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống

nhất (11-1993) là sự hoàn chỉnh tư duy nhận thức về đại đoàn kết dân tộc và

Mặt trận dân tộc thống nhất thể hiện rõ nét. Đây là một văn kiện quan trọng,

khẳng định vai trò, vị trí vấn đề đại đoàn kết dân tộc và đề ra những chủ

trương, biện pháp cụ thể nhằm tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc

và Mặt trận dân tộc thống nhất, khắc phục những lệch lạc trong quan điểm,

nhận thức, xác lập tư duy đúng đắn về mở rộng đoàn kết và chủ trương hoà

hợp dân tộc. Nghị quyết khẳng định quan điểm: đại đoàn kết dân tộc là đường

lối cơ bản của Đảng; đại đoàn kết chủ yếu phải lấy mục tiêu chung làm điểm

tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau, không trái với lợi

ích chung của dân tộc.

Dựa trên những nội dung, quan điểm mang tính đổi mới sâu sắc đó, tư

tưởng chỉ đạo và các chủ trương, chính sách về tăng cường mở rộng đoàn kết

102

dân tộc của Đảng và Nhà nước ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, phát

triển. Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của

Đảng (1-1994) khẳng định mục tiêu đoàn kết rộng rãi hơn bao gồm: mọi

người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới...

Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng (4-2001) cũng khẳng định:

Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân.

Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) đã khẳng định: Đại

đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp

nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến

lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là

nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc,

vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương

đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở

trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc cảm,

định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những

ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân

nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định

chính trị và đồng thuận xã hội.

Từ sau ngày đất nước thống nhất, nhất là trong gần hơn hai thập kỷ tiến

hành công cuộc đổi mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát huy truyền

thống cách mạng vẻ vang của các tổ chức mặt trận trước đây, rút ra từ quá

khứ những bài học kinh nghiệm lịch sử để củng cổ, mở rộng, tổ chức và đổi

mới phương thức hoạt động góp phần quan trọng vào thành tựu chung của đất

nước. Vị trí, vai trò của Mặt trận ngày càng được khẳng định trong hệ thống

chính trị và đời sống xã hội.

103

Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, đất nước ta đã

chuyển sang một thời kỳ phát triển mới-thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá. Trong vài thập niên đầu của thế kỷ XXI, chúng ta đứng trước

nhiều thời cơ và vận hội nhưng cũng phải đương đầu với nhiều nguy cơ, thách

thức để đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiến lên giành thêm những thành

tựu mới to lớn hơn, bền vững hơn.

Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, hợp tác và hội nhập quốc tế, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ

thành quả cách mạng là nhiệm vụ rất nặng nề, lâu dài, khó khăn và phức tạp

đòi hỏi toàn Đảng toàn dân ta phải tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vượt

bậc mới hoàn thành được nhiệm vụ lịch sử vẻ vang đó.

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược,

là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát

huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của cả hệ thống chính

trị, song Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan trọng. Ý thức được

nhiệm vụ của mình trước nhân dân, trước lịch sử, Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tháng 9-2004 đã xác định “Phát huy

sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan

trọng hàng đầu trong báo cáo chính trị và cũng là chủ đề của Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ VI của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị

đã được Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam xác định. Vai trò của một tổ chức trong hệ thống chính trị

và đời sống xã hội là do vị trí và tính chất của tổ chức đó quy định, có tính

khách quan. Nhưng có vai trò tác dụng thực sự hay không còn do kết quả hoạt

104

động thực tiễn của tổ chức đó quyết định và chịu sự chi phối của mối quan hệ

giữa các thành viên trong hệ thống chính trị tác động. Vai trò của Mặt trận

không phải tự Mặt trận khẳng định mà phải do chính nhân dân, chính lịch sử

thừa nhận. Việc Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đặt vấn đề nâng cao

vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải vì vai trò của Mặt trận bị

hạ thấp, bị xem nhẹ hay mờ nhạt trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội

và cũng không phải do ý muốn chủ quan của Mặt trận tự đề cao mình mà do

chính nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải nâng

cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đó cũng là đòi hỏi và mong

muốn của Đảng, của Nhà nước và toàn dân Việt Nam đối với Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ phát

triển mới của đất nước.

Năm 2008, là năm kỷ niệm 78 năm ngày truyền thống Mặt trận dân tộc

thống nhất Việt Nam (18-11-1930 - 18-11-2008), với thành quả to lớn và

những truyền thống cách mạng vẻ vang của Mặt trận dân tộc thống nhất trong

lịch sử cách mạng Việt Nam, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng tư tưởng Hồ

Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống dưới sự lãnh đạo

của Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi tỏa sáng, dẫn dắt Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam viết tiếp những trang sử mới hào hùng trong sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc "vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh".

105

TÀI LIỆU THẢM KHẢO CHỦ YẾU

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược Ổn định và phát triển kinh

tế-xã hội đến năm 2000, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc

giữa nhịêm kỳ khoá VII, Hà Nội.

9. Hà Huy Giáp (1992), Một vài suy nghĩ về tư tưởng Hồ Chí Minh. Góp

phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Sự thật.

10. Lê Mậu Hãn (2000), Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Lê Mậu Hãn (2000), Các Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Lê Mậu Hãn (2000), Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới

106

ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Nguyễn Thạc Hân (1998), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Dân vận,

Nxb. Lao động, Hà Nội.

14. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 1, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

15. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 2, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

16. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 3, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

17. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 4, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

18. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 5, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

19. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 6, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

20. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 7, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

21. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 8, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

22. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 9, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

23. Hồ Chí Minh (2002), xuất bản lần thứ 2, tập 10, Nxb. Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

24. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 11, Nxb. Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

25. Hồ Chí Minh (1995), Về dân vận, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27. Hồ Chí Minh (1977), Về quan điểm quần chúng, Nxb, Sự Thật, Hà Nội.

107

28. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội IV, Hà Nội.

29. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ V, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

30. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

31. Đỗ Mười (2007), Những bài nói và viết chọn lọc, tập I, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

32. Đỗ Mười - Lê Quang Đạo (1996), Đại đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

33. Vũ Oanh (1998), Đại đoàn kết dân tộc phát huy nội lực nâng cao hiệu

quả hợp tác quốc tế thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Lê Khả Phiêu (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng

ta và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ (1996), Gắn bó với dân tộc với nhân dân với

cách mạng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Biên niên sự

kiện lịch sử Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, tập III (1975-

2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2002), Kỷ yếu Hội thảo

khoa học-thực tiễn: Đại đoàn kết dân tộc - động lực chủ yếu đẩy mạnh

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hà Nội.

38. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2005), Kỷ yếu Hội thảo

khoa học-thực tiễn: Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc, xây

dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội.

39. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1991), Lược sử Mặt trận

108

Dân tộc Thống nhất trong cách mạng Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

40. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1995), Lược sử Mặt

trận Dân tộc Thống nhất trong cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

41. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2006), Lịch sử Mặt

trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, quyển I (1930-1954), Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

42. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2007), Lịch sử Mặt

trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, quyển II (1954-1975), Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

43. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2007), Lịch sử Mặt

trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, quyển III (1975-2004), Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

44. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, Nxb Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

45. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2002), Niên giám

2000-2001, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nộị.

46. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1996), Tư tưởng Hồ

Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất, Nxb.

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

47. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng

về Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, tập III (1978-2004), Hà Nội.

48. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (2004), Tư tưởng Hồ Chí

Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn

dân tộc trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

109