BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

-----------------------------

NGUYỄN VĂN PHƯƠNG

ĐÁNH GIÁ HÀM LƯỢNG Cu, Pb TRONG TRẦM

TÍCH TẠI CỬA SÔNG SÀI GÒN- ĐỒNG NAI DƯỚI TÁC

ĐỘNG CỦA pH, ĐỘ MẶN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÚNG

LÊN PHÔI, ẤU TRÙNG HÀU CRASSOSTREA GIGAS

Chuyên ngành: Kỹ Thuật Môi trường

Mã số: 9 52 03 20

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG

HÀ NỘI – 2021

Công trình được hoàn thành tại:

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM.

Người hướng dẫn khoa học 1: TS MAI HƯƠNG

Người hướng dẫn khoa học 2. GS. TS NGUYỄN THỊ HUỆ

Phản biện 1: …

Phản biện 2: …

Phản biện 3: ….

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án

tiến sĩ cấp Học viện, họp tại Học viện Khoa học và Công nghệ -

Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam vào hồi … giờ

.., ngày … tháng … năm 202….

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thư viện Học viện Khoa học và Công nghệ

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết

Các kim loại nặng từ các nguồn thải qua hệ thống sông

lắng đọng dưới dạng trầm tích, tồn lưu lâu dài dưới đáy sông,

tích tụ tại các cửa sông, bãi bồi. Điều này đã được minh chứng

thông qua các nghiên cứu tồn lưu kim loại nặng trong trầm tích

sông rạch Tp. Hồ Chí Minh. Hàm lượng Cd vùng nghiên cứu

khoảng 0,1 mg/kg, thấp hơn so với qui chuẩn Việt Nam (4,2

mg/kg) trong khi hàm lượng Cu, Pb là đáng quan ngại. Các hoạt

động của con người và biến đổi khí hậu là những tác động bất

lợi chính làm biến đổi pH và độ măn môi trường.

Thử nghiệm sinh học trên trầm tích kết hợp chất ô nhiễm

sẽ dự báo chất lượng hệ sinh thái, bởi vì khi chúng ta quan sát

thấy các tác động bất lợi tới môi trường thì hậu quả là không thể

đảo ngược đối với các sinh vật sống ở đó. Các nghiên cứu đã

khẳng định giai đoạn đầu đời (trứng, phôi và ấu trùng) của cá và

sinh vật 2 mảnh vỏ trong đó có hàu Crassostrea gigas nhạy cảm

hơn với các tác nhân ô nhiễm và thường được dùng để thử

nghiệm đánh giá độc tính sinh học.

Sông Sài Gòn- Đồng Nai có vai trò quan trọng trong

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của 12 tỉnh và thành phố

Nam bộ. Nguồn lợi thủy sản sông Sài Gòn- Đồng Nai thu được

chủ yếu từ nguồn đánh bắt tự nhiên và nuôi thủy sản.

Đề tài “Đánh giá hàm lượng Cu, Pb trong trầm tích

tại cửa sông Sài Gòn- Đồng Nai dưới tác động của pH, độ

mặn và ảnh hưởng của chúng lên phôi, ấu trùng hàu

Crassostrea gigas” được đặt ra trong thời điểm hiện nay là hết

2

sức cấp thiết khi mà rủi ro thiệt hại nguồn thủy sản vùng cửa

sông ngày càng khó kiểm soát, gây ảnh hưởng đến môi trường

và sinh kế của người dân.

2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án

Đánh giá rủi ro tiềm ẩn của hàm lượng Cu, Pb trong trầm

tích lên phôi, ấu trùng hàu Crassostrea gigas tại vùng cửa sông

Sài Gòn – Đồng Nai.

3. Nội dung nghiên cứu: 1. Đánh giá hàm lượng chất ô nhiễm kim loại nặng (Cu, Pb)

trong trầm tích tại các cửa sông Sài Gòn – Đồng Nai.

2. Khảo sát ảnh hưởng các yếu tố môi trường (pH và độ

mặn) lên quá trình giải phóng các kim loại nặng (Cu, Pb)

trong trầm tích cửa sông Sài Gòn – Đồng Nai.

3. Đánh giá khả năng hấp phụ (Cu2+, Pb2+) của trầm tích cửa

sông Sài Gòn – Đồng Nai.

4. Nghiên cứu độc tính trầm tích cửa sông Sài Gòn – Đồng Nai được thêm chuẩn (Cu2+, Pb2+) đến phôi, ấu trùng hàu

Crassostrea gigas.

Bố cục của luận án: Luận án gồm 114 trang với 27

bảng, 64 hình, 178 tài liệu tham khảo. Luận án gồm các phần

như sau: Mở đầu (4 trang), Chương 1 Tổng quan (34 trang),

Chương 2 Phương pháp nghiên cứu (14 trang), Chương 3 Kết

quả và Thảo luận (60 trang), Kết luận – Kiến nghị (2 trang)

3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1 Tổng quan về chất ô nhiễm Cu và Pb trong trầm tích

cửa sông

Tồn lưu Cu, Pb trong trầm tích cửa sông đang diễn biến

theo xu hướng tăng do các hoạt động sản xuất công nghiệp,

nông nghiệp và sinh hoạt. Các đánh giá hiện trạng theo SQG -

EPA và các chỉ số được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng để đánh

giá hiện trạng ô nhiễm kim loại trong trầm tích cửa sông.

1.2 Các yếu tố ảnh hưởng lên quá trình giải phóng các kim

loại nặng trong trầm tích khu vực cửa sông.

pH và độ mặn môi trường nước là 2 trong các thông số

có ảnh hưởng đến quá trình giải phóng kim loại trong trầm tích

cửa sông mà có thể là rủi ro tiềm ẩn độc tính Cu và Pb lên sinh

vật nước, đặc biệt lên hàu Thái Bình dương.

1.3 Phương pháp thử nghiệm độc tính trầm tích được thêm

chuẩn kim loại nặng

Thử nghiệm dùng dung dịch lắng của trầm tích được

thêm chuẩn cho phơi nhiễm với phôi, ấu trùng trong 2 giờ hoặc

24 giờ. Điểm kết thúc của tất cả các thử nghiệm là khả năng của

phôi, ấu trùng hàu phân chia tế bào hay phát triển đến giai đoạn

ấu trùng hình chữ D trong vòng 24 giờ.

1.4 Giới thiệu về cửa sông Sài gòn - Đồng Nai

Hệ thống sông Sài Gòn – Đồng Nai có 2 cửa sông Thị

Vải và Soài Rạp có đặc thù rất khác nhau, nơi phù hợp phát

triển cảng biển nước sâu, nơi có vùng cửa sông rộng, tiếp giáp

rừng ngập mặn Cần giờ rất thích hợp nuôi trồng thủy sản và bảo

4

tồn đa dạng sinh học, đây cũng chính là lý do nghiên cứu lựa

chọn.

CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN

CỨU

2.1 Hóa chất, dụng cụ, thiết bị

2.2 Phương pháp thu và xử lý mẫu trầm tích

Phương pháp thu và xử lý mẫu trầm tích theo TCVN 6663-15

2.3 Phương pháp phân tích mẫu

 Xác định pH trầm tích theo TCVN 5979.

 Xác định độ mặn theo TCVN 6194.

 Xác định các chỉ tiêu kim loại nặng trong dung dịch bằng

máy quang phổ phát xạ ghép cặp ngọn lửa plasma

Spectro ICP-OES.

 Xác định tổng carbon hữu cơ (TOC) theo TCVN 8941.

2.4 Thí nghiệm khảo sát pH và độ mặn lên quá trình giải

phóng Cu và Pb trong trầm tích

2.4.1 Thí nghiệm khảo sát ảnh hưởng pH lên quá trình giải

phóng Cu và Pb trong trầm tích

Sáu mức độ pH khác nhau có giá trị từ 2 đến 12 được

chuẩn bị (bao gồm cả pH ≤ 2 và ≥ 12) trong đó có giá trị pH tự

nhiên (không bổ sung axit hoặc bazo). Sử dụng axit/bazo bổ

sung có nồng độ: pH = 2 sử dụng HNO3 2,5 M, pH = 4 sử dụng HNO3 1M và pH = 6 sử dụng HNO3 0,25 M; tương tự cho các nồng độ NaOH. Mỗi thí nghiệm lặp lại 3 lần và tính kết quả

trung bình.

Lấy 15 gam mẫu trầm tích (qui đổi theo cân khô) đã qua

sàng 1mm cho vào bình Erlenmeyer 250 mL có nút nhám.

5

Nước cất và axit/bazo điều chỉnh đảm bảo tỉ lệ lỏng/rắn (L/S) là

10 (mL/g). Sử dụng HNO3 và NaOH để ổn định pH của các công thức thí nghiệm (sử dụng Metromh 848 Titrino plus). Các

bình được lắc với tốc độ 350 vòng/phút bằng thiết bị lắc GFL

3015 của Đức (đảm bảo trầm tích được lơ lửng trong quá trình

thí nghiệm). Kiểm tra sau khoảng 15, 30, 60 phút để tránh tăng

áp suất. Nhiệt độ giữ không đổi trong suốt quá trình thử nghiệm

là 27 ºC.

 Giai đoạn A: từ thời gian bắt đầu t0 đến (t0+4 giờ): bổ sung

axit hay bazo. Giá trị pH này được sử dụng là pHstart.

 Giai đoạn B: từ (t0+4 giờ) đến (t0+44 giờ): thời gian cân

bằng.

 Giai đoạn C: từ (t0+44 giờ) đến (t0+48 giờ ): xác minh điều

kiện cân bằng.

Điều kiện đạt được khi độ lệch pH trong thời gian kiểm

tra ở 4 giờ cuối cùng của thử nghiệm là dưới 0,3. Nếu pH > 0,3

cần phải tiếp tục kéo dài thêm thời gian ngâm chiết. Sau khi kết

thúc, huyền phù được để lắng 15 -20 phút và lọc bằng giấy lọc

Whatman (0,45 µm). Mẫu sau khi lọc được axit hóa với một

giọt HNO3 đậm đặc để đưa về pH < 2. Phân tích kim loại Cu và Pb bằng ICP – OES.

2.4.2 Bố trí thí nghiệm khảo sát ảnh hưởng độ mặn lên quá

trình giải phóng Cu và Pb trong trầm tích

Lấy 15 gam mẫu trầm tích qua sàng cho vào bình

Erlenmeyer thủy tinh 250 mL có nút nhám. Sử dụng nước muối

nhân tạo 35 ‰ pha loãng để có dãy độ mặn từ 5, 10, 15, 20, 25,

30 và 35 ‰ để phù hợp với khoảng độ mặn ở vùng cửa sông. Tỉ

6

lệ nước biển nhân tạo: trầm tích là 10:1 (mL/g) cho mỗi bình.

Các bình được lắc ở 300 vòng/phút ở 25 ºC trong 24 giờ bằng

thiết bị lắc GFL 3015, đây là khoảng thời gian đủ để quá trình

đạt trạng thái lơ lửng và cân bằng dựa vào các thí nghiệm sơ bộ.

Giá trị pH được ổn định trong phạm vi 6,5 – 7 cho tất cả các

công thức thí nghiệm. Nhiệt độ giữ không đổi trong suốt quá

trình thí nghiệm là 27 ±2 ºC. Sau khi kết thúc thí nghiệm, huyền

phù được để lắng khoảng 20 phút và lọc bằng giấy lọc

Whatman (0,45 µm). Mẫu sau khi lọc được axit hóa bằng HNO3 đậm đặc để đạt pH < 2. Mẫu dung dịch được phân tích hàm

lượng kim loại Cu và Pb bằng ICP – OES.

2.5 Thí nghiệm khảo sát hấp phụ Cu2+ và Pb2+ của trầm

tích cửa sông

2.5.1 Xác định cân bằng quá trình hấp phụ Cu2+, Pb2+lên

trầm tích

Trầm tích tươi được rửa bằng nước muối nhân tạo 3 lần,

lắng gạn. Việc rửa nhằm giúp trầm tích được làm sạch để tăng

cường các vị trí hấp phụ hoạt động trên trầm tích để cho các ion

kim loại dễ dàng thâm nhập vào trầm tích. Trầm tích ướt sau

quá trình rửa được sử dụng trong thí nghiệm, vì trầm tích khô sẽ

làm thay đổi đặc tính của trầm tích và do đó, làm giảm tính đại

diện của mẫu. Các thí nghiệm hấp phụ được thiết kế với tỷ lệ

lỏng: rắn xấp xỉ 10:1. Các dung dịch (150 mL) được điều chế

bằng cách pha loãng các dung dịch gốc (1.000 mg/L đối với Cu2+ và 10 g/L đối với Pb2+). Khoảng nồng độ của các dung dịch Cu2+ và Pb2+ điều chế thay đổi từ 0,0 đến 80,7 mg/L và 0,0 đến 5.000 mg/L, tương ứng. Các dung dịch được chuyển vào

7

bình nón 250 mL có chứa 15,0 g trầm tích (đã qui đổi về căn

bản khô). Các bình hình nón được lắc bằng máy lắc GFL3015 ở

khoảng 150 vòng / phút trong 24 giờ, đây là thời gian quá đủ để

đạt đến trạng thái cân bằng ở nhiệt độ phòng dựa trên các thí

nghiệm khảo sát sơ bộ. pH được điều chỉnh ổn định 7,0 ± 0,3 và

giữ nguyên trong quá trình thí nghiệm. Kết thúc mẫu được để

lắng 15 phút, gạn và ly tâm (máy ly tâm DLAB DM0636) ở tốc

độ 1200 vòng / phút trong 15 phút để nước ở trên trầm tích

được tách ra. Sau đó mẫu nước được axit hóa (pH < 2), đưa đi phân tích Cu2+ (hay Pb2+) bằng ICP – OES và trầm tích và dung dịch lắng được thu lại cho thí nghiệm tiếp theo.

2.5.2 Xác định động học quá trình hấp phụ Cu2+ và Pb2+

lên trầm tích

Các thí nghiệm động học được thực hiện bằng cách trộn 15,0 g trầm tích với 150 mL dung dịch Cu2+ có nồng độ 66,7 mg/L và Pb2+ có nồng độ 3,333 mg/L và lắc ở 150 vòng/phút ở nhiệt độ phòng. Các mẫu được rút tại các khoảng thời gian xác

định trong vòng 24 giờ, ly tâm ở 1.200 vòng / phút trong 15

phút và sau đó nồng độ kim loại được phân tích bằng ICP-OES.

Bố trí thử nghiệm độc tính trầm tích được thêm chuẩn

2.6 Cu2+ và Pb2+ lên phôi hàu 2.6.1 Chuẩn bị dung dịch rửa giải trầm tích được thêm

chuẩn Cu2+ và Pb2+

Qui trình thực hiện theo hướng dẫn của Giovanni Pagano,

Salem Fathallan và cộng sự. Các phần rắn thu được từ phần

2.3.1 đã được lắc (máy lắc GFL3015, 150 vòng/phút) trong

nước muối nhân tạo trong bình nón thủy tinh với tỷ lệ 1: 4 (trầm

8

tích/nước) trong 12 giờ, thời gian đủ để quá trình đạt cân bằng

theo các thí nghiệm sơ bộ. Sau kết thúc, lắng 15 phút, gạn, và ly

tâm ở 1.200 vòng / phút trong 15 phút. Sau khi ly tâm, các mẫu

chất lỏng được lấy để phân tích kim loại, phần lớn dung dịch

rửa giải còn lại dùng cho thử nghiệm độc tính trong vòng 24

giờ.

2.6.2 Chuẩn bị sinh vật thử nghiệm

2.6.2.1 Chuẩn bị phôi

Hàu bố mẹ thu mua từ các trại nuôi hầu vùng vịnh Gành

Rái, Vũng Tàu. Lựa chọn từ những con đực và con cái tốt nhất

và thu trứng và tinh trùng theo các hướng dẫn, cụ thể hàu bố mẹ

phải được nuôi tối thiểu khoảng 6 - 8 tháng, đồng đều, có gờ

sinh trưởng thưa rõ. Trứng và tinh trùng được lựa chọn cho vào

2 cốc 250 mL riêng với 200 mL nước biển nhân tạo. Mật độ

trứng được xác định từ ba lần đếm số trứng (sử dụng buồng

đếm sinh vật phù du The Gridded Sedgewick Rafter), sau đó, bổ

sung nước biển để đạt 6000 trứng/mL. Tương tự cho tinh trùng,

đếm (sử dụng buồng đếm hồng cầu Haemocytometer) và bổ

sung nước biển nhân tạo sao cho huyền phù tinh trùng đạt 2

triệu tinh trùng /mL.

2.6.2.2 Quá trình thụ tinh

Trong vòng 30 phút kể từ khi thu được trứng và tinh

trùng, nên cho thụ tinh. Trứng được thụ tinh với tinh trùng với

tỷ lệ 1:10 trong nước biển nhân tạo có lọc (hay dung dịch rửa

giải ở những nồng độ khác nhau) và mật độ 30 - 35 phôi/mL, để

đảm bảo quá trình thụ tinh xảy ra.

9

2.6.3 Thử nghiệm độc tính trầm tích được thêm chuẩn Cu2+

và Pb2+

2.6.3.1 Thử nghiệm độc tính trầm tích được thêm chuẩn Cu2+và Pb2+ lên quá trình thụ tinh của hàu

Thử nghiệm độc tính trầm tích mô phỏng theo nghiên cứu

Salem Fathallan, theo mô hình ASTM E 1706 – 05, theo nghiên

cứu của Gamain và cộng sự và theo nghiên cứu của Mai Hương

và cộng sự. Thử nghiệm độc tính được thực hiện trên các giếng

Microwell 24 well loại 2 mL (loại polystyrene).

 Pha nhanh huyền phù tinh trùng có mật độ 50.000

tinh trùng/mL.

 Pha nhanh huyền phù trứng có mật độ 600 trứng

/mL và 60 trứng/mL.

 Lấy 1,0 mL (50.000 tinh trùng/mL) thêm vào lần

lượt các cốc chứa 10,0 mL dung dịch rửa giải ở các nồng độ được thêm chuẩn Cu2+ (hay Pb2+).

 Lấy 1,0 mL (600 trứng/mL) thêm vào lần lượt trong

các cốc có chứa 10,0 mL dung dịch lắng ở các nồng độ được thêm chuẩn Cu2+ (hay Pb2+) theo thí nghiệm trên.

 Quá trình thử nghiệm

Sau 30 phút phơi nhiễm, tiến hành các thí nghiệm sau:

Thí nghiệm (1): 1,0 mL dung huyền phù tinh trùng phơi

nhiễm dung dịch rửa giải (5000 tinh trùng/mL) được thêm vào

10,0 mL dung dịch các tế bào trứng (60 trứng/mL) chưa phơi

nhiễm hóa chất. Sau đó, lấy 2 mL cho vào mỗi giếng

(Microwell).

10

Thí nghiệm (2): 1,0 mL dung dịch (5000 tinh trùng/mL)

chưa phơi nhiễm dung dịch rửa giải được thêm vào 10,0 mL

dung dịch trứng phơi nhiễm dung dịch rửa giải. Sau đó, lấy

2mL cho vào mỗi giếng (Microwell).

Thí nghiệm (3): 1,0 mL tinh trùng đã phơi nhiễm dung

dịch rửa giải vào 10,0 mL tế bào trứng phơi nhiễm với các dung

dịch lắng. Sau đó, lấy 2mL cho vào mỗi giếng (Microwell)

Thí nghiệm kiểm soát (4): 1,0 mL tinh trùng chưa tiếp

xúc dung dịch rửa giải (5000 tinh trùng/mL) và 10,0 mL dung

dịch các tế bào trứng (60 trứng/mL) chưa phơi nhiễm dung dịch

rửa giải. Sau đó, lấy 2 mL cho vào mỗi giếng (Microwell), mỗi

lần 3-5 well.

Các thí nghiệm được ủ trong 2 giờ ở 24 ± 10C (C. gigas). Sau khoảng thời gian này, 100 μL dung dịch formalin 40% đã

được thêm vào mỗi microwell và 1 mL được lấy từ mỗi giếng

đã được kiểm tra dưới kính hiển vi Steindoref ở 40X bằng

buồng đếm sinh vật phù du The Gridded Sedgewick Rafter.

2.6.3.2 Thực nghiệm độc tính trầm tích được thêm chuẩn

Cu2+, Pb2+ lên quá trình phát triển ấu trùng của hàu Lấy 10,0 mL trứng trong cốc (6000 trứng/mL) cho vào

bình định mức 100mL có chứa nước muối nhân tạo, bổ sung

tiếp 0,3 mL tinh trùng từ cốc (2 000 000 tinh trùng/mL) và cuối

cùng định mức thành 100 mL bằng nước muối nhân tạo (600

trứng/mL). Chuyển sang cố 250 mL để có bề mặt thoáng tốt.

 Sau 2 giờ, hỗn hợp trứng đã thụ tinh, lấy 1,0 mL thêm vào

trong các cốc có chứa 10,0 mL dung dịch rửa giải ở các nồng độ

11

khác nhau (còn khoảng 60 trứng/mL). Lắc đều và lấy cho ra 3

đến 5 well dung tích 2 mL/well.

 Thực hiện tương tự với thử nghiệm kiểm soát: thay 10mL

dung dịch rửa giải bằng nước muối nhân tạo.

 Phôi được ủ ở 24°C trong 24 ± 2 giờ phơi nhiễm với tỉ lệ

ngày đêm là 14:10, không sụt khí.

Sau 24 giờ, 100 μL dung dịch formalin 40% đã được

thêm vào mỗi microwell và 1,0 mL được lấy từ mỗi giếng đã

được kiểm tra số ấu trùng giai đoạn D phát triển bình thường và

bất thường dưới kính hiển vi STEINDOREF ở 40X bằng buồng

đếm sinh vật phù du The Gridded Sedgewick Rafter.

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1 Đánh giá hàm lượng (Cu, Pb) trong trầm tích tại các

cửa sông Sài Gòn – Đồng Nai..

3.1.1 Đánh giá hàm lượng (Cu và Pb) trong trầm tích tại

cửa sông Soài Rạp 3.1.1.1 Hàm lượng Cu và Pb trong trầm tích cửa sông Soài

Rạp

Giá trị pH, độ mặn, TOC, hàm lượng Cu và Pb trong

trầm tích (Bảng 3.2)

3.1.1.2 Đánh giá hàm lượng chất ô nhiễm Cu, Pb trong trầm

tích cửa sông Soài Rạp

Kết quả đánh giá theo qui chuẩn cho thấy khi so sánh với

quy chuẩn của Việt Nam QCVN 43:2012/BTNMT thì có thể

thấy hàm lượng Cu và Pb trong trầm tích ở vùng cửa sông Soài

Rạp đều nằm trong giới hạn cho phép. Các kết quả thu được từ

khảo sát thực địa và đánh giá chất ô nhiễm Cu và Pb trong trầm

12

tích cửa sông Soài Rạp thấp hơn qui chuẩn Việt Nam và Pb cao

hơn theo EPA, trong khi Cu thì thấp hơn và các chỉ số EF, Igeo,

PLI đều cho thấy xu hướng ô nhiễm Pb là đáng quan ngại, trong

khi Cu chưa cho thấy dấu hiệu ô nhiễm tại các vị trí thu mẫu,

qua đó có thể khẳng định các chỉ số cả EF và Igeo đều là những

công cụ phù hợp để đánh giá ô nhiễm kim loại nặng trong khu

vực.

Bảng 3.2 Kết quả TOC, pH, và độ mặn của trầm tích cửa sông Soài

Rạp

Độ

Pb

Mẫu

TOC (%)

pH

Cu (mg/kg)

mặn (‰)

(mg/kg)

SR 1

3,3 ± 0,2

7,3 ± 0,1

23 ± 2

16,4 ± 0,02

28,2 ± 0,02

SR 2

3,41 ± 0,21

7,3 ± 0,1

23 ± 2

16,7 ± 0,03

39,4 ± 0,02

SR 3

3,28 ± 0,22

7,3 ± 0,1

21± 2

22,5 ± 0,03

41,6 ± 0,02

SR 4

3,48 ± 0,21

7,4 ± 0,1

21± 2

18,7 ± 0,03

43,9 ± 0,02

SR 5

3,44 ± 0,12

7,3 ± 0,1

19± 2

23,6 ± 0,03

42,7 ± 0,02

SR 6

3,44 ± 0,21

7,0 ± 0,1

17± 2

16,9 ± 0,03

41,9 ± 0,02

SR 7

3,4 ± 0,2

6,9 ± 0,1

16 ± 2

24,9 ± 0,03

42,0 ± 0,02

3.1.2 Đánh giá hàm lượng chất ô nhiễm (Cu và Pb) trong

trầm tích tại cửa sông Thị Vải

3.1.2.1 Hàm lượng chất ô nhiễm Cu và Pb trong trầm tích

cửa sông Thị Vải

Kết quả phân tích các mẫu trầm tích thu từ cửa sông Thị Vải

(Bảng 3.6).

13

3.1.2.2 Đánh giá hàm lượng chất ô nhiễm Cu, Pb trong trầm

tích cửa sông Thị Vải

Kết quả phân tích các mẫu trầm tích sông Thị Vải (Bảng

3.6), có thể thấy hàm lượng Cu và Pb trong trầm tích nằm trong

giới hạn cho phép của QCVN 43:2012/BTNMT và của EPA.

Bảng 3.6: Kết quả phân tích TOC, pH, độ mặn và chất ô nhiễm trong

trầm tích cửa sông Thị Vải

Pb (mg/kg)

Mẫu

pH

Độ mặn (‰)

TOC (%) Cu (mg/kg)

7,9 ± 0,6

27,9 ± 0,8

TV 1

7,3±0,1

28± 2

5,3±0,2

14 ± 1

22,7 ± 1,1

TV 2

7,1±0,1

27 ± 2

4,3±0,2

6,8 ± 1

16,6 ± 1,1

TV 3

7,3±0,1

27± 2

2,5±0,2

12,1 ± 1,2

27,9 ± 1,3

TV 4

7,4±0,1

26± 2

4,4±0,2

12,7 ± 0,7

19,4 ± 0,9

TV 5

7,1±0,1

25± 2

4,9±0,1

14,8 ± 1,2

25,9 ± 1,2

TV 6

6,7±0,1

24± 2

3,8±0,2

11,4 ± 1

19,1 ± 1

TV 7

6,7±0,1

20± 2

5,1±0,2

Các nghiên cứu cho thấy Cu, Pb trong trầm tích vùng cửa

sông Thị Vải đều gần hoặc thấp hơn qui chuẩn Việt Nam và

EPA. Các chỉ số EF và Igeo cho thấy xu hướng ô nhiễm Pb là

đáng quan ngại, trong khi Cu chưa cho thấy dấu hiệu ô nhiễm,

PLI < 1vùng cửa sông chưa có tiến triển xấu.

14

3.2 Khảo sát ảnh hưởng pH và độ mặn lên quá trình giải

phóng (Cu, Pb) trong trầm tích cửa sông Sài Gòn – Đồng

Nai.

Nghiên cứu đã lựa chọn các mẫu trầm tích ở 3 địa điểm

gồm SR3, SR5 và SR7 để khảo sát ảnh hưởng của pH và độ

mặn môi trường đến quá trình giải phóng Cu và Pb.

3.2.1 Khảo sát ảnh hưởng pH lên quá trình giải phóng Cu,

Pb khỏi trầm tích

3.2.1.1 Kết quả khảo sát ảnh hưởng pH lên quá trình giải

phóng Cu trong trầm tích

Kết quả khảo sát ảnh hưởng pH lên quá trình giải phóng

Cu trong trầm tích cửa sông Soài Rạp, cho thấy quá trình giải

phóng Cu ra khỏi trầm tích giảm mạnh khi giá trị pH tăng dao

động trong khoảng 0,02 - 0,557 mg/L, Hình 3.22, đặc biệt khi

pH từ 2 về 4.

0,60

0,40

i ả i g i ạ o l

L / g m

Pb Cu

, g n ó h p

0,20

m i k g n ợ ư l

m à H

0,00

pH

4

8

12

0

Hình 3.22 Hàm lượng mg/L Cu và Pb giải phóng trung bình

theo pH phóng trung bình theo pH

15

Nghiên cứu đã khẳng định Cu trong trầm tích có khả năng

giải phóng khi pH môi trường nước thay đổi do xả thải hoặc sự

cố hóa chất.

3.2.1.2 Kết quả khảo sát ảnh hưởng pH lên quá trình giải

phóng Pb trong trầm tích

Kết quả nghiên cứu quá trình giải phóng Pb ra khỏi trầm

tích khi pH tăng quá trình giải phóng giảm mạnh ở cả 3 mẫu

trầm tích, cao nhất ở pH = 2 và giảm dần về đến pH = 12, dao

động 0,024 - 0,479 mg/L, Hình 3.22.

3.2.1.3 Khảo sát ảnh hưởng pH đến quá trình giải phóng Cu

và Pb theo hệ số phân bố Kd

Kết quả nghiên cứu cho thấy với các giá trị pH khác nhau

đã làm thay đổi hệ số phân bố Kd của các kim loại nặng nghiên cứu, cụ thể với Cu dao động 38 - 904 L/kg và Pb là 89 - 1879

L/kg (Hình 3.21). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy Kd của Pb luôn luôn lớn hơn Cu ở mọi pH từ 2 - 12 (Hình 3.21), điều này

cho thấy nguy cơ Cu giải phóng nhiều hơn Pb khi pH môi

trường thay đổi.

2500

Cu

2000

Pb

1500

g k / L b P

1000

,

u C

500

a ủ c d K ố b n â h p ố s ệ H

0

0

2

4

8

10

12

14

6 pH

Hình 3.21 Hệ số phân bố Kd (L/kg) của Cu và Pb

16

Theo kết quả nghiên cứu (Hình 3.22), cho thấy, với hàm

lượng Cu giải phóng dao động 0,02 – 0,58 mg/L ở cửa sông

Soài Rạp đã gây tác động bất lợi cho động vật 2 mảnh vỏ. Hàm

lượng Pb ở các mẫu trầm tích cửa sông Soài Rạp khi thay đổi

pH, khả năng giải phóng Pb cho thấy là không ảnh hưởng đến

sinh sản và phát triển của hàu ở vùng cửa sông Soài Rạp.

3.2.2 Khảo sát ảnh hưởng độ mặn lên quá trình giải phóng

Cu, Pb khỏi trầm tích

3.2.2.1 Kết quả khảo sát ảnh hưởng độ mặn lên quá trình giải

phóng Cu trong trầm tích

Theo kết quả nghiên cứu ảnh hưởng độ mặn lên quá trình

giải phóng Cu trong trầm tích vùng cửa sông Soài Rạp, cho thấy

quá trình giải phóng Cu tăng trung bình từ 0,02 mg/L (tương

ứng 0,86 %) lên 0,03 mg/L (tương ứng 1,27 %). Kết quả nghiên

cứu cho thấy lượng Cu giải phóng từ trầm tích theo các độ mặn

khác nhau có ý nghĩa thống kê với độ mặn 5, 15, 25, 35 ‰ (p <

0.05). Nhưng lượng Cu đươc giải phóng lại giảm trong khoảng

độ mặn từ 5-10 ‰.

3.2.2.2 Kết quả khảo sát ảnh hưởng độ mặn lên quá trình giải

phóng Pb trong trầm tích

Kết quả nghiên cứu cho thấy quá trình giải phóng Pb tăng

khi độ mặn tăng diễn ra cho cả 3 mẫu trầm tích. Sử dụng phần

mềm SPSS 20.0 để xác định tính sự sai khác các giá trị trung

bình giữa các thí nghiệm với giá trị p < 0,05 cho thấy với độ

mặn 5, 15, 30 ‰ thì Pb giải phóng khỏi trầm tích tăng có ý

nghĩa thống kê.

17

3.2.2.3 Khảo sát ảnh hưởng độ mặn đến quá trình giải phóng

Cu và Pb theo hệ số phân bố Kd

Kết quả nghiên cứu (Hình 3.29), cho thấy Kd của Cu dao động trong khoảng 1168 – 780 L/kg và Pb dao động 859 -364

L/kg, rõ ràng khi độ mặn tăng. Khi so sánh hệ số Kd của Cu và Pb, kết quả cho thấy hệ số Kd của Cu luôn lớn hơn Pb ở từng giá trị độ mặn.

Theo kết quả nghiên cứu ảnh hưởng độ mặn lên quá

trình giải phóng Cu và Pb trong trầm tích vùng cửa sông Soài

Rạp cho thấy Cu giải phóng gây ảnh hưởng bất lợi đến sự phát

triển giai đoạn sớm của hàu Thái Bình Dương nhưng với Pb thì

không.

1400

Cu Pb

1200

g k / L

1000

, b P

800

600

, u C a ủ c

d

400

200

K ố s ệ H

0

0

5

20

25

30

35

15

10 Độ mặn ‰

Hình 3.29 Kd (L/kg) trung bình Cu và Pb theo độ mặn

18

3.3 Đánh giá khả năng hấp phụ (Cu2+, Pb2+) của trầm tích

cửa sông Sài Gòn – Đồng Nai

3.3.1 Kết quả xác định đặc tính hóa lý mẫu trầm tích tham

chiếu

Đánh giá mức độ ô nhiễm do Cu và Pb trong trầm tích tham

chiếu nằm trong ngưỡng cho phép theo qui chuẩn theo QCVN

43:2012/BTNMT có thể sử dụng để khảo sát tiếp tục như mẫu

trầm tích tham chiếu cho đánh giá độc tính trầm tích, Bảng 3.9.

Bảng 3.9 Giá trị trung bình của pH, độ mặn, TOC, Cu và Pb,

trong trầm tích của cửa sông Soài Rạp

pH Độ mặn (‰) TOC (%) Cu (mg/kg) Pb (mg/kg)

Giá trị trung bình

7,1

20

2,78

21,41

28,62

SD

0,02

0,22

0,1

2

0,02 3.3.2 Cân bằng và động học quá trình hấp phụ Cu2+ lên

trầm tích 3.3.2.1 Cân bằng hấp phụ Cu2+ lên trầm tích

Kết quả tính toán các thông số hấp phụ cho thấy quá trình hấp phụ Cu2+ lên trầm tích cửa sông Soài Rạp phù hợp với mô hình Langmuir, với R2 = 0,99, KL=56 L/mg q0=0,86 mg/g và cả mô hình Freundlich, với R2 = 0,94; KF=2,7; nF = 1,8 (Bảng 3.10). 3.3.2.2 Động học hấp phụ Cu2+ lên trầm tích

Dữ liệu nghiên cứu động học hấp phụ Cu2+ lên trầm tích với nồng độ dung dịch ban đầu C0 là 66,7 mg/L, với thời gian khảo sát 18 giờ. Bảng 3.11, cho thấy mô hình giả bậc hai phù

19

hợp hơn để giải thích động học hấp phụ của Cu2+ trên trầm tích. Sau 12 giờ đạt đến trạng thái cân bằng hấp phụ.

Bảng 3.10 Thông số cân bằng hấp phụ Cu2+ lên trầm tích

Loại mô

Thông số

Phương trình

R2

hình

KL=56 L/mg;

y = 0,0209x** + 1,1629**

0,9964

Langmuir

qm=0,86 mg/g

KF=2,7 mg/g;

Freundlich

y = 0,551x** + 0,425**

0,9358

nF = 1,8

** Có ý nghĩa với p<0,01

Bảng 3.11 Thông số động học hấp phụ Cu2+ lên trầm tích

Loại mô

Thông số

Phương trình

R2

hình

Động học

k1=0,02 mg/g.giờ

y=-0,0186x -0,5334

0,7502

giả bậc 1

qe=0,0005 mg/g

Động học

qe=0,67 mg/g

y=0,0004x**+1,5008*

0,9734

giả bậc 2

k2=5625(g/(mg.giờ))

** Có ý nghĩa với p<0,01

3.3.3 Cân bằng và động học quá trình hấp phụ Pb2+ lên

trầm tích

3.3.3.1 Cân bằng hấp phụ Pb2+ lên trầm tích

Từ dữ liệu thực nghiệm, các thông số hấp phụ Pb2+ được tính toán (Bảng 3.12) cho thấy phù hợp với mô hình đẳng nhiệt Langmuir (R2=0,99) & Freundlich (R2=0,89). 3.3.3.2 Động học hấp phụ Pb2+ lên trầm tích

Các kết quả thực nghiệm cho thấy sự hấp phụ Pb2+ tăng nhanh trong 6 giờ đầu, sau đó chậm dần và sau 12 giờ gần như

20

đạt đến trạng thái cân bằng hấp phụ. Kết quả tính toán các thông

số (Bảng 3.13), chỉ ra mô hình giả bậc hai phù hợp hơn.

Bảng 3.12 Thông số cân bằng hấp phụ Pb2+ trên trầm tích

Loại mô

R2

Thông số

Phương trình

hình

y = 0,0364x** + 0,0284*

KL=0,78 L/mg;

Langmuir

0,99

qm=35,2 mg/g

y = 0,4186x** + 0,9132**

KF = 8,2 mg/g;

0,89

Freundlich

nF = 2,4

** Ý nghĩa với p < 0,01 & * Ý nghĩa với p < 0,05

Bảng 3.13 Thông số động học hấp phụ Pb2+ trên trầm tích

Loại mô

R2

Thông số

Phương trình

hình

y=-0,2518x+1,1212

k1=0,25 mg/g.h;

0,86

Giả bậc 1

qe=3,1 mg/g

y = 0,0046x** + 0,0304**

k2=0,2 (g/mg.h);

0,98

Giả bậc 2

qe=33 mg/g

3.4

** Ý nghĩa với p<0,01 & * Ý nghĩa với p<0,05 Xác định độc tính của trầm tích cửa sông Soài Rạp được thêm chuẩn (Cu2+, Pb2+) đến phôi, ấu trùng

hàu Crassostrea gigas

3.4.1 Chuẩn bị mẫu trầm tích được thêm chuẩn Cu2+, Pb2+

và dung dịch rửa giải cho thử nghiệm độc tính

Các mẫu trầm tích được thêm chuẩn Cu2+ đã được trình bày trong mục 3.3.2.1 và 3.3.3.1 được sử dụng để điều chế dung

dịch rửa giải cho thử nghiệm độc tính. Qui trình chuẩn bị dung

21

dịch rửa giải được thực hiện theo mô tả trong mục 2.6.1. Kết

quả thu được dung dịch rửa giải từ quá trình giải hấp phụ có nồng độ Cu2+ dao động 0 – 0,443 mg/L và Pb2+ có khoảng nồng độ 0,03-34 mg/L, phù hợp khoảng nồng độ nghiên cứu thử nghiệm độc chất của Cu2+, Pb2+ lên phôi ấu trùng hàu.

3.4.2 Thử nghiệm độc tính dung dịch rửa giải trầm tích được

thêm chuẩn Cu2+ lên của phôi, ấu trùng hàu

Đối với thử nghiệm quá trình thụ tinh với dung dịch rửa

giải của trầm tích được thêm chuẩn Cu2+ (Bảng 3.14)

3.4.3 Thử nghiệm độc tính dung dịch rửa giải của trầm tích

được thêm chuẩn Pb2+ lên phôi, ấu trùng hàu

Kết quả thử nghiệm độc chất dung dịch lắng trầm tích được thêm chuẩn Pb2+ (Bảng 3.15). Bảng 3.14 Kết quả tính toán EC50 (mg/L) của độc tính dung dịch rửa giải của trầm tích được thêm chuẩn Cu2+

Dạng tính toán

Khoảng

EC50

Tinh trùng phơi

Theo hàm lượng dd rửa giải (mg/L)

0,025

0,020 – 0,029

nhiễm

Theo hàm lượng trầm tích (mg/kg)

74

60 - 86

phơi

Theo hàm lượng dd rửa giải (mg/L)

0,063

0,054 – 0,075

Trứng

Theo hàm lượng trầm tích (mg/kg)

222

177 - 269

nhiễm

Trứng và

tinh

Theo hàm lượng dd rửa giải (mg/L)

0,037

0,034 – 0,041

trùng cùng phơi

Theo hàm lượng trầm tích (mg/kg)

118

111 - 132

nhiễm

Phát

triển

ấu

Theo hàm lượng dd rửa giải (mg/L)

0,014

0,013 – 0,015

Theo hàm lượng trầm tích (mg/kg)

trùng

44

41 - 47

(Chữ D)

22

Bảng 3.15 Kết quả tính toán EC50 (mg/L) của độc tính dung dịch rửa giải của trầm tích được thêm chuẩn Pb2+

Dạng tiếp xúc

Cách tính

Khoảng dao động

EC50

Tinh trùng phơi

Theo dung dịch rửa giải mg/L

4,7

2,9 – 7,9

nhiễm

Theo hàm

lượng

trầm

tích

12079

8489 - 17267

mg/kg

Trứng tiếp xúc

Theo dung dịch rửa giải mg/L

10,9

8,7 – 13,2

Theo hàm

lượng

trầm

tích

18782

16094 - 21689

mg/kg

Trứng và

tinh

Theo dung dịch rửa giải mg/L

5,5

5,0 – 7,4

trùng cùng tiếp

Theo hàm

lượng

trầm

tích

12350

11808 - 15708

xúc

mg/kg

Phát triển

Theo dung dịch rửa giải mg/L

2,9

1,6 – 3,6

(Chữ D)

Theo hàm

lượng

trầm

tích

8247

6333 - 9900

mg/kg

Độc tính của Cu cao hơn rất nhiều so với Pb ở từng thí

nghiệm độc tính phôi và tỉ lệ bất thường của ấu trùng

KẾT LUẬN

Kết quả đánh giá hàm lượng Cu, Pb trong trầm tích tại

cửa sông Soài Rạp trong đợt lấy mẫu tháng 2/2017, đợt lấy mẫu

tháng 3/2017 tại cửa Thị Vải cho thấy không vượt ngưỡng theo

qui chuẩn Việt Nam;

Quá trình giải phóng Cu ra khỏi trầm tích khi pH thay đổi

có ảnh hưởng đến quá trình sinh sản, phát triển phôi ấu trùng

hàu C.Gigas với Pb không ảnh hưởng. Với độ mặn 20 đến 35

‰ đã ảnh hưởng đến sinh sản và phát triển phôi, ấu trùng của hàu, trong khi đó Pb giải phóng đã không ảnh hưởng.

23

Khảo sát cân bằng hấp phụ Cu2+, Pb2+ lên trầm tích cửa sông Soài Rạp đã cho kết quả: thời gian cân bằng 12 giờ với dung lượng hấp phụ tối đa 0,86 mg/g với Cu2+ và với Pb2+ là 10 giờ với dung lượng hấp phụ tối đa là 35,2 mg/g với tỉ lệ lỏng

/rắn là 10:1. Mô hình Langmuir và Freundlich sử dụng diễn giải

dữ liệu cho quá trình rửa giải trầm tích là phù hợp.

Kết quả cũng cho thấy trứng là ít nhạy cảm hơn so với

tinh trùng khi phơi nhiễm với dung dịch lắng trầm tích được thêm chuẩn Cu2+, Pb2+.

24

NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

1. Đánh giá được hàm lượng Cu, Pb trong trầm tích tại

cửa sông Sài Gòn- Đồng Nai dưới tác động của độ mặn,

pH.

2. Đánh giá được ảnh hưởng của Cu, Pb trong trầm tích tại

cửa sông Sài Gòn- Đồng Nai lên phôi, ấu trùng hàu

Crassostrea gigas.

25

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 1. Nguyễn Văn Phương, Mai Hương, Nguyễn Thị Huệ, Đánh giá ô nhiễm kim loại (Cu, Pb, Cr) và As trong trầm tích cửa sông Soài

Rạp, hệ thống sông Sài Gòn- Đồng Nai, Tạp chí Môi trường,

2018, CĐI, 26-30.

2. Nguyễn Văn Phương, Võ Đình Long, Đánh giá hiện trạng ô nhiễm kim loại nặng (Cu, Pb, Cr, Zn) trong trầm tích cửa sông

Thị Vải, thuộc hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai, Tạp chí Khoa

học và Công nghệ, Bộ NN & Phát triển Nông thôn Số 21/2018,

86 – 92.

3. Nguyễn Văn Phương, Mai Hương, Nguyễn Thị Huệ, 2018. Đánh giá rủi ro ô nhiễm các dạng hóa học của kim loại (Zn, Cu, Cr,

Pb) trong trầm tích cửa sông Soài Rạp, sông Sài Gòn- Đồng Nai.

Rừng và Môi trường, 91, pp.26-31

4. Nguyễn Văn Phương, Mai Hương, Nguyễn Thị Huệ, Ảnh hưởng pH đến quá trình giải phóng kim loại nặng (Cu, Pb, Zn) trong

trầm tích cửa sông Soài Rạp, sông Sài Gòn- Đồng Nai. Tạp chí

phân tích Hóa, Lý và Sinh học - Tập 24, Số 1/2019: 39-46. 5. Nguyễn Văn Phương, Mai Hương, Nguyễn Thị Huệ, Ảnh hưởng độ mặn lên quá trình giải phóng kim loại nặng (Cu, Pb, Zn) trong

trầm tích cửa sông Soài Rạp, sông Sài Gòn- Đồng Nai. Tạp chí

phân tích Hóa, Lý và Sinh học - Tập 24, Số 1/2019: 114-119. 6. Nguyen , Van Phuong ; Mai, Huong ; Nguyen, Thi Hue ; Le, Hung Anh. Preparation of Cu2+ and Pb2+ spiked sediment for

sediment toxicity tests: a case study from Soai Rap estuary in Sai

Gon - Dong Nai river system. Journal of Vietnamese

Environment, 2018, 10(2):129-137