
Đế quốc Ả rập
2
Văn minh Ả rập
Bọn vua chúa quý phái tuy hưởng thụ nhưng cũng biết khuyến khích nghệ thuật
và khoa học.
Vào Alexandrie người Ả Rập chiếm được một kho tàng tinh thần vô giá của cổ
nhân, tức thư viện của dòng Ptolémée, thư viện danh tiếng nhất phương Tây thời
đó. Họ say sưa đọc các tác phẩm của Pythagore, Héraclite, Démocrite, Zénon,
Platon, Anstote, Epicure, hippocrate, Euclide, Archimède...
Họ chép lại rồi dịch. Vua Almamoun thưởng công họ rất hậu: cứ sao chép lại
được một cuốn thì sách nặng bao nhiêu được thưởng bấy nhiêu vàng; bản dịch đầu
tiên tác phẩm của Aristote còn được thưởng cao hơn: đặt lên cân, một bên là sách
một bên là kim cương.
Đâu đâu họ cũng mở trường học, hàn lâm viện, thư viện, đài thiên văn. Ở
Cordoue chỉ có mười ba ngàn nóc nhà mà có tới bảy chục thư viện! Họ hăng hái
học toán học, y học, hóa học.
Họ có phương pháp và có sáng kiến. Sống trước Descartes bảy thế kỷ, họ đã có
ý niệm về phương pháp thực nghiệm: "Phải tiến từ điều mình biết tới điều mình
không biết, nhận định cho đúng các hiện tượng để từ kết quả phanh lần lên tới
nguyên nhân; chỉ tin là đúng cái gì đã được thực nghiệm chứng minh rồi".

Nhờ có tinh thần đó, họ gần như sáng lập được môn vật lý hóa, tiến một bước
dài trong môn thiên văn. Tại chiếc cầu lớn nhất ở Bagdad họ dựng một đài thiên
văn đón các nhà bác học khắp nơi tới nghiên cứu. Chính Omar Khagam, một thi sỹ
danh tiếng và thiên tài ngang với Lý Bạch của Trung Hoa, tác giả một tập thơ tứ
tuyệt Robaiyat[9], là một nhà thiên văn đại tài, năm 1079, đã sửa lại lịch Ba Tư,
gần đúng như lịch ngày nay.
Về toán học, họ tiếp tục công việc của Hy Lạp. Họ phát minh đại số học; mở
mang thêm viên-hình-tam-giác-pháp (trigosphérique), đặt ra sinus, tangente,
cotangente.
Về vật lý họ phát minh ra quả lắc, nghiên cứu về quang học. Về hóa học, họ tìm
được nhiều chất mới: potasse, nitrate d'argent, rượu (tiếng alcool của Pháp nguồn
gốc là Ả Rập), sublime corrosif, acide citrique, acide sulfurique.
Y học của họ cũng rất tiến bộ: họ nghiên cứu hình thái học và khoa vệ sinh, chế
tạo được nhiều dụng cụ, biết dùng thuốc mê trong việc mổ xẻ.
Nhờ những tiến bộ đó họ tính được hoàng đạo giác (angle de l'écliptique).
Về kinh tế, họ học cách trồng trọt và môn dẫn thủy của người Ai Cập, người
Mésopotamie, thí nghiệm các thứ phân bón, gây thêm nhiều giống cây.
Họ chế nước hoa, nấu xi rô, làm đường mía, gây rượu vang. Họ truyền sang
châu Âu những giống cây từ trước chưa có như lúa, dâu, mía, mơ, đậu, gai, nghệ...
Họ là những tay thủ công rất khéo. Sản phẩm họ chế tạo đã nhiều loại mà lại
đẹp nhất thời đó. Họ luyện được mọi thứ kim thuộc như vàng, bạc, đồng, đồng đỏ,

sắt, thiếc. Đồ thủy tinh và đồ gốm của họ nổi tiếng. Họ biết bí quyết nghề nhuộm
và làm được giấy.
Thành Damas sản xuất những tấm thảm nổi tiếng nhất thế giới; Cordoue sản
xuất da thuộc, rồi thương nhân của họ chở đi bán khắp châu Phi, châu Á, tới cả
Trung Hoa.
Về chính trị, họ tổ chức được một quốc-gia có tính cách tiến bộ. Tuy cũng
chuyên chế như các quốc gia khác đương thời, tuy cũng chứa nhiều mâu thuẫn giai
cấp và dân tộc, quốc gia Hồi giáo uyển chuyển hơn cả nên chế độ chuyên chế của
họ mới tồn tại được lâu.
Ả rập bị Thổ đô hộ
Sống ba thế kỷ trong cảnh Thiên đường, thì dù Thiên đường đó là của Allah,
người ta cũng đâm ngán.
Abderrahman III, vua Ả Rập cuối cùng ở Tây Ban Nha, sau khi cầm quyền nửa
thế kỷ, viết mấy hàng này để lại cho hậu thế: "Từ khi ta lên ngôi., nửa thế kỷ đã
trôi qua. Châu báu, danh vọng, thú vui ta đã tận hưởng (...) Tất cả những cái gì mà
loài người ao ước thì Chúa đã ban cho ta. Trong các thời gian dài đằng đẵng bề
ngoài như tràn trề hạnh phúc đó, ta đếm lại những ngày ta thực sự sung sướng thì
thấy chẳng được bao: chỉ có mười bốn ngày. Đó, quyền uy và kiếp đời nó vậy đó".
Ba trăm năm sống trong cảnh xa hoa thì dẫu là con cưng của Allah, môn đồ của
Mohamed cũng hóa ra ủy mị, đọa lạc. Bảng giá trị đã lật ngược lại: can đảm, ngay
thẳng, danh dự không được trọng nữa và con người hóa ra nhu nhược, gian tham,
dối trá.

Lời dạy của Mohamed không còn được ai theo. Các quốc vương cũng ham
rượu, thi sỹ Omar Khayam đã ca tụng cái thú của rượu (coi bài thơ ở trên), thì ai
còn giữ đúng Coran nữa.
Coran cấm nặn, khắc hình người mà một quốc vương Ả Rập, Abdelmalek cho
đúc tiền có hình của ông.
Đã từ lâu rồi, người ta không còn nhớ quê hương của tổ tiên tại sa mạc. Người
ta sống ở Damas, Bagdad, Le Caire, lâu lâu mới hành hương ở La Mecque, và coi
những miền Yemen, Nedjd là những xứ dã man. Từ thế kỷ thứ X, cảnh sa mạc ở
bán đảo Ả Rập lại cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, sống im lìm dưới ánh nắng
gay gắt. Không còn tiếng vó ngựa, tiếng gươm đao trong những cuộc thánh chiến
thời xưa nữa. Một nền văn minh bừng lên, bây giờ sắp tắt. Một làn sóng dâng lên,
bây giờ đương hạ. Và những làn sóng khác sắp tràn qua.
Trong khi Ả Rập suy thì phương Tây mạnh lên. Năm 1097, đoàn viễn chinh
Thập tự quân đầu tiên do Godrefroy de Bouillon cầm đầu vượt Địa Trung Hải, đổ
bộ lên bán đảo Ả Rập, chiếm Syrie, Palestine, Transjordanie, dựng nên những tiểu
quốc ở Antioche, Tripoli, Jérusalem. Tiếp theo là nhiều cuộc viễn chinh nữa, lần
thì người Âu thắng, lần thì Ả Rập thắng, rốt cuộc năm 1250, Hồi giáo chiếm lại
được Syrie.
Những làn sóng đó nhỏ, không đáng kể gì. Mạnh nhất là làn sóng Thổ Nhĩ Kỳ ở
thế kỷ XIV.
Thổ Nhĩ Kỳ cùng một giòng giống với dân tộc Mông Cổ. Cả hai đều xuất hiện ở
trung bộ châu Á có lẽ từ ba bốn ngàn năm trước. Họ đều là những dân du mục,
sống rất giản dị coi thường sự chết. Lời dưới đây mà các sử gia thường gán cho
Attila: "Ngựa ta qua nơi nào thì cỏ nơi đó không mọc lại được nữa" chính là lời ở

cửa miệng các chiến sỹ Thổ. Họ rất hiếu chiến và rất thiện chiến, tấn công như vũ
bão, tàn sát ghê gớm, dân tộc nào cũng kinh sợ.
Cuối thế kỷ XIII, họ rời trung bộ châu Á, tiến về phương Tây, đi qua Ba Tư,
Arménie, tới bờ sông Sakharya ở Tiểu Á (miền Angora - có sách gọi là Ankara),
thấy đất cát phì nhiêu, định cư luôn tại đó và bắt đầu xâm chiếm các miền chung
quanh. Năm 1453 chiếm được Byzance rồi, họ mới hỏi tội các quốc vương Ả Rập,
bắt phải phục tùng họ như xưa kia Ả Rập bắt Ba Tư, Mésopotamiẹ phục tùng. Lần
lượt gần hết các xứ Hồi giáo thành thuộc địa của Thổ.
Tới giữa thế kỷ XVI họ cường thịnh nhất, lập được một đế quốc rộng gần bằng
đế quốc Ả Rập, phía bắc giáp Áo, Ba Lan, Nga; phía đông giáp Ba Tư qua Hồng
Hải, Ai Cập, Tripolitaine, Tunisi, Algeri. Họ kiểm soát ba phần tư Địa Trung Hải,
trọn Hắc Hải, Hồng Hải và một nửa vịnh Ba Tư. Duy có lòng bán đảo Ả Rập là họ
vào không được.
Năm 1550, vua Thổ là Soliman đã phái một đạo quân vào chiếm miền Nedjd và
Hail, nhưng quân Thổ không thuộc đường lối, phải nhờ người Ả Rập hướng đạo
và người Ả Rập trong sa mạc vẫn còn giữ được tinh thần của tổ tiên, không sa đọa
như Ả Rập Damas, Bagdad, dắt họ tới những chỗ không có một giếng nước; họ
khát nước đến hóa điên, có kẻ quay ngọn giáo lại đâm chủ tướng của mình; rốt
cuộc họ không gặp được quân địch, chỉ gặp cát bỏng và mặt trời cháy da, và bỏ
thây trong sa mạc cho kên kên rỉa. Ít lâu sau, một đoàn người đi qua sa mạc, gặp
thây chủ tướng của Thổ trong tay cầm bằng đất sét trên có hàng chữ: "Bắt tôi
thắng mặt trời sao nổi!".
Từ đó Thổ không hành quân vào sa mạc nữa mà chỉ chiếm tất cả các miền ở gần
biển thôi.

