intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đào tạo sinh viên ngành tài chính - ngân hàng trong thời kỳ hội nhập

Chia sẻ: Lệ Minh Vũ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

2
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bằng phương pháp thống kê, tổng hợp và phân tích định tính, bài viết "Đào tạo sinh viên ngành tài chính - ngân hàng trong thời kỳ hội nhập" đi sâu đánh giá thực trạng đào tạo sinh viên ngành tài chính - ngân hàng tại một số trường Đại học và Học viện thời gian qua; từ đó kiến nghị một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tài chính - ngân hàng trong thời kỳ hội nhập. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đào tạo sinh viên ngành tài chính - ngân hàng trong thời kỳ hội nhập

  1. ĐÀO TẠO SINH VIÊN NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP ThS. Vũ Thùy Linh 1 ThS. Đỗ Thị Lệ2 Đinh Thị Chiên3 Tóm tắt Là một trong những ngành học thuộc lĩnh vực kinh tế - thương mại, ngành Tài chính ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực giao thương, tiền tệ. Trong những năm gần đây, nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ sau giai đoạn khủng hoảng, nhu cầu tài trợ vốn cho phát triển sản xuất - kinh doanh tăng cao, thương mại điện tử tiếp tục bùng nổ…là những cơ hội lớn để các ngân hàng, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiếp tục mở rộng quy mô. Điều đó đồng nghĩa với việc tăng nhu cầu tuyển dụng nhân sự tại các ngân hàng và các cơ quan tài chính và tạo động lực cho các trường đại học và học viện đào tạo cử nhân chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng đáp ứng nhu cầu hội nhập. Bằng phương pháp thống kê, tổng hợp và phân tích định đính, bài viết đi sâu đánh giá thực trạng đào tạo sinh viên ngành tài chính - ngân hàng tại một số trường Đại học và Học viện thời gian qua; từ đó kiến nghị một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tài chính - ngân hàng trong thời kỳ hội nhập. Từ khóa: Tài chính, ngân hàng, nhân lực, kinh tế, cuộc cách mạng công nghệ 4.0. 1. Đặt vấn đề Tài chính ngân hàng hàng là một trong những ngành học rộng, liên quan đến tất cả các dịch vụ giao dịch, luân chuyển tiền tệ thông quá các ngân hàng, các định chế tài chính phi ngân hàng, các công cụ giao dịch ở các thị trường trong và ngoài nước. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam với sự phục hồi mạnh mẽ đã tạo tiền đề để ngành tài chính ngân hàng giữ tốc độ tăng trưởng hàng đầu tại Việt Nam. Năm 2020, tại Việt Nam, chỉ có 44 ngân hàng thương mại, nhưng các ngân hàng có tới hơn 11.000 chi nhánh và phòng giao dịch, thu hút hơn 300.000 lao động, tổng tài sản đạt 12 triệu tỷ đồng (tương đương 520 tỷ USD, bằng khoảng 200% GDP), tín dụng ngân hàng đang là kênh huy động vốn quan trọng nhất của nền kinh tế [6]. Trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) không chỉ là cơ hội để đẩy nhanh quá trình điện tử hoá, tự động hoá, nâng cao năng suất lao động mà còn đặt ra những thách thức không nhỏ cho cả doanh nghiệp, nhà quản lý và các cơ sở đào tạo. Tài chính Ngân hàng 1 ThS, Trường Đại học Lao động - Xã hội – ĐT: 09. 628. 432.79 2 ThS, Trường Đại học Lao động - Xã hội 3 CN, Trường Đại học Lao động - Xã hội 757
  2. cũng là ngành chịu nhiều ảnh hưởng của vòng xoáy cách mạng công nghiệp 4.0 yêu cầu người lao động cần có nhiều thay đổi để thích nghi với xu hướng. Trong bối cảnh đó, vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng trở nên cấp thiết. Như vậy, thông qua tìm hiểu nhu cầu tuyển dụng của các tổ chức tài chính - ngân hàng, bài viết sẽ đi sâu phân tích thực trạng đào tạo nguồn nhân lực tài chính - ngân thời gian qua; từ đó đưa ra một số giải pháp để hàng các trường Đại học, Học viện nâng cao chất lượng đào tạo trong giai đoạn tới. 2. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành tài chính - ngân hàng trong giai đoạn hiện nay. Vượt qua giai đoạn khó khăn từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới giai đoạn 2007 - 2008, hệ thống tài chính - ngân hàng tại Việt Nam đã có nhiều bước phát triển ấn tượng. Theo số liệu thống kê UB Vietnam, song song quá trình đó, các tổ chức tài chính - ngân hàng có nhu cầu tuyển dụng nhân sự ở nhiều vị trí khác nhau. Theo báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), nhu cầu đào tạo mới nhân lực ngành Tài chính ngân hàng giai đoạn 2016 - 2020 của Việt Nam là trên 1,6 triệu người và đến năm 2020, tổng số nhân lực làm việc trong ngành Ngân hàng khoảng 300.000 người [10]. Những thách thức lớn và hiện hữu của ngành Ngân hàng trước CMCN 4.0, là khan hiếm nguồn nhân lực chất lượng cao - yếu tố quyết định đến sự thành công và cạnh tranh về nguồn lực chất lượng cao là yếu tố làm nên sự thành công trong hội nhập (Jan Smit, Stephan Kreutzer, Carolin Moeller & Malin Carlberg, 2016) [2]. Theo kết quả điều tra của Navigos - đơn vị chuyên tuyển dụng nhân sự cấp trung đến cấp cao tại Việt Nam - về xu hướng kinh doanh tại các ngân hàng năm 2021 cho thấy nhu cầu tuyển dụng nhân sự ngành tài chính ngân hàng hiện đang rất lớn. Biểu đồ: Các lĩnh vực có tỷ lệ thiếu hụt nhân sự cao nhất (Nguồn: Navigos Search năm 2021[4]). 758
  3. Tại Việt Nam, nhu cầu nguồn nhân lực trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đang phát triển tương đối sôi động, nhờ kế hoạch tăng trưởng quy mô của các nhà băng và sự đa dạng của các loại hình, dịch vụ tài chính. Do đó, cơ hội gia nhập lĩnh vực ngân hàng tương đối rộng mở. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực được xem là vấn đề cốt lõi quyết định sự thành công và phát triển bền vững trước những thay đổi của CMCN 4.0 và quá trình hội nhập của ngành tài chính - ngân hàng hiện nay. Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ là về trình độ nghiệp vụ ngân hàng, mà đi liền với đó là kỹ năng về vận hành công nghệ số, tính tuân thủ về quy trình vận hành cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng trong môi trường công nghệ thông tin…Trong thời gian tới, để đảm bảo sự phát triển bền vững, gắn với xu thế phát triển của ngành Ngân hàng trong cuộc CMCN 4.0, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có hơn 80 cơ sở đào tạo ngành tài chính - ngân hàng trong nước, cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực ngành tài chính - ngân hàng dồi dào, đáp ứng cơ bản về số lượng lao động trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, số lượng nhân lực tài chính - ngân hàng ngày càng tăng nhưng chất lượng nguồn nhân lực lại chưa tương xứng với tiềm năng và chưa đáp ứng đủ các yêu cầu của đổi mới công nghệ. Cụ thể là: - “Khát” nhân sự lĩnh vực công nghệ. Một trong những tác động rõ nhất của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là xu hướng ngân hàng số. Phát triển ngân hàng số đã không còn là một lựa chọn, mà là yêu cầu tất yếu, buộc các ngân hàng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các nghiệp vụ và giao dịch tài chính. Nhu cầu về đội ngũ nhân sự để triển khai quá trình này được dự liệu rất đáng kể. Liên tục 5 năm trở lại đây, các vị trí phát triển phần mềm, kỹ sư công nghệ thông tin, quản lý dự án công nghệ thường xuyên được các ngân hàng Việt chiêu mộ nhằm phục vụ công cuộc chuyển đổi [1]. - Đòi hỏi sự đa năng của người lao động. Theo khảo sát của ILO (2020), tại Việt Nam nhân lực sẵn sàng cho công nghệ số chưa cao, các chương trình đào tạo đại học thay đổi rất chậm so với xu thế. Trong khi đó, hiện nay nhiều trường đại học tại Mỹ đã đưa các giáo trình về trí tuệ nhân tạo, học máy vào giảng dạy... Thực tiễn này, đòi hỏi cần quan tâm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo đủ khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, phương thức làm việc tiên tiến trong điều kiện số hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng [10]. 2.1. Một số thuận lợi trong việc đào tạo sinh viên ngành tài chính – ngân hàng. Thứ nhất: Nhu cầu tuyển dụng lớn. 759
  4. Theo số liệu của trung tâm dự báo nhu cầu nguồn nhân lực, trong năm 2021, chỉ riêng tại Hà Nội sẽ có thêm 10.800 chỉ tiêu làm việc trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tín dụng...[9]. Nhiều tập đoàn lớn hàng đầu thế giới đã chọn Việt Nam làm “điểm đến”, như: Intel, Microsoft, Samsung, LG, Nokia, Canon, Mitsubishi, Toyota, Honda… Các doanh nghiệp này cần một lượng lớn nhân lực tại chỗ am hiểu về thị trường kinh tế - tài chính. Do nhu cầu tuyển dụng thực tế của các công ty tài chính, của các ngân hàng với số lượng lớn và ở nhiều vị trí, công việc khác nhau, nên khi lựa chọn ngành học tài chính - ngân hàng, sinh viên sẽ có cơ hội cao trong quá trình tìm kiếm việc làm với chế độ đãi ngộ hấp dẫn nếu biết nắm bắt hiệu quả. Thứ hai: Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng có đầy đủ kỹ năng hội nhập, công nghệ thông tin, giao tiếp, làm việc nhóm, thuyết trình và phản biện...Do đó, các công ty tài chính và ngân hàng rất chăm lo tới việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Nếu trước đây, nhân viên ngân hàng thường chỉ cần thông thạo một nghiệp vụ và tuân theo một lộ trình thăng tiến nhất định, thì giờ đây cần phải đa năng hơn. Để đáp ứng việc chuyển đổi theo mô hình công nghệ hiện đại cũng như nâng cấp đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ, nhân lực ngành tài chính, ngân hàng ngoài am hiểu chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng phân tích dữ liệu, còn phải thành thạo kỹ năng vận hành công nghệ số. Do đó, công việc lĩnh vực tài chính ngân hàng đem lại cho sinh viên nhiều thử thách để sớm trưởng thành hơn. Nếu sinh viên chọn ngành học này sẽ được sống trong môi trường không thể lạc hậu và có thu nhập tương đối cao so với nhiều công việc khác. Thứ ba: Cơ hội phát triển sự nghiệp cao Với công việc trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, sinh viên sau khi ra trường sẽ có cơ hội lên kế hoạch phát triển sự nghiệp một cách bền vững. Nhiều ngân hàng tạo điều kiện cho nhân viên học các chứng chỉ chuyên sâu hoặc chương trình sau đại học. Bên cạnh đó, các ngân hàng, trung tâm tài chính lớn đa phần đều có nhiều chi nhánh quốc tế, như JP Morgan, HSBC... Tất cả các ngân hàng đều có nhiều chi nhánh trải rộng trong cả nước. Do đó, nhân viên lĩnh vực tài chính – ngân hàng có nhiều cơ hội được gửi đi thực tập, công tác ở các chi nhánh của ngân hàng trên toàn thế giới và có cơ hội sống trong cộng đồng đa dạng, rất mở, cho phép họ kết giao rộng, từ đó học hỏi và tìm kiếm được nhiều bạn bè tốt. 2.2. Một số tồn tại trong việc đào tạo sinh viên ngành tài chính - ngân hàng. - Chưa đáp ứng nhu cầu của Nhà nước. 760
  5. Hiện nay, việc đào tạo nguồn nhân lực tài chính – ngân hàng tại các trường Đại học và Học viện chưa đáp ứng chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04 tháng 05 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0 [8] và quyết định 986/TTg ngày 8/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 [9]. - Chưa đáp ứng nhu cầu của ngành. Tháng 7/2019, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 1537/QĐ-NHNN phê duyệt kế hoạch triển khai chương trình hành động của ngành ngân hàng thực hiện chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực [5]. Theo đó, trong thời gian tới, các tổ chức tài chính - ngân hàng cần có kế hoạch xây dựng các tiêu chuẩn nghề nghiệp, đào tạo đội ngũ cán bộ chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ chuyên gia, chuyên sâu. - Chưa đổi mới chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu nhà tuyển dụng. Hiện nay, các trường đại học và học viện chủ yếu đào tạo lý thuyết, chưa gắn với thực tiễn người sử dụng, chưa chú trọng nhiều đến các kỹ năng, thiếu thực hành, chưa có cơ chế phối hợp giữa nhà tuyển dụng và cơ sở đào tạo. Do đó, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tài chính - ngân hàng còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu nhà tuyển dụng. - Chưa tập trung nâng cao kỹ năng mềm cho sinh viên. Trên thực tế, trình độ ngoại ngữ của sinh viên tốt nghiệp còn nhiều hạn chế. Do đó khi tuyển dụng, các doanh nghiệp phải đào tạo lại. Trung bình, các đơn vị tuyển dụng mất khoảng 5 tháng để đào tạo nhân viên mới trước khi làm việc chính thức và cần khoảng 12 tháng để nhân viên có thể tự tin thực hiện công việc [7]. Hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với chất lượng nguồn nhân lực tài chính - ngân hàng trong thời hội nhập là phải tự trang bị kiến thức, ngoại ngữ, công nghệ để có thể làm việc độc lập, đồng thời cập nhật kiến thức vĩ mô và các nghiệp vụ mới, hiện đại, có năng lực, bản lĩnh trình độ cao, dám chịu trách nhiệm và rủi ro…Ðiều quyết định cho sự tồn tại và phát triển của công ty là những con người có học vấn cao, được đào tạo tốt, có đạo đức, có văn hóa và biết cách làm việc có hiệu quả... (Lester C.Thurow – MIT, 1996) [3]. 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành tài chính - ngân hàng trong thời kỳ hội nhập. Để đáp ứng nhu cầu cao và khắt khe của thị trường lao động lĩnh vực ngân hàng - tài chính, các trường Đại học và Học viện cần nắm bắt được các thay đổi và xu hướng then 761
  6. chốt trong nhu cầu tuyển dụng nguồn nhân lực ngân hàng nhằm phát triển những cách thức hoặc mô hình đào tạo mới trong thời kỳ cách mạng số. Một số giải pháp cụ thể là: 3.1. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước. Trong thời gian tới, các cơ quan quản lý Nhà nước cần ban hành các văn bản hướng dẫn các trường Đại học và Học viện trong việc tuyển sinh và đào tạo sinh viên ngành tài chính -ngân hàng đáp ứng nhu cầu thị trường và đòi hỏi của cuộc CMCN 4.0; đồng thời hướng dẫn cơ chế phối hợp giữa nhà tuyển dụng lao động với cơ sở đào tạo. 3.2. Đối với các trường Đại học và Học viện. - Đổi mới chương trình đào tạo. Các trường Đại học và Học viện cần đổi mới chương trình đào tạo theo hướng giảm bớt các môn học mang tính hàn lâm, tăng tính ứng dụng, bổ sung và đào tạo chuyên sâu các ngành công nghệ tài chính, ngân hàng số…giúp sinh viên có cơ hội tiếp cận ứng dụng công nghệ hay mô hình hoạt động thực tế. - Tập trung bồi đắp về chuyên môn nghiệp vụ. Các trường Đại học và Học viện cần cung cấp kiến thức, kỹ năng để sinh viên phát triển toàn diện, đáp ứng nhu cầu tuyển dụng, làm việc thực tế của doanh nghiệp. - Cung cấp kỹ năng làm việc cần thiết cho sinh viên. Các trường Đại học và Học viện nên tập trung đào tạo các khóa sinh viên chuyên ngành tài chính - ngân hàng ngoài khả năng làm chủ công nghệ, còn chú trọng tới tư duy toàn cầu, năng lực sáng tạo, sự nhạy bén và khả năng thích nghi linh hoạt trước sự thay đổi của thị trường; đối đầu và ứng biến linh hoạt khi có rủi ro phát sinh liên quan đến tài chính, tiền tệ Bên cạnh các hoạt động đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, các trường Đại học cần bồi đắp phẩm chất và kỹ năng mềm cho sinh viên (kỹ năng giao tiếp với khách hàng, giới thiệu sản phẩm, thuyết phục khách hàng, kỹ năng quản lý thời gian, tư duy phản biện, kỹ năng phân tích, làm việc theo nhóm….). Mặt khác, cần chú trọng tập huấn các kỹ năng chuyên sâu cho sinh viên, gồm: Kỹ năng lập và thẩm định dự án đầu tư; kỹ năng phân tích đầu tư chứng khoán, kỹ năng tìm kiếm khách hàng; kỹ năng chăm sóc khách hàng… - Triển khai mô hình đào tạo thực tiễn theo yêu cầu của các ngân hàng, công ty tài chính. Với mục đích đào tạo, phát triển toàn diện con người; sinh viên ra trường có thể làm việc ở bất cứ môi trường doanh nghiệp nào, các trường Đại học ngoài việc đào tạo kiến thức, cần chú trọng đến kỹ năng mềm, trình độ ngoại ngữ, khả năng làm việc theo nhóm và các hoạt động trải nghiệm giúp sinh viên phát triển tối đa kỹ năng nghề nghiệp, có thể làm việc ngay trong môi trường thực tế. Cụ thể: cần thiết kế hệ thống phòng thực hành mô phỏng ngân hàng với các khu vực làm việc dành cho giao dịch viên, máy ATM, máy tính và phần mềm CoreBank chuyên dụng... là môi trường lý tưởng để sinh viên nắm được quy trình làm việc thực tế. 762
  7. - Chú trọng đào tạo liên ngành Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành tài chính ngân hàng, việc nghiên cứu và triển khai giải pháp thúc đẩy các cơ sở đào tạo mở rộng hợp tác với hệ thống ngân hàng thương mại nhằm phối hợp chặt chẽ về nội dung đào tạo gắn với việc làm và theo nhu cầu xã hội là vấn đề cấp thiết, đảm bảo sự phát triển bền vững, gắn với xu thế phát triển của ngành tài chính - ngân hàng trong kỷ nguyên số. 4. Kết luận Tài chính ngân hàng được coi là huyết mạch của nền kinh tế, hoạt động của nó bao trùm hầu hết các hoạt động kinh tế xã hội, hoạt động trung gian gắn liền với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao được xem là khâu đột phá giúp các tổ chức tài chính - ngân hàng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia. Theo dự báo trong giai đoạn từ năm 2025 đến năm 2030, nhu cầu nguồn nhân lực cấp cao ngành tài chính - ngân hàng tăng 20%/năm [11]. Điều đó đòi hỏi các trường Đại học và Học viện phải nâng cao chất lượng đào tạo, ứng dụng tốt công nghệ trong đào tạo sinh viên và kết nối tốt hơn với đơn vị tuyển dụng để sinh viên có cơ hội tiếp cận với các nghiệp vụ ngay từ khi còn ghế nhà trường. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê, Đ (2017). Nhân lực ngân hàng trước cách mạng công nghiệp 4.0, Thời báo Ngân hàng điện tử. 2. Jan, S., Stephan, K., Carolin, M. & Malin, C. (2016), Industry 4.0 European Parliament’s Committee on Industry, Research and Energy (ITRE), European Parliament, B 1047 Brussels (pp. 67- 82). 3. Lester, C.T. (1996). The Future of Capitalism (pp. 106- 125). 4. Navigos Search (2019). Đặc san toàn cảnh Ngân hàng Việt Nam 2019. 5. Ngân hàng Nhà nước (2019). Quyết định số 1537/QĐ-NHNN của NHNN ngày 17/7/2019 về việc Phê duyệt Ban hành Kế hoạch triển khai chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. 6. Ngân hàng Nhà nước (2020). Báo cáo thường niên năm 2020. 7. Tổ chức lao động quốc tế (2020). Số liệu khảo sát, thống kê về nguồn nhân lực ngành Ngân hàng. 8. Thủ tướng Chính phủ (2017). Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/05/2017 về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. 9. Thủ tướng Chính phủ (2018). Quyết định 986/TTg ngày 8/8/2018 về Chiến lược phát triển Ngành Ngân hàng đến 2025 và định hướng đến 2030. 10. Trung tâm dự báo nguồn nhân lực ILO (2021). Báo cáo thị trường lao động Việt Nam năm 2021. 11. UB Việt Nam (2021). Dự báo nguồn nhân lực ngành tài chính – ngân hàng. 763
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2