intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đánh giá tổn thương mắt trên bệnh nhân Basedow theo phân loại của Hiệp hội tuyến giáp quốc tế

Chia sẻ: ViHinata2711 ViHinata2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

43
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày việc tìm hiểu những đặc điểm lâm sàng của các tổn thương mắt trên những bệnh nhân bị bệnh Basedow và phân loại bệnh mắt theo Hiệp hội tuyến giáp quốc tế, bước đầu đề xuất chỉ định điều trị thích hợp theo phân loại trên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đánh giá tổn thương mắt trên bệnh nhân Basedow theo phân loại của Hiệp hội tuyến giáp quốc tế

ĐÁNH GIÁ TỔN THƯƠNG MẮT TRÊN BỆNH NHÂN<br /> BASEDOW<br /> THEO PHÂN LOẠI CỦA HIỆP HỘI TUYẾN GIÁP QUỐC TẾ<br /> NGUYỄN CHIẾN THẮNG, NGUYỄN VĂN ĐÀM<br /> <br /> Bệnh viện 103<br /> TÓM TẮT<br /> Nghiên cứu được tiến hành trên 94 bệnh nhân đã được chẩn đoán bệnh Basedow<br /> giai đoạn bình giáp, chuẩn bị phẫu thuật cắt gần hoàn toàn tuyến giáp tại khoa Phẫu<br /> thuật lồng ngực bệnh viện 103 từ 10/2004 tới 06/2005.<br /> Trong 94 bệnh nhân bị bệnh Basedow có 42 bệnh nhân (45%) được chẩn đoán bị<br /> bệnh mắt Basedow theo tiêu chuẩn của hội nhăn khoa Mỹ. Không bệnh nhân nào bệnh<br /> mắt đang ở giai đoạn hoạt động, và tỉ lệ bệnh nhân mức độ nhẹ chiếm nhiều nhất (28<br /> bệnh nhân - 67%), số bệnh nhân mức trung bình và nặng đều bằng nhau (7 bệnh nhân 16.5%).<br /> Lứa tuổi mắc bệnh nhiều nhất là tuổi 20-29 và 30-39 tuổi ở nam, và ở nữ cũng là<br /> 30-39 tuổi và 20-29 tuổi. Không có sự khác biệt giữa tỉ lệ mắc bệnh mắt Basedow trên<br /> bệnh nhân nam và nữ bị bênh Basedow giai đoạn bình giáp.<br /> Phân chia mức độ bệnh theo Hội tuyến giáp quốc tế rất có ích trong việc tiên<br /> lượng bệnh và làm căn cứ để lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp.<br /> <br /> Tại Việt Nam đã có khá nhiều<br /> nghiên cứu về bệnh Bassedow. Các<br /> nghiên cứu đã có thường do các nhà nội<br /> tiết tiến hành và thường có mô tả biểu<br /> hiện lồi mắt [1]. Thế nhưng nghiên cứu<br /> về bệnh mắt Basedow từ phía các nhà<br /> nhãn khoa thì còn quá ít. Trong khi đó ở<br /> Bệnh viện 103 nơi có khá nhiều bệnh<br /> nhân được điều trị bệnh Basedow thì nhu<br /> cầu điều trị bệnh mắt Basedow cũng<br /> được đặt ra. Trong nghiên cứu này,<br /> chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá<br /> các biểu hiện bệnh lý mắt trên bệnh nhân<br /> Basedow giai đoạn bình giáp tại Bệnh<br /> viện 103 nhằm mục tiêu sau:<br /> 1.<br /> Tìm hiểu những đặc điểm lâm sàng<br /> của các tổn thương mắt trên những bệnh<br /> <br /> nhân bị bệnh Basedow và phân loại bệnh<br /> mắt theo Hiệp hội tuyến giáp quốc tế.<br /> 2.<br /> Bước đầu đề xuất chỉ định điều trị<br /> thích hợp theo phân loại trên<br /> ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> 1.<br /> Đối tượng nghiên cứu:<br /> 94 bệnh nhân đã được chẩn đoán<br /> xác định bệnh Basedow giai đoạn bình<br /> giáp (cả trên xét nghiệm và lâm sàng), và<br /> đang chuẩn bị được phẫu thuật cắt gần<br /> hoàn toàn tuyến giáp tại khoa Phẫu thuật<br /> lồng ngực bệnh viện 103 từ 10/2004 tới<br /> 06/2005.<br /> 2.<br /> <br /> 71<br /> <br /> Phương pháp nghiên cứu:<br /> Tất cả các bệnh nhân được bác sỹ<br /> <br /> chuyên khoa mắt khám, phát hiên và<br /> đoạn tiến triển và mức độ nặng của Hội<br /> đánh giá các tổn thương mắt. Phân loại<br /> tuyến<br /> giáp<br /> quốc<br /> tế.<br /> bệnh nhân theo bảng điểm xác định giai<br /> Đánh giá mức độ hoạt động dựa theo dấu hiệu lâm sàng<br /> (clinical activity score – CAS)<br /> Đau phía sau nhãn cầu tự phát<br /> Đau khi vận động mắt<br /> Ban đỏ ở mi mắt<br /> Cương tụ kết mạc<br /> Phù nề kết mạc<br /> Sưng cục lệ<br /> Mi mắt phù nề hoặc dầy lên<br /> Mỗi một triệu chứng ứng với 1<br /> điểm, nếu tổng số điểm CAS từ 4 trở lên<br /> <br /> thì bệnh mắt được chẩn đoán là đang ở<br /> giai đoạn hoạt động [3].<br /> <br /> Đánh giá mức độ nặng của bệnh mắt Basedow<br /> Các dấu hiệu<br /> Mức<br /> Lồi mắt<br /> Nhìn đôi<br /> Thị thần kinh<br /> độ<br /> (mm)<br /> Nhẹ<br /> 18 - 19<br /> Xuất hiện khi mỏi mệt, khi ốm<br /> Thị lực bình thường<br /> hoặc bằng 9/10<br /> TB<br /> 19 -22<br /> Xuất hiện khi liếc các hướng<br /> Thị lực 8/10 – 5/10<br /> Nặng*<br /> > 22<br /> Xuất hiện khi nhìn thẳng và khi đọc<br /> Thị lực < 5/10<br /> sách<br /> *Bệnh nhân được coi là nặng khi: Có một dấu hiệu của nặng, hoặc hai dấu hiệu TB,<br /> hoặc một dấu hiệu TB và hai dấu hiệu nhẹ<br /> <br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> Bảng 1: Phân bố bệnh mắt trên bệnh nhân Basedow theo giới.<br /> Nam<br /> Nữ<br /> Tổng số<br /> Có bệnh mắt<br /> 8 (57.14%)<br /> 34 (42.5%)<br /> 42 (45%)<br /> Không có bệnh mắt<br /> 6 (42.86%)<br /> 46 (57.5%)<br /> 52 (55%)<br /> Tổng số<br /> 14 (100%)<br /> 80 (100%)<br /> 94 (100%)<br /> Bảng 2. Các biểu hiện cơ năng ở mắt.<br /> <br /> 72<br /> <br /> Triệu chứng<br /> Số cas<br /> Số mắt<br /> Sợ ánh sáng<br /> 0<br /> 0<br /> Cảm giác có dị vặt trong mắt<br /> 0<br /> 0<br /> Đau phía sau nhãn cầu tự phát<br /> 0<br /> 0<br /> Đau khi vận động mắt<br /> 0<br /> 0<br /> Bảng 3. Các tổn thương thực thể tại mắt<br /> Tổn thương<br /> Số cas<br /> Số mắt<br /> Co cơ nâng mi trên hoặc dưới<br /> 28+5<br /> 61<br /> Hở mi<br /> 5+1<br /> 11<br /> Đỏ mi mắt<br /> 0<br /> 0<br /> Phù mi mắt<br /> 0<br /> 0<br /> Cương tụ kết mạc<br /> 6<br /> 12<br /> Phù nề kết mạc<br /> 0<br /> 0<br /> Sưng cục lệ<br /> 7<br /> 14<br /> Tổn thương giác mạc<br /> 0<br /> 0<br /> Lồi mắt ≥ 18<br /> 24+3<br /> 51<br /> 8+4<br /> 20<br /> Thị lực ≤ 9/10<br /> Nh×n ®«i<br /> 6<br /> <br /> Tỷ lệ %<br /> 0%<br /> 0%<br /> 0%<br /> 0%<br /> Tỷ lệ %<br /> 73%<br /> 13%<br /> 0%<br /> 0%<br /> 14%<br /> 0%<br /> 17%<br /> 0%<br /> 61%<br /> 24%<br /> 14%<br /> <br /> B¶ng 4.<br /> Møc<br /> ®é<br /> NhÑ<br /> TB<br /> NÆn<br /> g<br /> Tæn<br /> g<br /> %<br /> <br /> 10-19<br /> Nam N÷<br /> 0<br /> 1<br /> <br /> Liªn quan møc ®é nÆng theo tuæi vµ giíi<br /> Tuæi<br /> Tæn<br /> 20-29<br /> 30-39<br /> 40-49<br /> 50-59<br /> 60-69<br /> g<br /> Nam N÷ Nam N÷ Nam N÷ Nam N÷ Nam N÷<br /> 1<br /> 9<br /> 4<br /> 11<br /> 0<br /> 2<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 28<br /> <br /> 0<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 2<br /> <br /> 0<br /> <br /> 1<br /> <br /> 0<br /> <br /> 2<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 7<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 2<br /> <br /> 0<br /> <br /> 3<br /> <br /> 1<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 1<br /> <br /> 0<br /> <br /> 7<br /> <br /> 0<br /> <br /> 2<br /> <br /> 2<br /> <br /> 11<br /> <br /> 4<br /> <br /> 16<br /> <br /> 1<br /> <br /> 3<br /> <br /> 0<br /> <br /> 2<br /> <br /> 1<br /> <br /> 0<br /> <br /> 42<br /> <br /> 0<br /> <br /> 4.<br /> 8<br /> <br /> 4.8<br /> <br /> 26<br /> <br /> 9.5<br /> <br /> 38<br /> <br /> 2.4<br /> <br /> 7<br /> <br /> 0<br /> <br /> 4.<br /> 8<br /> <br /> 2.4<br /> <br /> 0<br /> <br /> %<br /> 67<br /> 16<br /> .5<br /> 16<br /> .5<br /> 10<br /> 0<br /> <br /> Trong nhiều nghiên cứu trước đây,<br /> việc đánh giá mức độ bệnh chủ yếu dựa<br /> trên sự thay đổi độ lồi mắt, còn các dấu<br /> hiệu khác bị bỏ qua. Một tiến bộ đáng kể<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> 1.<br /> Về cách phân loại bệnh mắt<br /> Basedow:<br /> <br /> 73<br /> <br /> trong lĩnh vực này là dùng bảng<br /> NOSPECS dựa trên phân loại của hiệp<br /> hội tuyến giáp Mỹ (American Thyroid<br /> Association 1969). Qua nhiều năm và<br /> trong nhiều nghiên cứu, cách phân loại<br /> này tỏ ra là một công cụ đánh giá có hiệu<br /> quả trong các cách điều trị khác nhau.<br /> Mặc dù rõ ràng là một tiến bộ quan trọng<br /> trong tiêu chuẩn đánh giá, NOSPECS sau<br /> đó cũng bị phê phán do những hạn chế<br /> của chính nó. Đó là 1) nó dựa nhiều vào<br /> đánh giá yếu tố cơ năng hơn là yếu tố<br /> thực thể; 2) cùng mức độ được đưa ra với<br /> độ nặng và độ nguy hiểm khác nhau (như<br /> thay đổi của tổ chức phần mềm và bệnh<br /> thị thần kinh); 3) rất khó trong việc ghi<br /> nhận những thay đổi nhỏ trong các nhóm<br /> triệu chứng khác nhau của mắt; và 4) thực<br /> tế bệnh không tiến triển lần lượt qua các<br /> mức độ. Cách phân loại NOSPECS đã<br /> không được cải tiến từ năm 1992 và cần<br /> được đánh giá lại.<br /> Việc quyết định liệu bệnh mắt có<br /> cần điều trị không phải dựa trên sự đánh<br /> giá hai yếu tố là mức độ nặng và sự tiến<br /> triển của bệnh. Việc đánh giá mức độ<br /> nặng của bệnh mắt có thể dựa vào: Có<br /> bệnh thị thần kinh không, mặc dù bệnh<br /> thị thần kinh ít có biểu hiện lâm sàng và<br /> được biểu hiện bởi giảm thị lực. Lồi mắt<br /> có nặng không, vì lồi mắt có thể gây hở<br /> giác mạc xuất hiện loét giác mạc hoặc<br /> viêm giác mạc chấm. Do đó giảm thị lực<br /> do bênh thị thần kinh hoặc do lồi mắt<br /> nặng đủ để chẩn đoán mức độ nặng của<br /> bệnh mắt Basedow. Rối loạn chức năng<br /> cơ ngoại nhãn không gây nguy hại cho<br /> thị lực nhưng gây song thị ảnh hưởng rõ<br /> tới sinh hoạt hàng ngày và gây khó chịu<br /> <br /> cho bệnh nhân khi nó xuất hiện thường<br /> xuyên (ở tất cả các hướng nhìn). Do đó,<br /> sự rối loạn của cơ ngoại nhãn, khi có<br /> song thị trong tư thế nhìn thẳng và đọc<br /> sách nên đươc coi là một dấu hiệu của<br /> mức độ nặng. Sự liên quan của tổ chức<br /> phần mềm, hoặc do phản ứng viêm hoặc<br /> do chèn ép, trong hầu hết trường hợp gây<br /> nên sự chú ý nhiều hơn là gây nguy<br /> hiểm, mặc dù nó cũng gây khó chịu cho<br /> bệnh nhân. Vì lý do này, ngoại trừ một<br /> số ít cas có sưng nề tổ chức quanh nhãn<br /> cầu nặng, cương tụ và phù nề kết mạc, sự<br /> liên quan của tổ chức phần mềm không<br /> được dùng để đánh giá mức độ nặng của<br /> bệnh. Biểu hiện của tổ chức phần mềm<br /> chỉ nên được dùng để đánh giá cho sự<br /> tiến triển của bệnh. Thêm nữa sự liên<br /> quan của tổ chức phần mềm ít khi được<br /> tách riêng ở những trường hơp bệnh<br /> nặng, trong hầu hết trường hợp, nó gắn<br /> với những biểu hiện khác của mắt. Một<br /> khái niêm khác là mức độ hoạt động<br /> (activity) của bệnh. Sự phát triển tự<br /> nhiên của bệnh mắt Basedow chưa hoàn<br /> toàn rõ nhưng dường như lúc đầu là giai<br /> đoạn cấp tính, tiếp theo là giảm dần và<br /> ổn định. Sau giai đoạn cấp tính, có thể<br /> còn lại lồi mắt, song thị, co rút mi do<br /> hình thành sẹo trong các cơ ngoại nhãn<br /> và mô mềm hốc mắt. Nếu mô hình nay<br /> đúng, thì rõ ràng là mức độ hoạt động<br /> của bệnh không đồng nghĩa và không<br /> trùng với mức độ nặng của bệnh. Nói<br /> cách khác, một bệnh nhân có biểu hiện<br /> bệnh mắt mức độ nặng có thể tự giảm<br /> dần mức độ và đi đến ổn định. Để đánh<br /> giá mức độ hoạt động của bệnh, Hiệp hội<br /> tuyến giáp đưa ra một bảng điểm đánh<br /> 74<br /> <br /> giá mức độ hoạt động dựa theo dấu hiệu<br /> lâm sàng (clinical activity score – CAS),<br /> Mourits và một số tác giả như Prummel,<br /> Wiersinga, Koornneef dùng bảng này<br /> đánh giá kết quả điều trị bằng chiếu xạ<br /> và bằng prednisone trên bệnh nhân mức<br /> độ nặng trung bình. Các tác giả nhận<br /> thấy bệnh nhân có điểm CAS > 4 thì<br /> 80% đáp ứng rất tốt với điều trị nhưng<br /> những bệnh nhân có diểm CAS < 4 cũng<br /> có thể đáp ứng một phần với điều trị [3].<br /> Chúng tôi đã áp dụng cách phân loai mức<br /> độ nặng của Hội tuyến giáp quốc tế,<br /> nhưng vì độ lồi mắt của người châu Á da<br /> vàng là ≥ 18mm, người châu Âu da trắng<br /> là ≥ 20mm, người da đen là ≥ 22mm và<br /> độ lồi giữa hai mắt chênh lêch từ 3mm<br /> trở lên thì được chẩn đoán là lồi mắt do<br /> bệnh mắt Basedow[4]. Nên chúng tôi<br /> chọn tiêu chuẩn độ lồi để chẩn đoán áp<br /> dụng với người Việt Nam là từ 18 mm<br /> trở lên. Mức độ phân chia lồi nhẹ, lồi<br /> trung bình, và lồi nặng cũng áp dụng<br /> theo mức độ tăng dần như phân chia của<br /> Hội tuyến giáp quốc tế. Chúng tôi cũng<br /> giữ nguyên tiêu chuẩn nhìn đôi để đánh<br /> giá độ nặng. Về thị lực chúng tôi tính<br /> mức độ giảm thị lực chỉ sau khi đă chỉnh<br /> hết tật khúc xạ hoặc loại trừ các căn<br /> nguyên khác gây giảm thị lực như (đục<br /> thể thủy tinh, nhược thị do lác bẩm<br /> sinh…).<br /> <br /> như: co rút mi, lồi mắt, hạn chế vận<br /> nhãn, cương tụ ở kết mạc chỗ bám của<br /> cơ thẳng trong và thẳng ngoài, thị lực<br /> giảm do hở giác mạc hoặc chèn ép thị<br /> thần kinh. 42 bệnh nhân (45%) đã được<br /> chẩn đoán bệnh mắt Basedow theo các<br /> tiêu chuẩn trên [5].<br /> Theo bảng 2, không có bệnh nhân<br /> nào có các triệu chứng: sợ ánh sáng, cảm<br /> giác dị vật trong mắt, đau phía sau nhãn<br /> cầu tự phát và đau khi vận động nhãn<br /> cầu. Như vậy có thể thấy không bệnh<br /> nhân nào của chúng tôi có bệnh mắt đang<br /> ở giai đoạn tiến triển (CAS ≥ 4) theo<br /> phân loại của Hội tuyến giáp quốc tế.<br /> Nguyên nhân có thể do tất cả các bệnh<br /> nhân đều đã được dùng cocticoid kết hợp<br /> với thuốc kháng giáp để điều trị dài ngày<br /> cho tới khi bình giáp.<br /> Bảng 3 cho thấy triệu chứng hay<br /> gặp nhất là co rút mi trên hoặc mi dưới<br /> chiếm (73%), có 33 bệnh nhân trong đó<br /> 28 bệnh nhân bị co rút mi ở cả hai mắt và<br /> 5 bệnh nhân co rút cơ một bên mắt. Triệu<br /> chứng lồi mắt được gặp với tỉ lệ (61%),<br /> trong đó có 24 bệnh nhân có độ lồi cả<br /> hai mắt từ 18mm trở lên. 3 bệnh nhân có<br /> một mắt lồi lớn hơn hoặc bằng 18<br /> mm.Triệu chứng sưng cục lệ (phản ánh<br /> mức độ chèn ép trong hốc mắt) chiếm vị<br /> trí thứ ba (17%) trên 7 bệnh nhân ở cả<br /> hai măt. 6 bệnh nhân có triệu chứng<br /> cương tụ kết mạc chỗ bám của cơ thẳng<br /> trong và thẳng ngoài ở cả hai mắt chiếm<br /> 14%. Nhìn đôi có 6 bệnh nhân chiếm<br /> 14% và tất cả các bệnh nhân này đều có<br /> độ lồi hai mắt từ 20mm trở lên. Hở mi có<br /> 6 bệnh nhân trong dó có 4 bệnh nhân hở<br /> mi cả hai mắt và 2 bệnh nhân hở mi một<br /> <br /> 2.<br /> Về tỉ lệ bệnh mắt trên bệnh<br /> nhân Basedow giai đoạn bình giáp và<br /> các triệu chứng thường gặp:<br /> Chúng tôi thấy chẩn đoán thường<br /> dễ dàng khi bệnh nhân Basedow kèm<br /> theo những triệu chứng điển hình ở mắt<br /> 75<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2