intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đẩy mạnh xây dựng nền “giáo dục mở” trong bối cảnh hội nhập

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

19
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Đẩy mạnh xây dựng nền “giáo dục mở” trong bối cảnh hội nhập" trình bày những nội dung cần quan tâm nhằm thúc đẩy một nền “giáo dục mở” trước yêu cầu hội nhập và phát triển của xã hội. Hệ thống “giáo dục mở” sẽ đảm bảo mọi người dân được tiếp cận với tri thức nhân loại thông qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú với chi phí hợp lý; hướng đến xây dựng thành công xã hội học tập. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đẩy mạnh xây dựng nền “giáo dục mở” trong bối cảnh hội nhập

  1. ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG NỀN “GIÁO DỤC MỞ” TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP ThS. Nguyễn Lâm Trâm Anh* 1 Tóm tắt: Yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam phải đổi mới nhanh và mạnh hơn nữa. Một trong những định hướng cần quan tâm chính là phát triển giáo dục theo hướng mở. Hệ thống “giáo dục mở” sẽ đảm bảo mọi người dân được tiếp cận với tri thức nhân loại thông qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú với chi phí hợp lý; hướng đến xây dựng thành công xã hội học tập. Bài viết trình bày những nội dung cần quan tâm nhằm thúc đẩy một nền “giáo dục mở” trước yêu cầu hội nhập và phát triển của xã hội. Từ khoá: Giáo dục, “giáo dục mở”, xây dựng xã hội học tập. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước được xem là yêu cầu quan trọng của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo đó, giáo dục và đào tạo được xác định là một trong những trọng tâm mang tính chiến lược, được ưu tiên thực hiện trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa XI) thông qua, đã xác định: “Đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới…”; đặc biệt là định hướng phải: “Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo… Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước”2. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng đã xác định: “Đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, NCS, Thạc sỹ Luật, Khoa Luật – Đại học Sài Gòn (SGU). 1 Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu 2 công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế do Ban Chấp hành Trung ương ban hành.
  2. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 751 phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển KT-XH, KH&CN, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”1; “Đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời”2. Những quan điểm, chủ trương của Đảng chính là sự tiếp nối, kế thừa liên tục từ Đại hội IX (2001), không nằm ngoài mục tiêu hướng đến một nền giáo dục mà UNESCO đã nêu ra từ đầu thế kỷ XX đến nay là: Học suốt đời; học cách học; học để hiểu, học để làm, học để cùng chung sống và học để làm người; xây dựng xã hội học – hành. Đây cũng chính là bốn cột trụ mà một nền giáo dục toàn cầu, hiện đại hướng tới. Theo đó, nền “giáo dục mở” được hiểu là nền giáo dục phát triển trên nền tảng của khoa học và công nghệ (KH&CN); đáp ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế với sự đa dạng về loại hình đào tạo dưới mọi hình thức. Nền “giáo dục mở” không chỉ nhằm tạo ra động lực mới thúc đẩy xã hội học tập mà còn hướng đến việc thúc đẩy nhu cầu học tập suốt đời của mỗi cá nhân trong sự phát triển toàn diện. Trong bối cảnh hội nhập, nhằm sử dụng hiệu quả những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, “giáo dục mở” đang mở ra triển vọng cho công cuộc đổi mới đối với giáo dục và đào tạo ở Việt Nam trước xu thế phát triển chung của khu vực và thế giới. 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NỀN “GIÁO DỤC MỞ” Theo nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, giáo dục và đào tạo là một bộ phận trong mối quan hệ biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng (KTTT) với cơ sở hạ tầng (CSHT) kinh tế - xã hội (KT-XH). Một trong những chức năng trọng yếu của giáo dục chính là tái sản xuất sức lao động xã hội ở một trình độ mới, cao hơn, hoàn thiện hơn, khéo léo hơn, phát triển hơn, hiệu quả hơn để nhằm thay thế sức lao động cũ ngày càng lỗi thời không đáp ứng nhu cầu mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất xã hội. Vì thế, xuyên suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm qua, từ khi con người hình thành cộng đồng xã hội, giáo dục luôn luôn là bộ phận vận động, phát triển và không ngừng đổi mới theo những chiều hướng khác nhau, nhưng luôn là sự vận động nhằm đáp ứng nhu cầu về nhân lực xã hội ngày một cao hơn lực lượng sản xuất hiện hữu. Đồng thời, tùy thuộc vào tính chất, trình độ, mức độ và tốc độ phát triển của xã hội trong những giai đoạn, từng thời kỳ khác nhau mà mức độ, tính chất và tốc độ vận động, thay đổi của giáo dục và đào tạo sẽ thay đổi cho phù hợp trong tính biện chứng của nó giữa CSHT với KTTT. Ngày nay, nhân loại đang bước vào nền kinh tế tri thức, theo cơ chế thị trường, xu thế hội nhập và toàn cầu hóa với tốc độ phát triển nhanh không chỉ với cấp số cộng Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.1, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.136. 1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.1, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.137. 2
  3. 752 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP mà vượt lên, trở thành cấp số nhân; cùng với sự ra đời và đổi mới tri thức công nghệ không ngừng được rút ngắn về mặt thời gian. Trong khoảng 20 năm đầu của thế kỷ XXI, người ta ước tính rằng, cứ sau từ 6 – 7 năm, tri thức nhân loại được gia tăng gấp đôi. Đặc biệt, thời gian gia tăng lượng tri thức mới của nhân loại ngày càng rút ngắn xuống chỉ còn từ 3 – 5 năm với một tốc độ chóng mặt (điển hình là sự thay đổi các công nghệ trong lĩnh vực thông tin, truyền thông, máy tính, tự động…). Cách mạng khoa học và công nghệ đã thúc đẩy quá trình lượng hóa tri thức trong một sản phẩm ngày một nhiều hơn, lớn hơn và làm cho tính chất công nghệ không ngừng biến đổi kịp thời theo xu thế của xã hội. Để phát triển, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, chúng ta phải nắm bắt, khai thác, sử dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật, công nghệ hiện đại và những yếu tố tri thức mang tính chủ đạo của nền kinh tế tri thức, với phương châm tăng tốc, phát triển tiến lên theo các quốc gia phát triển mới khác (trong đó chủ yếu là các quốc gia công nghiệp mới NICs). Trên cơ sở những thay đổi mục tiêu giáo dục theo lối truyền thống là trang bị tri thức và trao truyền kinh nghiệm, thông tin tri thức nhân loại theo thế hệ thì giờ phải chuyển sang bồi dưỡng, nâng cao năng lực. Theo đó các loại năng lực chủ yếu được xác định đó là năng lực quan hệ xã hội (bao gồm: giao tiếp, hợp tác), năng lực công cụ (bao gồm: tính toán, công nghệ thông tin và truyền thông), năng lực làm chủ và phát triển (gồm có: tự học, tự giải quyết vấn đề và sáng tạo, thể chất và thẩm mỹ). Các loại năng lực đều cần thiết và quan trọng; tuy nhiên, năng lực tự học, chủ động giải quyết vấn đề, sáng tạo, thể chất và thẩm mỹ giữ vai trò chủ đạo gắn liền với thực tiễn gắn liền với nền kinh tế phát triển. Những năng lực này cũng đồng thời cũng có mối liên hệ với những cột trụ giáo dục thế kỷ XXI mà UNESCO đặt ra, đó là: học tập suốt đời trong xã hội học tập nhằm có thể chung sống và làm việc cùng với sự phát triển về đạo đức của bản thân. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang từng bước định hướng, xây dựng một nền “giáo dục mở”. Thuật ngữ này được dùng để mô tả mô hình/hệ thống giáo dục được thiết kế để mở rộng sự tiếp cận việc học tập so với giáo dục chính quy (truyền thống, thông thường) bằng nhiều biện pháp, trong đó đặc biệt nhấn mạnh sự phát triển nguồn học liệu “giáo dục mở” (trên nền tảng công nghệ hiện đại) trong mọi môi trường học tập với nhiều hình thức khác nhau. Có thể hiểu tính chất “mở” của hệ thống giáo dục thể hiện thông qua cấu trúc hệ thống được thiết kế hợp lý, có nhiều cơ hội đầu vào và đầu ra; trong đó, các bộ phận và tầng - bậc liên thông với nhau, tạo điều kiện cho người học dễ dàng tiếp cận hệ thống trong cả quá trình học tại các thời điểm khác nhau trong suốt cuộc đời của họ. Bắt kịp với xu thế này, một số tổ chức tư nhân tại Việt Nam đã sớm xây dựng mô hình “giáo dục mở”, khởi đầu cho trào lưu MOOC (Massive Open Online Courses) tại Việt Nam, có mối liên hệ chặt chẽ với thuật ngữ “distance learning” (tạm dịch là: đào tạo từ xa); tiên phong là Tổ hợp
  4. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 753 giáo dục TOPICA (đem công nghệ “giáo dục mở” - từ xa của Việt Nam ra thế giới); hay như GIAPSCHOOL, FUNIX và các công nghệ giáo dục mới như E-learning, I-learning, Mobi-learning, U-learning… Đặc biệt trong năm 2020, khi đại dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát, đã có sự tác động mạnh mẽ đến nhận thức của xã hội về “giáo dục mở”, phản ảnh đúng quy luật triết học về tồn tại xã hội quyết định đến ý thức xã hội. Chính thời điểm đất nước đang dần vượt qua và dẫn đầu trong cuộc đua chống dịch thì đồng thời cũng là lúc hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam chuyển mình thực hiện việc dạy và học trực tuyến và xem xét đến những đổi thay ở lĩnh vực giáo dục trong tương lai. Nói một cách khác, bên cạnh những tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19 ảnh hưởng đến đời sống, KT-XH của Việt Nam thì cũng đồng thời, đại dịch COVID-19 là một trong những yếu tố khách quan tác động, nhằm thúc đẩy một xu thế xã hội về một nền “giáo dục mở” của thế kỷ XXI. Dịch bệnh đã buộc mọi người trong xã hội chứ không riêng gì đối với ngành giáo dục phải nghĩ đến những phương thức nhằm hạn chế thấp nhất việc tiếp xúc trực tiếp giữa cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với tập thể. Trong khi đó, đặc trưng của “giáo dục mở” như phân tích, là việc mỗi cá nhân tự chủ động tìm kiếm cho mình những cơ hội học tập, phát triển thông qua việc tiếp cận nguồn học liệu (cơ sở dữ liệu thông tin lớn) với những hình thức phong phú, đa dạng và phi truyền thống (không cần phải đến lớp học, không cần phải tập trung đông người, không nhất thiết phải tiếp xúc trực tiếp với người dạy…) trong một xu thế lớn là xã hội học tập và học tập suốt đời. Như vậy, từ trên cơ sở lý luận và thực tiễn xã hội, giáo dục Việt Nam hiện nay cần phải đẩy mạnh việc xây dựng một nền “giáo dục mở” nhằm đáp ứng được những yêu cầu và nhu cầu về phát triển, đào tạo con người với mục tiêu trọng tâm, xuyên suốt là phát triển toàn diện. Điều này đòi hỏi, giáo dục phải thực sự “cởi mở” theo hướng linh hoạt, chủ động về mọi mặt, đồng bộ, từ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế. Một nền “giáo dục mở” không chỉ là những quan điểm nằm trên văn bản mà phải thực tiễn được triển khai, thúc đẩy mạnh mẽ bằng các cơ chế, chính sách, khung thể chế và pháp lý để mở đường cho mọi thành phần, tổ chức, đơn vị và cá nhân phát triển trong một xu hướng ngày càng đa dạng các quan hệ hợp tác về giáo dục đa chiều, đa lĩnh vực, đa không gian, có tính chất toàn cầu. Sự thay đổi này sẽ gặp nhiều thách thức và lực cản mang tính hệ thống bởi trước giờ giáo dục Việt Nam vốn dĩ theo một khuôn mẫu, truyền thống của nền văn hoá nông nghiệp sản xuất nhỏ, lẻ. 3. NHẬN THỨC VỀ ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG NỀN “GIÁO DỤC MỞ” Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Từ trước đến nay, về cơ bản, giáo dục trong nước vẫn là một nền giáo dục “đóng”. Sự chủ động, linh hoạt nếu có chỉ là những thay đổi nhỏ lẻ mang tính cục bộ, thí điểm,
  5. 754 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP chưa đủ tác động đến toàn bộ hệ thống. Do vậy, để có thể thúc đẩy, nhằm xây dựng một nền “giáo dục mở”, cần phải tập trung đến những thành tố cấu thành của một nền giáo dục, cụ thể như sau: Thứ nhất, nhận thức đúng mục tiêu của nền “giáo dục mở”; cụ thể là: tạo ra sự bình đẳng về tiếp cận giáo dục cho mọi người, ai cũng có thể học hành cũng như cơ hội để phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực cá nhân, đáp ứng yêu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế, khác với nền giáo dục “đóng” không còn phù hợp. Một nền “giáo dục mở” đòi hỏi phải đa phương hóa các mục tiêu đào tạo, đa dạng các ngành, lĩnh vực nghề nghiệp, tạo ra một cơ cấu lao động hợp lý nhằm đáp ứng có hiệu quả nền kinh tế quốc dân và nhu cầu phát triển bền vững của đất nước với xu thế hội nhập với thế giới. Do đó, việc học không chỉ dừng lại ở việc để “ứng thí” mà việc học là nhằm đáp ứng nhu cầu trước hết của bản thân người học, gắn với cuộc sống, công việc và các quan hệ xã hội. Chẳng hạn như, việc bãi bỏ ghi hình thức đào tạo trên văn bằng (tại chức, chính quy…) là một bước tiến trong tổng thể các bước để hướng tới nền “giáo dục mở” chứ không “đóng khung” tập trung vào một loại hình, một đối tượng hay một ngành, một lĩnh vực nào đó. Mở ra nhiều cơ hội cho tất cả, còn hiệu quả sẽ do xã hội đánh giá thông qua cơ chế “đào thải” đối với mỗi cá nhân nếu không đáp ứng được yêu cầu và nhu cầu mà xã hội đặt ra. Thứ hai, nội dung của nền “giáo dục mở” phải được dựa trên những đổi mới về mặt tư duy theo hướng “mở”. Tư duy đó không dừng lại ở việc tập trung nội dung giáo dục đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể chất, kỹ năng là chưa đủ mà vấn đề mấu chốt nằm ở chỗ “thực học”. Tính chất “thực học” là phải khắc phục bệnh thành tích, hư học, học tủ, học lệch, học chủ yếu để ứng thí, tiêu cực về mua bán điểm số, bằng cấp và công danh. Nội dung giáo dục trong nền “giáo dục mở” gắn liền với thực học và thực nghiệp. Học thật sự có ích cho cá nhân người học và người học cũng sử dụng được những nội dung đã được học tập vào thực tiễn nghề nghiệp trong xã hội. Đặc biệt, người học phải có tư duy “mở” đối với nội dung tri thức, với nghĩa tri thức không phải là duy nhất, bất biến mà tri thức luôn vận động, biến đổi, phát triển cùng với sự vận động của hiện thực khách quan. Do đó, phải thay đổi nội dung kiến thức, kỹ năng trong các bài học mà vốn dĩ trước đây vẫn luôn được coi như “pháp lệnh”, “khuôn mẫu” bất di bất dịch, khiến cả người dạy và người học “lười” và ngại phản biện theo những cách tư duy khác và mới, dù tư duy phản biện đó hợp lý, hoàn chỉnh hơn. Đồng thời, nội dung, phương pháp dạy học trong nền “giáo dục mở” cũng cần phải hướng tới việc giảm thiểu và dần loại bỏ lối tư duy, kỹ năng “đóng khung”; trên cơ sở “cái bất biến” để nâng cao tính gợi mở, giúp người dạy, người học tự xây dựng nội dung kiến thức, kỹ năng cho những vấn đề nghiên cứu theo một quan điểm cấu trúc hệ thống. Điều này thực tế không đơn giản, khi mà phần lớn người học, với tâm lý và tâm thế lên
  6. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 755 lớp, nhiều người dạy vẫn không thích sự “phản biện” từ phía người học với tinh thần “phê phán”, nhất là ở bậc giáo dục đại học, không thể nào có duy nhất một bộ giáo trình hay tài liệu học tập trong điều kiện sự thay đổi về tốc độ gia tăng và cập nhật, đổi mới tri thức diễn ra nhanh như vũ bão hiện nay. Trong nền “giáo dục mở”, không chỉ người dạy cung cấp tài liệu, giáo trình, thông tin mang tính một chiều cho người học mà ngược lại cả người học lẫn người dạy đều bổ trợ cho nhau mang tính hai chiều trên cơ sở cùng tìm kiếm thông tin và giải quyết vấn đề vì tri thức hiện nay không còn gói gọn trong phạm vi hẹp mà mang tính phổ biến toàn cầu. Do đó, cần phải loại bỏ thực sự lối tư duy cùng với những ý tưởng cho rằng phải biên soạn giáo trình và tài liệu hoàn chỉnh, ổn định theo kiểu “đóng khung bền vững” mà thay vào đó là việc xây dựng nội dung theo hướng nguồn mở. Thứ ba, về chủ thể và đối tượng giáo dục trong nền “giáo dục mở”. Một hiện tượng trên mạng xã hội gần đây về “cô giáo dạy vật lý”1 (chưa có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm) nhưng có những bài giảng thu hút được rất đông đảo người xem đánh giá với nhiều tích cực. Điều này cho thấy: hình thức lớp học chính quy (lớp - bài, tiết - chương), thầy giảng phải được đào tạo chính ngạch với văn bằng, chứng chỉ theo quy định và người học phải lên lớp đầy đủ đang có những thay đổi (do chính những tác động biến đổi của xã hội về nhu cầu, công nghệ….). Trong nền “giáo dục mở”, với bản chất là khuyến khích việc tự học, tự đào tạo, tự nghiên cứu. Người dạy, người học đã không còn bị quá chi phối bởi vị thế, vị trí của chức danh, bằng cấp mà thay vào đó luôn có sự chuyển hoá, đặc biệt là coi trọng thực học, thực nghiệp. Đồng thời, hình thức tổ chức dạy học không còn mang tính truyền thống trong lớp học nữa mà “giáo dục mở” hướng tới không gian chủ động, linh hoạt… đặc biệt là không gian ảo trên các nền tảng ứng dụng xã hội trực tuyến. Chủ thể và đối tượng giáo dục trong nền “giáo dục mở” không chỉ thuần túy là các nhà giáo dục mà là tất cả thành viên trong xã hội tùy theo nhu cầu, tính chất và mức độ hiểu biết, nắm bắt tri thức trong quá trình học tập; qua đó, đáp ứng được nhu cầu học tập suốt đời của mỗi cá nhân trong một xã hội học tập. Thứ tư, vai trò của đánh giá giáo dục trong nền “giáo dục mở” không còn là độc quyền của chính ngành giáo dục bởi nền “giáo dục mở” hướng đến đáp ứng yêu cầu và nhu cầu của xã hội. Do đó, việc đánh giá thực chất hoàn toàn thuộc về xã hội chứ không còn mang tính “độc quyền” của chính các thầy, cô trong ngành. Việc này hạn chế được tính chủ quan, bệnh thành tích và hình thức trong giáo dục mà lâu nay tồn tài như là một thành trì của sự bảo thủ, ảnh hưởng lớn đến tư duy đổi mới, ngại thay đổi. 1 https://tienphong.vn/co-giao-9x-livestream-day-vat-ly-thu-hut-ca-trieu-luot-xem-post1358319.tpo (truy cập ngày 23/7/2021).
  7. 756 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Thu hẹp dần khoảng cách giữa đào tạo và sử dụng sau khi đào tạo. “Giáo dục mở” làm cho mối quan hệ gắn kết giữa nơi đào tạo (cơ sở giáo dục) với nơi sử dụng (xã hội) ngày càng khăng khít và không thể thiếu. Theo đó, vai trò đánh giá của xã hội thông qua các tổ chức bên ngoài nhà trường, bên ngoài ngành giáo dục ngày càng được xã hội hóa theo nhu cầu khách quan và yêu cầu từ thực tiễn của thị trường lao động xã hội. Mục tiêu đánh giá kết quả giáo dục trong nền “giáo dục mở” hướng đến đích với câu hỏi là người học có khả năng “xử lý” và “giải quyết” được vấn đề hay không, chứ không phải là biết nhiều tri thức, nhiều thông tin nhưng khả năng vận dụng để thực hành không đáp ứng được thực tiễn. 4. KẾT LUẬN Sự phát triển của khoa học – công nghệ đã làm thay đổi nền tảng sản xuất, dịch vụ; theo đó, đặt ra những yêu cầu mới về năng lực nhân sự, đòi hỏi giáo dục phải đổi mới cho phù hợp; theo đó, các nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông được triển khai nhanh chóng đã đáp ứng kịp thời những yêu cầu cấp bách đó (với tư cách là một chức năng không thể bị gián đoạn của xã hội). Giáo dục hiện đại của thế kỷ XXI là một nền “giáo dục mở”, một môi trường vô hình nhưng lại có kết nối chặt chẽ, thông qua công nghệ, là sự phát triển mang tính tất yếu trong bối cảnh hội nhập và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. 2. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI ngày 4 tháng 11 năm 2013 Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. 3. Vũ Minh Giang (2018), Giáo dục Việt Nam trước đòi hỏi đổi mới căn bản và toàn diện, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 4. Mai Đan (2018), “Hệ thống “giáo dục mở” phải gắn với tự chủ”, Thời báo Tài chính Việt Nam. 5. Cao Văn Phường (2019), Xây dựng nền “giáo dục mở”, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. 6. Hiệp hội các Trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam (2018), Hệ thống “giáo dục mở” trong bối cảnh tự chủ giáo dục và hội nhập quốc tế (tập 1 – 2), NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. 7. https://tienphong.vn/co-giao-9x-livestream-day-vat-ly-thu-hut-ca-trieu-luot-xem-post1358319. tpo (truy cập ngày 23/7/2021).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0