Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
ĐÁP ỨNG CỦA KÝ SINH TRÙNG SỐT RÉT PLASMODIUM VIVAX<br />
VỚI PHÁC ĐỒ CHLOROQUINE<br />
TẠI 3 TỈNH MIỀN TRUNG-TÂY NGUYÊN, 2012<br />
Huỳnh Hồng Quang*, Triệu Nguyên Trung*, Nguyễn Văn Chương*, Nguyễn Tấn Thoa*<br />
<br />
TÓM TẮT:<br />
Đặt vấn đề: Gánh nặng về sốt rét giờ đây như thế nào? Thật khó trả lời câu hỏi này chắc chắn, nhưng sốt<br />
rét (SR) vẫn là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở các quốc gia đang phát triển ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới,<br />
đặc biệt châu Phi và Đông Nam Á. Chloroquine (CQ) được sử dụng gần 65 năm qua trong điều trị sốt rét do P.<br />
vivax và hiệu lực bền vững.<br />
Mục tiêu: Đánh giá hiệu lực phác đồ CQ trong điều trị sốt rét P. vivax.<br />
Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng không ngẫu nhiên tự chứng.<br />
Kết quả: Với phác đồ CQ, tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và ký sinh trùng đầy đủ (ACPR) là 100%, không có thất<br />
bại điều trị sớm (ETF), thất bại lâm sàng muộn (LCF), thất bại ký sinh trùng muộn (LPF). Thời gian cắt sốt<br />
trung bình là 24,11 ± 10,30 giờ và thời gian làm sạch KSTSR là 32,15 ± 6,16 giờ.<br />
Kết luận: Hiệu lực của CQ vẫn còn bền vững và duy trì ở mức cao đối với sốt rét do P. vivax, song với các<br />
bằng chứng kháng thuốc CQ do P. vivax tại các châu lục, nên cần giám sát kháng thuốc CQ thường quy.<br />
Từ khóa: Plasmodium vivax, hiệu lực, chloroquine.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
PLASMODIUM VIVAX PARASITE RESPONSE TO CHLOROQUIN REGIME<br />
IN THREE CENTRAL HIGHLAND PROVINCES OF VIETNAM 2012<br />
Huynh Hong Quang, Trieu Nguyen Trung, Nguyen Van Chuong, Nguyen Tan Thoa<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 74 - 79<br />
Background: How is malaria burden now? It is difficult to answer this question with a large degree of<br />
certainty, but malaria is still a serious communicable disease of the developing countries in tropic and subtropics<br />
areas, especially in Africa and South East Asia. Chloroquine (CQ) was widely deployed in a global malaria<br />
program to treat vivax malaria nearly 65 years, and mainly sustainable efficacy.<br />
Objective: To assess the efficacy of CQ for treatment of P. vivax malaria.<br />
Subjects and methods: With study design of self-controlled clinical trials.<br />
Results: With CQ regimes, ACPR of chloroquine was 100% without ETF, LCF, and LPF. The FCT was<br />
24.11 ± 10.30 hrs and PCT of 32.15 ± 6.16 hrs.<br />
Conclusions: CQ is once again highly efficacious and stable efficacy in treatment for vivax malaria in<br />
Vietnam, but with evidence based medicine of chloroquine resistance P. vivax, routinely antimalarial drug<br />
monitoring for CQ is very important.<br />
Key words: Plasmodium vivax, efficacy, chloroquine<br />
<br />
*:Viện Sốt rét KST - CT Quy Nhơn<br />
Tác giả liên lạc: Ths. Bs. Huỳnh Hồng Quang, ĐT: 0905103496, Email: huynhquangimpe@yahoo.com<br />
<br />
74<br />
<br />
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Sốt rét (SR) vẫn là một vấn đề y tế công cộng<br />
tiếp tục đe dọa tính mạng cộng đồng tại nhiều<br />
quốc gia thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.<br />
Ước tính hàng năm có khoảng 350 - 500 triệu ca<br />
mắc mới với hơn một triệu ca tử vong do SR<br />
trên toàn cẩu, tập trung phần lớn ở trẻ em nhỏ<br />
và phụ nữ mang thai tại các quốc gia vùng sa<br />
mạc Sahara, châu Phi. Mặc dù phần lớn các<br />
trường hợp sốt rét ác tính (SRAT), tử vong và<br />
mắc bệnh đều quy kết cho P.falciparum, song<br />
P.vivax cũng ảnh hưởng đến gần 100 triệu người<br />
mỗi năm trên toàn cầu. 10-20% số ca P.vivax trên<br />
toàn cầu là ở châu Phi, nam Sahara; tại vùng<br />
Đông và Nam Phi, P.vivax chiếm khoảng 10% và<br />
riêng tại Tây và Trung Phi, P.vivax chiếm dưới<br />
1%. Ngoài châu Phi, P.vivax chiếm trên 50%,<br />
trong đó 80-90% số ca là nằm ở các quốc gia<br />
Trung Đông, châu Á, Tây Thái Bình Dương và<br />
10-20% là nằm ở các quốc gia Trung và Nam<br />
Mỹ(8). Cùng với SR do P.falciparum, thì P.vivax<br />
góp phần vào quá trình đói nghèo, tăng tỷ lệ<br />
trong mô hình bệnh tật tại các quốc gia.<br />
Chloroquine (CQ) là một thuốc diệt thể phân liệt<br />
mô có hiệu quả hơn 50 năm qua trong việc<br />
phòng bệnh và điều trị sốt rét do P.vivax. Mãi<br />
cho đến thập kỷ trước, CQ vẫn còn nhạy với loài<br />
P.vivax. Song, tỷ lệ kháng cao với CQ đã được<br />
báo cáo(1,2,4,7) lần đầu tiên tại Papua New Guinea<br />
(Rieckmann và cs., 1989), tiếp đó tại Indonesia(1)<br />
và kháng lan rộng các vùng trên thế giới<br />
(Ketama T và cs., 2009)(7).<br />
Tại Việt Nam, SR do P.vivax lưu hành nhiều<br />
ở các tỉnh phía bắc, dọc biên giới phía tây, gần<br />
đây tỷ lệ P.vivax cũng tăng lên tại một số tỉnh<br />
khu vực miền Trung-Tây Nguyên, trong đó có<br />
tỉnh Ninh Thuận. Khu vực miền Trun – Tây<br />
nguyên (MT-TN) nói riêng với nhiều tỉnh thành<br />
có vùng SR trọng điểm và tình hình KST kháng<br />
với các thuốc cao. Việc đánh giá hiệu lực phác<br />
đồ thuốc SR đang dùng và thuốc mới với P.<br />
falciparum là một yêu cầu cần thiết và thường<br />
quy, nhất là theo dõi liên tục tại một số điểm<br />
thuộc vùng SRLH có tỷ lệ kháng cao. Như các<br />
<br />
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
quốc gia Đông Nam Á khác, Việt Nam cũng<br />
đang đối mặt với nguy cơ lan rộng tiềm tàng P.<br />
vivax kháng với chloroquine(2,3). Do đó, song<br />
song hoạt động theo dõi đáp ứng ký sinh trùng<br />
P.falciparum, thiết nghĩ chúng ta không những<br />
không nên xem SR do P.vivax là căn bệnh bị lãng<br />
quên, mà còn phải theo dõi thường quy vấn đề<br />
hiệu lực của CQ đối với P.vivax, để từ đó có<br />
hướng xử trí và thay đổi phác đồ thích hợp.<br />
Với ý tưởng bổ sung dữ liệu KSTSR kháng<br />
thuốc tại Việt Nam, góp phần thay đổi phác đồ<br />
chống kháng cho phù hợp từng giai đoạn, nhận<br />
định thực chất diễn biến kháng thuốc của chủng<br />
P. falciparum và P. vivax đề xuất các phác đồ điều<br />
trị SR phù hợp, làm cơ sở cho việc xây dựng<br />
chính sách thuốc sốt rét ở nước ta. Đề tài này<br />
tiến hành nhằm mục tiêu:<br />
Đánh giá hiệu lực phác đồ CQ trên bệnh<br />
nhân SR chưa biến chứng do Plasmodium vivax.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Địa điểm, thời gian nghiên cứu<br />
Nghiên cứu tiến hành tại: xã Cư K’Bang<br />
(huyện Ea Sup, tỉnh Đăk Lăk), xã Phước Chiến<br />
(huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận) và xã Xy<br />
(huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị);<br />
Từ tháng 3/2012 - 11/2012.<br />
<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
Bệnh nhân sốt rét Plasmodium vivax chưa<br />
biến chứng.<br />
<br />
Tiêu chuẩn chọn bệnh<br />
Tuổi từ 6 tháng tuổi trở lên.<br />
Nhiễm đơn thuần KSTSR Plasmodium vivax<br />
được phát hiện bằng KHV.<br />
Mật độ thể vô tính của KSTSR P.vivax trong<br />
máu ≥ 250/µl máu.<br />
Nhiệt độ nách ≥ 37.5 °C hoặc tiền sử có sốt<br />
trong vòng 48 giờ trước khi nghiên cứu.<br />
Bệnh nhân có khả năng nuốt và uống thuốc.<br />
Chưa dùng bất kỳ loại thuốc sốt rét nào<br />
trước đó.<br />
Bệnh nhân và/ hoặc gia đình đồng ý hợp tác<br />
<br />
75<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
nghiên cứu.<br />
<br />
Tiêu chuẩn loại trừ<br />
Nhỏ hơn 6 tháng tuổi và lớn hơn 70 tuổi.<br />
Phụ nữ có thai (test thử âm tính) hoặc đang<br />
cho con bú.<br />
Bệnh nhân SR P.vivax có biểu hiện biến<br />
chứng hoặc nặng đòi hỏi phải nhập viện, hoặc<br />
nôn trầm trọng, không hấp thu được thuốc.<br />
Hiện đang mắc bệnh nhiễm trùng khác.<br />
Nhiễm sốt rét phối hợp P.vivax + P.falciparum<br />
hoặc P.malariae.<br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Thiết kế nghiên cứu<br />
Thiết kế nghiên cứu là thử nghiệm lâm sàng<br />
ngẫu nhiên tự chứng.<br />
<br />
Thử nghiệm in vivo 28 ngày theo quy trình<br />
WHO 2009.<br />
<br />
Cỡ mẫu nghiên cứu<br />
Trong cơ cấu KSTSR ở các xã nghiên cứu, cơ<br />
cấu với P. falciparum chiếm ưu thế, trong khi tỷ<br />
lệ P. vivax rất thấp (< 5%), vả lại hiện tại 3 điểm<br />
này chưa có báo cáo P. vivax kháng với CQ. Do<br />
đó, nếu chọn tỷ lệ thất bại điều trị của thuốc CQ<br />
ở các điểm nghiên cứu khoảng 5%, với khoảng<br />
tin cậy 95%, độ chính xác (d) 10%. Khi đó cỡ<br />
mẫu tối thiểu cần nghiên cứu đánh giá hiệu lực<br />
CQ là: 18 bệnh nhân (theo hướng dẫn của WHO<br />
-TEGMC., 2008), cộng thêm số mất mẫu 20% <br />
số mẫu cần = 18 + (18 x 20%) 22 ca<br />
<br />
Phân loại đánh giá hiệu quả điều trị<br />
Bảng 1. Bảng đánh giá hiệu lực phác đồ điều trị theo tiêu chuẩn WHO (2009).<br />
Phân loại đánh giá hiệu lực điều trị theo tiêu chuẩn WHO<br />
Thất bại điều trị sớm (ETF_Early Treatment Failure)<br />
Xuất hiện các dấu chứng của sốt rét nguy hiểm hoặc nghiêm trọng vào ngày D1, D2 hoặc D3, kèm có mặt KSTSR trong máu;<br />
KSTSR vào ngày D2 cao hơn D0 bất kể thân nhiệt;<br />
Xuất hiện KSTSR trong máu vào ngày D3 đi kèm thân nhiệt ≥ 37.5ºC;<br />
KSTSR trong máu vào ngày D3 ≥ 25% so với MĐKSTSR ngày D0.<br />
Thất bại điều trị muộn (LTF_Late Treatment Failure), gồm có:<br />
Thất bại lâm sàng muộn (LCF_Late Clinical Failure)<br />
Xuất hiện các dấu chứng sốt rét nặng và nguy hiểm vào bất kỳ ngày nào từ D4 đến D28 với sự có mặt của KSTSR trong máu,<br />
không có tiêu chuẩn nào của ETF trước đó;<br />
Có mặt KSTSR trong máu và thân nhiệt ≥ 37.5ºC hoặc có tiền sử sốt trong vùng sốt rét lan truyền thấp đến trung bình ở bất<br />
kỳ ngày nào từ D4 đến D28, không có bất kỳ dấu hiệu nào của ETF trước đó;<br />
Thất bại ký sinh trùng muộn (LPF_Late Parasitological Failure)<br />
Có mặt KSTSR trong máu vào bất kỳ ngày nào từ D7 đến D28 và thân nhiệt < 37.5ºC, không có bất kỳ tiêu chuẩn nào của<br />
ETF và LCF trước đó.<br />
Đáp ứng lâm sàng, KST đầy đủ (ACPR_Adequate Clinical and Parasitological Response)<br />
Không có xuất hiện KSTSR trong máu vào D28, bất luận nhiệt độ nách thế nào và không có bất kỳ tiêu chuẩn nào của ETF,<br />
LCF và LPF trước đó.<br />
<br />
Phân tích và xử lý số liệu<br />
<br />
mật và sự bồi hoàn phải luôn tôn trọng.<br />
<br />
Số liệu phân tích và xử lý theo bảng In vivo<br />
Exelsheet 7.1 của WHO 2009.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
<br />
Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu<br />
Đề cương đã được thông qua Hội đồng khoa<br />
học và Hội đồng Đạo y sinh học.<br />
Thử nghiệm hiệu lực phác đồ điều trị được<br />
tiến hành dưới sự giám sát trực tiếp các cán bộ<br />
chuyên môn, tất cả thời điểm, tính an toàn, bảo<br />
<br />
76<br />
<br />
Đặc điểm chung của 3 nhóm bệnh nhân<br />
nghiên cứu<br />
Tổng số 1.646 trường hợp đến khám và điều<br />
trị tại ba điểm nghiên cứu song song để đánh<br />
giá hiệu lực phác đồ đối với P. vivax, chỉ có 62 ca<br />
P. vivax đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu và<br />
theo dõi lịch trình 28 ngày, có 5 trường hợp mất<br />
<br />
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
Tổng số phân tích<br />
<br />
theo dõi do nhiều nguyên do.<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
62<br />
<br />
Bảng 2. Phân bố 62 ca bệnh sốt rét do P. vivax theo<br />
tỉnh.<br />
<br />
Nhận xét: Số ca có ACPR là 100%, không có<br />
trường hợp thất bại LPF hoặc ETF, LCF.<br />
<br />
TT<br />
<br />
Hiệu lực cắt sốt và cắt ký sinh trùng P.<br />
vivax của phác đồ chloroquine<br />
<br />
Địa điểm nghiên cứu<br />
<br />
Số ca sàng Số ca đủ tiêu<br />
lọc<br />
chuẩn<br />
1 Phước Chiến, Ninh Thuận<br />
672<br />
21 (3,13%)<br />
2<br />
Xy, Quảng Trị<br />
463<br />
9 (1,94%)<br />
3<br />
Cư K’Bang, Đăk Lăk<br />
511<br />
32 (6,26%)<br />
Tổng cộng<br />
1,646<br />
62 ca<br />
<br />
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân nhiễm P. vivax tại<br />
các tỉnh Quảng Trị, Ninh Thuận và Đăk Lăk lần<br />
lượt 1,94%, 3,13% và 6,26%. Riêng điểm Cư<br />
K’Bang của huyện Ea Sup (ĐL) có số ca P. vivax<br />
chiếm cao trong cơ cấu KSTSR.<br />
Bảng 3. Một số đặc điểm về dân số học và lâm sàng<br />
của nhóm nghiên cứu.<br />
Đặc điểm nhóm nghiên cứu<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
3<br />
<br />
4<br />
<br />
5<br />
<br />
Giới tính (n = 62)Nam<br />
Nữ<br />
Nhóm tuổi: < 5<br />
≥ 5 – < 15<br />
≥ 15<br />
Thân nhiệt và cân nặng<br />
0<br />
Thân nhiệt trung bình ( C)<br />
Cân nặng trung bình (kg)<br />
Số ngày sốt trước điều trị (ngày)<br />
Số ca có sốt và tiền sử có sốt<br />
0<br />
Nhiệt độ ≥ 37.5 C<br />
Tiền sử có sốt<br />
Mật độ KSTSR trung bình<br />
MĐKSTSR thể vô tính<br />
MĐKST thể giao bào trung bình<br />
<br />
Thời điểm bắt đầu<br />
vào nghiên cứu D0<br />
50 (80,65%)<br />
12 (19,35%)<br />
3 (4,83%)<br />
15 (24,20%)<br />
44 (70,97%)<br />
37,12 ± 1,16<br />
39,8 ± 14,5<br />
3,6 ± 1,2<br />
29 (46,77%)<br />
9 (14,52%)<br />
3,222 /l (3,214 –<br />
3,170)<br />
72/ l (31 - 118)<br />
<br />
Nhận xét: 62 trường hợp đủ tiêu chuẩn<br />
nghiên cứu, nam giới cao hơn nữ giới. Phần lớn<br />
ở nhóm tuổi trên 15 với 70,97%, trong khi trẻ em<br />
lớn 24,20% và trẻ em < 5 tuổi là 4,83%.<br />
<br />
Hiệu lực phác đồ chloroquine liệu trình 3<br />
ngày đối với sốt rét do P. vivax<br />
<br />
Hiệu lực<br />
<br />
Bảng 4. Phân loại hiệu lực phác đồ chloroquine đối<br />
với P. vivax.<br />
Chỉ số đánh giá<br />
ETF<br />
<br />
Số lượng<br />
0<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
0<br />
<br />
LCF<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
LPF<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
ACPR<br />
<br />
62<br />
<br />
100<br />
<br />
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng<br />
<br />
Bảng 5. Hiệu lực cắt sốt và cắt ký sinh trùng P.<br />
vivax của phác đồ Chloroquine.<br />
Kết quả phân tích<br />
Thông số năm 2012<br />
Tổng số ca phân tích (n = 62)<br />
62<br />
Thời gian cắt sốt trung bình (FCT)<br />
24,11 ± 10,30<br />
Thời gian sạch KST T.bình (PCT)<br />
32,15 ± 6,16<br />
<br />
Nhận xét: Thời gian cắt sốt TB 24,11 ± 10,30<br />
giờ và thời gian cắt KST 32,15 ± 6,16 giờ.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân<br />
nghiên cứu<br />
Tổng số 62 trường hợp đủ tiêu chuẩn và<br />
theo dõi đủ liệu trình 28 ngày theo thiết kế thử<br />
nghiệm lâm sàng. Trong tổng số trường hợp<br />
tham gia, nam chiếm 80,65% và nữ 19,35%; phần<br />
lớn bệnh nhân thuộc nhóm tuổi ≥ 15 và 5 - 15<br />
(70,97% và 24,20%), đây là nhóm tuổi thường<br />
xuyên đi cùng cha mẹ đi vào vùng rẫy để tham<br />
gia công việc vụ mùa, đốn trụ tiêu, làm ngô, đậu<br />
xanh và đặc biệt có 3 trường hợp trẻ em dưới 5<br />
tuổi do các đối tượng này được cha mẹ địu vào<br />
rừng và rẫy nên có khả năng mắc SR dễ ác tính<br />
là điều khó tránh khỏi.<br />
Trường hợp sốt rét P. vivax trong nghiên<br />
cứu, thân nhiệt chỉ dao động khoảng 37,12 ±<br />
1,160C vào thời điểm D0, chỉ có 29 (46,77%)<br />
trường hợp có sốt và số ngày có sốt trước khi<br />
vào nghiên cứu 2 – 4,5 ngày (3,6 ± 1,2). Một số ca<br />
không có biểu hiện sốt, có thể do yếu tố miễn<br />
dịch bệnh nhân sống trong vùng SRLH, hoặc<br />
bệnh nhân đã có tiền sử sốt trước đó, lúc khám<br />
đã qua cơn và điều đặc biệt trong SR do P. vivax<br />
là sốt cách nhật. Mật độ KSTSR thể vô tính dao<br />
động cao 3.222 /l (3,214 – 3,170) và giao bào có<br />
mặt trong phần lớn các trường hợp.<br />
<br />
Hiệu lực phác đồ CQ liệu trình 3 ngày đối<br />
với sốt rét do P. vivax<br />
<br />
77<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
Qua phân tích 62 trường hợp, tỷ lệ ACPR là<br />
100%, không có trường hợp nào biểu hiện thất<br />
bại điều trị sớm (ETF), thất bại lâm sàng muộn<br />
(LCF) hoặc thất bại ký sinh trùng muộn (LPF).<br />
Điều đó cho thấy hiệu lực CQ còn rất bền vững<br />
đối với P. vivax tại 3 điểm nghiên cứu. So với các<br />
nghiên cứu khác thì phần lớn các trường hợp<br />
thất bại lâm sàng muộn đều xuất hiện ký sinh<br />
trùng sau ngày D7 và trong khoảng từ D17 đến<br />
D28. Thời điểm xuất hiện lại P. vivax tương tự<br />
trong một nghiên cứu trên cỡ mẫu lớn (n = 333)<br />
được tiến hành tại Indonesia là từ D17-D30, trung<br />
bình là D23, có một số ít xuất hiện sau ngày D30,<br />
ở đó các tác giả dựa trên y học chứng cứ từ<br />
những dữ liệu la bô, cụ thể đo nồng độ thuốc<br />
CQ + DCQ đều > 100ng/mL đối với các trường<br />
hợp thất bại xuất hiện lại KSTSR và thú vị hơn<br />
các trường hợp xuất hiện lại KSTSR P. vivax vào<br />
các ngày D30 vẫn cho nồng độ này vượt ngưỡng<br />
100ng/ml, cho nên các ca bệnh thất bại như thế<br />
là kháng thuốc thật sự và càng không thể quy<br />
trách nhiệm kháng này là do lỗi nồng độ thuốc<br />
CQ trong huyết tương bệnh nhân không đủ ức<br />
chế(1).<br />
Một đánh giá chi tiết tại vùng Dawei, gần<br />
biến giới Thái Lan - Myanmar, trên 235 bệnh<br />
nhân sốt rét P. vivax được đánh giá hiệu lực có<br />
đến 34% bệnh nhân xuất hiện lại KSTSR và được<br />
xem là thất bại điều trị, 59,4% trong số xuất hiện<br />
lại KSTSR là khác dòng. 2 trường hợp (0.8%)<br />
trường hợp xuất hiện vào D14 có nồng độ CQ +<br />
DCQ > 100 ng/ml và xem là nhiễm ký sinh trùng<br />
kháng thuốc, 21% số ca thất bại xảy ra trong 3<br />
tuần đầu theo dõi và cũng xác định là kháng<br />
(Guthmann JP và cs., 2008). Gần đây hơn, một<br />
nghiên cứu đa trung tâm tiến hành tại Alor của<br />
quần đảo Lesser Sundas, Indonesia đánh giá<br />
hiệu lực thuốc CQ, kết quả cho thấy (8,33%)<br />
trường hợp thất bại điều trị sớm vào D2-3, 5,56%<br />
xuất hiện lại KSTSR P.vivax vào D7, 27,78%<br />
trường hợp xuất hiện lại KSTSR P.vivax vào<br />
ngày D14, 5,56% trường hợp vào D21 và 2,78%<br />
vào D28, tính chung tỷ lệ kháng cộng dồn là trên<br />
50% (Sutano I và cs., 2009)(5,7,8).<br />
<br />
nữa khẳng định hiệu lực thuốc CQ vẫn còn rất<br />
tốt so với các vùng khác đã được báo cáo trên y<br />
văn từ 1989 - 2011, nhìn chung trong 2 ngày đầu<br />
đều sạch KSTSR. Do đặc tính sinh học trong chu<br />
kỳ sinh bệnh loài P. vivax, thể ngủ có thời gian<br />
ngủ đông (“hibernate”) có thể từ vài tháng đến<br />
vài năm, có thể tái phát sớm vào thời điểm 16<br />
ngày và có thể muộn hơn là 3 năm kể từ thời<br />
gian nhiễm đầu tiên, nên các trường hợp xuất<br />
hiện lại P. vivax vào thời điểm nào trong suốt<br />
quá trình theo dõi cũng cần làm rõ dựa trên kỹ<br />
thuật sinh học phân tử, để xem đó là tái phát<br />
hay tái nhiễm, song không phải lúc nào kết quả<br />
cũng đáng tin cậy và đây là điểm thú vị trong<br />
đánh giá nhạy kháng P.vivax vì khi phân tích<br />
kiểu gen thì có đến hơn ½ số ca có P.vivax gây<br />
tái phát lại có kiểu gen khác với kiểu gen nhiễm<br />
ban đầu (Chen và cs., 2007)(4), nghĩa là vẫn còn<br />
nhiều thách thức trong nghiên cứu kháng P.<br />
vivax.<br />
<br />
Hiệu lực cắt sốt và cắt ký sinh trùng<br />
P.vivax của phác đồ CQ<br />
Diễn biến thời gian FCT và PCT, kết quả cho<br />
thấy thời gian cắt sốt trung bình là 24,11 ± 10,30<br />
giờ và thời gian làm sạch KSTSR là 32,15 ± 6,16<br />
giờ. Nếu so sánh kết quả này thực hiện trong<br />
năm 2009 với các các năm trước đó, nhưng trên<br />
điểm nghiên cứu khác ở các năm 2005, 2006 và<br />
2007 diễn tiến lần lượt thời gian cắt sốt 27,17 ±<br />
9,51 giờ 29,9 ± 11,6 giờ 32,90 ± 11,6 giờ và<br />
năm 2009 là 34,12 ± 12,46 giờ. Song song đó, thời<br />
gian làm sạch ký sinh trùng của phác đồ CQ qua<br />
các năm 2005, 2006, 2007 lần lượt 38,90 ± 16,30<br />
giờ 39,9 ± 13,30 giờ 41,20 ± 7,01 giờ và dữ<br />
liệu năm 2009 là 42,85 ± 8,14 giờ. Nghĩa là theo<br />
thời gian, FCT và PCT không có xu hướng tăng<br />
dần như những năm trước khi nghiên cứu trên<br />
cùng một địa điểm tỉnh Ninh Thuận. Hiện nay,<br />
CQ chỉ còn điều trị lựa chọn cho SR P. vivax,<br />
song vấn đề dùng đơn trị liệu, quy mô rộng và<br />
thời gian dài như thế cũng nên có quy trình<br />
giám sát hiệu lực thuốc thường quy, bởi lẽ dưới<br />
áp lực thuốc và thời gian dùng dài, sẽ khó tránh<br />
khỏi kháng thuốc xuất hiện. Theo một nghiên<br />
<br />
Như vậy, dữ liệu nghiên cứu này đã một lần<br />
<br />
78<br />
<br />
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng<br />
<br />