intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đẩy mạnh việc xây dựng nền giáo dục đại học thực nghiệp nhằm cung ứng nguồn lao động chất lượng trong thời kỳ hội nhập

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

18
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Đẩy mạnh việc xây dựng nền giáo dục đại học thực nghiệp nhằm cung ứng nguồn lao động chất lượng trong thời kỳ hội nhập: nhằm hướng đến một nền giáo dục thực học, thực nghiệp là nhiệm vụ của toàn xã hội. Với sự định hướng của Nhà nước, vai trò trung tâm của các trường đại học, sự hợp tác và trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, nền giáo dục đại học Việt Nam nói riêng và giáo dục đào tạo nói chung sẽ có những cải cách, đổi mới về chất lượng để theo kịp xu thế phát triển về giáo dục của các nước trên thế giới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đẩy mạnh việc xây dựng nền giáo dục đại học thực nghiệp nhằm cung ứng nguồn lao động chất lượng trong thời kỳ hội nhập

  1. ĐẨY MẠNH VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THỰC NGHIỆP NHẰM CUNG ỨNG NGUỒN LAO ĐỘNG CHẤT LƯỢNG TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP ThS. Võ Thị Hoài1 Tóm tắt: Sau 8 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, nền giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục bậc đại học đã có nhiều bước chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, với vai trò là nơi đào tạo nguồn lao động đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong thời kỳ khoa học công nghệ đang đổi mới từng ngày, các trường đại học cần tiếp tục nỗ lực đổi mới hơn nữa mới đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Bài viết tập trung phân tích vai trò của trường đại học trong việc xây dựng nền giáo dục thực nghiệp bậc đại học; thực trạng nền giáo dục đại học Việt Nam, từ đó đề xuất một số kiến nghị cần thực hiện trong thời gian tới. Từ khóa: Đào tạo thực nghiệp; đổi mới giáo dục đại học; đào tạo lao động có chất lượng. MỞ ĐẦU Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã nhận định bên cạnh những thành tựu về giáo dục đã đạt được trong các năm qua, nền giáo dục của nước ta vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Đặc biệt, đánh giá về giáo dục đại học, Nghị quyết cho rằng “chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất”. Từ việc nhận thức những tồn tại yếu kém đó, trên quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết là “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”, trong hơn * Trường Đại học Sài Gòn.
  2. 722 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 8 năm qua các trường đại học đã có nhiều bước tiến đáng kể trong việc đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy cũng như những đổi mới về cơ sở vật chất. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, vẫn còn thực trạng về đào tạo mà chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu và đổi mới để đáp ứng yêu cầu về một nền giáo dục thực học và thực nghiệp. 1. Yêu cầu của việc xây dựng nền giáo dục thực nghiệp bậc đại học nhằm cung cấp nguồn lao động cho xã hội Giáo dục đại học có vai trò chủ yếu trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, làm nền tảng hình thành, phát triển năng lực đổi mới sáng tạo nhằm phục vụ phát triển đất nước và đóng góp vào tri thức nhân loại. Với vai trò là nơi cuối cùng chịu trách nhiệm của hệ thống giáo dục để đưa sản phẩm ra xã hội, giáo dục đại học có hai nhiệm vụ cơ bản: đào tạo nhân lực trình độ cao cho thị trường lao động và nghiên cứu khoa học để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện tốt nhiệm vụ thứ nhất của mình, các trường đại học phải hướng đến nền giáo dục thực nghiệp. Thực nghiệp tức là đào tạo nghề nghiệp thiết thực, có lợi cho cuộc sống. Quá trình đào tạo người dạy và người học hiểu đúng mục đích của việc cần dạy cái gì và cần học như thế nào để đạt mục tiêu đề ra; dạy và học phải thực chất; kết quả thi, kiểm tra phản ánh đúng chất lượng giáo dục; Người học phải là chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục, sau khi tốt nghiệp có đủ năng lực và phẩm chất cần thiết để sống và làm việc, đáp ứng các yêu cầu của người sử dụng lao động. Muốn đạt được điều đó, bản thân cơ sở đào tạo phải triệt tiêu tất cả những yếu tố làm nảy mầm cho sự hư học, hư danh, chạy theo thành tích, nói không với việc chạy điểm, chạy bằng cấp, bằng thật học giả. Vai trò của các trường đại học là làm sao đào tạo được nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu xã hội. Muốn làm được như vậy, các trường đại học phải xác định được nhu cầu đào tạo là đào tạo cái xã hội cần chứ không phải đào tạo cái mình có. Ngoài ra, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện nay, sẽ rất nhanh hình thành nên những công việc mới, những nhóm ngành mới và sự bão hòa của những ngành nghề mới hôm qua, hôm trước còn là ngành nghề “hot”. Vì vậy các trường đại học cũng phải nhanh nhạy với thị trường cung cầu nhân lực, sớm hình thành việc đào tạo những ngành nghề thị trường lao động sẽ cần chứ không phải chỉ đang cần, bởi đào tạo đại học là một quãng đường dài, bốn, năm năm có thể làm cho nhiều ngành nghề đã trở nên khó tìm kiếm công việc so với trước. Như vậy xét về mục tiêu cơ bản thì giáo dục đại học có nhiệm vụ hướng đến đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng ra nhân tài cho xã hội. Đây chính là nơi cung cấp nguồn nhân lực được đào tạo bài bản trong tất cả các lĩnh vực được ứng dụng vào đời sống như công nghiệp, y học, nông nghiệp, khoa học công nghệ, pháp lý,... Với vai trò đó, giáo dục đại học cần thực hiện tốt công việc của mình, đó là làm sao để thiết kế được các chương trình đào tạo thiết thực, phù hợp với nhu cầu và xu hướng phát triển của xã hội.
  3. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 723 Môi trường đại học phải là nơi cung cấp kiến thức nghề nghiệp, nuôi dưỡng tình yêu và tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp cũng như những kỹ năng cần có của lĩnh vực ngành nghề mà mình đã lựa chọn. Kiến thức mà giáo dục đại học cung cấp vừa chuyên sâu vừa phải bao quát nhiều lĩnh vực. Ngoài kiến thức chuyên môn, cần cung cấp đầy đủ các yếu tố phụ trợ khác cho công việc sau này như kiến thức tin học, ngoại ngữ, thể chất, tinh thần làm việc nhóm, độc lập trong tư duy, sự sáng tạo, tính kỷ luật và tuân thủ pháp luật… Thiết kế chương trình đào tạo hợp lý song song với triển khai thực hiện chương trình đào tạo sao cho đạt hiệu quả tốt nhất. Điều này đòi hỏi các cơ sở phải có đội ngũ giảng viên có tâm và có tầm; có phương pháp giảng dạy tiên tiến; có sự đầu tư cho cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm, thư viện, vườn ươm khởi nghiệp để thực hành có hiệu quả những kiến thức lý thuyết đã học; có phương pháp kiểm tra, đánh giá đúng thực chất. Hiện nay, xu thế dạy mang tính ứng dụng, bớt lý thuyết trừu tượng tăng tình huống thảo luận, thực hành cũng là phương pháp giảng dạy đang được các cơ sở đào tạo quan tâm. Không thể phủ nhận rằng giáo dục có sự ràng buộc của văn hóa nhưng cũng cần có sự thay đổi để có thể đáp ứng nhu cầu hội nhập đổi thay của thế giới. Ảnh hưởng của Nho giáo với quan điểm “không thầy đố mày làm nên” cần phải được hiểu theo một nghĩa khác biệt so với trước đây. Phương pháp giáo dục đại học không phải là phương pháp mà ở đó người thầy phải chỉ cho sinh viên mọi kiến thức mà sinh viên cần có sự chủ động trong việc tự tìm kiếm và mở rộng thông tin của mình. Dạy đại học cũng cần sử dụng cách thức dạy cách học, khả năng tự học, tự đọc sách, tự tìm kiếm tri thức. Từ đó sinh viên có khả năng tư duy sáng tạo, khả năng diễn đạt, giao tiếp thực hành, hình thành nên cách học chủ động. Nếu hiểu khái niệm học theo nghĩa: “Học là quá trình tự biến đổi mình và làm phong phú mình bằng cách thu thập và xử lý thông tin lấy từ môi trường xung quanh” thì kiến thức từ giảng viên chỉ là một trong những kênh thông tin trong hàng trăm kênh thông tin mà sinh viên có thể tiếp nhận, nhưng điểm khác biệt là kênh thông tin này mang tính định hướng để sinh viên có thể hiểu đúng. Cùng với quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, lao động, xã hội, giáo dục đào tạo đại học hiện nay cần được đổi mới đáp ứng được các chuẩn chung của thế giới. Mục đích của việc đổi mới này đáp ứng cho nhu cầu học tập suốt đời của người học. Mục tiêu này đã được nhấn mạnh tại Điều 43 của Luật Giáo dục đại học 2012: “Nâng cao chất lượng giáo dục đại học theo hướng hiện đại, tiếp cận nền giáo dục đại học tiên tiến trong khu vực và trên thế giới”. Vì vậy giữa các chương trình đào tạo qua các bậc học, các trình độ cần có sự liên thông, nâng cao từng bước các kỹ năng theo từng chuẩn yêu cầu về trình độ. Thay đổi phương pháp để sao cho người học tiếp thu tốt nhất, thích học, biết học để làm gì, học ngành nghề phù hợp với năng lực sở trường của mình, học để ra trường nhanh chóng tìm được công việc phù hợp với chuyên ngành đào tạo và đáp ứng được các yêu cầu của thị trường lao động. Học để biết, học để làm việc, học để
  4. 724 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP phát triển phẩm chất năng lực bản thân chứ không phải vì điểm số, không phải học chỉ để thi, học để có bằng cấp chứng chỉ. Tóm lại, vai trò của cơ sở đào tạo đại học là phải đáp ứng được các yêu cầu theo quy định tại Quyết định số 1982/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ quyết định về khung trình độ quốc gia Việt Nam, bao gồm các yêu cầu: Về kiến thức phải đảm bảo cho người học có kiến thức thực tế vững chắc, kiến thức lý thuyết sâu, rộng trong phạm vi của ngành đào tạo; có kiến thức cơ bản về khoa học xã hội, khoa học chính trị và pháp luật; đảm bảo kiến thức về công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu công việc; có kiến thức về lập kế hoạch, tổ chức và giám sát các quá trình trong một lĩnh vực hoạt động cụ thể; có kiến thức cơ bản về quản lý, điều hành hoạt động chuyên môn. Về kỹ năng: phải có kỹ năng cần thiết để có thể giải quyết các vấn đề phức tạp; Kỹ năng dẫn dắt, khởi nghiệp, tạo việc làm cho mình và cho người khác; Kỹ năng phản biện, phê phán và sử dụng các giải pháp thay thế trong điều kiện môi trường không xác định hoặc thay đổi; Kỹ năng đánh giá chất lượng công việc sau khi hoàn thành và kết quả thực hiện của các thành viên trong nhóm; Kỹ năng truyền đạt vấn đề và giải pháp tới người khác tại nơi làm việc; chuyển tải, phổ biến kiến thức, kỹ năng trong việc thực hiện những nhiệm vụ cụ thể hoặc phức tạp. 2. Thực trạng nền giáo dục đại học Việt Nam hiện nay Trong những năm qua giáo dục đại học đã có những bước tiến vượt bậc, tiếp cận với các tiêu chuẩn quốc tế. Những kết quả được thống kê bởi GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức đã cho thấy những chuyển biến quan trọng của nền giáo dục đại học Việt Nam trong quá trình thực hiện mục tiêu của Nghị quyết 29-NQ/TW. Về cơ sở đào tạo được kiểm định chất lượng: Tính đến ngày 31/12/2020, cả nước đã có 149 cơ sở giáo dục đào tạo và 9 trường cao đẳng sư phạm đạt tiêu chuẩn kiểm định theo Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam, chiếm khoảng 55% tổng số các trường đại học, học viện trong cả nước. Có 7 trường đại học được công nhận bởi tổ chức đánh giá/kiểm định quốc tế (HCERES, AUN-QA). Có 145 chương trình đào tạo của 43 trường đại học được đánh giá và công nhận theo tiêu chuẩn trong nước; 195 chương trình đào tạo của 32 trường được đánh giá, công nhận theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế1. Về hoạt động nghiên cứu khoa học cũng đã có những thay đổi về chất. Năm 2019, tổng số bài báo khoa học của Việt Nam công bố trên các ấn phẩm quốc tế có uy tín là 12.475 bài, đứng thứ 49 thế giới (so với 2015 tăng 2,7 lần và tăng 9 bậc). Chỉ số trích dẫn các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam cũng ngày Giáo dục đại học - Những thành tựu nổi bật. Truy xuất từ nguồn http://www.is.vnu.edu.vn/vi/giao-duc- 1 dai-hoc---nhung-thanh-tuu-noi-bat-d-14442.
  5. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 725 càng tăng; một số nhà khoa học Việt Nam đã có tên trong bảng xếp hạng các nhà khoa học có tầm ảnh hưởng của thế giới được quốc tế đánh giá, bình chọn khách quan. Thành tựu từ đào tạo đại học đã tác động tới sự dịch chuyển nghề nghiệp trong xã hội. Theo số liệu thống kê, giai đoạn 2009 - 2019, tỷ trọng việc làm theo ngành có sự dịch chuyển rất tích cực theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản và tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp, xây dựng và Dịch vụ. Tỷ trọng lao động có việc làm trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm liên tục trong những năm qua, từ 53,9% năm 2009 xuống còn 46,3% năm 2014 và đạt 35,3% vào năm 2019. Lần đầu tiên, số lao động làm việc trong khu vực Dịch vụ cao hơn số lao động làm việc trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản vào năm 2019. Với đà chuyển dịch này, tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực Công nghiệp và Dịch vụ sẽ sớm đạt ngưỡng 70% như mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 23/NQ-TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. So với 10 năm trước đây, tỷ trọng lao động làm công việc giản đơn đã giảm mạnh (giảm 7,1 điểm phần trăm)1. Những số liệu này chính là minh chứng rõ ràng nhất cho thành quả của nỗ lực đổi mới của các trường đại học trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Chất lượng lao động cũng có nhiều đánh giá là có chuyển biến tích cực. Theo khảo sát về tình hình lao động việc làm tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2019, kết quả khảo sát cho lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường. Chất lượng lao động được người sử dụng lao động đánh giá có sự cải thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập ở một số tiêu chí như: - Về sức khỏe: tỷ lệ doanh nghiệp nhận định sức khoẻ lao động có sự cải thiện tốt chiếm 63,33% tổng số doanh nghiệp khảo sát;  - Về đạo đức nghề nghiệp: doanh nghiệp đánh giá lao động đạt mức độ tốt chiếm tỷ lệ 47,23%; - Về chuyên môn, kỹ thuật đáp ứng công việc: doanh nghiệp đánh giá đạt mức độ tốt chiếm tỷ trọng 48,20%; - Về kinh nghiệm làm việc doanh nghiệp đánh giá kinh nghiệm làm việc của lao động tập trung ở mức độ khá chiếm tỷ trọng 48,90%; kỹ năng chuyên môn chiếm 49,37%, kỹ năng mềm chiếm 47,12%.2 1 Thông cáo báo chí - Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Truy xuất từ nguồn https://www. gso.gov.vn/su-kien/2019/12/thong-cao-bao-chi-ket-qua-tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam-2019/ 2 Báo cáo số 545 /BC-TTDBNL. Truy xuất từ nguồn http://www.dubaonhanlucHồ Chí Minhc.gov.vn/tin- tuc/8012.bao-cao-thi-truong-lao-dong-thanh-pho-ho-chi-minh-nam-2019-%E2%80%93-du-bao-nhu- cau-nhan-luc-nam-2020.html
  6. 726 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, giáo dục đại học ở Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cần tiếp tục khắc phục. Nhìn một cách tổng thể thì trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động Việt Nam còn thấp. Theo thống kê vào năm 2019, trong tổng số 55,77 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động của cả nước, chỉ có khoảng 12,7 triệu người đã được đào tạo, chiếm 22,8% tổng lực lượng lao động. Hiện cả nước có hơn 43,1 triệu người (chiếm 77,2% lực lượng lao động) chưa được đào tạo để đạt một trình độ chuyên môn kỹ thuật nhất định. Lực lượng lao động đã qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ chiếm 22,37% (trong đó lao động có trình độ đại học trở lên chiếm 10,82 %; cao đẳng chiếm 3,82%; trung cấp chiếm 4,65% và sơ cấp chiếm 3,08% trong tổng lực lượng lao động)1. Số lao động đã qua đào tạo nếu so sánh với các nước trong khu vực thì chỉ bằng 1/3 Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, trong khi nhiều nước, tỷ lệ đào tạo của lao động đã đạt trên 50%. Thực trạng lao động của Việt Nam về chất lượng không cao, luôn ở tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động có trình độ kỹ thuật cao. Điều đáng nói là nhu cầu lao động trình độ cao của thị trường lao động thiếu nhưng số lao động thất nghiệp có trình độ đại học lại khá cao. Theo Số liệu của Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2019, đã cho thấy nhóm có trình độ từ đại học trở lên là nhóm nằm thứ hai trong xếp loại thất nghiệp cao nhất, chiếm tỷ trọng 14,9% trong tổng số người thất nghiệp. Bảng 1. Cơ cấu lao động thất nghiệp theo trình độ học vấn cao nhất đạt được, năm 2019 Đơn vị tính: Phần trăm Trình độ học vấn Tỷ trọng Chung Nam Nữ Tổng số 100,0 100,0 100,0 Chưa qua đào tạo/đi học 2,1 1,7 2,6 Giáo dục phổ thông + Chưa tốt nghiệp Tiểu học 6,7 5,8 7,7 + Tốt nghiệp Tiểu học 15,7 15,6 15,9 + Tốt nghiệp THCS 24,3 26,8 21,6 + Tốt nghiệp THPT 22,5 24,5 20,2 Đào tạo nghề/chuyên nghiệp + Sơ cấp nghề 1,9 3,4 0,3 + Trung cấp 4,7 4,4 5,0 + Cao đẳng 7,1 5,1 9,2 + Đại học trở lên 14,9 12,5 17,6 Trích từ nguồn Báo cáo điều tra lao động-việc làm năm 2019 Cũng theo khảo sát này, về lý do không làm việc, vì lý do thiếu kinh nghiệm chiếm 2,8% trong tỷ trọng các lý do được khảo sát. 1 Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2019 - Tổng cục Thống kê, 2019.
  7. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 727 Như vậy trên thực tế đang cho thấy nghịch lý là thị trường lao động vẫn rất cần nguồn lao động có trình độ cao nhưng số lao động có trình độ đại học trở lên thất nghiệp vẫn khá lớn. Điều đó đặt ra yêu cầu cho việc đào tạo đại học phải làm gì để khắc phục được tình trạng này. Một trong những nguyên nhân như Báo cáo tình hình lao động năm 2019 tại Tp. Hồ Chí Minh, đã chỉ ra: “chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu xã hội. Khả năng thích ứng với môi trường làm việc, kỹ năng thực hành của nhiều sinh viên mới ra trường vẫn còn hạn chế; tính cạnh tranh của thị trường lao động hội nhập về nhân lực chất lượng cao đòi hỏi người lao động phải có kỹ năng nghề cao, có tư duy sáng tạo, đáp ứng môi trường làm việc quốc tế, trong khi đó sự trang bị về kiến thức, kỹ năng, tư duy của người lao động vẫn chưa cao để sẵn sàng tham gia thị trường lao động hội nhập và di chuyển lao động ra các quốc gia trên thế giới”1. Những lý do như yếu về ngoại ngữ, công nghệ thông tin; thiếu kỹ năng mềm cần thiết cho nghề nghiệp; thái độ thụ động; đào tạo tràn lan không dựa trên nguồn dự báo cung cầu nhân lực lao động xã hội; kiến thức phần nhiều là lý thuyết nên lúng túng khi thực hành là những rào cản cho việc nhanh chóng gia nhập được vào thị trường lao động. Theo điều tra của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong tổng số các sinh viên tốt nghiệp hằng năm tại Việt Nam, hơn 13% phải được đào tạo lại hoặc bổ sung kỹ năng, gần 40% phải được kèm cặp lại tại nơi làm việc và 41% cần thời gian làm quen với công việc. Khoảng 60% sinh viên ra trường làm công việc trái ngành nghề đào tạo là sự lãng phí lớn thời gian và chi phí2. Vì vậy, vẫn rất cần các trường đại học tiếp tục đổi mới và thực hiện được vai trò của mình trong việc đào tạo thực nghiệp. 3. Một số giải pháp cần tiếp tục thực hiện để xây dựng được nền giáo dục thực nghiệp bậc đại học đáp ứng yêu cầu cung ứng nguồn nhân lực cho xã hội - Để xây dựng được nền giáo dục thực nghiệp, cần đổi mới toàn diện. Bắt đầu từ khâu đầu vào tới xây dựng chương trình đào tạo, thiết kế chuẩn đầu ra, xây dựng các môn học sát với yêu cầu thực tiễn. Trước khi mở mỗi nhóm ngành học cần dựa vào những khảo sát khoa học về nhu cầu của xã hội, tránh trường hợp đào tạo dư thừa dẫn tới số lượng người học ra trường rơi vào tình trạng thất nghiệp do không có nguồn cầu lao động. - Học luôn đi đôi với hành, phân bố nội dung môn học giữa lý thuyết và thực hành cân đối. Các chương trình thực tế, thực tập đầy đủ, thực chất. Đổi mới về phương pháp giảng dạy đảm bảo đáp ứng được đầy đủ cả ba yếu tố: kiến thức, kỹ năng và thái 1 Báo cáo số 545/BC-TTDBNL Thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh năm 2019 - Dự báo nhu cầu nhân lực năm 2020. 2 Chính quyền có trách nhiệm giải quyết việc làm cho sinh viên. Truy xuất từ nguồn https://thanhnien.vn/ gioi-tre/chinh-quyen-co-trach-nhiem-giai-quyet-viec-lam-cho-sinh-vien 1042316.html.
  8. 728 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP độ. Hiện nay, nhiều trường đại học vẫn chú trọng phần nhiều vào kiến thức nền mà ít quan tâm đến hai yếu tố còn lại. Tuy nhiên, yêu cầu về người lao động của các cơ sở tiếp nhận lao động mong muốn lại không chỉ cần kiến thức mà còn cần đáp ứng được các kỹ năng thực hành cũng như những kỹ năng mềm khác. Vì vậy, cần chú trọng đến những kỹ năng cho người học trong quá trình đào tạo ở trường, bao gồm kỹ năng cứng (kỹ năng nghề nghiệp - phụ thuộc vào trình độ học vấn và chuyên môn) và kỹ năng mềm (thước đo hiệu quả trong công việc, như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng chủ động,…). Cần thiết kế các phương pháp giảng dạy linh hoạt trên cơ sở lấy người học làm trung tâm; kích thích sự sáng tạo và hình thành nên ý thức tự học của sinh viên, đó là yếu tố để thúc đẩy việc học tập suốt đời của người lao động sau này. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp giảng dạy mới cần tính toán đến sự phù hợp của hoàn cảnh thực tế. Hiện nay, nhiều lớp học ở trường đại học số lượng sinh viên vẫn rất đông, vì vậy nhiều phương pháp giảng dạy tốt nhưng lại không phát huy được hiệu quả trong trường hợp thực tế đó. Các kỹ năng mềm nên xây dựng sát với từng ngành học, tránh tình trạng có xây dựng nhưng chung chung, áp dụng cho tất cả các lĩnh vực nghề nghiệp hoặc chỉ mang tính hình thức trên cơ sở cóp nhặt từ các giáo trình, cơ sở đào tạo khác. Chú trọng việc xây dựng chuẩn đầu ra cho từng môn học, mỗi nội dung học của từng học phần đều đáp ứng mục tiêu của chuẩn đầu ra, mỗi học phần trong chương trình đào tạo đều đáp ứng chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo của khoa, của trường. Có các hình thức kiểm tra, đánh giá lại mức độ đáp ứng chuẩn đầu ra sau quá trình đào tạo một cách thực chất. Thực hiện tốt giải pháp này nhằm ngăn chặn tình trạng sinh viên ra trường không đáp ứng được yêu cầu của đơn vị sử dụng lao động, học mà không sử dụng được khiến đơn vị sử dụng lao động ngại tuyển dụng do phải mất thời gian đào tạo lại. - Phải lấy nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo làm nền tảng để tạo ra chất lượng. Thúc đẩy nghiên cứu khoa học từ giảng viên tới sinh viên qua việc chú trọng đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Đây là nền tảng hình thành nên sự sáng tạo, độc lập trong tư duy và nuôi dưỡng ý tưởng để hình thành nên những người lao động luôn biết cách chủ động, làm việc hiệu quả và luôn có sáng kiến trong công việc. - Cần có sự đầu tư vào cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, thư viện, phương tiện dạy và học đầy đủ, hiện đại nhằm tạo ra chất lượng giáo dục tốt nhất. Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số. Phát triển tài nguyên số và môi trường học tập số để tiết kiệm thời gian và tạo sự thuận lợi cho người học. - Tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp nhằm nắm bắt được yêu cầu của thị trường lao động để đổi mới chương trình giảng dạy. Lấy đánh giá của doanh nghiệp và thị trường làm thước đo cho chất lượng đào tạo của các trường đại học trong các lĩnh vực. Coi sự chấp nhận của thị trường lao động đối với người học
  9. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 729 là tiêu chí quan trọng để đánh giá uy tín, chất lượng của cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp và là căn cứ để định hướng phát triển các cơ sở giáo dục, đào tạo và ngành nghề đào tạo. Đẩy mạnh các hoạt động để sinh viên tiếp cận được với yêu cầu của nhà tuyển dụng thông qua các hoạt động đưa sinh viên đi thực tế, thực tập và mời nhà tuyển dụng về nói chuyện sinh hoạt chuyên đề, tọa đàm giao lưu với sinh viên. Cần làm tốt công việc khảo sát việc làm của người học sau khi tốt nghiệp như một phần quan trọng của quá trình đào tạo. Nhà trường cần xây dựng mối quan hệ mật thiết với các cơ sở sử dụng lao động để có thể nhận được sự phản hồi của người sử dụng lao động về chất lượng của cựu sinh viên từ đó có hướng điều chỉnh hợp lý quá trình đào tạo của mình. - Đẩy mạnh các hoạt động tuyển sinh, quảng bá, giới thiệu chương trình đào tạo và nghề nghiệp tương lai để giúp học sinh phổ thông có định hướng lựa chọn nghề nghiệp. Hiện nay, thực trạng khá phổ biến ở Việt Nam là học sinh lựa chọn học đại học theo sự định hướng của bố mẹ, người học không biết mình muốn gì, mình thích gì, sở trường của mình là gì. Vì vậy, khi vào học rồi mới thấy không hợp nên nảy sinh tâm lý chán nản, không muốn học. Hoặc ra trường vẫn rất mơ hồ với nghề nghiệp mình đã lựa chọn nên nảy sinh thực tế sau một thời gian “vật vờ” với công việc đúng ngành nghề đào tạo thì nhảy sang làm ở một công việc khác trái chuyên ngành. Từ đó phát sinh sự lãng phí và việc hướng đến nền giáo dục thực nghiệp không có kết quả. - Với tư cách là người sử dụng lao động, các cơ quan nhà nước cũng cần góp phần vào việc thúc đẩy quá trình đổi mới nền giáo dục thực học, thực nghiệp bằng cách đổi mới cách tuyển dụng, sử dụng lao động đã qua đào tạo theo hướng chú trọng năng lực, chất lượng, hiệu quả công việc thực tế, không quá nặng về bằng cấp; triệt tiêu các yếu tố lợi dụng mối quan hệ để được tuyển dụng. Điều này sẽ góp phần thúc đẩy ý thức của người học trong việc trau dồi kiến thức, kỹ năng, tu dưỡng đạo đức của bản thân trong quá trình học tập ở trường để có việc làm tốt trong tương lai. KẾT LUẬN Tóm lại, hướng đến một nền giáo dục thực học, thực nghiệp là nhiệm vụ của toàn xã hội. Với sự định hướng của Nhà nước, vai trò trung tâm của các trường đại học, sự hợp tác và trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, nền giáo dục đại học Việt Nam nói riêng và giáo dục đào tạo nói chung sẽ có những cải cách, đổi mới về chất lượng để theo kịp xu thế phát triển về giáo dục của các nước trên thế giới.
  10. 730 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Hà Ánh (2019), Chính quyền có trách nhiệm giải quyết việc làm cho sinh viên. Truy cập từ nguồn https://thanhnien.vn/gioi-tre/chinh-quyen-co-trach-nhiem-giai-quyet-viec-lam-cho- sinh-vien-1042316.html. 2 Lương Bằng (2019), Năng suất lao động Việt Nam thua Singapore, Malaysia và Thái lan. Truy xuất từ nguồn https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/dau-tu/nang-suat-lao-dong-viet- nam-thua-singapore-malaysia-thai-lan-556163.html 3 Nguyễn Ngọc Ánh & Nguyễn Kiều Lan Thương (2018), “Giáo dục Việt Nam: Thực trạng, cơ hội và thách thức”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 279, tháng 9/2018. 4 Nguyễn Đình Đức (2021), Giáo dục đại học - Những thành tựu nổi bật. Truy xuất từ nguồn http://www.is.vnu.edu.vn/vi/giao-duc-dai-hoc---nhung-thanh-tuu-noi-bat-d-14442 5 Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. 6 Quốc hội (2012), Luật Giáo dục đại học. 7 Quyết định số 1982/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ quyết định về khung trình độ quốc gia Việt Nam. 8 Trung tâm Dự báo nhân lực và thông tin thị trường lao động TP. Hồ Chí Minh (2019), Báo cáo số 545/BC-TTDBNL. Truy xuất từ nguồn http://www.dubaonhanlucHồ Chí Minhc. gov.vn/tin-tuc/8012.bao-cao-thi-truong-lao-dong-thanh-pho-ho-chi-minh-nam-2019- %E2%80%93-du-bao-nhu-cau-nhan-luc-nam-2020.html 9 Tổng cục Thống kê (2019), Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2019.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0