ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
* LÊ MẬU NHIỆM ĐẢNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TỪ NĂM 1993 ĐẾN NĂM 2007 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
6
6 Chương 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM 1993-2003 1.1. Cơ sở tư tưởng của sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ......................................................................................................................................................................
6 1.1.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đại đoàn kết toàn dân tộc ........................................................................................
14 1.1.2. Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam trong quá trình tập hợp vận động nhân dân qua các giai đoạn cách mạng (1930-1993) ....................
1.2. Những chủ trương và biện pháp của Đảng xây dựng khối 20 đại đoàn kết toàn dân lên tầm cao mới, chiều sâu mới (1993-2003)
1.2.1. Chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ............................................................. 20
42
1.2.2. Tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và phát huy vai trò Mặt trận Dân tộc Thống nhất .................................................................................................................. Chương 2: ĐẢNG TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG 56 KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM
56
2003-2007 2.1. Chủ trương và biện pháp của Đảng nhằm tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc (2003-2007) ........................................................................................
67 2.2. Bước phát triển mới về đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò của Mặt trận Dân tộc Thống nhất ..................................................................................................................
75
Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ 3.1. Một số nhận xét tổng quát về sự lãnh đạo của Đảng .............................................. 75 3.2. Những ưu điểm và hạn chế ......................................................................................................................... 78 88 3.3. Bài học kinh nghiệm ...........................................................................................................................................
89 3.4. Đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trước yêu cầu phát triển mới của đất nước .............................................................................
KẾT LUẬN
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
105
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận cấu thành trong đường lối chiến
lược cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam sáng
lập, lãnh đạo. Nhờ có đường lối đúng đắn, có nguồn sức mạnh vô địch của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân Việt Nam đã liên tiếp giành được
những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trước đây và trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đều nhất quán: Đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Đây là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và
là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, Đảng chủ trương phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào
dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài
nước, không phân biệt thành phần xã hội và dân tộc, quá khứ và ý thức hệ, tôn
giáo và tín ngưỡng, miễn là tán thành công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu giữ
vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà
hạt nhân là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thực hiện bằng
2
nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam (bao gồm các đoàn thể nhân dân). Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong việc củng cố, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà
nước, góp phần tạo nên sự đồng thuận cao trong xã hội, động viên nhân dân
phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân.
Với tình hình quốc tế và trong nước hiện nay, chiến lược tăng cường
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đang trở thành nhiệm vụ thường
xuyên, quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Việc chọn
đề tài Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ
năm 1993 đến năm 2007 làm luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, các công trình lớn, tiêu biểu viết về việc xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam trong tình
hình mới chủ yếu là: Lịch sử Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, quyển
III (1975-2004) (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007); Đại đoàn kết dân
tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh (Đỗ Mười-
Lê Quang Đạo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); Đại đoàn kết dân tộc
phát huy nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế thực hiện công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước (Vũ Oanh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998);
Đại đoàn kết dân tộc - động lực chủ yếu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học-thực tiễn, Hà Nội, 2002); Phát huy sức
mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo
3
tư tưởng Hồ Chí Minh (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học-thực tiễn, Hà Nội, 2005); Tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất (Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1996); Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới (Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 2004) ...
Ngoài ra, trên các sách, tạp chí khoa học, báo cũng có một số bài viết,
nghiên cứu về đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã khái quát, đề cập tương
đối rộng và phản ánh được nhiều khía cạnh về xây dựng khối đại đoàn kết,
góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận trong thời kỳ mới. Song, chưa có
một công trình chuyên khảo trực tiếp nào về Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng
khối đại đoàn kết trong thời kỳ từ năm 1993 đến năm 2007.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá, tìm hiểu thực trạng Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu tư tưởng và quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam về đại đoàn kết dân tộc và quá trình tập hợp, vận động nhân dân
qua các giai đoạn cách mạng (1930-1993).
- Làm rõ những nội dung cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc
lãnh đạo, tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm 1993 đến
năm 2007. Trên cơ sở đó, rút ra những kinh nghiệm, ý nghĩa thực tiễn để góp
phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới hiện nay.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương đại đoàn kết
toàn dân tộc và phát triển Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của Đảng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm
1993 đến năm 2007 là một đề tài rộng, nên luận văn chỉ đề cập, khái quát có
hệ thống đến các chủ trương chính liên quan đến việc xây dựng sự nghiệp đại
đoàn kết toàn dân tộc thông qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Luận văn còn đánh giá những thành tựu chính việc đưa các chủ
trương đó vào cuộc sống.
5. Cơ sở lý luận, tư liệu và phương pháp
5.1. Cơ sở lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc và Hội nghị Trung ương từ Đại
hội VI (12-1986) đến nay. Các Văn kiện Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
toàn quốc và Hội nghị Đoàn Chủ tịch, Hội nghị Uỷ ban Trung ương từ Đại
hội III (11-1988) đến nay.
5.2.Nguồn tư liệu
Nguồn tài liệu chủ yếu: Các văn kiện Đại hội Đảng và một số Nghị
quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn từ
năm 1993 đến năm 2007 liên quan đến đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ngoài ra, các bài phát biểu của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam các thời kỳ; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
nhiệm kỳ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khoá III, IV, V, VI); các văn kiện các
Hội nghị Đoàn Chủ tịch, Hội nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
5
Nam (khoá III, IV, V, VI) và một số công trình nghiên cứu về sự nghiệp đại
đoàn kết toàn dân tộc.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp logíc, tổng hợp,
tiếp cận hệ thống, so sánh, phân tích... để làm nổi bật những quan điểm của
Đảng về lãnh đạo, tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống những nội dung
cơ bản các chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về lãnh đạo, tổ chức xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm 1993 đến năm 2007.
Khẳng định sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược
của cách mạng Việt Nam; là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bước đầu nêu lên một số kinh nghiệm nhằm thiết thực góp phần nghiên
cứu và phát triển sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương.
6
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM 1993-2003
1.1. Cơ sở tư tưởng của sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc
1.1.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về đại đoàn kết toàn dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc là tư tưởng lớn ở tầm chiến lược, thể hiện nhuần nhuyễn và tinh tế sự
thống nhất giữa tư tưởng, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh luôn có
tính thời sự. Người là nhà thiết kế và thực hành kiểu mẫu của đoàn kết và đại
đoàn kết toàn dân tộc, là biểu tượng nổi bật nhất và là linh hồn của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Cơ sở tạo thành tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc Hồ Chí Minh là chủ
nghĩa nhân văn, là truyền thống yêu nước thương dân. Nhìn từ góc độ cá
nhân, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh mang đậm tính vị tha, lòng
nhân ái và đức tin mãnh liệt vào con người, vào nhân dân. Hồ Chí Minh
không chỉ kêu gọi, vận động mọi người đoàn kết, đại đoàn kết, mà chính
Người còn cảm hoá, cuốn hút, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân bằng tấm
lòng “trung với nước, hiếu với dân”, bằng cuộc đời “cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư”, bằng phẩm chất “phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di,
uy vũ bất năng khuất” (tạm dịch: Giàu sang không thể cám dỗ, nghèo khó
không thể chuyển lay, quyền uy không thể khuất phục)... Với Hồ Chí Minh,
suốt cả cuộc đời “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
7
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [17, tr. 161].
Sự thống nhất hài hoà giữa tư tưởng, hành động, đạo đức, nhân cách Hồ
Chí Minh đã làm cho đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ và không còn là
khẩu hiệu tư tưởng mà thật sự đã trở thành động lực, sức mạnh quy tụ toàn
dân tộc vào sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc là một chiến lược của
cách mạng. Đây là nội dung cơ bản nhất, chung nhất, vì có đại đoàn kết thì
mới chiến thắng được kẻ thù của dân tộc và mới chiến thắng được nghèo nàn,
lạc hậu. Theo Người, đoàn kết dân tộc là đoàn kết rộng rãi, không phân biệt
bất cứ một ai, miễn là người Việt Nam yêu nước, chống đế quốc, tán thành
xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đại đoàn kết toàn dân tộc với Hồ Chí
Minh không phải là một thủ đoạn chính trị nhất thời, mang tính chất sách lược
mà là một vấn đề chiến lược, có ý nghĩa sống còn, lâu dài, quyết định sự
thành bại của cách mạng. Ở những giai đoạn cách mạng khác nhau, phương
pháp cách mạng, bố trí lực lượng, tổ chức...có thể thay đổi, điều chỉnh cho
phù hợp, còn đại đoàn kết toàn dân tộc là một chiến lược không thể thay đổi.
Đối với Người, đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là phương pháp tập hợp,
tổ chức lực lượng cách mạng mà nó có ý nghĩa cao hơn, nó trở thành một bộ
phận hữu cơ, một tư tưởng xuyên suốt trong đường lối chiến lược của cách
mạng. Bởi vì, đường lối chiến lược đúng đắn thì phải đề ra được mục tiêu,
nhiệm vụ, phương pháp phù hợp với nguyện vọng của đa số nhân dân lao
động, từ đó mới có thể huy động được sức mạnh to lớn của họ vào sự nghiệp
chung.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
đại đoàn kết phải dựa trên sự đồng tâm nhất trí của mọi người, mọi tầng lớp
nhân dân. Đoàn kết dựa trên sự giác ngộ về mục đích chung, cùng tranh đấu
8
cho độc lập tự do của dân tộc, ở đó có sự thống nhất của lợi ích chung và lợi
ích riêng, cuộc sống và số phận của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi tập thể nằm
trong cuộc sống và số phận chung của cả cộng đồng dân tộc. Lý tưởng và mục
đích chung đó được giác ngộ sẽ làm cho mỗi người tự nguyện, tự giác gắn bó
với nhân dân và dân tộc mình, chung sức, chung lòng, phấn đấu hy sinh cho
thắng lợi của sự nghiệp mà mình theo đuổi và vì vậy, đoàn kết toàn dân tộc
phải trở thành nhu cầu, trở thành một đòi hỏi khách quan của bản thân quần
chúng trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng. Đoàn kết là thắng lợi. Người
nói: “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”
[21, tr. 276]. Đoàn kết toàn dân tộc theo Hồ Chí Minh, không chỉ có ý nghĩa
trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn có ý nghĩa rất to lớn trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Người nêu rõ: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là
một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một
xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Để thực
hiện điều đó, Người nhắc luôn nhắc nhở phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà
đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và tầng lớp nhân dân lao động
khác. Ngay cả với giai cấp tư sản dân tộc, chiến lược đại đoàn kết dân tộc Hồ
Chí Minh vẫn xem họ là một thành viên của dân tộc, cần được cải tạo hoà
bình và vì mục đích bảo vệ, xây dựng đất nước.
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc Hồ Chí Minh có nội dung
phong phú và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Chiến lược đại đoàn kết dân tộc
Hồ Chí Minh là hệ thống những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp và biện
pháp giáo dục, tổ chức, hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng
nhằm phát huy tới mức cao nhất sức mạnh của toàn thể dân tộc trong sự
nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong hệ thống nội dung phong phú của tư tưởng Hồ Chí Minh trên các
lĩnh vực, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc là sự thể hiện tư duy độc lập, tự
9
chủ của Người trong việc kế thừa truyền thống cố kết dân tộc của tổ tiên, tiếp
thu và phát triển biện chứng tư tưởng tập hợp quần chúng của các nhà tư
tưởng cách mạng phương Đông và phương Tây, của học thuyết cách mạng
thời đại của Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam. Đó là, nếu không giải
phóng dân tộc thì cũng không giải phóng được giai cấp. Người chỉ rõ: Muốn
giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông vào mình. Đối với cách mạng Việt
Nam muốn giành được thắng lợi phải dựa trên lực lượng cách mạng to lớn
của cả dân tộc, trong đó có sự tham gia đông đảo của các lực lượng công nhân,
nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân khác.
Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, các tổ chức
cách mạng như: Thanh niên, Phụ nữ, Công đoàn... trong đó tổ chức Mặt trận
Thống nhất dân tộc được nêu ra trong Chỉ thị ngày 18-11-1930 của Ban
Thường vụ Trung ương Đảng về vấn đề thành lập Hội Phản đế đồng minh là
một minh chứng về đường lối tập hợp rộng rãi lực lượng của các tầng lớp
nhân dân vào cuộc đấu tranh giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam.
Luôn luôn theo dõi, chỉ đạo mỗi bước đi của cách mạng Việt Nam, tháng
2-1941, Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Pháp-
Nhật, giành độc lập tự do cho dân tộc. Bối cảnh trong nước và thế giới có
những chuyển biến hết sức mau lẹ mà nếu không nắm chắc thời cơ vận hội
đánh Tây, đuổi Nhật thì dân tộc Việt Nam mãi mãi chịu kiếp ngựa trâu. Người
đã sáng lập Mặt trận Việt Minh, kêu gọi các giai cấp, tầng lớp, thanh niên phụ
nữ, thiếu nhi, binh lính, sĩ phu, điền chủ... tập hợp dưới ngọn cờ độc lập tự do
của Việt Minh để chuẩn bị lực lượng, tiến lên Tổng khởi nghĩa để giành chính
quyền Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà
nước chung của cả dân tộc.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong tình thế nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà đang bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây, tấn công từ
10
nhiều phía, Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Hồ Chí Minh đã lãnh
đạo hướng mọi nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân vào việc vận động nhân dân
diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm nhằm giữ vững chính quyền. Khẩu hiệu
chiến lược của chúng ta lúc này là: "Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết". Hội
Liên hiệp Quốc dân được thành lập. Thống nhất dân tộc là một vũ khí sắc bén
để nhìn thẳng quân thù.
Với mục tiêu chiến lược và phương châm trên, Hồ Chí Minh đã đặt nền
móng vững chắc về lý luận và thực tiễn cho việc đa dạng hoá các hình thức
tập hợp nhân dân, trong đó phát huy vai trò của từng tổ chức chính trị-xã hội,
dân tộc, tôn giáo và cá nhân tiêu biểu là hiện thân tinh thần đoàn kết trong
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và công cuộc xây dựng đất nước sau
này. Theo Người, hễ ai là người Việt Nam thì ít nhiều đều có lòng yêu nước
hướng về cội nguồn dân tộc. Từ đó, Người phát hiện, động viên, uốn nắn,
chia sẻ, hướng họ về với chính nghĩa, phát huy những mặt tốt, hạn chế những
bất đồng lầm lạc. Vì vậy, cùng với lực lượng tổ chức chính trị-xã hội to lớn,
từ các nhân sĩ tiêu biểu như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Bùi Bằng
Đoàn, Phạm Khắc Hoè,... đến các thủ lĩnh, tù trưởng Vi Văn Định, Vương
Chí Sình, các chức sắc tôn giáo và hàng trăm trí thức tài giỏi đều theo Người
tham gia vào kháng chiến.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, chính quyền nhân dân được thiết lập,
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Đó là điểm xuất phát, là cơ sở nền tảng của công tác dân vận và
Mặt trận của Hồ Chí Minh: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều
vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân"
[18, tr .698]. Người đề cập đến Đảng và các đoàn thể quần chúng, hệ thống
chính trị (theo cách mới hôm nay) đều có bản chất chung là của dân, do dân
11
và vì dân. Người căn dặn đội ngũ cán bộ phải gần dân, phải xuất phát từ lợi
ích của nhân dân, đồng thời chỉ ra những biểu hiện tham nhũng, sa đoạ của số
ít cán bộ lúc bấy giờ. Người xem đó là thứ giặc "nội xâm" mà giặc nội xâm
cũng nguy hiểm không kém gì giặc ngoại xâm.
Riêng đối với công tác dân vận không phải bao giờ cũng được các cấp,
các ngành quan tâm. Trước tình hình nhiều địa phương một số cán bộ chưa
hiểu thấu đáo công tác dân vận, ngày 15-10-1949 trong bài báo Dân vận, Hồ
Chí Minh phê phán thái độ coi thường công tác dân vận, Người chỉ rõ: "Dân
vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một
người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc
nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho" [18, tr .698].
Tất cả chủ đề, đối tượng, nội dung, mục tiêu và phương pháp hoạt động được
chứa đựng trong khái niệm trên. Ở đây, Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến nội
dung vận động là xây dựng từ mỗi người dân cho đến toàn dân để thực hiện
mục tiêu cách mạng trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, để tập hợp vận động có
hiệu quả, vấn đề lợi ích của nhân dân phải được thể hiện ở đường lối, chủ
trương, chính sách pháp luật của Nhà nước thì mới tập hợp được nhân dân và
tạo thành các phong trào cách mạng của quần chúng. Người luôn dạy các cán
bộ đảng viên: "Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến
dân, ta phải hết sức tránh" [16, tr.56-57].
Quan tâm, chăm lo lợi ích cho nhân dân, phải đi đôi với chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí. Đây là những vấn đề được Hồ Chí Minh luôn trăn
trở, đồng thời cảnh báo nguy cơ sa đoạ của một số cán bộ đảng viên, do đó
Người luôn quan tâm giáo dục cán bộ, đảng viên phải gương mẫu nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn quan
tâm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chăm lo củng cố và nâng cao vai
12
trò, vị trí của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam: "Chính sách mặt trận là
một chính sách rất quan trọng. Công tác mặt trận là một công tác rất quan
trọng trong toàn bộ công tác cách mạng" [23, tr 605]. Dù trong bất kỳ giai
đoạn cách mạng nào, công tác mặt trận đều đóng vai trò quan trọng. Do đó,
người cán bộ làm công tác dân vận, mặt trận phải rèn luyện phẩm chất và
năng lực, phải có quan điểm quần chúng, hiểu dân và thương dân, phải có tác
phong: Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm chứ không
phải chỉ nói suông, có như vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ mặt trận trong
thời kỳ mới.
Dựa trên cơ sở tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, kế thừa phát huy truyền
thống cố kết dân tộc của tổ tiên, qua các giai đoạn của cuộc đấu tranh trường
kỳ gian khổ chống ách áp bức bóc lột của thực dân và phong kiến, Đảng đã
xác định và đánh giá đúng vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân. Thực tiễn
hơn 78 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã thể hiện
rõ vai trò quyết định của mình trong đấu tranh cách mạng, và ngày nay, trong
sự nghiệp đổi mới nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ ngày thành lập Đảng đến nay, trải qua mười lần đại hội, không có
đại hội nào, Đảng Cộng sản Việt Nam không đề cập đến vị trí, vai trò, nội
dung của công tác vận động nhân dân và xác định trách nhiệm của các tổ chức
đảng, của cán bộ, đảng viên tiến hành công tác vận động nhân dân theo nhiệm
vụ và vai trò của mình. Sự đóng góp to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sự
nghiệp đại đoàn kết dân tộc đã được Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đảng ta có chính sách
mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết rất vẻ
vang của dân tộc ta" [23, tr.605].
Đánh giá những thành tích của công tác mặt trận, Đảng cũng nghiêm khắc
uốn nắn sai lầm thiếu sót về nhận thức và bố trí cán bộ, đồng thời đề ra yêu cầu
13
gấp rút chỉnh đốn về công tác này, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, các cấp
uỷ cần đưa những đồng chí có uy tín và năng lực vào các cấp mặt trận và các
ngành dân vận để vận động toàn dân thi hành chính sách của Đảng.
Trong quá trình vận động nhân dân, đại đoàn kết là tư tưởng bao trùm
khi xác định vị trí, tính chất hoạt động của các đoàn thể, các tổ chức chính trị
trong xã hội ta. Đoàn kết, tương trợ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau là một
trong những nét nổi bật trong đời sống tinh thần người Việt Nam. Truyền
thống đại đoàn kết toàn dân tộc được bắt nguồn từ trong cuộc sống dựng xây
và bảo vệ Tổ quốc đã trở thành một trong những truyền thống nổi bật trong
đời sống tinh thần người Việt Nam. Tầm sâu văn hoá đó đã được soi sáng
nâng cao và mở rộng khi tư tưởng Hồ Chí Minh về: "Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công" [23, tr.605] truyền bá vào
nước ta trên một bình diện mới, chất lượng mới được tiếp tục thực hiện.
Tinh thần đó được Đảng Cộng sản Việt Nam thấm nhuần, vận dụng và
nâng cao trong điều kiện mới, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước hiện nay. Những quan điểm tư tưởng của Đảng và của Hồ Chí Minh
được tiếp tục khẳng định trong các Đại hội Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc VI của Đảng (12-1986) đã tổng kết bài học
số một của cách mạng nước ta là: "Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng
phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động" [47, tr.188], phê phán tệ quan liêu, đi ngược lại lợi ích
nhân dân, làm suy yếu sức mạnh của Đảng.
Nghị quyết số 8B/NQ-TW của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VI) Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ngày 27-3-1990, là nghị quyết
vừa có tính chiến lược cơ bản vừa cấp bách thể hiện trên bốn quan điểm:
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Động lực
14
thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và
kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân.
Các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng. Công tác dân vận là trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
Đề cập về đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Nghị quyết số 8B có nêu:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò to lớn trong việc củng cố
và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến cơ sở
phải thực hiện tốt vai trò của Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh
đạo của Mặt trận, trình bày các chủ trương, chính sách của Đảng, lắng
nghe ý kiến và cùng bàn bạc, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống
nhất hành động giữa các thành viên của Mặt trận, động viên phong trào
hành động cách mạng rộng lớn của nhân dân. Công tác Mặt trận cần đi
sâu vận động các cụ phụ lão, các nhân sĩ, công thương gia, những
người tiêu biểu của các dân tộc thiểu số, các chức sắc tôn giáo và của
người Việt ở nước ngoài [47, tr.312].
Đại hội đại biểu toàn quốc lẩn thứ VII của Đảng (6-1991) và Hội nghị
toàn quốc giữa nhiệm kỳ (01-1994) đều nhấn mạnh tầm quan trọng của công
tác vận động nhân dân, mở rộng khối đại đoàn kết, hoàn chỉnh các chính sách
đảm bảo lợi ích và phát huy vai trò của công nhân, nông dân, trí thức, thanh
niên, phụ nữ, dân tộc, tôn giáo, nhà công thương, cộng đồng người Việt Nam
định cư ở nước ngoài.
1.1.2. Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam trong quá trình tập
hợp vận động nhân dân qua các giai đoạn cách mạng (1930-1993)
Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương đã ra Chỉ thị Về vấn đề thành lập "Hội Phản đế đồng minh". Chỉ thị
15
nêu rõ: "Giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông
Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật đông,
thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công" [2, tr. 227].
Chỉ thị ra đời giữa lúc cao trào cách mạng trong toàn quốc đã diễn ra
sôi nỗi, mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Qua thực tiễn phong trào, ý thức
phản đế trong nhân dân thể hiện mạnh mẽ, trong đó có cả trí thức, sĩ phu, phú
nông, tiểu địa chủ,... Vì vậy, tổ chức Hội Phản đế Đồng Minh là một công tác
khẩn cấp của Đảng. Đây là một chỉ thị đặc biệt quan trọng thể hiện quan
điểm, chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất của Đảng. Là một văn
kiện lịch sử quan trọng về Mặt trận của Đảng, của dân tộc Việt Nam. Chính
với tầm quan trọng lịch sử đó, ngày 18-11-1930 trở thành ngày truyền thống
lịch sử của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam và các tổ chức chính
trị xã hội là một yêu cầu khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở một
nước thuộc địa như ở Việt Nam. Đây là sự nhận thức đúng đắn của Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ trương huy động sức mạnh của cả
dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột và xây dựng
xã hội mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, căn cứ vào bối cảnh cụ
thể của cách mạng mà các hình thức tập hợp, vận động nhân dân được thể
hiện dưới hình thức, tên gọi khác nhau. Tuy nhiên, dù dưới hình thức, tên gọi
nào vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu. Thời kỳ vận
động dân chủ (1936-1939), Đảng đề ra chủ trương mới, tập hợp lực lượng
quần chúng rộng rãi, chống phản động thuộc địa, chống chiến tranh, đòi hoà
bình, quyền dân chủ, dân sinh, v.v... Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng chủ
trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi, sau đổi thành Mặt trận
dân chủ thống nhất là một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong thời kỳ này.
16
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nỗ, phát xít Nhật nhảy vào Đông
Dương, nhân dân các nước ở Đông Dương lại bị hai tròng áp bức của Pháp và
Nhật. Vận mệnh của các dân tộc ở Đông Dương nguy vong không lúc nào
bằng. Trước hoàn cảnh mới đó, Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (5-1941) do Hồ Chí Minh chủ trì đã quyết định thay đổi
chiến lược, coi cách mạng ở Đông Dương lúc này là cách mạng giải phóng
dân tộc nên phải thống nhất lực lượng toàn dân tộc, không phân biệt thợ
thuyền, dân cày, phú nông, tiểu tư sản, tư sản bản xứ... ai có lòng yêu nước
thương nòi vào Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi là Việt Nam Độc lập
đồng minh (Việt Minh) nhằm đánh Pháp, đuổi Nhật giành quyền độc lập tự
do cho các dân tộc Đông Dương... Đảng và Hồ Chí Minh đã kêu gọi, thu hút,
hiệu triệu tất cả các lực lượng nhân dân đông đảo, không phân biệt các thành
phần, giai cấp, dân tộc, ý thức hệ... đứng về phía cách mạng giành lấy chính
quyền khi thời cơ đến. Nhờ chính sách đoàn kết rộng rãi, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám đã thành công, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong thời kỳ kháng chiến 1946-1954, Hội
Liên Việt đã được thành lập và đến năm 1951, Việt Minh và Hội Liên Việt
hợp nhất thành một Mặt trận chung là Mặt trận Liên Việt. Tại Đại hội thống
nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt (3-1951)
Hồ Chí Minh khẳng định và nêu rõ kết quả tiềm năng to lớn của sức mạnh đại
đoàn kết: "Hôm nay, trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và
gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai:
"trường xuân bất lão". Vì vậy cho nên lòng tôi sung sướng vô cùng" [19,
tr.181]. Lời khẳng định của Hồ Chí Minh trên đây không chỉ nói lên niềm vui
trước sự lớn mạnh của Mặt trận dân tộc thống nhất mà còn là sự cần thiết phải
mở rộng mặt trận trong tương lai với vai trò to lớn trong việc cổ vũ động viên
17
nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với một sức sống
"trường xuân bất lão".
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng
lợi, lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc. Năm
1955, dưới yêu cầu mới của cách mạng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được
thành lập thay cho Mặt trận Liên Việt.
Đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, Hồ Chí Minh khẳng định:
Một mặt trận của nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi là một lực lượng tất
thắng. Hiện nay đồng bào ta ở miền Nam cũng có Mặt trận Dân tộc giải
phóng với chương trình hành động thiết thực và phù hợp với nguyện vọng
chính đáng của nhân dân. Do đó, có thể đoán rằng đồng bào miền Nam nhất
định thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ thống nhất, Nam Bắc sẽ sum họp một
nhà. Ở miền Bắc đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ở miền Nam
đoàn kết trong Mặt trận dân tộc giải phóng, nhân dân ta thực hiện lời di chúc
của Hồ Chí Minh, đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào, giang sơn thu về
một mối. Sau khi Tổ quốc được thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
đoàn kết toàn dân bước vào thời kỳ cả nước tiến lên thực hiện cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò trách nhiệm
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thể chế hoá tập trung ở Điều 9 Hiến
pháp năm 1992:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống
đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong
nhân dân, tham gia xây dựng củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà
nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên
nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và
18
Pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử
và cán bộ viên chức Nhà nước [28, tr.66].
Quán triệt các quan điểm, Nghị quyết và đặc biệt thực hiện những quy
định của Hiến pháp, đối với công tác mặt trận trong thời kỳ đổi mới, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đã và đang là hiện thân của khối đại đoàn kết, không
ngừng lớn mạnh đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam (1977), Đại hội II (1983), Đại hội III (1988), Đại hội IV
(1994) đã đánh dấu những bước trưởng thành của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết
toàn dân, tích cực đổi mới phương thức tổ chức hoạt động, phát huy tinh thần
yêu nước, tích cực sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, góp phần xây dựng,
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thông qua các cuộc vận động, các
phong trào thi đua yêu nước.
Trong điều kiện nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất
cầm quyền đã lãnh đạo dân tộc giành những thắng lợi vẻ vang được toàn thể
nhân dân ủng hộ, được quy định ở Điều 4 của Hiến pháp. Đồng thời, trong
điều kiện không có các đảng chính trị làm đối trọng như các thể chế chính trị
khác, Đảng phải tự đổi mới mình: nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng,
không ngừng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, chống quan liêu,
tham nhũng, thoái hoá, biến chất đánh mất lòng tin của nhân dân. Hồ Chí
Minh đã khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa Đảng với nhân dân và Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam: Đảng không hề đòi hỏi Mặt trận phải thừa nhận
quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là bộ phận trung thành nhất và trung
thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi
thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới
giành được vị trí lãnh đạo.
19
Là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng lớn nhất, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam không ngừng vươn lên, làm cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân, phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam còn làm chức năng phản biện xã hội. Để Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam làm được chức năng này, các cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp
phải tạo cơ chế điều kiện cho Mặt trận tham gia giám sát và tổ chức cho nhân
dân phản biện xã hội. Trên lĩnh vực này, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải là
diễn đàn để các thành viên và các cá nhân bày tỏ những chính kiến của họ mà
không trái với luật pháp quy định, Mặt trận phải là nơi để Đảng và nhân dân
bàn việc nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức cụ thể của Mặt trận
Dân tộc Thống nhất Việt Nam chủ trương:
Phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự
lực, tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước,
không phân biệt thành phần xã hội và dân tộc, quá khứ và ý thức hệ, tôn
giáo và tín ngưỡng, miễn là tán thành công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu
giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Xây dựng một nước Việt Nam
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh", góp phần tích
cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới [30, tr.80-81].
20
1.2. Những chủ trương và biện pháp của Đảng xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân lên tầm cao mới, chiều sâu mới (1993-2003)
1.2.1. Chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Năm 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục giải đáp nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về công cuộc đổi
mới nói chung, về đại đoàn kết dân tộc, về Mặt trận Dân tộc Thống nhất nói
riêng và đã nhấn mạnh: từ sau Đại hội VI của Đảng, nhất là từ sau Hội nghị
lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân đã cố gắng đổi mới tổ chức và hoạt động. Đại hội của
nhiều đoàn thể đã được tiến hành theo tinh thần: đổi mới - dân chủ - đoàn kết.
Các đoàn thể, các tổ chức xã hội đã coi trọng việc đoàn kết, tổ chức đoàn
viên, hội viên cùng chăm lo giải quyết những lợi ích thiết thực. Bộ máy của
các đoàn thể ở các cấp được sắp xếp lại một bước. Thêm nhiều tổ chức xã hội,
tổ chức theo nghề nghiệp được thành lập (Hội Cựu Chiến binh Việt Nam,...),
thu hút đông đảo hội viên, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, nhất là ở cơ
sở. Trước yêu cầu đổi mới hiện nay, nhiều đoàn thể chưa xác định được thật
rõ chức năng, nhiệm vụ, còn lúng túng về phương thức hoạt động và xây dựng
tổ chức, do đó Đảng xác định: Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần
được đổi mới về tổ chức và hoạt động để thực sự góp phần thực hiện dân chủ
và đổi mới xã hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tham
gia các công việc quản lý nhà nước; giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật
thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân. Các đoàn thể có nhiệm vụ giáo
dục chính trị tư tưởng và đạo đức mới, động viên, phát huy tính tích cực xã
hội của các tầng lớp nhân dân, đoàn kết toàn dân, phấn đấu cho sự thành công
của công cuộc đổi mới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 thông qua tại Đại hội VII khẳng
21
định loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, đồng thời
bước đầu đề ra những quan điểm cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội trong kỳ quá độ ở nước ta. Vì vậy, văn kiện này đã đặt cơ
sở cho việc đoàn kết tập hợp lực lượng trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã nêu lên một bài học lớn về sức mạnh của quần
chúng, đó là:
Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt
động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của
nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân.
Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không
lường được đối với vận mệnh của đất nước [47, tr. 366].
Từ đó, Cương lĩnh khẳng định:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất
quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và
đổi mới xã hội, giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và
nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân [47, tr. 366].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội của Đảng còn xác định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị
của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã
hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
Ngày 21-2-1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) ban hành
Chỉ thị số 06-CT/TW Về việc chỉ đạo Đại hội các cấp Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể đã nhấn mạnh: Trong bối cảnh mới của tình hình trong nước và
22
thế giới, Đại hội Mặt trận và các đoàn thể phải thực sự đổi mới về nội dung,
tổ chức và hình thức tiến hành. Nội dung Đại hội Mặt trận và các đoàn thể cần
quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của
Đảng và Nghị quyết đại hội Đảng các cấp; tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của Mặt trận và các đoàn thể theo nội dung Nghị quyết 8B của Ban
Chấp hành Trung ương khoá VI tập trung vào những vấn đề quan trọng về
dân sinh, dân chủ; tham gia đấu tranh chống buôn lậu, chống tham nhũng; tích
cực tham gia xây dựng Đảng, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân. Ban Bí thư yêu cầu nhân sự ban chấp hành các cấp cần được chuẩn
bị tốt, bảo đảm dân chủ, đúng quy trình, tránh tình trạng cập rập, thiếu chu
đáo.
Từ thực tiễn bước đầu của công cuộc đổi mới và những bài học kinh
nghiệm mà Đại hội lần thứ VI, Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã rút ra, đặc biệt là những kết quả qua 3 năm thực hiện Nghị quyết 8B
(ngày 27-3-1990) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Về đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, đã
thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. Ngày 17-11-
1993, Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khoá VII) ra Nghị quyết số 07-NQ/TW
Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất. Nghị
quyết chỉ rõ trong tình hình mới, yếu tố dân tộc trở thành một đặc điểm cực
kỳ quan trọng. Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, nhân dân ta đã thu được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, tạo ra
thế phát triển mới của đất nước. Đó là những điều kiện rất thuận lợi để tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân, đồng tâm nhất trí đưa nước ta ra khỏi lạc
hậu, nghèo nàn và tiếp tục phát triển. Đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề
mới cần quan tâm giải quyết. Để tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, làm
thất bại âm mưu và hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, chúng ta phải
23
ra sức củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố, mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất.
Nghị quyết số 07-NQ/TW tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ chung của Mặt
trận dân tộc thống nhất là:
Phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực
tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới,
nhằm mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, chủ quyền quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh [47, tr. 419].
Để hoàn thành nhiệm vụ trên, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ
trương cần quán triệt các chủ trương lớn sau đây:
- Đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo,
người trong nước và người định cư ở nước ngoài, vì mục tiêu chung nêu trên.
Đại đoàn kết chủ yếu phải lấy mục tiêu chung đó làm điểm tương đồng, đồng
thời chấp nhận những điểm khác nhau, không trái với lợi ích chung của dân
tộc, cùng nhau xoá bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù, hướng về tương lai, xây
dựng tinh thần đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau, tất cả vì độc lập của Tổ
quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
- Đại đoàn kết dân tộc là đường lối cơ bản của Đảng và Nhà nước. Tư
tưởng đại đoàn kết phải được thể hiện trong mọi chủ trương, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an
ninh, quốc phòng, đối ngoại, nhằm đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng
của các giai tầng xã hội, gắn quyền lợi với trách nhiệm, lợi ích riêng của mỗi
người với nghĩa vụ công dân, lấy lợi ích dân tộc làm trọng. Khuyến khích
toàn dân thực hiện tốt các chính sách xã hội: đền ơn đáp nghĩa đối với những
người có công với nước, tham gia vào các việc công ích, các hoạt động nhân
24
đạo và từ thiện, giúp nhau xoá đói giảm nghèo, phát huy truyền thống nhân
nghĩa của cha ông.
- Xây dựng chính quyền nhân dân trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực
cao, thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Chính quyền nhân dân phải
bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của dân, giữ vững trật tự, kỷ cương
phép nước. Phát huy vai trò tích cực của những người tiêu biểu trong các giai
cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo. Hướng hoạt động tới địa bàn dân
cư xã, phường và hộ gia đình. Củng cố liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, thực sự làm nền tảng cho khối đại đoàn
kết toàn dân.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Bộ Chính trị chủ trương tiếp tục củng cố,
mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận làm việc theo nguyên tắc: hiệp
thương dân chủ, hợp tác bình đẳng, đoàn kết chân thành, tôn trọng lẫn nhau,
phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên theo chương trình hành
động chung. Chú trọng kiện toàn Uỷ ban Mặt trận các cấp theo hướng tăng
thêm những người tiêu biểu có tín nhiệm và năng lực trong các giai tầng xã
hội, các dân tộc, các tôn giáo, giới trí thức, các doanh nghiệp tư nhân, v.v...
Bộ máy giúp việc Uỷ ban Mặt trận các cấp cần được tổ chức gọn nhẹ, trọng
chất lượng, thu hút được nhiều chuyên gia giỏi vào từng lĩnh vực hoạt động
của Mặt trận. Uỷ ban Mặt trận các cấp chủ trì trong việc phối hợp chung giữa
các tổ chức thành viên với chính quyền cùng cấp, trong công tác vận động
người cao tuổi, các nhân sĩ trí thức tiêu biểu, công thương gia, những người
tiêu biểu trong các dân tộc, các chức sắc tôn giáo, người Việt Nam ở nước
ngoài và thân nhân ở trong nước. Mở rộng hơn nữa các hoạt động đối ngoại
nhân dân của Mặt trận.
Bộ Chính trị yêu cầu: Các cơ quan nhà nước thể chế hoá trách nhiệm và
quyền hạn của Mặt trận để Mặt trận thực sự là cơ sở chính trị của chính quyền
25
nhân dân, nhất là tham gia quá trình bầu cử các cơ quan dân cử, xây dựng các
chính sách và đạo luật, tham gia quản lý kinh tế - xã hội, giám sát các hoạt
động của cơ quan nhà nước, các đại biểu dân cử và cán bộ, nhân viên nhà
nước. Các cơ quan nhà nước phối hợp hành động với Uỷ ban Mặt trận các
cấp, thực hiện đầy đủ những điều quy định trong Hiến pháp và pháp luật; tạo
điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động
có hiệu quả.
Bộ Chính trị còn nêu rõ:
Với trách nhiệm vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt
trận, Đảng phải thực hiện đúng vai trò tiên phong của mình; cán bộ,
đảng viên của Đảng phải gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách
và pháp luật, gắn bó mật thiết với nhân dân, thường xuyên tự phê bình
và lắng nghe ý kiến phê bình của nhân dân, của Mặt trận. Đảng lãnh
đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận và Đảng đoàn các tổ chức
thành viên của Mặt trận [47, tr.422].
Trong lịch sử Mặt trận, "đây là bản Nghị quyết chuyên đề thứ hai về
công tác mặt trận của Bộ Chính trị Trung ương Đảng" [43, tr. 358] (bản Nghị
quyết lần thứ nhất ra đời ngày 9-5-1962, là Nghị quyết Bộ Chính trị số 53-
NQ/TW về công tác Mặt trận dân tộc thống nhất). Nghị quyết số 07-NQ/TW
của Bộ Chính trị Trung ương Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, không chỉ
đặt cơ sở lý luận, thực tiễn mà còn là bước đột phá mới trong quan điểm nhận
thức về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất. Nghị quyết này
của Bộ Chính trị còn có ý nghĩa chiến lược, giải quyết những vấn đề cơ bản
lâu dài, đồng thời cũng chỉ ra những nhiệm vụ trước mắt của sự nghiệp đại
đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất. Những luận điểm
mới của nghị quyết là việc tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất cần phải được tiến hành đồng bộ về nhận
26
thức, về cơ chế, chính sách, pháp luật và tổ chức cán bộ; đại đoàn kết dân tộc
và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất phải được mở rộng về tổ chức và
phong trào hành động cách mạng của quần chúng.
Ngày 29-11-1993, Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khoá VII) có Nghị
quyết số 08-NQ/TW Về chính sách và công tác đối với người Việt Nam ở
nước ngoài. Những quan điểm cần thấu suốt trong chính sách và công tác vận
động là xem Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính
đáng của người Việt Nam ở nước ngoài trên cơ sở luật pháp nước sở tại, luật
pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế. Chính sách đại đoàn kết mọi người Việt
Nam ở trong nước và ở nước ngoài bắt nguồn từ truyền thống của dân tộc
Việt Nam. Cơ sở của sự đoàn kết, hoà hợp là ý thức dân tộc và lòng yêu nước
của mọi người Việt Nam, hướng vào mục tiêu độc lập dân tộc, dân giàu nước
mạnh, xã hội văn minh.
Nghị quyết nêu rõ:
Chính sách và công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài
phải đáp ứng những yêu cầu chính là: Bảo vệ quyền lợi chính đáng của
người Việt Nam ở nước ngoài. Nâng cao ý thức cộng đồng, tăng cường
đoàn kết tương trợ, đùm bọc giữa những người Việt Nam cùng sống ở
nước ngoài, giúp nhau ổn định cuộc sống và thành đạt trong sự nghiệp,
cùng nhau gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc và phẩm giá con người Việt
Nam, tôn trọng luật pháp nước sở tại, hoà nhập với xã hội và nhân dân
sở tại [47, tr. 425].
Việc tập hợp và đoàn kết kiều bào phải thông qua nhiều hình thức hoạt
động linh hoạt, thiết thực, thích hợp với các đối tượng khác nhau, trên cơ sở
tự nguyện và phù hợp với luật pháp và phong tục tập quán nước sở tại. Phát
triển rộng rãi phong trào phải đi đôi với việc phát hiện và giúp đỡ những
27
người hoạt động tích cực phát huy được vai trò cổ vũ, lôi cuốn đoàn kết của
những người này trong phong trào. Công tác vận động người Việt Nam ở
nước ngoài vừa thuộc chức năng của Nhà nước vừa là hoạt động mang tính
quần chúng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị coi người
Việt Nam ở nước ngoài và thân nhân của họ ở trong nước là một đối tượng
quan trọng trong công tác vận động của mình.
Ngày 24-12-1993, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) có chỉ thị
số 30-CT/TW Về việc thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị "Về đại đoàn
kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất". Ban Bí thư Trung
ương Đảng yêu cầu các cấp uỷ đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng làm tốt việc
tổ chức quán triệt nghị quyết trong các cấp uỷ đảng, đảng đoàn, ban cán sự,
nắm vững những nội dung cơ bản của nghị quyết, có liên hệ kiểm điểm việc
thực hiện chính sách và công tác mặt trận của Đảng nhằm phát huy ưu điểm,
khắc phục những nhận thức và hành động không đúng; chỉ đạo hướng dẫn
việc phổ biến nghị quyết đến tận chi bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Các Ban cán sự Đảng chỉ đạo cơ quan nhà nước cụ thể hoá nghị quyết bằng
các văn bản pháp quy; sửa đổi, bổ sung những chính sách liên quan trực tiếp
đến đại đoàn kết dân tộc; xây dựng quy chế phối hợp hoạt động giữa Nhà
nước với Mặt trận; giải quyết kinh phí và các điều kiện cần thiết khác để Mặt
trận hoạt động có hiệu quả. Tăng cường sự lãnh đạo và đổi mới phương pháp
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận: cấp uỷ đảng sớm kiện toàn Đảng đoàn
Mặt trận các cấp, cử Phó Bí thư hoặc Uỷ viên Thường vụ tham gia Uỷ ban
Mặt trận cùng cấp và trực tiếp làm Bí thư Đảng đoàn; quán triệt nội dung cơ
bản của nghị quyết này vào nội dung văn kiện hội nghị đại biểu của Đảng
giữa nhiệm kỳ ở từng cấp; bố trí đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực
chuyên trách làm công tác mặt trận. Chỉ đạo việc củng cố và mở rộng Uỷ ban
Mặt trận các cấp theo hướng tăng tỉ lệ những người ngoài Đảng có tín nhiệm
28
và năng lực tiêu biểu cho các giai tầng xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, giới
trí thức, các doanh nghiệp tư nhân. Các cấp uỷ đảng thông qua Đảng đoàn
Mặt trận và đảng đoàn các đoàn thể chỉ đạo Uỷ ban Mặt trận các cấp chủ trì
phối hợp với các tổ chức thành viên tổ chức các phong trào hành động cách
mạng của quần chúng theo chương trình chung thực hiện các mục tiêu kinh tế
- xã hội, các nhiệm vụ an ninh - quốc phòng, đáp ứng nhu cầu về nghề nghiệp
và đời sống của nhân dân ở địa phương, cơ sở; mở rộng các hình thức tập hợp
quần chúng; vận động những thành phần xã hội.
Để tiếp tục đưa công cuộc đổi mới tiến lên, cần xem xét tình hình đất
nước sau 8 năm đổi mới, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận, đường lối
và thực tiễn, bổ sung một số chủ trương, giải pháp lớn. Đó là lý do tiến hành
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng Cộng sản Việt
Nam được tổ chức vào tháng 1-1994. Hội nghị đã khẳng định những thành
tựu to lớn của công cuộc đổi mới và có đề cập đến việc:
Mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố mối quan hệ mật thiết
giữa Đảng và nhân dân. Thấm nhuần tư tưởng của Bác Hồ, thực hiện đoàn kết
rộng rãi mọi người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới, vì độc lập dân tộc,
phấn đấu thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh. Lấy đại nghĩa dân tộc làm điểm tương đồng, đồng thời
chấp nhận những điểm khác nhau mà không trái với lợi ích chung, cùng nhau
xoá bỏ mặc cảm, hận thù, hướng về tương lai. Tư tưởng đại đoàn kết phải thể
hiện trong mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước [8. tr.60].
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng Cộng
sản Việt Nam còn chủ trương: Hoàn thiện các chính sách bảo đảm lợi ích và
phát huy vai trò của công nhân, nông dân, trí thức. Bồi dưỡng, phát huy lực
lượng thanh niên, phụ nữ. Bổ sung và thực hiện tốt các chính sách của Đảng
và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các nhà công thương,
29
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Các cấp uỷ đảng, các đảng đoàn và
ban cán sự phải tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết của
Trung ương và Bộ Chính trị về đại đoàn kết dân tộc, công tác mặt trận và các
đoàn thể nhân dân; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chính quyền
và các đoàn thể. Đổi mới nội dung, phương thức và phong cách hoạt động của
Mặt trận và các đoàn thể.
Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng mở ra một chặng đường mới cho sự
nghiệp đại đoàn kết dân tộc, đánh dấu một thời kỳ tiếp tục ổn định kinh tế-xã
hội của Việt Nam. Cùng với việc mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá quan
hệ quốc tế là việc các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế và Mỹ bỏ cấm vận với
Việt Nam, từng bước bình thường hoá quan hệ Việt-Mỹ. Tình hình mới đòi
hỏi Đảng, Nhà nước, Mặt trận cần bổ sung, hoàn chỉnh những chủ trương,
chính sách đã ban hành không chỉ ở lĩnh vực kinh tế mà còn đặc biệt chú
trọng tới lĩnh vực xã hội, văn hoá, giáo dục.
Ngày 30-7-1994, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khoá VII) ra Nghị quyết Về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm
2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai
cấp công nhân trong giai đoạn mới, đã đề ra yêu cầu phát huy vai trò của Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân một cách cụ thể:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy vai trò to lớn trong việc
đoàn kết toàn dân, thống nhất ý chí và hành động vì thành công của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuyên truyền, hướng dẫn mọi
người cần kiệm làm ăn, mở mang sản xuất kinh doanh ích nước lợi nhà,
làm tròn nghĩa vụ với nhà nước; tích cực tham gia đóng góp các kế sách
làm cho dân giàu, nước mạnh [43, tr 361].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam tổ
chức cuối tháng 6-1996 đã tổng kết 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới,
30
kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng, đề ra mục
tiêu, phương hướng và giải pháp đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đến năm 2020 và trước mắt năm 2000. Đại hội đưa ra 6 bài
học chủ yếu của 10 năm đổi mới; trong đó có bài học về mở rộng và tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân và Mặt trận dân tộc thống nhất.
Khi đề cập đến việc tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai
trò làm chủ của nhân dân, xây dựng và hoàn thiện nhà nước, Đảng xác định
sự nghiệp xây dựng đất nước đòi hỏi mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết dân
tộc, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam
dù sống trong nước hay đang định cư ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả
cộng đồng, nêu cao truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc, lấy mục
tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh làm điểm tương đồng; đồng thời chấp nhận những điểm khác
nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xoá bỏ định kiến,
mặc cảm, hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần đại đoàn kết, cởi mở và tin
cậy. Đảng nhấn mạnh: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Chế độ ta là chế
độ do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược [47, tr.484].
Đảng chủ trương, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân trước hết phải thể hiện ở các chính sách cụ thể, thiết thực,
đáp ứng lợi ích hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn
giáo, tạo ra động lực mới thúc đẩy phong trào cách mạng. Thực hiện tốt cơ
chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực tiếp cùng
các hình thức tự quản tại cơ sở. Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, làm cho Mặt trận và các
31
tổ chức thành viên thực sự là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam còn xác định: Mở rộng và tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Cách mạng là sự
nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến,
nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối
đổi mới của Đảng. Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên, giành những
thành tựu lớn hơn, cần thực hiện tốt hơn nữa việc mở rộng, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân, cả ở trong nước và ở nước ngoài, phát huy dân chủ,
động viên tối đa sức mạnh của toàn thể dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đảng còn chủ trương, trong những năm tới, cần động viên mọi tiềm
năng sáng tạo, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân nhằm đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của kế hoạch 5
năm phát triển kinh tế-xã hội từ năm 1996 đến năm 2000. Bằng các chính
sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc trong nước, tạo ra
những động lực mới thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân. Xây dựng
cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực
hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện là các
cơ quan dân cử và các đoàn thể; làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân
dân tự quản, bằng các quy ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp
của Nhà nước.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng
định: Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Củng cố, mở rộng tổ chức và hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức liên minh chính trị, liên
32
hiệp tự nguyện của các đoàn thể chính trị - xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo. Mặt trận và
các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi phối
hợp thống nhất hành động của các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham gia với Đảng và Nhà
nước thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ, chăm lo và bảo vệ lợi ích
chính đáng của các tầng lớp nhân dân; bảo vệ Đảng và chính quyền, thực hiện
các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; góp
phần tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Thực hiện thành nền nếp việc Đảng và Nhà nước cùng bàn bạc và tham khảo
ý kiến của Mặt trận về những quyết định, chủ trương lớn.
Trên cơ sở đường lối do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng đề ra, toàn dân Việt Nam ra sức đẩy mạnh các phong trào thi đua, tiếp
tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đưa công tác mặt trận và sự
nghiệp đại đoàn kết toàn dân lên bước phát triển mới.
Ngày 24-8-1998, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
VIII) ban hành Chỉ thị số 40/CT-TW Về tăng cường lãnh đạo Đại hội Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam các cấp. Tinh thần cơ bản của Chỉ thị đã nêu: mở rộng
tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trên cơ sở củng cố vững chắc nền tảng khối liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm phát
huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chỉ thị nhấn mạnh:
Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ Trung
ương đến cơ sở và khu dân cư, đảm bảo cho Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam thực sự là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, động viên
33
các tầng lớp nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình theo
quy định của Hiến pháp và pháp luật [47, tr.579-580].
Để thực hiện chủ trương trên, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các cấp uỷ đảng tăng cường lãnh đạo việc tổng kết về tình hình thực hiện chủ
trương chính sách đại đoàn kết toàn dân, làm rõ nguyên nhân những mặt làm
được và chưa làm được; trên cơ sở đó kiến nghị với Đảng, Nhà nước những
vấn đề cấp thiết và lâu dài nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng
cường vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Chỉ thị số 40/CT-TW Về tăng cường lãnh đạo Đại hội Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam các cấp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng còn yêu cầu trên
cơ sở tổng kết về tình hình khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng đoàn Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các cấp uỷ đảng chỉ đạo Uỷ ban Mặt trận cùng cấp xây dựng
thật tốt Báo cáo chính trị và Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong nhiệm kỳ mới. Báo cáo chính trị cần đánh giá đúng thực chất
tình hình các tầng lớp nhân dân và hoạt động của hệ thống Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam; khẳng định những việc đã làm được, những mô hình và phương
thức hoạt động có hiệu quả, chỉ rõ những mặt chưa làm được của hệ thống
Mặt trận, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và xác định đúng phương hướng,
nhiệm vụ chủ yếu của Uỷ ban Mặt trận các cấp trong nhiệm kỳ mới. Chương
trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phải nhằm động viên
toàn dân tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước: "Tất cả vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh", thực hiện thắng lợi kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước; vận động các tầng lớp nhân
dân triển khai thực hiện thật tốt cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá", trong đó coi trọng nâng cao chất lượng và tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới
ở khu dân cư", thực hiện và giám sát thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tích
34
cực tham gia đấu tranh chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội; thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng còn yêu cầu: Đại hội Mặt trận Tổ quốc
các cấp phải thực sự tạo ra bước đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt
động của hệ thống mặt trận. Nhân sự Uỷ ban Mặt trận các cấp cần được chuẩn
bị chu đáo, đảm bảo dân chủ, đúng quy trình. Uỷ ban Mặt trận các cấp đảm
bảo tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân. Tham gia Uỷ ban Mặt trận phải
là những người có phẩm chất, có trí tuệ và năng lực vận động quần chúng, là
những người tiêu biểu và có uy tín trong các tầng lớp nhân dân, có khả năng
tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước liên quan đến khối đại đoàn kết toàn dân và hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cơ cấu thành phần tham gia Uỷ ban Mặt trận các
cấp cần được mở rộng theo hướng tăng tỷ lệ người ngoài đảng, người có uy
tín và tiêu biểu trong các dân tộc, tôn giáo, trong các nhân sĩ, trí thức, công kỹ
nghệ gia, và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nên có đại biểu
là người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Các cấp uỷ cử cấp uỷ viên có năng
lực, có nhiệt tình, có tín nhiệm với nhân dân để giới thiệu vào cương vị chủ
chốt của Uỷ ban Mặt trận. Quá trình chuẩn bị và tiến hành đại hội phải thực
sự là một sinh hoạt chính trị rộng lớn của các tầng lớp nhân dân, tăng cường
sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong các tầng lớp nhân dân ủng hộ sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo.
Ngày 23-11-1998, Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng có Thông báo số 183-TB/TW Về tổng kết việc thực hiện chủ trương,
chính sách đại đoàn kết dân tộc, nói rõ: Nhằm tăng cường lãnh đạo Đại hội
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 40-CT/TW,
ngày 24-8-1998, trong đó chỉ thị rõ Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
35
các cấp uỷ đảng tăng cường lãnh đạo việc tổng kết về tình hình thực hiện chủ
trương chính sách đại đoàn kết toàn dân, làm rõ nguyên nhân những mặt làm
được và chưa được, trên cơ sở đó kiến nghị với Đảng, Nhà nước những vấn
đề cấp thiết và lâu dài, nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường
vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Thông báo số 183 của Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng còn
nói rõ:
Những năm qua, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về
tăng cường đại đoàn kết dân tộc, việc thực hiện những nghị quyết đó
đã mang lại những thành tựu to lớn. Tuy vậy, trong thực tế việc thực
hiện chủ trương này cũng đang bộc lộ một số vấn đề bức xúc cần được
nghiên cứu giải quyết. Vì vậy, tổng kết tình hình khối đại đoàn kết
toàn dân là một công tác rất quan trọng, giúp Đảng và Nhà nước ta
thấy rõ thực trạng khối đại đoàn kết toàn dân để đề ra chủ trương,
chính sách và giải pháp nhằm tăng cường tập hợp mọi tầng lớp nhân
dân, phát huy nội lực, thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh [47, 591-592].
Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng còn yêu cầu các cấp uỷ
đảng cần tăng cường lãnh đạo Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổng
kết, đánh giá đúng thực trạng về khối đại đoàn kết toàn dân, nêu rõ những mặt
tích cực và những hạn chế. Trong đó đi sâu đánh giá thực trạng khối liên minh
giữa giai cấp công nhân, nông dân và trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết
dân tộc; nhận thức và thực hiện chủ trương lấy mục tiêu chung làm điểm
tương đồng. Phân tích những yếu tố tác động đến đại đoàn kết dân tộc và tăng
cường Mặt trận dân tộc thống nhất trong điều kiện hiện nay. Làm rõ vị trí, vai
trò thực tế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện đại đoàn kết
36
dân tộc, những chuyển biến tích cực và những mặt còn hạn chế. Tổng kết việc
thực hiện chủ trương tăng cường củng cố khối đại đoàn kết dân tộc là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị. Trước mắt, gắn cuộc tổng kết với việc tiến
hành đại hội Mặt trận Tổ quốc các cấp.
Sau một thời gian Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các cơ quan hưu quan của Nhà nước soạn thảo, lấy ý kiến của các tổ chức
thành viên, Uỷ ban Mặt trận các cấp, các cơ quan liên quan về dự thảo Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ngày 10-4-1999, Bộ Chính trị đã có Thông báo
số 208/TB-TW Về dự án Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói rõ, tại phiên
họp ngày 3-4-1999, sau khi nghe Đảng đoàn Quốc hội báo cáo và ý kiến của
các ngành về dự án Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Chính trị có ý kiến
chỉ đạo: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể
nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân
tộc, các tôn giáo, là cơ sở của chính quyền nhân dân. Trong các thời kỳ cách
mạng và trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao
và phát huy vai trò to lớn của Mặt trận trong việc củng cố và tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân. Bộ Chính trị nhấn mạnh:
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa, thực hiện có hiệu quả nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý và nhân dân làm chủ, việc ban hành Luật Mặt trận là cần
thiết. Luật Mặt trận nhằm cụ thể hoá Cương lĩnh của Đảng và Điều 9
Hiến pháp 1992, tạo cơ sở pháp lý để khẳng định rõ và làm cho mọi
người nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vị trí vai trò, quyền hạn, trách
nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; làm rõ mối quan hệ giữa Mặt
trận với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức thành viên, nhân dân trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [47,
tr 599].
37
Bộ Chính trị Trung ương Đảng còn yêu cầu: Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam có nội dung chính trị sâu sắc thể hiện chính sách lớn - đại đoàn kết
toàn dân của Đảng và Nhà nước ta. Do vậy, phải được chuẩn bị thật chu đáo,
xử lý thận trọng những vấn đề còn vướng mắc trước khi trình ra Quốc hội.
Cần lưu ý những vấn đề cơ bản sau đây: Việc xác định vị trí, tính chất, mục
tiêu hoạt động của Mặt trận và mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận phải căn
cứ vào Cương lĩnh, các nghị quyết của Đảng, Hiến pháp 1992, Điều lệ của
Mặt trận và những yêu cầu thực tế trong giai đoạn hiện nay, để bảo đảm sự
phù hợp về chính trị và pháp lý. Về quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên nên quy định một cách khái quát,
xác định rõ phạm vi những quyền hạn và trách nhiệm trên một số vấn đề lớn
như: tập hợp đoàn kết toàn dân; tham gia xây dựng, củng cố chính quyền;
giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và cán bộ, viên chức nhà nước. Về
tổ chức của Mặt trận, chỉ quy định những vấn đề mang tính chất nguyên tắc
chung, không nên quy định cụ thể những vấn đề mang tính nội bộ của Mặt
trận. Về điều kiện bảo đảm cho hoạt động của Mặt trận, phải căn cứ vào nghị
quyết của Đảng và pháp luật hiện hành để quy định cho phù hợp. Căn cứ vào
ý kiến chỉ đạo nêu trên và ý kiến phát biểu của các đồng chí Bộ Chính trị tại
phiên họp này, Đảng đoàn Quốc hội và Đảng đoàn Mặt trận chỉ đạo việc
chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật và báo cáo Bộ Chính trị trước khi trình Quốc
hội.
Căn cứ vào ý kiến chỉ đạo trên, Đảng đoàn Quốc hội và Đảng đoàn Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam chỉ đạo việc chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật. Sau nhiều
lần bổ sung, sửa chữa, dự thảo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được kỳ
họp thứ 5 Quốc hội khoá X thông qua vào ngày 1-6-1999. Đây là một trong
những sự kiện quan trọng trong lịch sử xây dựng, củng cố và phát triển Mặt
trận dân tộc thống nhất.
38
Ngày 15-9-1999, Thường trực Bộ Chính trị có Thông báo số 23/TB-
VPTW Về đề án xây dựng và phát huy vai trò giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, nhấn mạnh: Đề án xây dựng và phát huy vai trò giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước đã được chuẩn bị khá công phu, đề cập nhiều vấn đề phải giải quyết.
Thường trực Bộ Chính trị lưu ý một số vấn đề sau đây: Trên nền của Đề án
này, Tiểu ban cần chuẩn bị thêm, cố gắng làm rõ trong công cuộc đổi mới đất
nước thì giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, khối liên
minh công - nông - trí có chuyển động gì, ưu điểm nào là nổi bật và đặt ra
những vấn đề gì phải giải quyết. Tiểu ban chuẩn bị đề án cần soát xét các chủ
trương, giải pháp về xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức đã nêu trong các nghị quyết của Ban Chấp
hành Trung ương và của Bộ Chính trị trong những năm gần đây, đối chiếu với
thực tiễn để phân tích có tính tổng kết xem cái gì làm được, chưa được, vấn
đề nào đã rõ và những vấn đề nào phải bổ sung hoặc nghiên cứu. Trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp cụ thể thực sự cấp bách, vừa có tính khả thi cao
để tập trung thực hiện, tạo cho được sự chuyển biến cả về nhận thức và hành
động. Đồng ý có một nghị quyết chung về xây dựng và phát huy vai trò của
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó có các phần riêng về
từng giai cấp, đội ngũ trí thức nhưng các nội dung phải quyện gắn với nhau
theo tinh thần phát huy khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh
công - nông - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thường vụ Bộ Chính trị nêu rõ: Nghị quyết này cần tập trung làm rõ và
có những giải pháp cụ thể giải quyết một số vấn đề cấp bách mà thực tiễn
đang đặt ra. Một số vấn đề cơ bản có thể sẽ đề cập tại phần phương hướng,
39
quan điểm để thống nhất nhận thức. Đối với các giải pháp cần tập trung chỉ
đạo thực hiện, nhất là các chính sách cụ thể, Tiểu ban cần bàn kỹ với Chính
phủ để thống nhất trước khi trình Bộ Chính trị. Cần xác định rõ trách nhiệm
của tổ chức đảng đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong tình hình mới.
Trong suốt quá trình chuẩn bị và tiến hành Đại hội IX của Đảng, chủ đề
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc luôn được đề cao và nhấn mạnh là tư tưởng
xuyên suốt của đại hội. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng năm 2001
đã tổng kết 15 năm đổi mới, đã rút ra 4 bài học, trong đó có bài học về không
ngừng tăng cường củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội lần thứ IX của
Đảng đã bổ sung, phát triển những nội dung mới về thời kỳ quá độ, làm sáng
tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn về đường lối chung tạo cơ sở, điều kiện và
đặt ra yêu cầu mới về tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và đổi
mới tổ chức, hoạt động của Mặt trận các cấp.
Với chủ đề Đại hội là: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và Bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa [6, tr. 60], Báo cáo Chính trị đã nhấn mạnh:
Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng luôn luôn giương cao
ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức
mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của hệ cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành
phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong
Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi
thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước
ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý
40
chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống
nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của
dân tộc, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành
phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai. Khối đại
đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn luôn được củng cố và
phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ
trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện dân chủ trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở tất cả các cấp, các ngành. Chính
sách và pháp luật của Nhà nước là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực
hiện đại đoàn kết toàn dân và sinh hoạt dân chủ trong xã hội. Đổi mới và hoàn
thiện các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các
tôn giáo, đặc biệt là các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phân phối, tiêu
dùng, bảo đảm quyền lợi và trách nhiệm của công dân.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò
rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát huy dân chủ,
nâng cao trách nhiệm công dân của hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương
phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân
với Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn chỉnh các quy
chế để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân phát huy quyền làm chủ của
nhân dân tham gia phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”, qua đó tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố sự nhất
trí về chính trị và tinh thần trong xã hội.
41
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp
khối đại đoàn kết toàn dân góp sức xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh; phát huy khả năng tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp; xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật, tuyên
truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, thực hiện giám sát
của nhân dân đối với công tác và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên,
công chức, đại biểu dân cử và các cơ quan Nhà nước; giải quyết những mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân. Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp
nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề
nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện - nhân đạo... Tiếp tục đổi mới phương
thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân,
khắc phục tình trạng hành chính hoá, phô trương, hình thức, quan liêu, xa dân.
Nghị quyết số 17-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở
cơ sở xã, phường, thị trấn (ngày 18-3-2002) phần về Đổi mới công tác Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân đã nhấn mạnh đến việc Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân đóng vai trò nòng cốt xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở:
Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân sát hợp với nhu cầu và lợi ích của hội
viên, đoàn viên; trên cơ sở đó, tập hợp rộng rãi và nâng cao tính tự giác
của hội viên, đoàn viên, xây dựng tổ chức vững mạnh; tuyên truyền các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến mọi người dân; vận
động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng; tiến hành có hiệu quả các cuộc vận động và phong trào thi đua
[47, tr. 652].
42
Nghị quyết số 17-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa IX) còn nêu rõ Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thúc đẩy
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phản ánh ý kiến của quần chúng về
xây dựng Đảng và chính quyền, phát giác hành vi tham nhũng, lãng phí, vi
phạm dân chủ; tham gia hoà giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, bày tỏ
thái độ đối với những khiếu kiện của dân để góp phần giải quyết từ gốc. Đa
dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng; coi trọng và mở rộng các tổ chức
và hoạt động tự quản của nhân dân dưới nhiều hình thức phong phú; các hội
viên, đoàn viên chủ động tham gia vào các tổ chức đó, làm nòng cốt vận động
và tổ chức hoạt động đúng mục đích, đúng pháp luật.
Đổi mới cơ chế bảo đảm kinh phí hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân ở cơ sở. Phát huy tính chủ động của các đoàn thể ở cơ
sở trong việc tạo nguồn và sử dụng kinh phí. Sửa đổi những quy định không
còn phù hợp về hội phí, đoàn phí; thu đủ hội phí, đoàn phí và ưu tiên dành
cho cơ sở. Nhà nước cấp một phần kinh phí hoạt động cho Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân và tạo điều kiện để các đoàn thể gây quỹ theo đúng pháp
luật. Kinh phí do Nhà nước cấp được Hội đồng nhân dân ở cơ sở giao khoán
cho Mặt trận và từng đoàn thể nhân dân chủ động quyết định việc chi tiêu, kể
cả việc trả phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách.
1.2.2. Tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và vai trò Mặt
trận Dân tộc Thống nhất
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(tháng 11-1988) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (tháng 8-1994) là một thời kỳ có nhiều biến động ở trong nước và
quốc tế. Trong thời gian này sự đổ vỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu đã tác động nhiều đến công cuộc đổi mới của Việt Nam. Tuy
nhân dân Việt Nam đã đạt được một số thành tựu bước đầu hết sức quan trọng
43
nhưng công cuộc đổi mới, đặc biệt là những thay đổi về cơ cấu xã hội, sự
chênh lệch về mức sống và hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội gia tăng, các thế
lực thù địch ra sức hoạt động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân...
Những yếu tố đó diễn ra trong điều kiện những hậu quả của cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội kéo dài, đã đặt sự nghiệp xây dựng đất nước của nhân
dân ta trước thử thách to lớn chưa từng có. Chính ở thời điểm đó, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân kiên trì con đường đổi mới do Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra. Sự ra đời của Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược kinh tế -
xã hội cùng với nhiều nghị quyết, chính sách, pháp luật tiếp tục được cụ thể
hoá, thể chế hoá đã từng bước trở thành hiện thực cuộc sống, dần đưa Việt
Nam thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
nâng cao đời sống nhân dân, từng bước hội nhập kinh tế với thế giới bằng nội
lực của dân tộc.
Cùng với việc đẩy mạnh đổi mới sâu rộng về kinh tế gắn với đổi mới
hệ thống chính trị bằng những bước đi phù hợp, đã đặt cơ sở lý luận, thực tiễn
cho việc tăng cường mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc
thống nhất, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực và đảm bảo vững chắc cho
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, họp
từ ngày 17 đến ngày 19-8-1994 tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội. Đại
hội đã kiểm điểm lại chặng đường hơn 5 năm, khẳng định những kết quả hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, rút ra một số kinh nghiệm và chỉ ra
phương hướng hoạt động trong thời gian tới. Đại hội đã long trọng công bố
Chương trình 12 điểm Đại đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước - đó
là Chương trình thể hiện ý nguyện của toàn Đảng, toàn dân quyết tâm chiến
44
thắng nghèo nàn lạc hậu tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Chương trình
đại đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gồm 12 điểm của Đại hội IV
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã khẳng định quan điểm đại đoàn kết mọi người
Việt Nam không có sự phân biệt đối xử, đoàn kết mọi người Việt Nam tán
thành mục tiêu chung dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh,
chấp nhận những sự khác nhau không trái với lợi ích chung của Tổ quốc.
Nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, tạo mọi điều kiện
để mọi người phát huy tài năng, sáng tạo để cống hiến cho đất nước, khơi dậy
tiềm năng mọi cá nhân và tập thể và cả cộng đồng để chăm sóc và phát huy
nhân tố con người; thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa
các dân tộc; tôn trọng và thực hiện đúng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
vận động nhân dân bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân, nền quốc phòng toàn dân; tạo điều kiện chăm lo
thế hệ trẻ về học tập, sức khoẻ, giúp đỡ, bảo vệ lợi ích chính đáng của kiều
bào; tích cực thực hiện đoàn kết quốc tế theo đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta.
Chương trình 12 điểm của Mặt trận định hướng về chính sách đại đoàn
kết với mọi người Việt Nam, đối với từng giai cấp và tầng lớp xã hội nhằm
đoàn kết mọi người Việt Nam hoà hợp thành một khối để chiến thắng nghèo
nàn, lạc hậu, đưa đất nước tiến lên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
Chương trình đã thể hiện tư tưởng cơ bản của Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị
Trung ương Đảng (ngày 17-11-1993), nói lên truyền thống đại đoàn kết của
dân tộc, chứng tỏ sự trưởng thành của nhân dân ta với những thành tựu mọi
mặt của công cuộc đổi mới đất nước, là thông điệp với toàn dân và bạn bè
45
quốc tế về cương lĩnh hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai
đoạn mới thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ
Mười đã tham dự đại hội và phát biểu yêu cầu trong tình hình mới Mặt trận
phải ra sức xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy truyền
thống yêu nước, tinh thần độc lập, tự chủ, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự
cường, tạo ra sức mạnh của nhân dân cả nước để thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, đưa nước ta tiến kịp các nước phát
triển trong cộng đồng thế giới. Tổng Bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh nhân dân ta
đã thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất của cách
mạng Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn ý thức rằng: Đảng ở trong
lòng dân, Đảng tồn tại vì nhân dân, Đảng đại diện trung thành cho lợi
ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc... Mặt trận
Dân tộc Thống nhất Việt Nam đã gắn bó keo sơn với Đảng trong mọi
thời kỳ cách mạng lúc khó khăn sóng gió cũng như khi thắng lợi vẻ
vang... Đảng rất tự hào vì đã xứng đáng là một thành viên tích cực của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [28, tr. 20].
Theo đánh giá của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:
Qua 6 năm tiến hành đổi mới tổ chức, việc đổi mới phương thức
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc đã đạt được một số kết quả, chuyển
biến rõ nét, tạo ra một số phong trào, cuộc vận động, góp phần thiết
thực vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế-xã hội cấp bách. Đổi mới
phương thức hoạt động, chuyển mạnh về cơ sở, đưa công tác mặt trận
đến với mỗi gia đình đã hình thành mạng lưới công tác mặt trận rộng
khắp trong các địa phương, cơ sở trong cả nước. Chương trình đại đoàn
kết dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gồm 12 điểm do Mặt trận Tổ
46
quốc công bố nói lên những thành tựu bước đầu rất quan trọng của khối
đại đoàn kết dân tộc thể hiện quyết tâm, kiên trì đẩy mạnh công cuộc
đổi mới với mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, phấn đấu đưa đất
nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh [43, tr.371].
Để đạt được mục tiêu đó, phải mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn
kết mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Không chỉ đoàn kết với
người yêu nước, mà đoàn kết với tất cả mọi người tán thành phấn đấu vì mục
tiêu nêu trên. Mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc là yêu cầu cấp bách của sự
nghiệp cách mạng, phù hợp với sự phát triển xã hội, đáp ứng nguyện vọng của
các tầng lớp nhân dân. Nhiệm vụ của Mặt trận đã được khẳng định trong các
nghị quyết của Đảng, trong Hiến pháp mới và các đạo luật; tuy nhiên vẫn còn
lúng túng trong khi triển khải thực hiện. Nhận thức và thực hiện việc tăng
cường, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và đổi mới tổ chức, hoạt động của
Mặt trận và các tổ chức, đoàn thể nhân dân vẫn cần phải tiếp tục tìm tòi cả về
nhận thức và thực tiễn.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(tháng 8-1994) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (tháng 8-1999) là thời gian thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ
VII và bước đầu triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng. Đây
cũng là thời kỳ công cuộc đổi mới được triển khai sâu rộng, đưa đất nước
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, chuyển sang thời kỳ phát triển. Sự đổi
mới chính trị cũng từng bước được thực hiện, tạo cơ sở và điều kiện cho sự
tăng cường, mở rộng đoàn kết, phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc trên các lĩnh
vực đời sống xã hội. Tuy nhiên tình hình quốc tế, trong nước không hoàn toàn
thuận lợi. Do nhiều nguyên nhân, sự tăng trưởng kinh tế đã bị ảnh hưởng, tình
47
trạng thiểu phát lần đầu xuất hiện, sức mua xã hội giảm cũng gây không ít
khó khăn cho sản xuất, đời sống.
Sau hơn 10 năm kể từ khi chính thức phát động công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn cần tìm tòi những giải
pháp về nhiều vần đề mới phát sinh ảnh hưởng không tốt đến khối đại đoàn
kết dân tộc và Mặt trận thống nhất, đó là tệ nạn tiêu cực xã hội ngày càng phát
triển, sự phân cực giàu nghèo ngày càng đậm nét; đặc biệt là tình trạng vi
phạm quyền làm chủ của người dân. Kinh tế tăng trưởng khá cao nhưng phát
sinh nhiều vấn đề xã hội, sự suy giảm về văn hoá, đạo đức, sự gia tăng lối
sống thực dụng, chạy theo đồng tiền trong một bộ phận không nhỏ nhân dân,
đặc biệt là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm xói mòn niềm tin của dân đối
với Đảng và Nhà nước. Những nhân tố ảnh hưởng đến khối đoàn kết dân tộc
và Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn còn tiềm ẩn.
Hoạt động tăng cường, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất đã đạt
được một số kết quả, chuyển biến rõ nét. Việc đi sâu, cụ thể hoá chính sách,
công tác mặt trận - dân vận trên từng lĩnh vực đã trở thành hiện thực, đặc biệt
trong các lĩnh vực gắn với các chương trình, mục tiêu kinh tế-xã hội, xoá đói
giảm nghèo. Nhất là, từ tháng 5-1995, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam khởi xướng và chủ trì thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết
xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư" (sau đó đổi tên thành cuộc vận động
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư") là một cuộc
vận động có 6 nội dung, mang tính toàn dân, toàn diện và toàn quốc được
phát động trong thời kỳ đổi mới của đất nước; trên cơ sở kế thừa, phát huy
những kinh nghiệm và kết quả các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu
nước của nhân dân trong cả nước. Các chính sách, công tác mặt trận - dân vận
nhằm tăng cường, mở rộng đoàn kết, phát huy vai trò của các giai cấp, tầng
lớp xã hội và các tổ chức, đoàn thể đã đi vào giải quyết những vấn đề cụ thể
48
đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của mỗi giai tầng và ngày càng thông thoáng,
cởi mở hơn theo tinh thần Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng. Đây là thời kỳ các chủ trương,
chính sách về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất
được quán triệt thực hiện sâu rộng. Sự đổi mới chính trị được tiến hành từng
bước, thể hiện trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân.
Bước tiến mới trong việc tăng cường, phát huy vai trò của Mặt
trận và mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận thông qua việc ra đời
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đánh dấu sự tăng cường mối quan hệ
giữa Nhà nước với Mặt trận là một tổ chức liên minh chính trị, nền tảng
của chính quyền nhân dân. Cùng với Luật Mặt trận là nhiều văn bản
quy phạm pháp luật cụ thể hoá mối quan hệ và phương thức công tác,
Quy chế phối hợp công tác giữa Mặt trận với Chính phủ, nghị quyết
liên tịch với các ngành, tạo cơ sở để nâng cao vị thế của Mặt trận và
làm cho các tổ chức, phong trào mặt trận nâng cao tính hiệu quả thiết
thực trong đời sống xã hội [43, 456-457].
Sự đổi mới tổ chức phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc được
đánh giá là khởi sắc, rõ nét trên các mặt theo ba định hướng đề ra từ Đại hội
lần thứ III của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1988), trong đó nổi bật đã tổ
chức, phát động một số phong trào, cuộc vận động mang tính toàn dân, toàn
quốc, tổng hợp được các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của
các ngành, giới, đoàn thể gắn với các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế
- văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Một trong những thành tựu đó là việc ban hành bộ Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam (6-1999) và Điều lệ sửa đổi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam những
nhiệm kỳ tiếp theo.
49
Cũng theo đánh giá của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, sự đổi mới tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc tuy đã có sự khởi
sắc và tạo ra được một số chuyển biến rõ nét nhưng vẫn chưa ngang tầm
nhiệm vụ và càng chưa tương xứng vai trò, vị trí như đã được xác định trong
nghị quyết của Đảng, luật pháp của Nhà nước. Những hạn chế trước hết vẫn
là quan điểm, nhận thức về vai trò, vị trí Mặt trận vẫn chưa được nâng lên
trong xã hội. Tình trạng xem nhẹ, thậm chí coi thường tổ chức, hoạt động của
Mặt trận vẫn chưa được khắc phục. Những đổi mới trong tổ chức, phương
thức hoạt động thực tiễn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân chính vẫn là sự tự
nỗ lực vươn lên, tự khẳng định, tự đổi mới của Mặt trận chưa theo kịp yêu
cầu; mặt khác là sự phối hợp chưa thường xuyên và thiếu chặt chẽ của chính
quyền và các tổ chức thành viên.
Yêu cầu đang đặt ra là cần tiếp tục cụ thể hoá, thống nhất quan niệm
nhận thức về nguyên nhân và phương hướng đổi mới, đồng thời, đi sâu tìm tòi
đổi mới tổ chức và hoạt động nhằm phát huy vai trò Mặt trận, góp phần đưa
sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất lên tầm cao
mới, chiều sâu mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, họp
từ ngày 26 đến ngày 28-8-1999 tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội. Đại
hội diễn ra vào lúc sự nghiệp đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu
rất quan trọng. Chương trình 12 điểm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được
Đại hội lần thứ IV đề ra được toàn dân hưởng ứng và đạt kết quả tốt đẹp, Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được ban hành, vị thế của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam được nâng cao. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là cột mốc quan trọng đánh dấu việc thực hiện chính sách đại đoàn
kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ phát triển
mới của đất nước, là Đại hội "Phát huy tinh thần yêu nước, sức mạnh của
50
khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa" [29, tr. 38].
Báo cáo của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khoá IV
trình đại hội đã đánh giá tình hình khối đại đoàn kết toàn dân. Công cuộc đổi
mới đã giành được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, đưa đất nước
thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội ổn định, đời sống nhân dân
được cải thiện, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao, trong bối cảnh ấy,
khối đại đoàn kết dân tộc đã không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều yếu tố gây mất ổn định, ảnh hưởng đến khối đoàn kết và lòng tin của
nhân dân. Báo cáo cũng nghiêm túc tự phê bình, nêu lên trách nhiệm của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trước những mặt yếu kém của tình hình đất nước, nhất
là sự suy giảm lòng tin của nhân dân.
Kiểm điểm về bước phát triển mới và những hạn chế trong hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, báo cáo chỉ rõ những tiến bộ cùng hạn chế
của Mặt trận trong viêc tập hợp, đoàn kết nhân dân, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, tham gia xây dựng, giám sát, bảo vệ Nhà nước, mở rộng và đổi
mới hoạt động đối ngoại nhân dân...Đồng thời cũng phân tích nguyên nhân
của những thực trạng đó.
Báo cáo đã nêu lên 5 bài học kinh nghiệm lớn, đó là: phát huy chủ
nghĩa yêu nước, xây dựng khối đại đoàn kết trên cơ sở mục tiêu chung và
điểm tương đồng thể hiện trong đường lối, chính sách đúng đắn; đảm bảo hài
hoà lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội; không ngừng mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công, nông, trí và thu hút mọi tầng
trong xã hội; phát huy vai trò cả hệ thống chính trị đối với xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc; đổi mới và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc làm cầu
nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.
51
Báo cáo đã đề ra mục tiêu và chương trình hành động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong nhiệm kỳ tới (1999-2004) tập trung vào 5 nội dung lớn:
đa dạng hoá việc tập hợp toàn dân, động viên phong trào thi đua yêu nước,
góp phần đổi mới hệ thống chính trị, tham gia bảo vệ an ninh chính trị và xây
dựng quốc phòng, củng cố đoàn kết quốc tế. Để hoàn thành chương trình hành
động đó, cần tiếp tục đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam một cách sâu sắc và toàn diện.
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê
Khả Phiêu đến dự và phát biểu đánh giá cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã khẳng định:
Những thắng lợi mà nhân dân ta phấn đấu đạt được đã chứng
minh: sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội
là đúng đắn, phù hợp với lòng dân, được nhân dân cả nước đem hết sức
mình quyết tâm và kiên trì thực hiện. Đạt được những thành tựu ấy là
nhờ Mặt trận đã hưởng ứng chủ trương và đường lối vì dân, vì nước của
Đảng, tích cực phát huy sức mạnh yêu nước, tự lực tự cường của khối
đại đoàn kết toàn dân, thống nhất được ý chí và hành động của tất cả
các giai cấp, các tầng lớp, các thế hệ, các nhân tài, nhân sĩ về một
hướng. Công lao đó của Mặt trận và các thành viên trong Mặt trận ở tất
cả các cấp thật vô cùng to lớn...Tổ quốc Việt Nam vô cùng tự hào đã có
một Mặt trận dân tộc thống nhất, đoàn kết và bền vững xuyên suốt tiến
trình đấu tranh yêu nước và cách mạng gần một thế kỷ [29, tr. 12-13].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, giai đoạn từ năm 1999-2003, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
luôn bám sát nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ đất nước, coi đó là nhiệm vụ thường
52
xuyên, ra sức phấn đấu thực hiện chương trình hành động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam do Đại hội V đề ra và đạt được kết quả thiết thực, góp phần
tích cực vào những thành tựu chung của đất nước. Vị trí, vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tiếp tục được khẳng định và nâng cao trong đời sống xã
hội, đó là:
- Một là, việc tập hợp các tầng lớp nhân dân vào các hình thức tổ chức
có tiến bộ, đã góp phần tích cực vào việc củng cố và mở rộng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Mặt trận Tổ quốc các cấp đã tích cực mở rộng tổ chức bằng
nhiều hình thức đa dạng, kết nạp thêm các tổ chức thành viên mới (Ở Trung
ương, kết nạp Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội Liên lạc
người Việt Nam ở nước ngoài, Hội Nạn nhân chất độc da cam/điôxin Việt
Nam,...), phát huy vai trò của các cá nhân tiêu biểu, thu hút thêm nhiều các
nhân sĩ trí thức, chuyên gia tham gia các hoạt động của Mặt trận; Ban công
tác Mặt trận được củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động; thông qua các
phong thi đua, các cuộc vận động, các tầng lớp nhân dân đã gắn bó và tham
gia các hoạt động của Mặt trận tích cực hơn.
- Hai là, ra sức động viên nhân dân hưởng ứng các phong trào thi đua,
các cuộc vận động, phát huy mọi nguồn lực thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Ba là, qua việc chủ trì, phối hợp tổ chức các phong trào, các cuộc vận
động mang tính toàn dân, toàn quốc trên các lĩnh vực, hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc ngày càng rõ nét hơn, mang lại hiệu quả tốt hơn, góp phần thiết thực
cùng Đảng và Nhà nước giải quyết những nhiệm vụ quan trọng của đất nước
và những vấn đề do cuộc sống của nhân dân đặt ra ngay từ mỗi cộng đồng dân
cư, mỗi cơ sở xã, phường. Kết quả nổi bật là cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”; phong trào “Đền ơn đáp
53
nghĩa” và đặc biệt là cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” được Uỷ ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động ngày 17-10-2000 thực sự
là những điểm sáng trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiệm
kỳ qua.
- Bốn là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tích cực tham gia đổi mới và
nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ tham
gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng và
Nhà nước với nhân dân.
- Năm là, nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình, Mặt trận Tổ quốc
các cấp đã coi việc tham gia cùng Đảng, Nhà nước xây dựng chủ trương,
chính sách, pháp luật là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên. Với tinh thần chủ
động, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp cùng các tổ chức thành viên đã tham
gia tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XI, bầu cử Hội
đồng nhân dân ba cấp nhiệm kỳ 1999-2003. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc nhiều
địa phương đã xây dựng quy chế phối hợp công tác với đoàn đại biểu Quốc
hội, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đồng thời phối hợp với ngành tư
pháp, ngành công an… tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục trong nhân
dân và vận động nhân dân sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật.
- Sáu là, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc được quan tâm, ở
nhiều địa phương có cách làm thiết thực và có bước tiến mới, Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên các cấp đã phối hợp với các cấp chính
quyền triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, góp phần thiết thực nâng
cao ý thức và trách nhiệm làm chủ của nhân dân, củng cố hệ thống chính trị
xã, phường, thị trấn ngày càng vững mạnh. Trong nhiệm kỳ qua, Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc đã hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động của thanh tra nhân dân có
nhiều chuyển biến tốt, đã phối hợp với các cấp chính quyền tổng kết 10 năm
hoạt động của thanh tra nhân nhân, rút những bài học kinh nghiệm về tổ chức
54
và hoạt động đồng thời kiến nghị với Nhà nước những vấn đề nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động thanh tra nhân nhân.
- Bảy là, hoạt động đối ngoại nhân dân được tăng cường và mở rộng
hơn trước. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên đã tăng cường
củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng
và các tổ chức tương ứng, mở rộng quan hệ với các nước, các tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức quốc tế… tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân
thế giới, góp phần thực hiện có hiệu quả đường lối chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta.
- Tám là, công tác xây dựng, củng cố tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ và đổi mới phương thức hoạt động đã được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các
cấp coi trọng. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đã được củng cố kiện toàn
mở rộng về cơ cấu, thành phần, nâng cao tính thiết thực, tính tiêu biểu và tính
quần chúng. Các tổ chức tư vấn được hình thành, đội ngũ cộng tác viên được
mở rộng, các cá nhân tiêu biểu được phát huy, tiếp tục hướng mạnh hoạt động
về cơ sở. Đội ngũ cán bộ chuyên trách ngày càng được đổi mới và tăng
cường, công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động của cán bộ được coi
trọng và có nhiều tiến bộ. Việc thực hiện qui chế phối hợp công tác giữa Uỷ
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức thành viên dã đạt
được những kết quả thiết thực. Mối quan hệ phối hợp giữa Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc các cấp và các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước đã được tăng
cường.
Thời kỳ này, tuy phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức, song
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình trước
nhân dân, trước lịch sử, đã nỗ lực phấn đấu, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
do Đại hội V Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đề ra và đã đạt được kết quả thiết
thực, góp phần quan trọng vào việc củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết
55
toàn dân tộc, tăng thêm sự đồng thuận trong xã hội, tham gia xây dựng Đảng,
xây dựng, củng cố chính quyền, mở rộng quan hệ đoàn kết, hữu nghị, hợp tác
quốc tế, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, góp
phần quan trọng vào thành tựu chung của đất nước.
56
Chương 2
ĐẢNG TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG NHỮNG NĂM 2003-2007
2.1. Chủ trương và biện pháp của Đảng nhằm tăng cường xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc (2003-2007)
Các tư tưởng chỉ đạo của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng Cộng sản Vịêt Nam về đại đoàn kết dân tộc đến Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã được cụ thể hoá một cách toàn diện,
đồng bộ về những vấn đề cơ bản trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc nói chung và công tác dân tộc, tôn giáo nói riêng.
Nghị quyết số 23-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khoá IX) Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (ngày 12- 3-
2003), nhận định: Từ sau Đại hội VI, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ
thị về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, về đại đoàn kết toàn
dân tộc, về dân tộc, tôn giáo, về Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Thông
qua việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị đó, quyền làm chủ của nhân dân
trong tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội đã từng bước được
phát huy. Việc tập hợp nhân dân với các hình thức đa dạng có bước phát triển
mới. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên được mở rộng, vai trò và vị
trí trong xã hội được nâng cao, nội dung hoạt động phong phú, thiết thực hơn,
đã động viên, lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia các
cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước.
Nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là
57
nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội của đất nước. Đạt được thành tựu trên là do nhân dân Việt
Nam có truyền thống yêu nước, đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng là
ngọn cờ đoàn kết, tập hợp nhân dân trong thời kỳ phát triển mới của đất
nước. Tổ chức đảng và chính quyền các cấp có bước chuyển biến về công
tác dân vận. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân nỗ lực đổi mới công tác,
hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, Đảng đánh giá: khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước
những thách thức mới. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ
phận nhân dân chưa vững chắc, phần vì đời sống còn nhiều khó khăn, phần vì
bất bình trước những bất công xã hội và tình trạng tham nhũng, quan liêu. Các
vụ khiếu kiện đông người vẫn còn nhiều, có lúc, có nơi rất gay gắt. Việc tập
hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn
chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, ở một số vùng có đồng bào theo đạo, đồng bào các tộc ít người...
Nguyên nhân chủ yếu là do chưa phân tích và dự báo đầy đủ những biến đổi
trong cơ cấu giai cấp-xã hội và những mâu thuẫn mới nảy sinh trong nhân
dân, trong một thời gian dài, Đảng chưa có chủ trương khắc phục những mâu
thuẫn ấy một cách đúng đắn, kịp thời. Nhiều tổ chức của các đảng bộ, chính
quyền còn coi nhẹ công tác dân vận. Một số chủ trương, chính sách của Nhà
nước chưa thể hiện đầy đủ quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc; việc thực
hiện còn nhiều thiếu sót. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở
nhiều nơi còn hình thức và nặng về hành chính, không sát dân.
Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ
quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
58
vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất
của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá
khứ, thành phần, giai cấp xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng
hướng tới tương lai. Bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích
thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết
hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội; thực hiện
dân chủ gắn liền với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí; không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân
tộc, thống nhất Tổ quốc.
Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng đã vạch ra chủ trương và giải pháp chủ
yếu nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát triển mạnh mẽ nền
kinh tế nhiều thành phần, lấy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân là
nhiệm vụ trung tâm; gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và
bảo vệ môi trường sinh thái trong từng bước phát triển; đẩy mạnh xoá đói,
giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng. Tổ chức việc kết nghĩa, giúp
đỡ nhau giữa các vùng, các địa phương có kinh tế phát triển với vùng nghèo,
miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Phát triển văn hoá, y tế, giáo dục -
đào tạo và khoa học - công nghệ, phấn đấu nâng dần độ đồng đều về trình độ
dân trí, văn hoá và mức độ hưởng thụ, chăm sóc sức khoẻ của nhân dân các
vùng trong nước; gìn giữ và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp của từng
dân tộc; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
Đảng chủ trương: Không ngừng hoàn thiện các cơ chế dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở
59
cơ sở, cụ thể hoá để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” trong tất cả các loại hình tổ chức và đơn vị cơ sở thuộc các cấp, các
ngành, kể cả trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân. Trước khi ban hành những chủ trương, chính sách quan trọng, cần
tổ chức chu đáo, thiết thực việc lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân có liên quan,
bảo đảm để nhân dân có thể thẳng thắn bày tỏ được ý kiến đóng góp. Khuyến
khích trao đổi, tranh luận với tinh thần xây dựng về những vấn đề có ý kiến
khác nhau, tránh chụp mũ, áp đặt. Nhà nước chăm lo đào tạo, bồi dưỡng chính
trị, nghiệp vụ, giáo dục đạo đức cho cán bộ chính quyền các cấp. Xây dựng
phong cách và phương thức công tác của cán bộ, công chức phù hợp với đạo
đức cách mạng và đáp ứng yêu cầu tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân; đẩy mạnh và
nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội
nghề nghiệp, các tổ chức xã hội và các tổ chức nhân dân. Sớm ban hành luật
về hội quần chúng. Xây dựng các văn bản dưới luật để cụ thể hoá những nội
dung nói trên và để Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy hiệu lực tốt hơn
trong đời sống xã hội. Xây dựng các cộng đồng dân cư tự quản ở các thôn,
làng, bản, ấp, tổ dân phố, hoạt động trên cơ sở hương ước, quy ước không trái
pháp luật. Chú trọng bồi dưỡng và hướng dẫn những người có uy tín trong
cộng đồng tham gia đóng góp cho phong trào chung. Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân phối hợp với các cơ quan nhà nước hướng hoạt động nhiều hơn về
cơ sở, đến từng hộ dân. Đi sát để hiểu tâm tư, nguyện vọng nhân dân, phát
huy, nhân rộng những sáng kiến tích cực; vừa làm tốt chức năng tuyên truyền,
giáo dục, vừa quan tâm bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Cử
đại diện của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia các uỷ ban, hội đồng,
ban điều hành một số dự án, chương trình kinh tế – xã hội có quan hệ trực tiếp
đến quyền lợi và trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân ở cơ sở.
60
Nghị quyết số 24-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khoá IX) Về công tác dân tộc (ngày 12- 3- 2003) nhấn mạnh:
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống.
Đồng bào các dân tộc nước ta có truyền thống đoàn kết lâu đời trong đấu
tranh chống ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục thiên tai và xây dựng
đất nước. Mỗi dân tộc có sắc thái văn hoá riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng,
phong phú của nền văn hoá Việt Nam thống nhất. Sau khi khẳng định thời
gian qua, một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội miền
núi, tình hình miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số có bước chuyển
biến quan trọng. Tuy nhiên, kinh tế ở miền núi và các vùng dân tộc còn chậm
phát triển, nhiều nơi còng lúng túng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập
quán canh tác còn lạc hậu. Tình trạng du canh, du cư, di cư tự do còn diễn
biến phức tạp, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:
Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,
đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Phát
triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng trên
địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các
vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc. Công tác dân tộc và thực hiện
chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các
cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị. Do đó, nhiệm vụ chủ yếu và
cấp bách là đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của
đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng
xa; trong những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, các dân tộc
đặc biệt khó khăn giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tình trạng thiếu
lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất,
dụng cụ sinh hoạt tối thiểu; xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
61
Nghị quyết số 24-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khoá IX) còn đề ra một số giải pháp chủ yếu là nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn thể xã hội
về vị trí, nhiệm vụ của công tác dân tộc trong hình mới. Đây là nhiệm vụ
thường xuyên và quan trọng của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt
trận, đoàn thể từ trung ương đến địa phương. Trong đó, coi trọng việc tiếp tục
thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc và miền
núi; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những chính sách đã có và
nghiên cứu ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu cầu phát triển các
vùng dân tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới.
Nghị quyết số 25-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá IX) Về công tác tôn giáo (ngày 12- 3- 2003), nhấn mạnh:
Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước luôn xác định công tác tôn
giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng; xác định hoạt động tôn
giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn
giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của
dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là
công tác vận động quần chúng và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo
với sự nghiệp chung.
Có thể đánh giá, những chuyển biến mạnh mẽ về tư duy, nhận thức của
Đảng về vai trò, vị trí khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống
nhất được thể hiện trong nhiều chủ trương chính sách cụ thể trên các lĩnh vực.
Các Nghị quyết số 23, 24 và 25 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá IX) năm 2003 Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
62
dân tộc và Về công tác dân tộc, công tác tôn giáo ra đời là một dấu mốc có ý
nghĩa quan trọng.
Ngày 26-3-2004 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban
hành Nghị quyết số 36 -NQ/TW Về công tác đối với người Việt Nam ở nước
ngoài, nhấn mạnh: Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn coi cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng
dân tộc Việt Nam, đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách mở rộng và biện
pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho đồng bào về
thăm đất nước, người thân, đầu tư kinh doanh, hợp tác khoa học-công nghệ,
hoạt động văn hoá-nghệ thuật. Tuy nhiên, các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài chưa đựơc quán
triệt sâu sắc, thực hiện đầy đủ. Cơ sở của sự đoàn kết là ý thức dân tộc và lòng
yêu nước, niềm tự hào dân tộc và mục tiêu chung của mọi người Việt Nam là
giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, làm cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xoá bỏ mặc cảm, định
kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần
cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi
người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa
vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên
đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng ta nhấn mạnh:
Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực
của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các ngành, các cấp từ Trung ương
đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước và toàn dân ta còn coi đây là một
nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
63
Đổi mới và đa dạng hoá các phương thức vận động, các hình thực tập
hợp với mục đích đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài quan tâm giúp đỡ
lẫn nhau, khuyến khích những hoạt động hướng về Tổ quốc của bà con, nhất
là của thế hệ trẻ trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với pháp luật và phong tục tập
quán nước sở tại. Hỗ trợ các dự án của người Việt Nam ở nước ngoài nhằm
mục tiêu trên. Chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài, kể cả với những người còn có định kiến, mặc cảm với Nhà nước
và chế độ ở Việt Nam.
Ngày 16-11-2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng có Thông báo số 161-
TB-TW Về đề án Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia giám sát cán bộ, đảng
viên ở khu dân cư. Ban Bí thư hoan nghênh Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đã chủ động xây dựng đề án nhằm thông qua hoạt động giám sát của
nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc để giúp đảng viên, cán bộ, công chức ở khu
dân cư và gia đình họ nâng cao ý thức trách nhiệm, gương mẫu chấp hành chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, chấp hành những
quy định ở khu dân cư, gần gũi với dân hơn. Qua đó cũng giúp cấp uỷ đảng,
chính quyền các cấp nắm chắc hơn tình hình đảng viên, cán bộ, công chức
thuộc diện mình quản lý về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, quan hệ
với dân; trên cơ sở đó mà có hướng bồi dưỡng, sử dụng cán bộ tốt hơn, ngăn
chặn, phòng ngừa những hành vi tiêu cực, kịp thời giáo dục xử lý những đảng
viên, cán bộ, công chức có sai phạm, góp phần đẩy mạnh cuộc đấu tranh
chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, làm trong sạch đội ngũ đảng viên, cán
bộ, công chức. Thông báo nhấn mạnh:
Thông qua hoạt động giám sát mà nâng cao vai trò trách nhiệm
của Mặt trận Tổ quốc, của các tổ chức thành viên, của toàn dân tham
gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững
mạnh; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và
64
Nhà nước. Tinh thần chính là vừa xây, vừa chống, qua phong trào toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư để thực hiện việc
giám sát [47, tr. 719-720].
Ban Bí thư Trung ương Đảng yêu cầu: Đối tượng giám sát là đảng viên,
cán bộ, công chức cư trú, làm việc ở xã, phường, thị trấn, khu dân cư và
những cán bộ, công chức tuy ở nơi khác nhưng công tác trên địa bàn dân cư.
Giám sát cả cá nhân và tổ chức. Về nội dung giám sát, cần bám sát nội dung
Quy chế dân chủ cơ sở và chức năng của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể,
tập trung vào những cơ quan, tổ chức thường xuyên tiếp xúc với dân, phụ
trách giải quyết những việc trực tiếp liên quan đến quyền lợi người dân,
những lĩnh vực và những vấn đề ở khu dân cư thường nảy sinh những sự việc
gây bức xúc trong dân, mà Mặt trận, các đoàn thể và nhân dân có thể giám
sát, phát hiện góp ý kiến được. Cần xác định rõ quyền và trách nhiệm của
người giám sát, cũng như quyền và trách nhiệm của người và tổ chức được
giám sát. Có quy định cụ thể và chặt chẽ để vừa bảo vệ người góp ý đấu tranh
xây dựng, vừa ngăn ngừa việc lơi dụng quyền giám sát để gây rối, làm mất uy
tín hoặc tổn hại đến danh dự của cá nhân và tổ chức được giám sát. Các cấp
uỷ đảng có trách nhiệm chủ động lãnh đạo và tạo điều kiện cho Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể phát huy được dân chủ, thực hiện tốt chủ trương. Các
cấp Mặt trận trong quá trình triển khai thực hiện cần chủ động tranh thủ sự
lãnh đạo của cấp ủy đảng, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các tổ chức thành
viên, với các cấp chính quyền, với các cơ quan thanh tra, kiểm tra và tạo sự
thống nhất cao để chỉ đạo thực hiện tốt các nội dung giám sát, phát hiện và
giải quyết, xử lý đúng đắn các vấn đề phát hiện qua giám sát theo đúng quy
định của pháp luật và thẩm quyền của Mặt trận Tổ quốc. Cần xây dựng cơ chế
cụ thể để thực hiện những sự phối hợp nói trên.
65
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4-2006) xác định: Phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Đại đoàn kết
toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý
nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng
để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong
nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xoá bỏ mọi mặc cảm, định
kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý
kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân
nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định
chính trị và đồng thuận xã hội.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà
hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp,
hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua đường lối và chính
sách, liên hệ mật thiết với nhân dân. Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ
thống pháp luật và quản lý, tạo điều kiện để nhân dân được làm những việc
mà pháp luật không cấm. Nhà nước và nhân dân cùng nỗ lực phấn đấu cho sự
phát triển của đất nước, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi
ích toàn xã hội.
66
Thực hiện đồng bộ các chính sách và luật pháp của Nhà nước nhằm
phát huy dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của
cộng đồng dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội. Tổ chức và động viên
nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế giỏi, phát
triển kinh tế đi liền với phát triển văn hoá - xã hội; mỗi người, mỗi hộ đều
phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước, thu nhập chính
đáng, nâng cao đời sống. Chăm lo và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân
dân, bảo đảm công bằng xã hội. Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu,
dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân
tộc, các tôn giáo.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn
kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương
trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống, góp phần
xây dựng sự đồng thuận trong xã hội.
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực
hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các cấp uỷ đảng và cấp chính
quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên lắng
nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà
nước những vấn đề mà nhân dân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương,
chính sách, pháp luật. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quy
chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân
tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.
Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể
nhân dân và các hội quần chúng, khắc phục tình trạng hành chính hoá, phô
67
trương, hình thức; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần
dân và có trách nhiệm với dân.
2.2. Bước phát triển mới về đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò của
Mặt trận Dân tộc Thống nhất
Ngay sau Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày
20-3-2003, Ban Bí thư ra Chỉ thị về lãnh đạo Đại hội Mặt trận các cấp và Đại
hội lần thứ VI Mặt trận Tổ quốc, xác định đây là một sự kiện quan trọng diễn
ra trong bối cảnh đất nước đang ra sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quá trình tiến hành
Đại hội Mặt trận ở từng cấp phải thực sự là đợt sinh hoạt chính trị sâu sắc
trong toàn Đảng, toàn dân, trong hệ thống chính trị.
Những thành tích và kết quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
bắt nguồn từ đường lối đổi mới đúng đắn và sự quan tâm lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam. Một nhân tố quan trọng khác là việc Nhà nước thể chế
hoá vị trí, vai trò, quyền hạn trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của Mặt trận.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(tháng 8-1999) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (tháng 9-2004) là thời gian toàn dân ta nỗ lực phấn đấu cao nhất
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và triển khai sâu rộng Nghị
quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. Đó cũng là thời kỳ công cuộc đổi mới, sự
hội nhập nền kinh tế nước ta với khu vực và thế giới được mở rộng, phát triển
đa phương, đa dạng hơn.
Đây cũng là thời kỳ những khó khăn, thách thức, những yếu kém, hạn
chế, khuyết điểm từ nội bộ nền kinh tế quốc dân cũng bộc lộ rõ ràng, sâu sắc
68
hơn. Tuy nhiên, nền kinh tế của đất nước vẫn duy trì được nâng cao; chính trị-
xã hội vẫn ổn định, khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng được củng cố, mở
rộng, sự đồng thuận xã hội, đặc biệt là mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh ngày càng trở thành lợi ích và tiếng nói chung
giữa các thành viên trong cộng đồng dân tộc ở trong và ngoài nước.
Có được những thành tựu lớn lao như trên là nhờ kết quả của đường lối
mới, với những thành tựu to lớn không những về kinh tế-xã hội, mà còn là kết
quả của đổi mới chính trị, đặc biệt là chủ trương, chính sách, phát huy vai trò
của Mặt trận.
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đã được cụ
thể hoá cho từng giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế và các tổ chức đoàn
thể quần chúng. Các chủ trương, chính sách, biện pháp tăng cường mở rộng
đoàn kết dân tộc và phát huy vai trò, vị trí Mặt trận Tổ quốc được tiếp tục cụ
thể thể hoá, đặc biệt là Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số văn bản
quy phạm luật khác đã có tác dụng rõ rệt. Những chuyển biến mạnh mẽ về tư
duy, nhận thức của Đảng ta về vai trò, vị trí khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt
trận dân tộc thống nhất được thể hiện trong nhiều chủ trương chính sách cụ
thể trên các lĩnh vực. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (2003) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và về công tác
dân tộc, công tác tôn giáo ra đời là một dấu mốc có ý nghĩa quan trọng trong
lịch sử lãnh đạo của Đảng và lịch sử hình thành và phát triển Mặt trận dân tộc
thống nhất.
Những thành quả của công cuộc đổi mới và những chuyển biến trong
quan điểm nhận thức về vai trò, vị trí, mối quan hệ giữa đại đoàn kết dân tộc
với công cuộc đổi mới đã tạo nên diện mạo mới của khối đại đoàn kết dân tộc
thống nhất. Khối đại đoàn kết dân tộc đứng vững trước mọi khó khăn, thách
69
thức, đặc biệt là sự khơi dậy ý chí tự lực, tự cường để đưa đất nước thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng trở thành động lực để phát huy sức mạnh nội
lực của dân tộc.
Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Việt Nam, họp từ ngày 21 đến
ngày 23-9-2004 tại Hội trường Ba Đình, thủ đô Hà Nội, với chủ đề: Phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh [30, tr. 24]. Đánh giá
tình hình khối đại đoàn kết toàn dân tộc và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
nhiệm kỳ 1999-2004, báo cáo khẳng định những thành tựu to lớn, rất quan
trọng về nhiều mặt. Báo cáo rút ra 5 bài học kinh nghiệm về phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của Mặt
trận; về thực hiện đoàn kết và dân chủ; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và sự gương mẫu thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật, nói đi đôi với làm của cán bộ, đảng viên, đó là những yếu tố để Mặt
trận Tổ quốc vận động nhân dân có kết quả.
Trên cơ sở phân tích bối cảnh thế giới, trong nước và những thời cơ
thách thức, trong đó có cả những yếu kém, tồn tại chưa được khắc phục, Báo
cáo đề ra phương hướng, nhiệm vụ chung của Mặt trận Tổ quốc và Chương
trình hành động nhiệm kỳ 2004-2009 nhằm tiếp tục tăng cường tổ chức và đổi
mới phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hóa.
Phương hướng, nhiệm vụ chung của Mặt trận Tổ quốc trong nhiệm kỳ
tới được chỉ ra là cần tiếp tục mở rộng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc, tăng cường đoàn kết quốc tế đi đôi với nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ
70
quốc Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và các lĩnh vực
khác của cuộc cách mạng.
Chương trình hành động đã cụ thể hoá 5 nội dung cơ bản, đó là củng
cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên nhân dân tham gia
các phong trào thi đua, các cuộc vận động thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã
hội; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ an ninh chính trị-trật tự an toàn các hội; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và mở rộng hoạt động
đối ngoại, trong đó nhiệm vụ phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được xác định là nhiệm vụ trọng tâm.
Về nhiệm vụ tăng cường tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động,
báo cáo chỉ rõ cần xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trách
nhiệm và tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Ủy ban Mặt trận các
cấp, nhất là cấp cơ sở và địa bàn dân cư và nhấn mạnh hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc phải thực sự đổi mới, bám sát nhiệm vụ kinh tế-xã hội quan trọng
của đất nước, của địa phương, sát với cơ sở, cộng đồng dân cư. Các hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiệm kỳ 2004-2009 phải góp phần tích cực
thực hiện yêu cầu phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng chỉnh
đốn Đảng là then chốt và không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần
của xã hội, tăng cường sức mạnh quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất
nước.
Bản Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Đại hội thông qua gồm 8
chương, 37 điều. So với Điều lệ do Đại hội lần thứ V thông qua, đã tăng thêm
2 chương, 10 điều và bổ sung sửa đổi lời mở đầu và những điều khoản khác.
Những sửa đổi, bổ sung của bản Điều lệ thể hiện sự đổi mới trong tư duy,
71
nhận thức về tổ chức, hoạt động của Mặt trận theo hướng mở rộng và đáp ứng
yêu cầu chức năng, nhiệm vụ của từng cơ cấu tổ chức Mặt trận.
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Nông Đức Mạnh đến dự và phát biểu tại Đại hội nhấn mạnh: Trong công cuộc
đổi mới hiện nay, để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải
lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc vì "dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm,
định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, xây dựng tinh
thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau. Phải bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội,
chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp
nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và lợi ích xã hội; thực hiện
dân chủ gắn liền với kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng; không ngừng
bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập, thống nhất Tổ quốc.
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đề nghị trong những năm trước mắt, Mặt trận
cần tập trung tiếp tục củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường sự đồng thuận xã hội; đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân;
thực hiện đại đoàn kết từ cơ sở, từ cộng đồng dân cư. Nói về đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng với Mặt trận, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh:
Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ, với trách nhiệm vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt
trận, Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức coi trọng việc đổi mới sự lãnh
đạo của mình đối với công tác mặt trận... Đảng yêu cầu các cấp uỷ đảng
thực hiện tốt vai trò là một tổ chức thành viên, đồng thời tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo, kết hợp thực hiện chế độ tập trung dân chủ
trong Đảng và chế độ hiệp thương dân chủ trong tổ chức mặt trận để
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [30, tr. 22].
72
Thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là một bước tiến mới của khối đại đoàn kết dân tộc, của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
và Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VI Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, hệ thống Mặt trận đã và đang động viên nhân dân thực hiện
tốt:
- Một là, việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vẫn là nhiệm vụ hàng đầu mà Mặt trận quan tâm,
như động viên công nhân, nông dân, trí thức; động viên các dân tộc, các tôn
giáo và bà con Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài tin tưởng đường lối đổi
mới của Đảng, góp sức thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước và các
cuộc vận động lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhất là hai cuộc vận động
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư" (chỉ tính năm
2007, cả nước có trên 13 triệu hộ đạt Gia đình văn hoá, 60.180 khu dân cư đạt
danh hiệu Khu dân cư tiên tiến, trong đó, có 47.488 khu dân cư được công
nhận danh hiệu Khu dân cư văn hoá) và cuộc vận động "Ngày vì người
nghèo" (chỉ tính năm 2007, Quỹ "vì người nghèo” các cấp thu được trên 322
tỷ đồng, riêng Quỹ Trung ương vận động được trên 45 tỷ đồng, gấp 4 lần năm
trước, năm 2006 vận động được 11,3 tỷ đồng), góp phần thực hiện thắng lợi
kế hoạch nhà nước hàng năm để sớm đua nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển, nhân dân ta ngày càng no ấm, hạnh phúc hơn.
- Hai là, vận động các tầng lớp nhân dân để mọi người đều nêu cao ý
thức công dân, thực hiện tốt nhiệm vụ của mình; đồng thời chủ động thực hiện
và giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương
73
Mặ trận Tổ quốc Việt Nam về thực hiện Luật phòng chống tham nhũng, Thực
hành tiết kiệm chống lãng phí để góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên ngày càng vững mạnh, tạo sự đồng thuận xã hội cao, khối đại đoàn kết
dân tộc ngày càng được củng cố vững mạnh.
- Ba là, các cấp Mặt trận tuyên truyền vận động nhân dân ra sức thi đua
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; năm 2007, năm 2008 tổ
chức tốt Đại hội Mặt trận các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dự kiến sẽ tổ chức vào quý III năm 2009, làm
cho nhân Việt Nam trong và ngoài nước ai cũng phấn khởi thi đua thực hiện
thắng lợi các mục tiêu, công trình nhằm hoàn thành kế hoạch Nhà nước và
chào mừng Đại hội Mặt trận các cấp, làm cho Đại hội Mặt trận các cấp là đợt
sinh hoạt chính trị sâu rộng tới mọi người dân; ai cũng thấy nghĩa vụ và trách
nhiệm với dân tộc, với đất nước; góp sức phấn đấu thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; mọi người đều đề
cao cảnh giác với âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực
thù địch thông qua các luận điệu xuyên tạc về dân chủ, tôn giáo, nhân
quyền… ở nước ta.
- Bốn là, vận động nhân dân cả nước, các cấp, các ngành, các địa
phương và nhân dân hướng về đồng bào các vùng, các miền bị bão lũ, vận
động nhân dân giúp đỡ thiết thực nhất để đồng bào các tỉnh bị bão lũ vượt qua
khó khăn, nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất cho nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với vai trò là trung tâm phối hợp, tập hợp
quần chúng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, là đầu mối trong
các cuộc vận động, chăm lo cho các đối tượng xã hội, đồng thời là một tổ
chức chính trị có vai trò vô cùng thiết yếu và quan trọng trong hệ thống chính
trị nước ta, tổ chức Mặt trận đã và đang tiếp tục nỗ lực phấn đấu, làm tốt vai
74
trò và chức năng của mình, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền,
xây dựng kinh tế, xã hội quốc gia ngày càng phát triển vững mạnh.
Cùng với sự nghiệp đổi mới, có thể nói qua việc thực hiện Nghị quyết
Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 2004 đến 2007 và qua hơn 2
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, vai trò và vị trí
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng được khẳng định trong hệ thống
chính trị, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân
tộc. Chính sách đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được triển khai rộng rãi góp
phần giải quyết công tác dân tộc, tôn giáo, công tác kiều bào theo chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ngày càng hiệu quả
hơn.
Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu cho mục tiêu chung
vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” tiếp tục
được tăng cường và phát huy. Lòng tin vào Đảng, chế độ tiếp tục được củng
cố trong các tầng lớp nhân dân. Các phong trào, các cuộc vận động của Mặt
trận ngày càng thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, góp phần
xây dựng đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; tích cực tham gia phát
triển kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, đảm bảo trật tự, an toàn xã
hội.
Nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm đối với tổ chức Mặt trận và
công tác mặt trận của các cấp uỷ đảng, chính quyền được tăng cường; công
tác mặt trận ngày càng được quan tâm chỉ đạo sâu sát hơn. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam các cấp không ngừng được củng cố về tổ chức; nội dung, phương
thức hoạt động từng bước được đổi mới với phương châm hướng về cơ sở,
nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, các đối tượng nhân dân,
người nghèo; quyền lợi chính đáng của đoàn viên, hội viên từng bước được
quan tâm, giải quyết.
75
Chương 3
MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ
3.1. Một số nhận xét tổng quát về sự lãnh đạo của Đảng
Đại đoàn kết dân tộc là đường lối cơ bản và nhất quán của Đảng Cộng
sản Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng. Kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân
tộc, ở mỗi thời kỳ, căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ cách mạng, Đảng càng
nâng cao tư duy đoàn kết dân tộc ngày càng có tính chất toàn dân tộc để đề ra
những chủ trương đúng đắn, cụ thể về đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghị quyết
8B, ngày 27-3-1990 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) Về đổi
mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân, Nghị quyết 07, ngày 17-11-1993 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VII) Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận
Dân tộc Thống nhất, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đại
hội IX và Đại hội X của Đảng…, đặc biệt là Nghị quyết số 23, ngày 12-3-2003
của Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là
những văn kiện quan trọng đã tổng kết thực tiễn và đề ra những quan điểm cơ
bản của Đảng ta về đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Qua các văn kiện đó thể hiện khá rõ hơn những điều chỉnh, phát triển
trong tư duy, nhận thức của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của
Đảng Cộng sản Việt Nam , xác định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”, đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX năm 2001,
76
Báo cáo chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nâng quan điểm
“đoàn kết toàn dân" lên thành "Đại đoàn kết toàn dân” và đến Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX), Đảng ra nghị quyết (số 23-
NQ/TW, ngày 12-03-2003) về phát huy sức mạnh “đại đoàn kết toàn dân
tộc”. Từ đó đến nay vai trò đó tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và trong các văn bản khác của Đảng.
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước Việt Nam đã có những bước phát
triển rất to lớn. Đường lối, chủ trương về đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng
đã và đang đi vào cuộc sống, là một nhân tố hết sức cơ bản tạo nên sự phát
triển đó. Tuy nhiên, tình hình xã hội thay đổi nhanh chóng, nhiều vấn đề mới
đã và đang đặt ra, trong đó có vấn đề củng cố, tăng cường và phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc của nước ta hiện nay.
Từ thực tiễn Đảng lãnh đạo, tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc từ năm 1993 đến năm 2007, có thể nêu lên một số nhận xét như sau:
3.1.1. Qua bốn lần đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước
phát triển, cụ thể hóa và bổ sung tư duy, nhận thức về Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể nhân dân với xu hướng ngày càng nâng cao vai trò, vị trí
của Mặt trận, đoàn thể, nhất là đoàn thể chính trị - xã hội
- Đảng tiếp tục khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vai trò này được bổ sung, phát triển sau 20 năm
đổi mới, với “vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết
rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương
trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống” [7, tr. 124].
Nhà nước ban hành cơ chế (pháp lý, nhân lực, điều kiện phương tiện hoạt
77
động) để Mặt trận, các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và
phản biện xã hội.
- Xác định Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội là bộ phận của hệ
thống chính trị do Đảng lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
- Xác định rõ hơn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh
chính trị, bao gồm tổ chức chính trị, các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu
biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, thay vì trước đây trong thành phần khối liên
minh chính trị đó chỉ có các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu.
3.1.2. Đại đoàn kết dân tộc và quan điểm, chính sách đối với các giai
cấp và tầng lớp xã hội được phát triển về tư duy qua từng giai đoạn phát triển
của đất nước
- Đại đoàn kết toàn dân tộc được nâng lên là đường lối chiến lược, là
động lực chủ yếu và là nhân tố bảo đảm thắng lợi biền vững của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của
cả hệ thống chính trị, mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực
hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp, trong đó chủ trương của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu; Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc
tập hợp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Nhân dân ta rất coi trọng dân
chủ, đoàn kết thì phải dân chủ; dân chủ là tăng cường đoàn kết.
- Các quan điểm và chính sách đối với các giai cấp và tầng lớp xã hội
ngày càng được phát triển cùng với sự phát triển của đất nước, đó là chính
sách đối với công nhân, nông dân, trí thức, tôn giáo, dân tộc, người Việt Nam
ở nước ngoài ngày càng thể hiện rõ quan điểm nền tảng của đại đoàn kết toàn
dân tộc, các chủ trương chính sách nhằm quan tâm, bảo vệ lợi ích của các giai
cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo; mở rộng dân chủ về kinh tế, xã hội,
78
phát huy truyền thống yêu nước là những yếu tố quan trọng để tập hợp đoàn
kết hết thảy mọi người dân phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3.1.3. Đảng đã đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để thực hiện
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân
- Các Đại hội Đảng cụ thể hóa, với chủ trương ngày càng rõ về đổi mới
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể là đa dạng hóa các
hình thức để mở rộng về tổ chức để tập hợp quần chúng; hướng mạnh các
hoạt động về cơ sở, cộng đồng dân cư, từng hộ gia đình; xây dựng cộng đồng
dân cư tự quản trên cơ sở hương ước, quy ước ở từng thôn, làng, ấp, bản, khu
phố, tổ dân phố. Nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận, đoàn thể, khắc
phục bệnh quan liêu, hành chính, xa dân.
- Cùng với đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận, các
đoàn thể, Đảng tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Mạt trận, đoàn
thể qua chủ trương được đề ra tại các đại hội, gần đây nhất là Nghị quyết Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) với những nội
dung đổi mới cụ thể hóa quan điểm Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh
đạo Mặt trận. Nhà nước ngày càng thể chế hóa chủ trương của Đảng về Mặt
trận, đoàn thể thành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội về vai trò,
quyền, trách nhiệm tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
3.2. Những ưu điểm và hạn chế
3.2.1. Những ưu điểm
Một là, đất nước Việt Nam hiện nay đoàn kết và ổn định, nhân dân cả
nước và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài đồng tình ủng hộ đường lối đúng
đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các tầng lớp
nhân dân, đồng bào các dân tộc thiểu số, các tôn giáo ủng hộ đường lối đổi
mới, tham gia có hiệu quả các phong trào thi đua lao động sản xuất, xoá đói
79
giảm nghèo, làm giàu chính đáng, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa...;
đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, thiếu kỷ
cương; đã phát hiện và xử lý một số vụ tham ô, hối lộ, buôn lậu và những vụ
việc tiêu cực khác, được dư luận nhân dân đồng tình.
- Khối liên minh công - nông - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết
dân tộc tiếp tục được giữ vững. Sự gắn bó trong khối liên minh công nông trí
thể hiện ở giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức tin tưởng và đi theo đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng quan tâm hơn đến việc thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhất là dân chủ ở cơ sở và dân chủ trong kinh
tế, tôn trọng những ý kiến khác nhau, miễn là không trái với lợi ích chung.
Không khí dân chủ trong xã hội có tiến bộ hơn trước. Các phương tiện thông
tin đại chúng đã cố gắng phản ánh tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của nhân
dân. Sinh hoạt dân chủ trong các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân
các cấp), trong Mặt trận, các đoàn thể có nhiều tiến bộ. Nhiều kiến nghị chính
đáng của dân được các cơ quan có trách nhiệm xem xét giải quyết.
- Thông qua các phong trào, các cuộc vận động, qua việc thực hiện các
chính sách đền ơn đáp nghĩa, các tầng lớp nhân dân, đồng bào theo đạo, các dân
tộc thiểu số đã đoàn kết với nhau hơn. Nhân dân ở nhiều nơi đã đoàn kết khi có
khó khăn; giúp đỡ những người gặp rủi ro, người già cô đơn, trẻ em lang thang
cơ nhỡ, bệnh nhân hiểm nghèo, những người bị ảnh hưởng chất độc da cam
trong chiến tranh...
- Nhiều chủ trương chính sách mới về kinh tế - xã hội được ban hành
nhằm phát huy các thành phần kinh tế, từng bước tháo gỡ khó khăn, động
viên thu hút đồng bào Việt Nam ở trong và ngoài nước, củng cố khối đoàn kết
các tôn giáo, các dân tộc tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng cuộc
80
sống mới ở khu dân cư và gia đình văn hoá, phát triển kinh tế, xoá đói giảm
nghèo, chống tiêu cực, phòng chống tội phạm, phòng chống HIV/AIDS...
- Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã tiếp tục tạo điều kiện cho những người đã từng làm việc dưới chế độ
Sài Gòn cũ và thậm chí cả người đã từng chống đối quyết liệt được trở về
thăm quê hoặc hoạt động phát triển kinh tế của đất nước. Với chế độ mới, với
chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhiều người tuỳ
năng lực đã được tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị-xã hội. Chính
sách đối với họ thông thoáng hơn, nhiều người được tạo điều kiện đoàn tụ gia
đình sau nhiều năm xa cách. Đời sống của họ nói chung ổn định, sự phân biệt,
mặc cảm ngày càng giảm.
Hai là, Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có nhiều đổi
mới trong việc đề ra chủ trương, chính sách về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... giải quyết các mối quan hệ lợi ích trong
xã hội, từng bước đáp ứng yêu cầu của nhân dân nhằm động viên toàn dân
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Về kinh tế, chính sách kinh tế nhiều thành phần được toàn dân hoan
nghênh. Luật doanh nghiệp ra đời cùng với các chính sách, pháp luật khác về
kinh tế từng bước đổi mới đã phát huy được tiềm năng trong dân, giảm bớt
khó khăn trong sản xuất và đời sống nhân dân, bước đầu có tác dụng tốt đối
với khối đoàn kết toàn dân.
- Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội: các chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước những năm gần đây đã có tác động tốt đến bầu không
khí đoàn kết trong xã hội.
Đối với đồng bào theo đạo đã và đang được Đảng, Mặt trận tiếp tục
thực hiện chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, thừa
nhận tôn giáo là một nhu cầu khách quan trong đời sống tinh thần của một bộ
81
phận dân cư, có những điểm tương đồng giữa đạo đức và việc xây dựng cuộc
sống mới. Đó là những chủ trương đúng đắn được đa số đồng bào có đạo
đồng tình.
- Về chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã có nhiều đổi
mới, như việc Chính phủ ban hành Quy chế về miễn thị thực và cho mua nhà
ở trong nước,...được người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài hoan
nghênh. Một số người tiêu biểu trong cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống
ở một số nước đã tham gia vào Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Nhiều người tâm huyết đã có những việc làm tốt đẹp ủng hộ công cuộc xây dựng
đất nước.
- Các chính sách về an sinh xã hội như chính sách tiền lương, tiền thưởng,
xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, phòng chống tệ nạn xã
hội, dân số kế hoạch hoá gia đình... đã có nhiều đổi mới và được thực hiện có kết
quả ở nhiều nơi. Các chính sách về giáo dục, y tế có nhiều đổi mới, việc phổ
cập giáo dục, xoá nạn mù chữ và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân có những
tiến bộ. Việc thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa luôn luôn được Nhà
nước, các cấp, các ngành coi trọng, động viên được những gia đình có công
với nước.
- Công tác đối ngoại của Nhà nước và của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể quần chúng trong những năm qua đã tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ của các nước, nâng cao uy tín của nước ta trên thế giới, góp phần tạo
nên môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước, thúc đẩy công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ba là, những năm qua, Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
cố gắng thực hiện nhiều chủ trương và biện pháp để củng cố chính quyền,
phát huy vai trò quản lý và làm trong sạch bộ máy nhà nước. Nhờ đó đã tạo
điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững ổn định
82
chính trị xã hội. Nhà nước Việt Nam đã làm được nhiều việc có lợi cho dân,
công tác điều hành, quản lý xã hội đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của
công cuộc đổi mới đất nước, nâng cao uy tín của nước ta trên quốc tế. Việc
ban hành và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (nay là Pháp lệnh Quy chế
dân chủ ở xã, phường) đã và đang dần đi vào nề nếp và thu được những kết
quả thiết thực.
Bốn là, việc tập hợp quần chúng bằng các tổ chức, các phong trào đã có
bước phát triển mới. Các tổ chức thành viên của Mặt trận đã tăng thêm, nhất
là các hội quần chúng đã ngày càng phát triển rộng rãi, đa dạng. Nhiều tổ
chức có tôn chỉ, mục đích rõ ràng, hoạt động thiết thực và bổ ích, có tác dụng
tập hợp, động viên quần chúng, góp phần tăng cường đoàn kết trong nhân
dân, phục vụ cho việc thực hiện chủ trương, chính sách và các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội.
Các phong trào, các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc, các ngành, địa
phương đề xướng đã được đông đảo nhân dân tự nguyện tham gia, thu hút
nhiều đối tượng, mang tính toàn dân, toàn diện và thiết thực. Với mức độ
khác nhau, các phong trào đều có tác dụng giáo dục, tập hợp, động viên nhân
dân tăng cường đoàn kết, thương yêu đùm bọc, giúp đỡ nhau về những vấn đề
thiết thực của cuộc sống, nhất là trong những lúc gặp thiên tai, khó khăn, hoạn
nạn. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu
dân cư” và “Ngày vì người nghèo” do Mặt trận khởi xướng và chủ trì là
những phong trào có ý nghĩa chính trị, kinh tế rộng lớn với phương châm “lấy
sức dân mà xây dựng cuộc sống cho dân”.
Có những thành công trên là trước hết là do nhân dân Việt Nam có
truyền thống đoàn kết trong quá trình dựng nước và giữ nước. Truyền thống
đó đã trở thành tài sản quý báu, thành bản sắc văn hoá Việt Nam truyền từ đời
này qua đời khác.
83
Trên cơ sở truyền thống đó, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã
tiếp tục phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết của dân tộc ta trên cơ sở
lý luận cách mạng và tinh hoa trí tuệ của thời đại, làm cho tư tưởng và truyền
thống đại đoàn kết dân tộc trở thành nền tảng tư tưởng để Đảng vạch ra đường
lối chiến lược qua các thời kỳ kể từ khi Đảng đảm nhận sứ mạnh trò lịch sử lãnh
đạo cách mạng Việt Nam đến nay.
Bước vào giai đoạn mới, Đảng đã tổng kết kinh nghiệm cách mạng nước
Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm cách mạng thế giới, kịp thời đề ra chủ trương,
đường lối đổi mới đúng đắn về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với đặc điểm tình
hình hiện nay của đất nước và sự biến đổi của thế giới. Chủ trương, đường lối về
đại đoàn kết dân tộc của Đảng đề ra thể hiện những quan điểm đổi mới quan
trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tư duy lãnh đạo khối đại đoàn kết dân
tộc ở thời kỳ mới đã được khẳng định và phát triển qua các kỳ đại hội của Đảng,
đã nâng cao, tiếp tục phát triển tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí
Minh đáp ứng yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới đất nước.
Vị trí, vai trò và tầm quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
việc tập hợp, vận động khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong những năm qua đã
được khẳng định trong thực tế. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối
hợp của chính quyền các cấp, sự tham gia nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn đi đầu trong việc tập hợp đoàn kết toàn dân tộc.
Thông qua nhiều hình thức tổ chức và vận động quần chúng, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đã góp phần cùng với Đảng, Nhà nước giải quyết những khó khăn,
bức xúc, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để các tầng lớp nhân dân phát
triển kinh tế - xã hội, khơi dậy và phát huy những giá trị đạo đức – văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc như sự tương thân, tương ái, tình dân tộc, nghĩa
đồng bào.
3.2.2 Một số hạn chế
84
Bên cạnh những thành tựu cơ bản và to lớn nói trên, trong thời gian đã
qua khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã và đang đứng trước nhiều thách thức khá
phức tạp.
Niềm tin vào Đảng và chính quyền các cấp trong một bộ phận nhân
dân, cán bộ đảng viên đang có xu thế giảm sút. Những mâu thuẫn trong nội
bộ nhân dân phát sinh ngày càng nhiều, đang có xu hướng tích tụ, biểu hiện
tập trung ở sự thiếu công bằng xã hội, ở chỗ chưa đáp ứng yêu cầu về dân chủ
ngày càng cao và sự xuống cấp trong đạo đức xã hội.
Sự phân hoá giàu nghèo, sự cách biệt ngày càng lớn giữa thành thị và
nông thôn, lao động trí óc và lao động chân tay, công nhân và nông dân, giữa
nhân dân miền xuôi và đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng sâu, vùng
xa, vùng căn cứ địa cũ của cách mạng, giữa người đương chức và người đã về
hưu, người về hưu trước đây và người mới về hưu, giữa cán bộ già và cán bộ
trẻ, người có chức quyền và người không có chức quyền… đã tác động tiêu
cực đối với khối đại đoàn kết dân tộc.
Tình trạng đặc quyền đặc lợi, phân biệt về quyền lợi chính trị, quyền lợi
kinh tế giữa cán bộ có chức có quyền và người không có chức có quyền chưa
được khắc phục. Chính sự đặc quyền đặc lợi đó đã làm cho “quốc nạn” tham
nhũng có chiều hướng gia tăng đang làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết dân
tộc.
Mặt trái của cơ chế thị trường với những tiêu cực như tệ quan liêu,
tham nhũng, buôn lậu, nạn hối lộ, lối sống thực dụng cá nhân vị kỷ, buông
lỏng kỷ cương phép nước, lạm quyền, ô dù, bao che… tồn tại khá phổ biến.
Tình hình khiếu kiện gay gắt và kéo dài ở nhiều nơi (60 - 70% là về đất đai);
một số vụ án tham nhũng lớn, những băng, nhóm hoạt động theo kiểu xã hội
đen; tệ quan liêu cửa quyền, thiếu trách nhiệm, buông lỏng kỷ cương của một
số cán bộ, đảng viên, có chức quyền… và nhiều vấn đề nóng bỏng, bức xúc
85
khác chậm được giải quyết, đã tác động bất lợi đến việc tăng cường đại đoàn
kết dân tộc.
Chưa bảo đảm thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, vẫn còn
dè chừng, nghi ngại, chưa thông thoáng và thiếu nhất quán trong việc đối xử
với thành phần kinh tế tư nhân, do đó chưa đoàn kết và phát huy được đông
đảo những người làm kinh tế tư nhân để phát triển sản xuất, giải quyết việc
làm cho người lao động. Luật Doanh nghiệp, Hiến pháp sửa đổi và Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) về kinh tế
tư nhân đã có tác dụng tích cực giải toả tâm lý cho giới kinh tế tư nhân, song
các doanh nhân vẫn còn chờ đợi ở việc thực hiện trên thực tế.
Còn thiếu nhiều chính sách hướng dẫn, khuyến khích sản xuất, nhất là
với nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Các chính sách liên quan đến đầu tư
trong nước và ngoài nước vẫn chưa tạo được môi trường đầu tư thật thuận lợi
để phát triển sản xuất, giải quyết việc làm và đời sống của người lao động, nhất
là ở nông thôn và những vùng tuy có nhiều tiềm năng nhưng điều kiện phát
triển hiện nay tạm thời còn nhiều khó khăn. Tình trạng thất nghiệp, bán thất
nghiệp còn nhiều, nhất là ở nông thôn.
Nhiều chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài chưa được xây
dựng và thực hiện tốt nhằm thu hút tiềm năng kiều bào, nhất là chất xám vào
công cuộc xây dựng đất nước.
Trong việc thực hiện chính sách tôn giáo cũng còn nhiều bất cập.
Nhiều cán bộ, đảng viên chưa nắm vững chính sách tôn giáo của Đảng, còn
nghi kỵ những người có đạo, nhất là các chức sắc tôn giáo. Ở nhiều nơi chính
quyền còn can thiệp vào các hoạt động thuần tuý tôn giáo, đồng thời lại có
nhiều mặt buông lỏng (như các hiện tượng mê tín dị đoan, tạp đạo...). Thiếu
sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các tổ chức, còn tình trạng không nhất
quán, không đồng bộ, làm cho những người có đạo sinh ra mặc cảm, e ngại.
86
Bộ máy và hoạt động của Nhà nước vẫn bất cập trước đòi hỏi của nhân
dân, việc xây dựng nhà nước pháp quyền chưa gắn với việc phát huy quyền
làm chủ của dân, nhiều cán bộ còn xa dân, không hiểu dân, chưa thể hiện
được vai trò là công bộc của dân. Ở nhiều nơi, tệ quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, mất dân chủ, thiếu trách nhiệm, gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân,
thậm chí có nơi ức hiếp dân, xâm phạm quyền dân chủ và lợi ích hợp pháp
của dân, kỷ cương xã hội bị buông lỏng...
Việc tập hợp quần chúng vào các tổ chức hội vẫn còn tình trạng vừa
buông lỏng lại vừa bảo thủ. Sự phát triển của các hội quần chúng là nhu cầu
dân chủ hoá đời sống xã hội, là nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp
nhân dân. Nhiều nơi không giúp đỡ việc lập hội quần chúng. Các hội hiện có
chưa được chăm lo củng cố, Nhà nước thiếu sự hướng dẫn quản lý và tạo điều
kiện về mọi mặt, nên hoạt động còn khó khăn và một số hội được lập ra còn
mang tính hình thức. Dự thảo luật về hội quần chúng đã chuẩn bị từ nhiều
năm, song đến nay vẫn chưa được ban hành. Nhiều phong trào quần chúng có
tác dụng rất thiết thực được nhân dân hưởng ứng, song sự phối hợp giữa các
tổ chức để hướng dẫn, chỉ đạo còn chưa đồng bộ, chặt chẽ, sự lãnh đạo của
cấp uỷ đảng, sự giúp đỡ các mặt của Nhà nước còn hạn chế.
Còn có những hạn chế trên, trước hết là do trước yêu cầu nhiệm vụ và
đặc điểm tình hình mới của đất nước và thế giới, Đảng, Nhà nước chưa kịp
thời phân tích đầy đủ những biến đổi trong cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp
cùng những mâu thuẫn trong quan hệ xã hội, chưa đánh giá đúng hết tình hình
khối đoàn kết trong nhân dân, chưa chú ý nắm bắt tình hình và lắng nghe ý kiến
các tầng lớp nhân dân, nhất là tiếng nói từ các cơ sở báo cáo trực tiếp hoặc phản
ánh qua hệ thống Mặt trận và các tổ chức quần chúng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, một bộ phận không nhỏ trong cán bộ
công chức nhà nước đã bị quan liêu hoá, không giữ gìn đạo đức cách mạng,
87
không tận tụy phục vụ nhân dân, nên đường lối, chủ trương đại đoàn kết dân
tộc đã không được thể hiện đầy đủ trong cơ chế, chính sách, luật pháp, hơn
nữa còn làm cho sai lệch trong khi thực hiện, gây mất lòng tin trong nhân dân.
Tình trạng mất đoàn kết trong cấp uỷ đảng, trong bộ máy nhà nước có xu
hướng tăng lên.
Còn thiếu một cơ chế công bằng, công tâm, dân chủ, công khai trong
việc sử dụng và đánh giá con người trong các ngành, các cấp, các địa phương.
Nhiều người có đức có tài chưa được trọng dụng. Một số người ít tài, kém
đức lại được đề cao. Sự thiếu công bằng trong cách đánh giá, sử dụng con
người đã có tác dụng tiêu cực đối với việc củng cố sự đoàn kết trong nhân
dân.
Không ít cán bộ cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp còn coi nhẹ công tác
mặt trận và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… Một số đảng viên được
Đảng phân công làm công tác Mặt trận thì năng lực hạn chế và ít hiểu biết về
Mặt trận nhưng ít chịu nghiên cứu, học tập. Nhiều nơi cấp uỷ cử người sang
làm công tác mặt trận là để giải quyết chính sách, tạm chờ về hưu.
Bản thân Mặt trận ở nhiều nơi chưa tích cực vươn lên, nâng cao chất
lượng hoạt động để tự khẳng định vị trí, vai trò của mình trong xã hội. Sau khi
có Nghị quyết của Đảng, Mặt trận chưa mạnh dạn xây dựng tổ chức theo
hướng đổi mới, nhất là xây dựng tổ chức cơ sở, chưa xây dựng được đội ngũ
cán bộ chuyên sâu công tác mặt trận, đổi mới phương thức hoạt động chưa
đồng đều ở các cấp.
Sự đổi mới của cả hệ thống chính trị chưa đồng bộ, chưa có đủ cơ chế,
chính sách, điều kiện đảm bảo để cán bộ trong hệ thống chính trị, nhất là bộ
máy Nhà nước hiểu rõ hơn về Mặt trận. Đó là nguyên nhân quan trọng ảnh
hưởng đến tình hình hoạt động của Mặt trận trong thời gian qua.
88
3.3. Một số kinh nghiệm lịch sử
- Một là, trải qua hơn 20 năm đổi mới đất nước, các nghị quyết của
Đảng đã không ngừng đi vào cuộc sống và khẳng định những nội dung đúng
đắn của đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là tăng cường đại đoàn kết
toàn dân tộc trên cơ sở khơi dậy và phát huy sức mạnh dân tộc đến mức cao
nhất, đặt lợi ích chung của dân tộc, của con người lên hàng đầu, coi đó là
điểm xuất phát để xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, nhằm chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu; tăng cường, mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi nguồn lực của thời đại để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
- Hai là, Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy
mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào
các dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân, đồng bào ở trong nước cũng như
đồng bào định cư ở nước ngoài vì sự nghiệp chung. Trong nhận thức cũng
như trong hành động, phải thật sự xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối
xử do quá khứ, thành phần, giai cấp, nghề nghiệp, vị trí xã hội, xây dựng tinh
thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Để đưa đất nước phát triển vững chắc, yêu cầu đại đoàn kết toàn dân
tộc trong tình hình mới càng quan trọng hơn bao giờ hết. Đảng ta luôn giương
cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là đường
lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội.
- Ba là, nghiên cứu làm rõ lý luận về đảng cầm quyền, mối quan hệ
giữa dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
89
dân tộc, về đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Phải chú trọng nghiên cứu những biến đổi về cơ cấu xã hội, phân
tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo ở nước ta, trong đó cần chú trọng nghiên
cứu để có chính sách quốc gia và chiến lược phát triển giai cấp công nhân,
nghiên cứu chương trình phát triển toàn diện, đồng bộ nông thôn - nông
nghiệp - nông dân, chính sách tạo động lực phát triển đội ngũ trí thức, trọng
dụng hiền tài; thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng,
khuyến khích sự sáng tạo trong nghiên cứu, đặt biệt là khoa học xã hội; thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc và có đường lối, chính sách tôn giáo, tín
ngưỡng đúng đắn.
- Bốn là, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
trong việc vận động, tập hợp, xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Trong xã hội luôn tồn tại sự khác biệt, cần đi sâu tìm hiểu và phân tích để
tìm ra sự tương đồng, lấy điểm tương đồng làm chỗ dựa để đoàn kết mọi người,
đồng thời tôn trọng những ý kiến khác nhau, miễn là không trái với lợi ích
chung, không làm tổn hại đến lợi ích của các thành viên khác trong xã hội. Do
vậy, Đảng, Nhà nước phải thực sự coi trọng vai trò của Mặt trận dân tộc thống
nhất để qua đó lãnh đạo, tổ chức, đoàn kết các tầng lớp nhân dân. Hơn lúc nào
hết tổ chức "dân - chính - đảng" cần phải được hiểu đúng, làm đúng như Bác
Hồ từng quan tâm trước đây.
3.4. Đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trước yêu cầu phát triển mới của đất nước
3.4.1. Đại đoàn kết toàn dân tộc trước yêu cầu phát triển mới của đất
nước
Đại đoàn kết toàn dân tộc đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc theo nhiệm vụ cách mạng Việt Nam mà Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của Đảng Cộng
90
sản Việt Nam đề ra đã khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là một chiến lược
của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại khi mà yếu tố dân
tộc trở thành một đặc điểm cực kỳ quan trọng.
Nội dung cơ bản của đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng
Cộng sản Việt Nam bao gồm những vấn đề chủ yếu sau đây: Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu và là nhân tố có ý
nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Đây không phải là chủ trương nhất thời, mà là một vấn đề cốt tử
của cách mạng. Điểm tương đồng, mẫu số chung để Đảng Cộng sản Việt Nam
đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước, mọi dân tộc, mọi tôn
giáo, xóa bỏ mọi định kiến, mặc cảm, phân biệt đối xử trong xã hội... đó là
mục tiêu giữ vững độc lập và thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trên cơ sở điểm tương đồng ấy,
tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Trong
đoàn kết dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đề cao truyền thống
nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn
định chính trị và đồng thuận xã hội. Đây là nét đặc thù của đại đoàn kết toàn
dân tộc ở nước ta, là thể hiện truyền thống văn hóa của dân tộc ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân là trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, mà Đảng là
hạt nhân lãnh đạo, thực hiện đoàn kết thông qua nhiều biện pháp, hình thức đa
dạng, trong đó vấn đề quan trọng hàng đầu là chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật hợp lòng dân của Nhà nước và vai trò gương mẫu thực hiện
của đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên. Trong điều kiện ngày nay, hoạt
động của bộ máy và đội ngũ cán bộ viên chức trong sạch, vững mạnh là một
91
yếu tố cực kỳ quan trọng để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố lòng
tin của nhân dân với chế độ.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản đó, Đảng đã đề ra những chủ
trương cụ thể nhằm đưa đường lối đại đoàn kết toàn dân vào cuộc sống, tập
hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân như: công nhân, nông dân, trí thức, chủ
doanh nghiệp, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các dân tộc
thiểu số, đồng bào theo đạo, kiều bào ta ở nước ngoài... Mỗi tầng lớp trong xã
hội ta có yêu cầu và nguyện vọng riêng, Đảng và Nhà nước có chủ trương cụ
thể sát với từng tầng lớp, nhằm đoàn kết động viên mọi nguồn lực thật rộng
rãi của mọi người Việt Nam yêu nước trong công cuộc phát triển đất nước.
Muốn đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác nhau, phải có chính sách đáp ứng
yêu cầu lợi ích của mỗi giai tầng. Đảng đề ra chủ trương đối với mỗi giai
tầng, chính là nhằm thỏa mãn yêu cầu chính đáng, hợp pháp của mọi giai
tầng, kết hợp hài hòa lợi ích chung của đất nước với lợi ích riêng, kết hợp lợi
ích của mỗi cá nhân, của tập thể và lợi ích toàn xã hội.
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, một trong những nhiệm vụ chủ yếu
mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra,
những năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều cố gắng và thu được
nhiều kết quả đáng phấn khởi trong việc thực hiện đoàn kết các dân tộc, các
tôn giáo, các giai cấp, tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế, mọi giới,
mọi lứa tuổi, mọi vùng miền của đất nước, người trong Đảng, ngoài Đảng,
người đương chức, người nghỉ hưu, đoàn kết mọi người trong đại gia đình các
dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay ở nước ngoài. Nhờ có đoàn kết
rộng rãi, chân thành mà Việt Nam luôn được ổn định, sự đồng thuận xã hội
được củng cố và tăng cường, trở thành sức mạnh góp phần tạo nên những
thành tựu rất quan trọng trong những năm qua và những thành tự to lớn, có ý
nghĩa lịch sử qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới.
92
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX
của Đảng và những bài học qua 20 năm đổi mới, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết, Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng
định: Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường
lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của
Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp
nhân dân ở trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc
cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng
những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc; đề cao truyền thống
nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, giữ gìn
sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội vì tương lai tươi sáng của dân tộc.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị
mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện
pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Các chính sách và pháp luật
của Nhà nước phải nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa dân chủ (dân chủ đại
diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của cộng đồng dân cư), đồng thời
giữ vững kỷ cương xã hội và đạo lý dân tộc. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện
các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn
giáo; chú trọng chính sách đối với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội
ngũ trí thức, các doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao
tuổi, đồng bào định cư ở nước ngoài, v.v...
93
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân
tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta. Các
dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng
Cộng sản Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền
sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Đấu
tranh ngăn chặn các hành vi lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo
để hoạt động trái pháp luật, kích động, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, tôn
giáo, làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước.
Thực hiện đại đoàn kết, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, vì thắng lợi
của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một nội dung trọng yếu
trong chủ đề của Đại hội X của Đảng, là quyết tâm không gì lay chuyển nổi
của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
3.4.2. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, đoàn kết mọi
tầng lớp nhân dân trong nước, các giai tầng trong xã hội đóng vai trò rất quan
trọng trong việc tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đại diện cho
quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, là cầu nối bền
chặt giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Vai trò quan trọng đó đã được
chứng minh trong thực tiễn lịch sử 78 năm tồn tại và phát triển của Mặt trận, đã
là một nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam
trong các thời kỳ, đã được Hiến pháp và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy
định:
94
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã
hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng,
tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên,
góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh [44,
tr 203-204].
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, Mặt trận tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ về tổ chức, phương thức hoạt động và phong cách làm việc cho phù
hợp tình hình mới, theo hướng hiệu quả và thiết thực, hướng về cộng đồng dân
cư, góp phần chăm lo đời sống vật chất tinh thần của các tầng lớp nhân dân, qua
đó tăng cường tập hợp và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tổng kết nhiệm kỳ Đại hội IX và thực tiễn 20 năm đổi mới, Đại hội X
Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết
rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện
vọng chính đáng của nhân đan; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng thành
hoạt động thực tiễn sinh động trong cuộc sống của nhân dân.
Nhà nước ban hành và bổ sung pháp luật để Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các cấp ủy đảng và các cấp
95
chính quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên
lắng nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà
nước những vấn đề mà nhân dân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương, chính
sách, pháp luật sát hợp với cuộc sống. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Quy chế dân chủ ở cơ sở để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân
tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị. Về phần mình, Mặt
trận, các đoàn thể và các hội quần chúng cần đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất
lượng hoạt động, khắc phục cho được tình trạng hành chính, hình thức; làm tốt
công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có
trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.
Phát huy thành tựu và những bài học kinh nghiệm quý báu của nhiệm kỳ
Đại hội IX và 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X với chủ đề: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển đã, đang và sẽ đi vào
cuộc sống, mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
sẽ trở thành hiện thực.
3.4.3. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và nâng cao vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, theo chúng
tôi:
- Một là, trước hết Mặt trận Tổ quốc các cấp phải nhận thức đầy đủ sâu
sắc vần đề nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ phát
triển mới của đất nước để chủ động tự đổi mới, tự khẳng định mình và thường
xuyên chăm lo củng cổ mở rộng tổ chức, đối mớiphương thức hoạt động, thực
hiện tốt chức năng nhiệm vụ đã được luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đạo luật khác quy định.
96
- Hai là, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ
trọng tâm hàng đầu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đó cũng là vai trò vốn có
của Mặt trận. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức của dân, do dân và
vì dân. Mặt trận đại diện cho lợi ích chung của các tầng lớp nhân dân cùng
với Nhà nước chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tầng lớp
nhân dân, điều hòa lợi ích giữa các thành viên tham gia liên minh, hòa giải
các mâu thuẫn trong xã hội, thực hiện được vai trò này thì tổ chức mặt trận
mới được củng cố và mở rộng.
- Ba là, Mặt trận tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân là
nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, là vai trò đương nhiên vì Mặt trận là một
tổ chức liên minh chính trị, là thành viên của hệ thống chính trị, là cơ sở chính
trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phải phát huy đầy đủ vai trò đại diện
nhân dân trong tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp, tham gia xây dựng chủ trương chính sách pháp luật, thực hiện tốt vai
trò phản biện xã hội trong quá trình tham gia xây dựng chủ trương chính sách
pháp luật vì các chủ trương chính sách pháp luật đều tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp đến việc củng cổ và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Hiện nay
ở một số địa phương, Mặt trận xã, phường, thị trấn đã chủ trì việc bỏ phiếu tín
nhiệm các chức danh chủ chốt của chính quyền cơ sở đã đem lại những kết
quả bước đầu. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần làm tốt hơn nữa việc tuyên
truyền vận động nhân dân tham gia xây dựng chỉnh đốn Đảng, để Đảng thực
sự trong sạch vững mạnh, xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân, thực hiện
giám sát của nhân dân đối với việc thực thi trách nhiệm và đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và hoạt động của các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật
trong cuộc sống. Làm tốt những việc đó chẳng những để thực hiện vai trò của
97
Mặt trận mà còn đáp ứng yêu cầu của cơ quan Nhà nước như Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: “Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê
bình để làm tròn nhiệm vụ”.
- Bốn là, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã xác định: Mặt trận tham
gia phối hợp với các cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động, các phong
trào thi đua yêu nước, vận động nhân dân đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển
kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội, xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Thông qua các cuộc vận động và các phong trào thi đua, Mặt trận sẽ không
ngừng phát huy tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân , tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận có nhiệm vụ phối hợp đưa đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân, để
nhân dân hiểu biết và thực hiện đồng thời lắng nghe, thu thập tâm tư, nguyện
vọng của các tầng lớp nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước
thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, ....
Tóm lại, trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có
vai trò rất quan trọng tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân phát huy các nguồn
lực vật chất trí tuệ, tinh thần của các tầng lớp nhân dân trong mọi hoạt động
kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh và đối ngoại.
Đảng Cộng Sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt
trận. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là vấn đề có tính nguyên tắc, là
yếu tố quyết định đảm bảo cho Mặt trận không ngừng được củng cố và mở
rộng, hoạt động ngày càng đạt được hiệu quả thiết thực. Đảng đặt vấn đề nâng
cao vai trò của Mặt trận không có mục đích nào khác là củng cố và tăng
cường đại đoàn kết toàn dân, mở rộng việc tập hợp lực lượng, phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
98
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với sự nỗ lực phấn đấu của
Mặt trận trong việc thực thi vai trò, trách nhiệm của mình thì sự quan tâm
lãnh đạo của Đảng đối với công tác mặt trận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Trước hết đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan, đáp ứng ý nguyện và lợi ích cơ bản của các tầng lớp
nhân dân, đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng là ngọn cờ tập hợp đoàn
kết toàn dân, là phương hướng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đảng phải thường xuyên chăm lo lãnh đạo và chỉ đạo cả hệ thống chính trị và
toàn xã hội làm công tác mặt trận, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt
trận. Đảng giáo dục đảng viên phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của
mình trong việc thực hiện và tuyên truyền vận động thuyết phục nhân dân
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Sự đoàn kết nhất trí trong Đảng là cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân.
Đảng tôn trọng tính độc lập về tổ chức, tạo điều kiện, khuyến khích mọi hoạt
động sáng tạo của Mặt trận vì lợi ích của nước của dân.
Nhà nước ta là trụ cột của hệ thống chính trị, là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Nhà nước điều hành quản lý xã
hội bằng pháp luật. Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật, mọi hoạt động
quản lý của Nhà nước đều quan hệ đến các giai cấp, dân tộc, tôn giáo, các
tầng lớp xã hội, đều ảnh hưởng và tác động đến việc củng cố và tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân. Nhà nước và Mặt trận đều là thành viên của hệ
thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Sự phối hợp giữa Mặt trận và Nhà nước là
tất yếu và xuất phát từ nhu cầu tự thân của Mặt trận và của cả Nhà nước. Sự
phối hợp có hiệu qủa giữa Mặt trận và Nhà nước sẽ tạo ra sức mạnh của bản
thân Nhà nước. Nhà nước cần tạo cơ sở pháp lý và những điều kiện cần thiết
đảm bảo cho Mặt trận thực hiện vai trò, trách nhiệm của mình. Nhà nước thể
chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng và những điều khoản của
99
Hiến pháp và một số đạo luật đã quy định quyền hạn, trách nhiệm của Mặt
trận trong việc tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giám sát hoạt động
của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức nhà nước... thành
các văn bản pháp quy để Mặt trận thực thi quyền hạn, trách nhiệm đó trong
cuộc sống.
Nhà nước phối hợp chặt chẽ và tạo điều kiện để Mặt trận tổ chức thực
hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động sâu rộng trong
các tầng lớp nhằm góp phần giải quyết các vấn đề trọng đại của đất nước,
những vấn đề bức xúc của cuộc sống nhân dân. Hệ thống chính trị ở Việt
Nam bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân đang không ngừng đổi mới và hoàn thiện. Sự vận hành thông suốt,
nhịp nhàng của hệ thống chính trị có ý nghĩa quan trọng đảm bảo cho hệ
thống chính trị vững mạnh họat động có hiệu quả. Tuy phương thức hoạt
động của mỗi thành viên trong hệ thống chính trị có khác nhau nhưng mọi
hoạt động của Đảng, Nhà nước và Mặt trận đều có một mục đích chung,
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Vấn đề quan trọng là xác định rõ ràng
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi tổ chức và mối quan hệ phối hợp
giữa các thành viên sao cho mọi nhiệm vụ chính trị, kinh tế-xã hội, quốc
phòng an ninh, đối ngoại của đất nước đều đạt kết quả tốt đẹp. Sự lãnh đạo
của Đảng, việc quản lý điều hành của Nhà nước có ảnh hưởng và tác động rất
lớn đến việc nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm của Mặt trận được xác định rõ, có
cơ sở pháp lý, có các điều kiện đảm bảo tổ chức thực hiện nhưng điều đó có
thành hiện thực hay không còn phụ thuộc phần lớn vào chất lượng đội ngũ
cán bộ mặt trận ở mỗi cấp. Vì vậy phải quan tâm chăm lo xây dựng, đào tạo
bồi dưỡng độ ngũ cán bộ mặt trận vững về chính trị, thành thạo về công
việc, chủ động sáng tạo, có tình thần trách nhiệm cao trước nhân dân, luôn
100
rèn luyện phấn đấu nâng cao năng lực trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
được giao.
101
KẾT LUẬN
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất đã thật sự
được khẳng định rõ trong Nghị quyết số 8B/NQ-TW Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VI) tháng 3-1990 khi đề cập đến việc phát huy khả
năng to lớn, tạo nên sức mạnh của cộng đồng dân tộc. Từ đó cho đến Đại hội
Đảng lần thứ VII của Đảng, là một bước chuyển biến quan trọng trong quan
điểm nhận thức về vai trò khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống
nhất. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991, vấn đề này đã được khẳng định rõ ràng, không chỉ thể hiện qua
việc tổng kết 5 bài học lớn, trong đó có bài học về đại đoàn kết dân tộc, đồng
thời thể hiện trong nhiều nội dung của cương lĩnh.
Đến Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống
nhất (11-1993) là sự hoàn chỉnh tư duy nhận thức về đại đoàn kết dân tộc và
Mặt trận dân tộc thống nhất thể hiện rõ nét. Đây là một văn kiện quan trọng,
khẳng định vai trò, vị trí vấn đề đại đoàn kết dân tộc và đề ra những chủ
trương, biện pháp cụ thể nhằm tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc
và Mặt trận dân tộc thống nhất, khắc phục những lệch lạc trong quan điểm,
nhận thức, xác lập tư duy đúng đắn về mở rộng đoàn kết và chủ trương hoà
hợp dân tộc. Nghị quyết khẳng định quan điểm: đại đoàn kết dân tộc là đường
lối cơ bản của Đảng; đại đoàn kết chủ yếu phải lấy mục tiêu chung làm điểm
tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau, không trái với lợi
ích chung của dân tộc.
Dựa trên những nội dung, quan điểm mang tính đổi mới sâu sắc đó, tư
tưởng chỉ đạo và các chủ trương, chính sách về tăng cường mở rộng đoàn kết
102
dân tộc của Đảng và Nhà nước ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, phát
triển. Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của
Đảng (1-1994) khẳng định mục tiêu đoàn kết rộng rãi hơn bao gồm: mọi
người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới...
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng (4-2001) cũng khẳng định:
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) đã khẳng định: Đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc,
vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương
đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở
trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc cảm,
định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những
ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân
nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định
chính trị và đồng thuận xã hội.
Từ sau ngày đất nước thống nhất, nhất là trong gần hơn hai thập kỷ tiến
hành công cuộc đổi mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát huy truyền
thống cách mạng vẻ vang của các tổ chức mặt trận trước đây, rút ra từ quá
khứ những bài học kinh nghiệm lịch sử để củng cổ, mở rộng, tổ chức và đổi
mới phương thức hoạt động góp phần quan trọng vào thành tựu chung của đất
nước. Vị trí, vai trò của Mặt trận ngày càng được khẳng định trong hệ thống
chính trị và đời sống xã hội.
103
Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, đất nước ta đã
chuyển sang một thời kỳ phát triển mới-thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Trong vài thập niên đầu của thế kỷ XXI, chúng ta đứng trước
nhiều thời cơ và vận hội nhưng cũng phải đương đầu với nhiều nguy cơ, thách
thức để đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiến lên giành thêm những thành
tựu mới to lớn hơn, bền vững hơn.
Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, hợp tác và hội nhập quốc tế, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ
thành quả cách mạng là nhiệm vụ rất nặng nề, lâu dài, khó khăn và phức tạp
đòi hỏi toàn Đảng toàn dân ta phải tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vượt
bậc mới hoàn thành được nhiệm vụ lịch sử vẻ vang đó.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược,
là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị, song Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan trọng. Ý thức được
nhiệm vụ của mình trước nhân dân, trước lịch sử, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tháng 9-2004 đã xác định “Phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu trong báo cáo chính trị và cũng là chủ đề của Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị
đã được Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam xác định. Vai trò của một tổ chức trong hệ thống chính trị
và đời sống xã hội là do vị trí và tính chất của tổ chức đó quy định, có tính
khách quan. Nhưng có vai trò tác dụng thực sự hay không còn do kết quả hoạt
104
động thực tiễn của tổ chức đó quyết định và chịu sự chi phối của mối quan hệ
giữa các thành viên trong hệ thống chính trị tác động. Vai trò của Mặt trận
không phải tự Mặt trận khẳng định mà phải do chính nhân dân, chính lịch sử
thừa nhận. Việc Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đặt vấn đề nâng cao
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải vì vai trò của Mặt trận bị
hạ thấp, bị xem nhẹ hay mờ nhạt trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội
và cũng không phải do ý muốn chủ quan của Mặt trận tự đề cao mình mà do
chính nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải nâng
cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đó cũng là đòi hỏi và mong
muốn của Đảng, của Nhà nước và toàn dân Việt Nam đối với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ phát
triển mới của đất nước.
Năm 2008, là năm kỷ niệm 78 năm ngày truyền thống Mặt trận dân tộc
thống nhất Việt Nam (18-11-1930 - 18-11-2008), với thành quả to lớn và
những truyền thống cách mạng vẻ vang của Mặt trận dân tộc thống nhất trong
lịch sử cách mạng Việt Nam, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi tỏa sáng, dẫn dắt Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam viết tiếp những trang sử mới hào hùng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc "vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh".
105
TÀI LIỆU THẢM KHẢO CHỦ YẾU
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược Ổn định và phát triển kinh
tế-xã hội đến năm 2000, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhịêm kỳ khoá VII, Hà Nội.
9. Hà Huy Giáp (1992), Một vài suy nghĩ về tư tưởng Hồ Chí Minh. Góp
phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Sự thật.
10. Lê Mậu Hãn (2000), Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Lê Mậu Hãn (2000), Các Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Lê Mậu Hãn (2000), Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới
106
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Thạc Hân (1998), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Dân vận,
Nxb. Lao động, Hà Nội.
14. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 1, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
15. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 2, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
16. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 3, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
17. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 4, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
18. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 5, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
19. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 6, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
20. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 7, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
21. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 8, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
22. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 9, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
23. Hồ Chí Minh (2002), xuất bản lần thứ 2, tập 10, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
24. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, xuất bản lần thứ 2, tập 11, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Hồ Chí Minh (1995), Về dân vận, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Hồ Chí Minh (1977), Về quan điểm quần chúng, Nxb, Sự Thật, Hà Nội.
107
28. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội IV, Hà Nội.
29. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Đỗ Mười (2007), Những bài nói và viết chọn lọc, tập I, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
32. Đỗ Mười - Lê Quang Đạo (1996), Đại đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
33. Vũ Oanh (1998), Đại đoàn kết dân tộc phát huy nội lực nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Lê Khả Phiêu (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng
ta và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ (1996), Gắn bó với dân tộc với nhân dân với
cách mạng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Biên niên sự
kiện lịch sử Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, tập III (1975-
2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2002), Kỷ yếu Hội thảo
khoa học-thực tiễn: Đại đoàn kết dân tộc - động lực chủ yếu đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hà Nội.
38. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2005), Kỷ yếu Hội thảo
khoa học-thực tiễn: Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc, xây
dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội.
39. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1991), Lược sử Mặt trận
108
Dân tộc Thống nhất trong cách mạng Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
40. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1995), Lược sử Mặt
trận Dân tộc Thống nhất trong cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
41. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2006), Lịch sử Mặt
trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, quyển I (1930-1954), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
42. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2007), Lịch sử Mặt
trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, quyển II (1954-1975), Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
43. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2007), Lịch sử Mặt
trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, quyển III (1975-2004), Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
44. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
45. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2002), Niên giám
2000-2001, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nộị.
46. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1996), Tư tưởng Hồ
Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng
về Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, tập III (1978-2004), Hà Nội.
48. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (2004), Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
109