Lê Văn Hưng<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
95(07): 49 - 58<br />
<br />
ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ CÂY TRỒNG CHÍNH<br />
CHO SẢN XUẤT NHIÊN LIỆU SINH HỌC Ở VIỆT NAM<br />
Lê Văn Hưng*<br />
Cục Bảo tồn Đa dạng sinh học - Tổng cục Môi trường<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Kết quả đã chỉ ra được một số cây trồng chính có khả năng cho sản xuất nhiên liệu sinh học ở<br />
nước ta. Cây trồng có khả năng cung cấp cho sản xuất xăng sinh học(BE), là khá phong phú nhưng<br />
những cây trồng chính có nhiều ưu thế cho sản xuất BE phục vụ cho sản xuất nhiên liệu sinh học<br />
chỉ có như: sắn, mía là có tiềm năng cao.<br />
Cây cao lương là cây có nhiều tiềm năng cho sản xuất nhiên liệu sinh học (NLSH) ở nước ta cần<br />
được nghiên cứu và đánh giá tính thích ứng và ưu thế của nó trên các vùng sinh thái khác nhau.<br />
Các cây trồng cung cấp dầu sinh học (BD) ở Việt Nam là rất đa dạng những nhóm cây trồng như<br />
cây cọ dầu, dừa, cây trẩu, cây sở là những cây có tiềm năng tốt cung cấp BD cho phát triển Nhiên<br />
liệu sinh học.<br />
Ngoài việc xác định các cây trồng trên cần có các nghiên cứu đồng bộ các giải pháp khác khác như<br />
chính sách, đầu tư, thị trường để bảo đảm cho phát triển nhiên liệu sinh học ở nước ta một cách<br />
bền vững khuyến khích được sản xuất nông nghiệp phát triển.<br />
Từ khóa: nhiên liệu sinh học, xăng sinh học, xăng ethanol - BE, dầu sinh học- BD, cây trồng<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ*<br />
Vấn đề an ninh năng lượng đang là vấn đề lớn<br />
mà các quốc gia đang chú ý tìm các nguồn<br />
năng lượng thay thế cho nguyên liệu hóa<br />
thạch đang cạn dần… Trên thế giới, nhiên<br />
liệu sinh học (NLSH) đã được sản xuất và<br />
đưa vào sử dụng thay thế nhiên liệu hoá thạch<br />
từ rất lâu [7]. Hiện khoảng hơn 50 nước đang<br />
khai thác và sử dụng nhiên liệu sinh học ở các<br />
mức độ khác nhau. Mục tiêu chính là thay thế<br />
nhập khẩu, đảm bảo an ninh năng lượng,<br />
giảm phát thải khí nhà kính - yếu tố chính gây<br />
lên biến đổi khí hậu, tăng cường bảo vệ môi<br />
trường, hỗ trợ cho nền kinh tế xanh, tạo điều<br />
kiện cho ngành nông lâm nghiệp phát triển<br />
bền vững.[1,6] Hơn nữa, xăng sinh học là<br />
nguồn nhiên liệu rẻ tiền giúp giảm chi tiêu<br />
cho người tiêu dùng. Sản xuất và sử dụng<br />
xăng sinh học tạo công ăn việc làm cho nông<br />
dân, người trồng và cung cấp nguyên liệu thô<br />
cho ngành công nghiệp sản xuất xăng sinh<br />
học. NLSH gồm xăng sinh học (BEBioethanol…) và dầu sinh học (BD biodiesel) hiện đang được xem là nguồn nhiên<br />
liệu quan trọng thay thế một phần nguồn<br />
nhiên liệu hóa thạch truyền thống vốn đang<br />
trên đà cạn kiệt và gây nhiều ô nhiễm cho môi<br />
*<br />
<br />
Tel:0912 149724<br />
<br />
trường. NLSH là loại nhiên liệu sạch, tái tạo<br />
được, có thể bị phân hủy bởi tác nhân sinh<br />
học và không gây hại môi trường. Xăng sinh<br />
học được sản xuất bằng cách thủy phân<br />
(xenlulo, tinh bột… thành đường) sau đó<br />
được lên men và chưng cất. Sử dụng xăng<br />
sinh học giúp giảm lượng dầu nhập khẩu, tiết<br />
kiệm ngoại tệ và giúp ổn định an ninh năng<br />
lượng [1,6]. Ở Việt Nam, Thủ tướng chính<br />
phủ đã có Quyết định 177, ngày 20/07/2007<br />
phê duyệt “Đề án phát triển nhiên liệu sinh<br />
học đến 2015 và tầm nhìn đến 2025”[9], đặt<br />
ra nhiệm vụ hình thành ngành công nghiệp<br />
năng lượng sinh học Việt Nam. Tuy nhiên,<br />
phát triển sản xuất NLSH phụ thuộc vào<br />
nhiều yếu tố. Trong đó, nguyên liệu, thị<br />
trường và năng lực công nghệ có ý nghĩa<br />
quyết định đến tiềm năng phát triển và sản<br />
xuất công nghiệp này.<br />
Bài báo này tập trung phân tích tiềm năng<br />
cung cấp của một số cây trồng chính cho phát<br />
triển nguyên liệu phục vụ cho ngành NLSH ở<br />
nước ta. Đóng góp thêm cơ sở khoa học phục<br />
vụ cho các chương trình tiếp theo về nhiên<br />
liệu sinh học để đạt mục tiêu đến năm 2015<br />
đạt sản lượng xăng ethanol (BE) và dầu thực<br />
vật - biodiesel (BP) là 250 nghìn tấn; năm<br />
2020, Việt Nam sẽ sản xuất được khoảng 5 tỷ<br />
lít xăng E10 và 500 triệu lít dầu sinh học<br />
49<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Lê Văn Hưng<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
biodiesel B10/năm; 2025 đạt 1,8 triệu tấn, đáp<br />
ứng được 5% nhu cầu xăng trong nước (9).<br />
PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN<br />
1. Phương pháp kế thừa: thu thập, phân tích<br />
xử lý các số liệu thống kê, các dẫn liệu điều<br />
tra, nghiên cứu, thông tin khoa học đã có từ<br />
trước tới nay.<br />
2. Phương pháp phân tích nội nghiệp: phân<br />
nhóm cơ sở dẫn liệu, thông tin để phân tích,<br />
tổng hợp, đánh giá.<br />
3. Phương pháp ngoại suy: là kéo dài quy luật<br />
đã hình thành trong quá khứ để làm dự báo<br />
cho tương lai. Thông tin cung cấp cho<br />
phương pháp ngoại suy là số liệu về động thái<br />
của đối tượng dự báo trong quá khứ qua một<br />
số năm nhất định.<br />
4. Phương pháp chuyên gia: là phương pháp<br />
dựa trên ý kiến của các chuyên gia tại các Hội<br />
thảo tham vấn, theo phiếu điều tra...<br />
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
Một số cây trồng nông nghiệp chính cho<br />
cung cấp đường, tinh bột ở nước ta.<br />
Theo Báo cáo tình hình sản xuất của Ngành<br />
nông nghiệp trong Chiến lược phát triển năm<br />
2009 [2] cho thấy trong các cây trồng như lúa,<br />
ngô, mía, sắn, khoai lang, khoai tây, củ cải<br />
đường, cao lương ngọt...thì các cây trồng<br />
nông nghiệp chính có khả năng trong sản xuất<br />
NLSH được xem xét để xác định các cây<br />
trồng có tiềm năng nhất được thể hiện trong<br />
bảng 1.<br />
<br />
95(07): 49 - 58<br />
<br />
- Cây ngô (Zea mays L.):<br />
Điều kiện tăng nhanh diện tích và sản lượng<br />
ngô đã hội đủ các yếu tố: (i) nhu cầu thị<br />
trường trong nước rất lớn. Riêng nhu cầu ngô<br />
làm nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi<br />
thời kỳ 2005 – 1010 khoảng 5, 0 triệu tấn/<br />
năm, thời kỳ 2010 – 2020 tăng lên 9 – 10<br />
triệu tấn /năm; (ii) đã có nhiều giống ngô<br />
năng suất cao, phù hợp với các vùng sinh thái<br />
được đưa vào sản xuất; và (iii) các vùng sản<br />
xuất ngô hàng hoá tập trung cùng với thời vụ<br />
và hệ thống canh tác đã được xác định.<br />
Diện tích gieo trồng ngô toàn quốc năm 2006<br />
dự kiến đạt trên 1,0 triệu ha tiếp tục được mở<br />
rộng lên khoảng 1,2 triệu ha vào năm 2010 và<br />
tăng lên 1,5 triệu ha vào năm 2020. Thời kỳ<br />
2006 – 2010, tốc độ tăng năng suất ngô dự<br />
kiến đạt 5,54%/năm (mức đạt được trong thời<br />
kỳ 2000 - 2003). Đến năm 2010, năng suất<br />
bình quân đạt 5,5 tấn/ha, sản lượng ngô cả<br />
nước đạt 5,54 triệu tấn. Tốc độ tăng năng suất<br />
dự kiến 2,1%/ năm trong thời kỳ 2010-2020,<br />
năng suất bình quân năm 2020 đạt xấp xỉ 6, 0<br />
tấn/ha, sản lượng ngô của cả nước đạt mức 8,<br />
90 triệu tấn vào năm 2020. Từ năm 2010, về<br />
cơ bản Việt Nam có thể tự cân đối cung cầu<br />
về ngô bằng nguồn sản xuất trong nước. Như<br />
vậy cây ngô là cây phát triển tốt ở nước ta<br />
nhưng thực tế sản xuất hiện nay chưa đáp ứng<br />
đủ cho nhu cầu phát triển chăn nuôi và cho<br />
các xu hướng sử dụng khác đặc biệt cho<br />
NLSH.<br />
<br />
Bảng 1. Phát triển cây nguyên liệu cho sản xuất Ethanol<br />
Cây nguyên liệu<br />
1. Cây ngô<br />
<br />
2. Cây mía<br />
<br />
3. Cây sắn<br />
<br />
Đơn vị<br />
<br />
2008<br />
<br />
2010<br />
<br />
2015<br />
<br />
2020<br />
<br />
Ngàn ha<br />
<br />
1.140<br />
<br />
1.140<br />
<br />
1.200<br />
<br />
1.300<br />
<br />
Tạ/ha<br />
<br />
39,8<br />
<br />
41,2<br />
<br />
50,0<br />
<br />
57,7<br />
<br />
Ngàn tấn<br />
<br />
4.531<br />
<br />
4.700<br />
<br />
6.000<br />
<br />
7.500<br />
<br />
Ngàn ha<br />
<br />
271<br />
<br />
300<br />
<br />
300<br />
<br />
300<br />
<br />
Tạ/ha<br />
<br />
595,6<br />
<br />
630<br />
<br />
720<br />
<br />
850<br />
<br />
Ngàn tấn<br />
<br />
16.117<br />
<br />
18.900<br />
<br />
21.600<br />
<br />
25.500<br />
<br />
Ngàn ha<br />
<br />
544<br />
<br />
500<br />
<br />
450<br />
<br />
400<br />
<br />
Tạ/ha<br />
<br />
167,2<br />
<br />
170<br />
<br />
189<br />
<br />
225<br />
<br />
Ngàn tấn<br />
<br />
9.090<br />
<br />
8.500<br />
<br />
8.500<br />
<br />
9.000<br />
<br />
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn[2]<br />
<br />
50<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Lê Văn Hưng<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
95(07): 49 - 58<br />
<br />
Hình 1: Diễn biến năng suất và diện tích trồng mía từ niên vụ 1994-1995 đến 2007-2008<br />
(Quang NV, 2009- Trung tâm nghiên cứu mía đường)<br />
<br />
- Cây mía (Saccharum barberi):<br />
Cây mía có diện tích trồng trọt bình quân<br />
hàng năm vào khoảng 300.000 ha, cho sản<br />
lượng bình quân 16.5 triệu tấn đủ để sản xuất<br />
trên 1 triệu tấn đường, đáp ứng nhu cầu tiêu<br />
dùng đường trong nước. Năng suất mía ngày<br />
càng cải thiện trong những năm qua từ 42<br />
tấn/ha năm 1995 lên 51,8 tấn/ha năm 2005 và<br />
54,8 tấn/ha năm 2007 (Hình 1) [10]. Định<br />
hướng đến năm 2015, năng suất mía đạt 6570 tấn/ha. Riêng vùng mía miền Tây Nam bộ,<br />
năng suất mía hiện nay đã đạt 100-110 tấn/ha.<br />
Nhiều hộ sản xuất và nhiều kết quả thí<br />
nghiệm đã đạt năng suất 150 tấn/ha. Cá biệt,<br />
có ruộng đạt 200 tấn/ha. Điều đó chứng tỏ,<br />
tiềm năng năng suất của mía trên đất Tây<br />
Nam bộ rất cao.<br />
Trên cả nước, niên vụ 2007-2008 trồng<br />
khoảng 300 ngàn ha mía, năng suất bình quân<br />
đạt hơn 50 tấn/ha, sản lượng khoảng trên 15<br />
triệu tấn. So với thế giới và các nước trong<br />
khu vực như Trung Quốc (80 tấn/ha), Thái<br />
Lan (70 tấn/ha), năng suất mía của Việt Nam<br />
thấp hơn. Chất lượng nguyên liệu của Việt<br />
Nam mới đạt 10 CCS, cũng thấp hơn các<br />
nước (khoảng 13 CCS). Về mặt kinh tế, thân<br />
mía chứa khoảng 80-90% nước dịch, trong<br />
dịch có chứa khoảng 16-18% đường. Mía là<br />
cây nguyên liệu quan trọng của công nghiệp<br />
đường, dịch đường qua chế biến thu được<br />
đường kết tinh, tinh khiết. Ngoài sản phẩm<br />
<br />
đường, những phụ phẩm chính của cây mía<br />
bao gồm: Bã mía chiếm 25-30% trọng lượng<br />
mía đem ép. Trong bã mía chứa trung bình<br />
49% là nước, 48% là xơ (trong đó chứa 4555% cellulose) 2,5% là chất hoà tan (đường).<br />
Bã mía có thể dùng làm nguyên liệu đốt lò,<br />
hoặc làm bột giấy, ép thành ván dùng trong<br />
kiến trúc, cao hơn là làm ra Furfural là<br />
nguyên liệu cho ngành sợi tổng hợp. Trong<br />
tương lai, bã mía có thể là nguyên liệu đầu<br />
vào quan trọng của công nghiệp ethanol từ<br />
xenllulo. Mật gỉ chiếm 3-5% trọng lượng đem<br />
ép. Thành phần mật gỉ trung bình chứa 20%<br />
nước, đường saccaro 35%, đường khử 20%,<br />
tro 15%, protein 5%, sáp 1%, ... Từ mật gỉ<br />
cho lên men chưng cất rượu rum, sản xuất<br />
men các loại. Một tấn mật gỉ cho một tấn men<br />
khô hoặc các loại axit axetic, hoặc có thể sản<br />
xuất được 300 lít tinh dầu và 300 lít rượu (3,3<br />
kg rỉ một lít cồn).<br />
Mía phân bố rộng ở các tỉnh miền Trung như<br />
Thanh Hóa, Quảng Ngãi, Phú Yên và các tỉnh<br />
Đông Nam Bộ như Tây Ninh, Đồng Nai, và<br />
một số tỉnh Nam Bộ. Mía thường được trồng<br />
từ tháng 10 đến tháng 2 hàng năm, diện tích<br />
lá gấp 4-5 lần diện tích đất giúp tránh xói mòn<br />
đất cho các vùng đồi trung du. Hơn nữa, mía<br />
là cây rễ chùm và phát triển mạnh trong tầng<br />
đất từ 0-60cm. Một ha mía tốt có thể có 13-15<br />
tấn rễ, sau khi thu hoạch, bộ rễ để lại trong<br />
đất cùng với bộ lá là chất hữu cơ quý làm<br />
51<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Lê Văn Hưng<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
tăng độ phì của đất. Việt Nam định hướng<br />
phát triển phát triển cây mía, đến năm 2020<br />
đưa tổng diện tích trồng khoảng 300.000 ha,<br />
năng suất mía bình quân đạt 80 tấn/ha, chữ<br />
đường bình quân 12 CCS, sản lượng mía đạt<br />
24 triệu tấn.<br />
Theo Bộ NN&PTNT, theo đó, tổng nhu cầu<br />
tiêu thụ đường năm 2010 của Việt Nam ước<br />
tính vào khoảng 1,51 triệu tấn. Đến năm 2020<br />
sản xuất đuờng đáp ứng đủ cho tiêu dùng<br />
trong nuớc và xuất khẩu, mức sản xuất<br />
khoảng 2,1 triệu tấn, trong đó đuờng luyện:<br />
1,5 triệu tấn, đuờng trắng 500.000 tấn, đuờng<br />
thủ công 100.000 tấn. Như vậy, hiện tại lượng<br />
đường sản xuất trong nước từng bước sẽ đáp<br />
ứng được yêu cầu tiêu thụ trong nước và sẽ có<br />
dư thừa một phần cho xuất khẩu và NLSH ở<br />
nước ta trong những năm sau (2,5).<br />
- Cây sắn(Manihot esculenta Crantz):<br />
Diện tích, năng suất, sản lượng sắn Việt Nam<br />
trong hơn 10 năm qua (1996 - 2008) có chiều<br />
hướng gia tăng, đặc biệt tăng nhanh những<br />
năm gần đây khi thị trường Trung Quốc có<br />
nhu cầu lớn. Năm 2008, diện tích sắn toàn<br />
quốc đạt 557 ngàn ha, năm 2009 tăng lên 560<br />
ngàn ha, năng suất củ tươi bình quân 16,7<br />
tấn/ha, sản lượng khoảng 9 triệu tấn sắn tươi<br />
năm[8]. Sắn là cây trồng có khả năng thích<br />
nghi với nhiều vùng khí hậu và thổ nhưỡng<br />
khác nhau. Đặc biệt, nhiều khu vực khô hạn,<br />
thiếu nước nhiều cây trồng khác không trồng<br />
được hoặc giảm năng suất thì sắn vẫn phát<br />
triển tốt. Các chuyên gia đánh giá, sắn có thể<br />
là cây trồng của thời kỳ biến đổi khí hậu. Mặt<br />
trái của cây sắn, là khả năng làm nghèo, bạc<br />
màu đất, độ che phủ thấp có khả năng gây sói<br />
lở, mất đất nếu không có biện pháp canh tác<br />
thích hợp.<br />
Năm 2008, Gia Lai có diện tích trồng lớn<br />
nhất, 61 nghìn ha tăng so với năm 2007 là gần<br />
10 nghìn ha. Tây Ninh là tỉnh có diện tích lớn<br />
thứ 2 với 49,2 nghìn ha sắn (năm 2008),<br />
nhưng đứng đầu toàn quốc về sản lượng với<br />
hơn 1200 nghìn tấn/năm, tiếp đến là Gia Lai,<br />
Bình Phước, Kontum, Đồng Nai, Bình Thuận,<br />
<br />
95(07): 49 - 58<br />
<br />
Đăk Lắk, Đăk Nông, Nghệ An, Quảng Ngãi.<br />
Vùng trồng sắn tập trung lớn nhất là 8 tỉnh<br />
duyên hải Trung trung bộ và Tây Nguyên,<br />
chiếm 70% sản lượng sắn cả nước. Sắn là cây<br />
trồng có hiệu quả kinh tế cao, dễ trồng, dễ bảo<br />
quản, cây của người nghèo. Thu nhập trồng<br />
sắn khoảng 15-20 triệu ha /năm, với 2 vụ một<br />
năm. Năm 2009, cây sắn lần đầu tiên được<br />
đưa vào nhóm cây xuất khẩu chủ lực của Việt<br />
Nam với kim ngạch gần 1 tỷ USD/năm. Theo<br />
chiến lược ngành trồng trọt đến năm 2015,<br />
phát triển sắn không được khuyến khích mở<br />
rộng. Tuy vậy, diện tích sắn vẫn tiếp tục tăng<br />
do nhu cầu thị trường đang tăng lên, hiện đã<br />
vượt qua mức 450 ngàn ha được quy hoạch<br />
cho 2015. Theo Quy hoạch của ngành đến<br />
năm 2020, Bộ Nông nghiệp không khuyến<br />
khích mở rộng diện tích sắn mà ủng hộ sản<br />
xuất theo hướng bền vững, duy trì diện tích<br />
hiện có và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật về giống<br />
và phương thức canh tác để tăng năng suất.<br />
- Quỹ đất để phát triển cây sắn (đất chưa sử<br />
dụng và đất cây khác kém hiệu quả) đủ để<br />
phát triển theo phương án quy hoạch là 473, 1<br />
ngàn ha vào năm 2010(2), trong đó: vùng tập<br />
trung trồng sắn công nghiệp có 268, 4 ngàn<br />
ha, được bố trí như sau: cả nước là 473,1<br />
ngàn ha, sản xuất theo vùng tập trung là 268,4<br />
ngàn ha; ĐB sông Hồng 9 ngàn ha, Trung du<br />
miền núi phía Bắc 115,7 ngàn ha, Bắc Trung<br />
Bộ 59,1 ngàn ha, duyên hải Nam Trung Bộ 55<br />
ngàn ha, Tây Nguyên 84,3 ngàn ha, Đông<br />
Nam Bộ 133,0 ngàn ha, đồng bằng sông Cửu<br />
Long 17,0 ngàn ha.<br />
Quỹ đất bố trí cho trồng sắn có tính cho cả đất<br />
để luân canh với các cây trồng ngắn ngày<br />
khác nhằm đảm bảo canh tác sắn bền vững,<br />
đặc biệt là những nơi đất dốc.<br />
- Với quỹ đất bố trí cho trồng sắn đảm bảo<br />
diện tích, năng suất, sản lượng sắn tương ứng<br />
là 275, 5 ngàn ha, 178, 1 tạ/ha và 6, 69 triệu<br />
tấn vào năm 2010, trong đó: vùng tập trung<br />
trồng sắn công nghiệp phục vụ chế biến xuất<br />
khẩu đạt các con số tương ứng là: 198, 7 ngàn<br />
ha, 239, 5 tạ/ha và 4, 76 triệu tấn, cụ thể ở các<br />
vùng như sau:<br />
<br />
52<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Lê Văn Hưng<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
95(07): 49 - 58<br />
<br />
DT (1000 ha)<br />
<br />
NS (tạ/ha)<br />
<br />
SL (1000 tấn)<br />
<br />
Cả nước<br />
<br />
198,7<br />
<br />
239,5<br />
<br />
4.759,3<br />
<br />
Trung du MNBB<br />
<br />
29,9<br />
<br />
192,1<br />
<br />
573,7<br />
<br />
Bắc Trung Bộ<br />
<br />
32,7<br />
<br />
215,5<br />
<br />
705,6<br />
<br />
Duyên Hải NTB<br />
<br />
24,5<br />
<br />
221,9<br />
<br />
543,1<br />
<br />
Tây Nguyên<br />
<br />
38,8<br />
<br />
229,6<br />
<br />
890,7<br />
<br />
Đông Nam Bộ<br />
<br />
67,3<br />
<br />
283,6<br />
<br />
1.908,7<br />
<br />
Đồng Bằng SCL<br />
<br />
5,5<br />
<br />
250<br />
<br />
137,5<br />
<br />
Bảng 2. Diện tích và sản lượng sắn của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010 và kế hoạch đến năm 2020(2)<br />
Chỉ tiêu<br />
<br />
Đơn vị<br />
<br />
S¾n<br />
<br />
1000 ha<br />
Tạ/ha<br />
1000 tấn<br />
<br />
237.6<br />
83.6<br />
1,986.3<br />
Năm<br />
2011<br />
<br />
425.5<br />
157.8<br />
6,716.2<br />
Năm<br />
2012<br />
<br />
475.2<br />
163.8<br />
7,782.5<br />
Năm<br />
2013<br />
<br />
495.5<br />
165.3<br />
8,192.8<br />
Năm<br />
2014<br />
<br />
557.7<br />
168.5<br />
9,395.9<br />
Năm<br />
2015<br />
<br />
550.0<br />
170.0<br />
9,350.0<br />
<br />
490.0<br />
190.0<br />
9,310.0<br />
<br />
470.0<br />
200.0<br />
9,400.0<br />
<br />
450.0<br />
209.0<br />
9,400.0<br />
<br />
420.0<br />
224.0<br />
9,400.0<br />
<br />
400.0<br />
235.0<br />
9,400.0<br />
<br />
380.0<br />
300.0<br />
11,400.0<br />
<br />
-Diện tích<br />
-Năng suất<br />
-Sản lượng<br />
<br />
Chỉ tiêu<br />
2.2<br />
S¾n<br />
<br />
-Diện tích<br />
- Năng suất<br />
-Sản lượng<br />
<br />
Đơn vị<br />
1000 ha<br />
Tạ/ha<br />
1000 tấn<br />
<br />
Năm<br />
2005<br />
<br />
Năm<br />
2006<br />
<br />
Năm<br />
2007<br />
<br />
Năm<br />
2008<br />
<br />
TH<br />
năm<br />
2009<br />
<br />
Năm<br />
2000<br />
<br />
Ước<br />
TH<br />
năm<br />
2010<br />
500.0<br />
180.0<br />
9,000.0<br />
<br />
Năm 2020<br />
<br />
(Nguồn: CLNNNVN 2009)[2]<br />
Bảng 3. Một số giống sắn cao sản của Việt Nam [7]<br />
<br />
Với sản lượng sắn của các vùng tập trung,<br />
đảm bảo cho 54 nhà máy với tổng công suất<br />
3.935 tấn sản phẩm tinh bột /ngày hoạt động<br />
từ 8 - 9 tháng /năm.<br />
Sản lượng sắn của cả nước năm 2009 đạt trên<br />
9,3 triệu tấn. Với tỷ trọng sắn cho xuất khẩu<br />
khoảng 48,6%, dùng làm thức ăn gia súc<br />
22,4%, chế biến thủ công 16,8%, chỉ có<br />
<br />
12,2% dùng tiêu thụ tươi. Với diện tích như<br />
hiện nay được duy trì khoảng 500 ngàn ha<br />
không mở rộng thêm với các giải pháp về<br />
giống (sử dụng các giống có năng suất cao, có<br />
tỷ lệ chất khô, tinh bột cao), kỹ thuật canh tác<br />
hợp lý (canh tác trồng xen với cây bộ đậu, có<br />
che phủ…). Như vậy, cây sắn là cây được lựa<br />
chọn cho sản xuất xăng sinh học bởi nó đáp<br />
ứng được các tiêu chí lựa chọn như: năng suất<br />
53<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />