
Đau ngực - Khi nào
cần có sự can thiệp
y khoa
Nếu bạn có những triệu chứng của đau ngực đặc biệt là lần đầu tiên,
bạn nên đi đến bệnh viện.
Bạn có thể gọi xe cấp cứu hoặc nhờ ai đó chở đến phòng cấp cứu gần nhất. Không
nên tự lái xe một mình.
Vì nhiều nguyên nhân đau ngực thường tương tự như nhồi máu cơ tim hoặc
những bệnh nguy hiểm đến tính mạng khác nên cần phải để các bác sĩ can thiệp
nhanh nhất trong mức có thể.
Nếu bạn nghi ngờ mình bị nhồi máu cơ tim hoặc những cơn đau ngực
nguy hiểm đến tính mạng, hãy gọi xe cấp cứu và đi đến bệnh viện
ngay. Không cố gắng tự lái xe một mình.

Nếu bạn bị nhồi máu cơ tim, thời gian rất quan trọng. Thời gian bạn chờ đợi để
được chẩn đoán và điều trị càng lâu thì càng có nhiều cơ tim bị tổn thương.
Nếu bạn bị đau ngực do một nguyên nhân nghiêm trọng đang diễn ra, các bác sĩ
có thể sẽ can thiệp sớm bằng những biện pháp hiệu quả để làm giảm nguy cơ dẫn
đến tử vong hoặc các hậu quả nặng nề. Những phương pháp điều trị này có thể có
hiệu quả tốt trong chất lượng sống lâu dài của bạn.
Nếu không phải nhồi máu cơ tim hoặc những bệnh nguy hiểm đến tính
mạng:
Bạn sẽ không thể khẳng định được chắc chắn cho đến khi các bác sĩ tìm ra được
nguyên nhân đau ngực của bạn. Do đó, đừng nên tự lo lắng một cách quá mức.
Nếu triệu chứng đau ngực của bạn không nguy hiểm đến tính mạng, bạn không
nên cảm thấy bối rối hoặc nghĩ rằng mình đang làm mất thời gian của mọi người.
Dù kết quả có thế nào đi chăng nữa, bạn luôn luôn phải đi đến bệnh viện hoặc
phòng cấp cứu gần nhất.
Khi bị đau ngực, bất kể nó có phải là do những nguyên nhân có thể đe dọa tính
mạng của bệnh nhân hay không thì cũng đều cần phải được các bác sĩ đánh giá
một cách kỹ lưỡng. Hãy chắc chắn rằng mình đã có một quyết định đúng đắn và
cảm thấy thoải mái khi đến phòng cấp cứu mỗi khi bạn bị đau ngực.
Nhồi máu cơ tim
Tại phòng cấp cứu, bác sĩ sẽ thực hiện 3 thủ thuật để chẩn đoán xác
định xem bệnh nhân có bị nhồi máu cơ tim hay không:
Đầu tiên, thu nhập những triệu chứng của bệnh nhân.
Thứ hai, thực hiện ECG (điện tâm đồ), đây là một phương pháp để đo điện học
các hoạt động của tim. ECG có thể cho ta biết được những mạch máu nào bị tắc
hoặc bị hẹp.
Thứ ba, đo các enzyme do cơ tim sản xuất khi chúng không nhận đủ oxy. Những
enzyme này có thể được nhận biết bằng xét nghiệm máu và được gọi là men tim.
Đau thắt ngực
Các bác sĩ cũng sử dụng những phương pháp chẩn đoán nhồi máu cơ
tim để chẩn đoán đau thắt ngực.
Trong đau thắt ngực, các xét nghiệm cho thấy không có sự tổn thương vĩnh viễn
của cơ tim.
Chẩn đoán chỉ được xác định sau khi đã có đủ bằng chứng để loại trừ nhồi máu cơ
tim, thường là kết quả âm tính ở cả 3 lần thực hiện xét nghiệm men tim.
Mặc dù ECG có thể cho thấy có bất thường, những thay đổi này có thể trở về bình
thường.

Một phương pháp khác để chẩn đoán đau thắt ngực là stress test: những xét
nghiệm này sẽ ghi nhận ECG trong khi tập luyện hoặc những gắng sức khác nhằm
khẳng định có những chỗ hẹp trong mạch máu của tim.
Thông tim được sử dụng để xác định chỗ hẹp. Đây là phương pháp chụp X –
quang chuyên biệt. Phương pháp này sử dụng một loại thuốc nhuộm vô hại để làm
nổi bật những chỗ hẹp hoặc những bất thường khác của mạch máu.
Bóc tách động mạch chủ
Chẩn đoán bóc tách động mạch chủ dựa trên những triệu chứng mà
bệnh nhân mô tả, X – quang ngực, và các chẩn đoán hình ảnh chuyện
biệt khác.
Trên X – quang ngực, động mạch chủ sẽ có những đường viền bất thường hoặc
xuất hiện những chỗ phình ra.
Siêu âm tim qua ngã thực quản là phương pháp siêu âm đặc biệt. Ở phương pháp
này, người ta đưa đầu dò siêu âm vào bên trong thực quản để quan sát tim. Kỹ
thuật này được thực hiện sau khi cho thuốc giảm đau hoặc gây mê.
Bóc tách động mạch chủ có thể được xác định chắc chắn nhờ vào CT scan ngực
hoặc chụp mạch máu.
Thuyên tắc mạch máu phổi
Chẩn đoán thuyên tắc mạch máu phổi có thể được xác định dựa trên
nhiều dữ kiện khác nhau:
Sự miêu tả các triệu chứng của bệnh nhân, kết quả trên ECG và X – quang ngực
có thể góp phần chẩn đoán nhưng không phải là yếu tố quyết định
Những bệnh nhân được chẩn đoán xác định nếu có những triệu chứng do cục máu
đông ở chân.
Bác sĩ sẽ lấy máu động mạch để đo nồng độ oxy và các chất khí có trong máu
bệnh nhân (khí máu động mạch). Những bất thay đổi thường về nồng độ các chất
khí trong máu cho biết phổi gặp vấn đề trong việc cung cấp đủ lượng oxy cho cơ
thể.
V/Q scan (ventilation-perfusion scan) được dùng để so sánh lượng máu chảy qua
với lượng oxy nhận vào ở những phần khác nhau của phổi. Nếu có bất thường chỉ
ở một phần nào đó của phổi cũng có thể chẩn đoán là tắc mạch phổi.
Có thể chụp CTScan ở phổi thay vì V/Q scan để chẩn đoán xác định bệnh nhân có
tắc mạch phổi hay không.
Tràn khí màng phổi nguyên phát
Chẩn đoán tràn khí màng phổi nguyên phát dựa trên khám lâm sàng
và X – quang ngực. CTScan có thể có ích trong việc xác định những
vùng tràn khí nhỏ.

Thủng tạng rỗng
Thường được xác định bằng X – quang ngực với tư thế đứng hoặc X –
quang bụng với tư thế nằm nghiêng sang trái.
Chụp X – quang ở những tư thế này có làm cho khí đi về phía cơ hoành, giúp phát
hiện ra dễ dàng.
Những triệu chứng, kết quả khám lâm sàng và những xét nghiệm khác cũng hổ trợ
chẩn đoán.
Viêm màng ngoài tim
Viêm màng ngoài tim cấp được chẩn đoán dựa trên những triệu chứng
của bệnh nhân, ECG chuỗi, và siêu âm tim. Một số xét nghiệm khác
cũng có ích trong việc xác định nguyên nhân.
Viêm phổi
Viêm phổi được chẩn đoán dựa vào những triệu chứng của bệnh nhân,
bệnh sử, khám lâm sàng và X – quang ngực.
Những bệnh liên quan đến thực quản
Những bệnh liên quan đến thực quản gây đau ngực đuợc chẩn đoán
dựa trên nguyên tắc loại trừ. Chẩn đoán sẽ được xác định dựa trên
những triệu chứng của bệnh nhân, bệnh sử và sau khi đã loại trừ các
nguyên nhân từ tim và theo dõi xem bệnh nhân có giảm đau khi sử
dụng thuốc kháng acid hay không.

