intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Hình thành kiến thức mới bằng giải bài tập trong dạy học phần Cơ học - Vật lí 10 trung học phổ thông

Chia sẻ: Vũ Hoa | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:54

120
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với kết cấu nội dung gồm 3 chương, đề tài "Hình thành kiến thức mới bằng giải bài tập trong dạy học phần Cơ học - Vật lí 10 trung học phổ thông" giới thiệu đến các bạn những nội dung về cơ sở lí luận và thực tiễn của hình thành kiến thức mới về vật lí bằng giải bài tập, tổ chức tiết học hình thành kiến thức mới phần Cơ học bằng giải bài tập Vật lý,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Hình thành kiến thức mới bằng giải bài tập trong dạy học phần Cơ học - Vật lí 10 trung học phổ thông

  1. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hiện nay, Việt Nam đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại  hóa đất nước, mở  cửa hội nhập quốc tế. Cơ chế  thị  trường mở ra nhiều   triển vọng phát triển nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho đất nước ta.   Trong bối cảnh  ấy, để  có thể  hòa nhập và theo kịp sự  phát triển của nhân   loại thì xã hội nói chung và nhà trường phổ thông nói riêng phải đào tạo ra  những con người năng động, sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi, có tác  phong công nghiệp, có ý thức tổ chức kỉ luật và có năng lực tự học để nâng   cao trình độ khoa học và nhận thức để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của  xã hội.  Theo tinh thần của Hội nghị  Ban   chấp hành  Trung  ương  Đảng  Cộng sản Việt Nam khóa VIII: “Đổi mới phương pháp dạy học  ở  tất cả  các cấp học, các bậc học... Từng bước áp dụng phương pháp dạy học tiên  tiến, phương tiện hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng   tạo, năng lực giải quyết vấn đề” và “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo   dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ  một chiều, rèn luyện thành nếp  tư  duy sáng tạo của người học...”, trong những năm gần đây, ngành giáo  dục  đã  không  ngừng   đổi  mới   nội  dung  sách  giáo  khoa,  kèm   theo   đó  là  phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự  chủ, sáng tạo   của HS. Trong dạy học vật lí có thể phát triển năng lực sáng tạo của HS bằng  nhiều biện pháp, phương pháp khác nhau. Trong số  đó, giải BTVL với tư  cách là một trong các phương pháp dạy học được xác định từ  lâu, có tác   dụng rất tích cực đến việc giáo dục và phát triển HS, đồng thời là thước đo  1
  2. thực chất, đúng đắn sự nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo vật lí của họ,  nhất là năng lực giải quyết vấn đề. Trong lĩnh vực nghiên cứu lí luận về các vấn đề của BTVL từ trước  đến nay đã có nhiều công trình của các tác giả  như  X.E.Camennetxki ­  V.P.Ôrêkhốp [3], Nguyễn Đức Thâm [14], Phạm Hữu Tòng [16], Nguyễn  Thế  Khôi [9]... Các tác giả  đã chỉ  ra rằng BTVL có tác dụng giáo dục rất   lớn giúp HS hình thành, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo vận dụng kiến thức vào  thực tiễn, giáo dục tư tưởng đạo đức, kĩ thuật tổng hợp và hướng nghiệp.  Không chỉ có vậy, các tác giả cũng chỉ  ra rằng BTVL có tác dụng tích cực  trong việc hình thành KTM cho HS. Trong quá trình giải BTVL, do phải tự  mình phân tích các điều kiện của đầu bài, tự  xây dựng lập luận, kiểm tra   và phê phán, kết luận nên kiến thức của HS thu được là của chính họ, các   em sẽ nắm chắc, hiểu sâu hơn. Đồng thời, việc tổ chức cho HS giải BTVL   để  rút ra KTM sẽ  phát huy tính tích cực, làm việc tự  lực của các em, rất  phù hợp với xu hướng dạy học hiện đại. Đã có một số  luận văn, khóa luận nghiên cứu về  vấn đề  hình thành  KTM trong dạy học bằng giải BTVL như: luận văn cao học “Hình thành   một số  kiến thức mới trong dạy học phần “Điện học. Điện từ  học” cho  học sinh lớp 11 THPT bằng giải bài tập” của Nguyễn Văn Hùng [7] và  khóa luận tốt nghiệp “Hình thành một số  kiến thức mới bằng giải bài tập   trong dạy học  ở  trường THPT” của Đào Thị  Ngọc Mỹ  [12]… Tuy nhiên,  việc nghiên cứu hình thành KTM chương “Cơ  học” bằng giải BTVL còn   chưa được nhiều tác giả chú ý tới. Chính vì thế, việc nghiên cứu đề  tài  “Hình thành kiến thức mới  bằng giải bài tập trong dạy học phần “Cơ học” ­ Vật lí 10 THPT”  là  rất cần thiết. 2
  3. 2. Mục đích nghiên cứu Hình thành một số  KTM trong dạy học phần “Cơ  học” thông qua  giải BTVL nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề  và nâng cao chất   lượng nắm vững kiến thức của HS lớp 10 THPT. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động dạy học BTVL của GV và HS trường THPT. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Hệ  thống bài tập hình thành một số  KTM thuộc phần “Cơ  học” ­   Vật lí 10 THPT. 4. Giả thuyết khoa học Nếu soạn thảo được hệ thống bài tập và đề  ra cách tổ  chức giải nó  nhằm hình thành KTM trong dạy học một số  kiến thức phần “Cơ học” ­   Vật lí 10 THPT thì có thể phát triển năng lực giải quyết vấn đề, nâng cao  chất lượng nắm vững kiến thức. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về dạy học BTVL ở trường phổ thông. 5.2. Điều tra thực trạng dạy học phần “Cơ  học” của GV và HS lớp 10  THPT. 5.3. Xác định mục tiêu dạy học phần “Cơ  học” và các KTM được hình  thành bằng giải BTVL. 5.4. Soạn thảo và đề  ra cách sử  dụng, tổ  chức HS giải hệ  thống bài tập  nhằm hình thành một số KTM phần “Cơ học”. 5.5. Dự  kiến thực nghiệm sư  phạm đánh giá tính khả  thi và hiệu quả  của  hệ  thống bài tập, của việc tổ  chức hướng dẫn HS giải  BTVL trong tiết   3
  4. học hình thành KTM nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề  và nâng  cao chất lượng nắm vững kiến thức ấy cho HS lớp 10 THPT. 6. Phương pháp nghiên cứu Trong   khóa   luận,   chúng   tôi   sử   dụng   phối   hợp   các   phương   pháp  nghiên cứu sau: ­ Nghiên cứu lí luận về  BTVL, các tài liệu liên quan đến đề  tài để  xác định cơ sở lí luận của đề tài. ­ Điều tra thực trạng dạy học BTVL phần “Cơ  học” ­ Vật lí 10  THPT. ­  Thực nghiệm sư  phạm để  kiểm nghiệm tính khả  thi và hiệu quả  của hệ thống bài tập và cách sử dụng chúng. 7. Đóng góp của khóa luận ­ Hệ thống hóa một số cơ sở lí luận về BTVL. ­ Hệ thống BTVL và cách sử dụng nó đã đề  xuất có thể làm tài liệu  tham khảo cho GV và HS lớp 10 THPT trong dạy học phần “Cơ học”. 8. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm  ba chương: Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của hình thành KTM về  vật lí   bằng giải bài tập. Chương 2. Tổ  chức tiết học hình thành KTM phần “Cơ  học” bằng   giải BTVL. Chương 3. Dự kiến thực nghiệm sư phạm. 4
  5. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HÌNH THÀNH KTM VỀ  VẬT LÍ BẰNG GIẢI BÀI TẬP 1.1. Quan niệm về BTVL Trong thực tiễn dạy học cũng như  trong các tài liệu giảng dạy, các  thuật ngữ “bài tập”, “bài tập vật lí” được sử dụng cùng các thuật ngữ “bài  toán”, “bài toán vật lí”. Trong cuốn Đại từ điển tiếng Việt [20, tr.86], “bài  tập” và “bài toán” được giải nghĩa như sau: Bài tập là bài ra để luyện tập,   vận dụng kiến thức đã học; bài toán là vấn đề  cần giải quyết, tìm ra lời  giải bằng các quy tắc, định lí. Cũng như  vậy, một số  ý kiến cho rằng cần  phân biệt hai thuật ngữ “bài tập vật lí” và “bài toán vật lí”. Bài tập vật lí có  ý nghĩa là bài tập vận dụng kiến thức lí thuyết đã học về  vật lí và những  trường hợp cụ  thể. Còn bài toán vật lí được sử  dụng để  hình thành KTM  trong khi giải quyết một vấn đề  được đặt ra chưa có câu trả  lời, hoặc đề  ra một cách giải quyết, phương pháp hành động mới. Nhưng bên cạnh đó,  trong một số tài liệu các tác giả lại dùng hai thuật ngữ đó như một với cách  hiểu giải bài tập (bài toán) vật lí là vận dụng các khái niệm, quy tắc, định   5
  6. luật vật lí… đã được học vào giải quyết những vấn đề  thực tế  trong đời   sống, lao động. Hiện   nay,   theo   quan   điểm   dạy   học   hiện   đại,   thì   trong   quá   trình  nghiên cứu tài liệu mới, không phải HS thụ động tiếp thu cách giải quyết  vấn đề  một cách máy móc, mà chính họ  cũng tập cách giải quyết vấn đề  đó. HS cũng tập các hành động, các phương pháp hoạt động để chiếm lĩnh  KTM như quan sát, phân tích hiện tượng, đo lường, so sánh, khái quát hóa,  quy nạp… Điều đó có nghĩa là HS phải chủ  động chiếm lĩnh KTM thông   qua chính các hoạt động của mình dưới sự hướng dẫn của GV. Khi ấy, họ  không chỉ đơn thuần là vận dụng kiến thức cũ mà còn tập tìm ra KTM. Trong cuốn “Phương pháp giải bài tập vật lí  ở  trường phổ  thông”,  X.E.Camenetki   và   V.P.Ôrêkhôv   quan   niệm:   “Trong   thực   tiễn   dạy   học,  người   ta thường  gọi  bài   tập  vật lí   là một vấn  đề  không  lớn  mà trong  trường hợp tổng quát được giải quyết nhờ  những suy luận lôgic, những  phép toán và thí nghiệm trên cơ  sở  các định luật và phương pháp vật lí…   Thông thường, trong sách giáo khoa và tài liệu lí luận dạy học bộ  môn,  người ta hiểu những bài tập là những bài luyện tập được lựa chọn phù hợp  với mục đích chủ  yếu là nghiên cứu các hiện tượng vật lí, hình thành các   khái niệm, phát triển tư  duy vật lí của HS và rèn luyện kĩ năng vận dụng  kiến thức của họ vào thực tiễn” [3, tr.7]. Đồng thời, các tác giả cũng nhấn mạnh: Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì  sự tư duy định hướng tích cực luôn luôn là việc giải bài tập. Về thực chất,  mỗi một vấn đề  mới xuất hiện do nghiên cứu tài liệu giáo khoa trong các  tiết học vật lí chính là một BTVL đối với HS. Định nghĩa BTVL như  trên  được nhiều nhà lí luận dạy học bộ  môn và các GV tán thành, chấp nhận.   Như  vậy, theo định nghĩa đó, chúng tôi thấy rằng BTVL có hai chức năng  6
  7. chính là tập vận dụng những kiến thức cũ và tìm KTM. Vì thế  không nên  phân biệt khái niệm bài tập vật lí hay bài toán vật lí và gọi chung là BTVL. Trong khóa luận này, chúng tôi chỉ  nghiên cứu chức năng tìm kiếm  KTM của BTVL trong dạy học ở trường THPT. 1.2. Tác dụng của BTVL trong dạy học BTVL có thể  được sử  dụng trong các tiết học như  NCTLM, luyện  tập, ôn tập, kiểm tra đánh giá…Tùy vào mục đích mà BTVL có thể  phát  huy tác dụng khác nhau và BTVL có các tác dụng chủ yếu sau: 1.2.1. Hình thành và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo vận dụng kiến thức vào   thực tiễn Một trong các nguyên tắc giáo dục là phải gắn liền giáo dục với thực  tiễn cuộc sống và lao động sản xuất. Tức là, HS chỉ  cần nắm được kiến  thức trong các giờ  lên lớp là chưa đủ, mà ngoài các giờ  luyện tập, ôn tập   củng cố, GV phải yêu cầu HS giải những bài tập được đặt ra trong cuộc  sống hằng ngày. Khi đó HS sẽ  nắm vững hơn các kiến thức đã học, đồng  thời tập cho họ làm quen với việc liên hệ kiến thức lí thuyết với thực tiễn,   vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết vấn đề đặt ra trong đời sống và  kĩ thuật. Nhờ  đó việc giải bài tập góp phần nâng cao năng lực giải quyết  vấn đề  cho HS. Có thể  xây dựng rất nhiều bài tập có nội dung thực tiễn,  trong đó yêu cầu HS phải vận dụng kiến thức lí thuyết để  giải thích hoặc   dự  đoán các hiện tượng có thể  xảy ra trong thực tiễn  ở  những điều kiện  cho trước. 1.2.2. Hình thành KTM bằng giải bài tập trong dạy học vật lí Trong dạy học, việc hình thành một số KTM bằng giải bài tập thuộc  tiết học NCTLM. Tiết học NCTLM là loại tiết học trong đó HS thu được   cái mà họ  chưa biết từ trước, hoặc chưa biết một cách rõ ràng, chính xác.   7
  8. Ở loại tiết học này, BTVL được sử dụng ở một khâu đề xuất vấn đề, giải   quyết vấn đề, hoặc ở cả hai khâu đó. Đối với các tiết học NCTLM nhằm cung cấp cho HS cách hiểu mới  về kiến thức đã học hoặc thấy rõ hơn giới hạn, phạm vi áp dụng của kiến   thức, thì BTVL được GV đưa ra sau khi HS đã nắm được nội hàm của kiến  thức đó. Trong tiết học loại này, BTVL giúp HS đào sâu, mở  rộng kiến   thức bằng cách đi sâu vào một khía cạnh của vấn đề. Cũng có thể sử dụng  BTVL để  giới thiệu cho HS những tài liệu mới cần thiết cho việc nắm   vững kiến thức, thậm chí cả những tài liệu vượt ra ngoài phạm vi chương  trình cần thiết và bổ ích đối với HS. Nếu khéo chọn nội dung bài tập cho HS  thì GV có thể làm cho họ thấy rõ hơn vai trò của vật lí đối với việc tìm hiểu   thiên nhiên và kĩ thuật sản xuất. Với các tiết học nhằm cung cấp KTM thì HS được làm quen với bản   chất của các hiện tượng vật lí bằng nhiều cách khác nhau (thí nghiệm biểu  diễn, kể  chuyện, làm bài thực hành...). Tính tích cực của HS, chiều sâu và   mức độ nắm vững kiến thức sẽ tốt nhất khi “tình huống có vấn đề” được   tạo ra. Trong nhiều trường hợp, nhờ tình huống có vấn đề có thể xuất hiện   một kiểu bài tập mà việc giải bài tập đó sẽ giúp HS phát hiện lại quy luật   vật lí chứ  không phải tiếp thu quy luật đó dưới dạng hình thức có sẵn.   Trong những trường hợp này, BTVL xuất hiện như  một phương tiện để  nghiên cứu tài liệu mới. Và với mục đích đó, ta có thể sử dụng bài tập định  tính, định lượng, bài tập thực hành và các bài tập khác. Trong quá trình giải bài tập, bằng cách dựa vào kiến thức đã có của  HS có thể  cho họ  phân tích các hiện tượng vật lí đang được nghiên cứu,   hình thành cho họ các khái niệm mới, các đại lượng vật lí. Thông qua giải  bài tập thực nghiệm, có thể  truyền thụ  cho HS một số  khái niệm về  thí   8
  9. nghiệm vật lí với tính cách là một phương pháp nghiên cứu các hiện tượng  tự  nhiên dựa trên phép đo và khảo sát toán học sự  phụ  thuộc hàm số  giữa  các đại lượng vật lí. Về  mặt này có thể  hình thành cho HS một định luật  vật lí. Ví dụ: Định luật Húc, định luật bảo toàn động lượng, định luật bảo  toàn cơ năng... Cũng có khi việc hình thành cho HS một định luật vật lí chỉ cần ra bài  tập mà khi giải nó chỉ  cần lập luận logic và biến đổi toán học cùng với   việc sử dụng các kiến thức đã có của HS. Ví dụ: Trong bài “Động lượng.   Định luật bảo toàn động lượng”, các em có thể rút ra định luật từ các định  luật Niutơn.  HS cũng có thể  rút ra định luật bảo toàn cơ  năng từ  định lí   biến thiên động năng, mối liên hệ giữa biến thiên thế năng và công của lực   thế… Như vậy, BTVL được xem là phương tiện NCTLM khi trang bị KTM   cho HS nhằm đảm bảo cho họ nắm được KTM một cách chắc chắn, vì kiến   thức mà HS thu được là qua hoạt động giải bài tập của các em. Tuy nhiên để  đạt được hiệu quả cao thì theo [9, tr.73] BTVL đưa ra phải đảm bảo một số  yêu cầu sau: 1) Mỗi bài tập đưa ra phải chứa vấn đề  học tập cần giải quyết và   vừa sức với HS. 2) Mỗi bài tập phải chứa đựng yếu tố mới mà để tìm ra lời giải, HS   cần thực hiện các lập luận phức tạp hoặc phải “tìm câu trả  lời từ  thiên  nhiên” (tức là HS cần thực hiện các thí nghiệm vật lí, quan sát thực tế). Các bài tập phải được chú ý tới các mặt như  tình huống đưa ra bài   tập, nội dung bài tập (đề bài), cách giải và kết luận để từ đó rút ra KTM. 4) Việc giải hệ  thống bài tập phải đảm bảo thời gian mà chương  trình quy định, đảm bảo được mục đích chiếm lĩnh nội dung KTM của HS  trong tiết học ấy. 9
  10. 1.2.3.  Ôn tập kiến thức  đã học, củng cố  kiến thức cơ  bản của bài   giảng BTVL được sử  dụng rất nhiều khi ôn tập củng cố. Thông thường,  trong các tiết học NCTLM nhằm vận dụng kiến thức vừa học (bài tập   thường được dùng ở cuối tiết học).  Với các tiết luyện tập giải bài tập, GV phải đưa cho HS các bài tập  liên quan tới nhiều kiến thức đã biết mà để giải chúng, HS phải vận dụng  một cách tổng hợp các kiến thức đã học, thậm chí trong cả  chương phần.   Do đó, họ sẽ hiểu rõ hơn, ghi nhớ vững chắc nội dung kiến thức đã học.  1.2.4. Phát triển tư duy vật lí cho HS Giải BTVL là một trong những hình thức làm việc tự  lực căn bản  của HS. Trong khi giải bài tập, HS phải phân tích các điều kiện của đề, tự  xây dựng những lập luận, thực hiện tính toán, khi cần thiết phải sử  dụng   đến thí nghiệm, thực hiện các phép đo, xác định sự phụ thuộc hàm số giữa   các đại lượng, kiểm tra các kết luận của mình. Khi đó, HS phải vận dụng   các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa... để  tự  tìm hiểu vấn đề, tìm ra cái cơ bản, chìa khóa để giải quyết vấn đề. Trong   những điều kiện đó, tư  duy phân tích, tổng hợp, tư  duy sáng tạo của HS  được phát triển, năng lực làm việc độc lập của HS được nâng cao.  1.2.5.  BTVL là phương tiện có hiệu quả  trong kiểm tra đánh giá kết quả  học tập về  vật lí của HS. Đặc biệt là giúp phát triển trí tuệ, làm bộc lộ  những khó khăn chủ  yếu và những sai lầm cơ  bản của HS trong học tập.   Đồng thời góp phần giúp cho GV phát hiện trình độ  phát triển trí tuệ, kĩ   năng vận dụng kiến thức của HS cũng như những khó khăn và sai lầm phổ  biến của họ  trong học tập. Từ  đó, GV có thể  đề  ra cách giúp đỡ  các em   vượt qua khó khăn, khắc phục những sai lầm đó. 10
  11. 1.2.6. Giáo dục tư  tưởng đạo đức, kĩ thuật tổng hợp và hướng nghiệp   cho HS BTVL có tác dụng giáo dục tư tưởng đạo đức rất lớn, nhờ  nó ta có  thể giới thiệu cho HS sự xuất hiện những tư tưởng và quan điểm tiên tiến,  hiện đại, những phát minh lớn của nhân loại, có thể lưu ý HS những thành   tựu của nền khoa học nước nhà. BTVL cũng là phương tiện hiệu quả  để  giáo dục đạo đức, tình yêu lao động, đức tính kiên trì, ý chí và tình cảm của   HS. Việc giải BTVL có thể  đem lại cho HS niềm vui sáng tạo đối với  những thành công, tăng thêm sự yêu thích, hứng thú với môn học. Bên cạnh đó, các BTVL còn có tác dụng rất lớn đến việc giáo dục kĩ   thuật tổng hợp cho HS. Nó cũng là một phương tiện thuận lợi để  HS liên   hệ lí thuyết với thực hành, học tập với đời sống sản xuất. Từ đó góp phần   giáo dục hướng nghiệp cho HS. 1.3. Phân loại BTVL Trong các tài liệu phương pháp giảng dạy vật lí người ta chia BTVL   theo nhiều dấu hiệu khác nhau như theo nội dung, theo mức độ khó dễ, theo   hình thức lập luận lôgic... Có thể tổng kết các cách phân loại ấy như sơ đồ  1: 11
  12. Sơ đồ 1: Phân loại bài tập vật lí Ở  sáu cách phân loại đầu tiên chưa cho thấy sự  thống nhất về  tiêu  chuẩn phân loại BTVL, vì trong bất kì loại nào cũng chứa đựng một vài   yếu tố  của một hay một vài loại khác. Ví dụ  như  phân loại bài tập theo  phương thức giải hay cho điều kiện thì để  giải bài tập định lượng buộc  phải lập luận lôgic; có bài tập thí nghiệm, đồ  thị  lại có thể  xếp là bài tập   định tính hoặc là bài tập định lượng… Đặc biệt là cách phân loại bài tập   chỉ mang tính chất bề ngoài chưa đề  cập gì đến chủ thể giải BTVL là HS.   Để  khắc phục tình trạng trên, TS. Nguyễn Thế  Khôi [9] đã đưa ra cách  phân loại bài tập dựa vào mức độ phức tạp của hoạt động tư duy trong quá   trình tìm kiếm lời giải làm hai loại: bài tập cơ bản, bài tập phức hợp. 12
  13. Bài tập cơ  bản về  vật lí là loại BTVL mà để  tìm được lời giải HS  chỉ  cần xác lập mối quan hệ  trực tiếp giữa những cái đã cho và cái phải   tìm, chỉ  cần dựa vào một kiến thức cơ  bản mới học (một tính chất, một  mối quan hệ, một phương pháp hoạt động mới) mà HS chỉ  tái hiện chứ  không thể tự tạo ra được. Còn loại BTVL mà trong đó, việc tìm lời giải phải thực hiện một  chuỗi lập luận lôgic, biến đổi toán học qua nhiều mối quan hệ  giữa đại   lượng đã cho, đại lượng phải tìm và những đại lượng trung gian không cho  trong đề bài gọi là bài tập phức hợp. Trong hệ thống bài tập đã soạn thảo, chúng tôi chỉ sử dụng các loại   bài tập định tính, định lượng và bài tập thí nghiệm để hình thành KTM cho   HS. 1.4. Phương pháp giải BTVL Về đại thể, phương pháp giải BTVL gồm bốn bước, mỗi bước gồm   một số khâu như sau: Bước 1. Nghiên cứu đề bài: ­ Đọc kĩ đề bài. ­ Tìm hiểu những thuật ngữ mới, quan trọng có trong đề bài. ­ Mã hóa đề bài bằng các kí hiệu vật lí hay dùng. ­ Đổi các đơn vị  của các đại lượng trong cùng một hệ  thống thống  nhất mà thường là hệ SI. ­ Vẽ hình hay sơ đồ. Bước 2. Phân tích hiện tượng, quá trình vật lí và lập kế hoạch giải: ­ Mô tả  hiện tượng, quá trình vật lí xảy ra trong tình huống nêu lên   trong đề bài. 13
  14. ­ Vạch ra quy tắc, định luật vật lí… chi phối hiện tượng hay quá trình  đó. ­ Dự kiến những lập luận, biến đổi toán học… cần thực hiện nhằm  xác lập các mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Bước 3. Trình bày lời giải: ­ Viết phương trình của các định luật và giải hệ  phương trình có  được để tìm  ẩn số  dưới dạng tổng quát, biểu diễn các đại lượng cần tìm   qua các đại lượng đã cho. ­ Thay giá trị bằng số của các đại lượng đã cho để tìm ẩn, thực hiện  các phép tính với độ chính xác cho phép. Bước 4. Kiểm tra và biện luận kết quả: ­ Có thể kiểm tra theo một hay các cách sau: + Kiểm tra xem đã thực hiện hết các yêu cầu của bài toán đặt ra  chưa? + Kiểm tra tính toán đã đúng chưa? + Kiểm tra thứ nguyên có phù hợp không? + Xem kết quả và ý nghĩa thực tiến có phù hợp không? + Giải bài tập theo cách khác xem có cùng kết quả không? ­ Biện luận giúp loại trừ những nghiệm không phù hợp với dữ kiện  của bài toán, với thực tế, với những quan niệm vật lí hiện đại. 1.5. Hướng dẫn học sinh giải BTVL 1.5.1. Cơ sở định hướng của việc hướng dẫn HS giải bài tập Muốn cho việc hướng dẫn giải toán được định hướng một cách đúng  đắn GV phải phân tích được phương pháp giải BTVL cụ  thể, bằng cách  vận dụng những hiểu biết tư duy giải BTVL để  xem xét việc giải BTVL  cụ thể. Mặt khác phải xuất phát từ mục đích sư phạm cụ thể của việc cho   14
  15. HS giải bài tập vật lí để xác định kiểu hướng dẫn phù hợp. Sơ đồ sau minh  họa cho điều vừa trình bày ở trên: 1.5.2. Các kiểu hướng dẫn học sinh giải bài tập vật lí Theo mục đích sư  phạm, người ta phân biệt ba kiểu hướng dẫn HS  giải BTVL như sau [15, tr.83 ­ 91]: 1.5.2.1. Hướng dẫn theo mẫu (hướng dẫn algôrit) Algôrit là một bảng chỉ dẫn bao gồm các thao tác (hành động sơ cấp)  được HS hiểu một cách đơn giá và nắm vững. Trong đó xác định một cách  rõ ràng, chính xác và chặt chẽ, chỉ  rõ cần thực hiện những hành động nào  và theo trình tự nào để đi đến kết quả. Hướng dẫn algôrit là sự hướng dẫn chỉ rõ cho HS những thao tác cần  thực hiện và trình tự thực hiện các thao tác ấy để đạt kết quả mong muốn.   Kiểu hướng dẫn này được áp dụng khi cần dạy cho HS phương pháp giải  từng loại bài tập cơ bản điển hình, luyện tập cho HS kĩ năng giải bài tập  dựa trên cơ sở algôrit giải. Kiểu hướng dẫn này đảm bảo HS giải được bài toán một cách chắc  chắn giúp cho việc rèn luyện kĩ năng giải bài tập của họ  có hiệu quả.   Nhưng nó ít có tác dụng rèn luyện khả  năng tìm tòi, sáng tạo và sự  phát  triển tư duy của HS bị hạn chế. 15
  16. 1.5.2.2. Hướng dẫn tìm tòi (hướng dẫn Ơritic) Hướng dẫn tìm tòi là kiểu hướng dẫn mang tính chất gợi ý cho HS   suy nghĩ tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự  xác định hành động cần thực   hiện để thu được kết quả. Kiểu hướng dẫn này được áp dụng khi cần giúp đỡ HS vượt qua khó  khăn để  giải bài tập, đồng thời đảm bảo phát triển tư  duy và rèn luyện  được cho học sinh kĩ năng tự học, tự tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tránh  tình trạng GV giải thay bài tập cho HS. Tuy nhiên, kiểu hướng dẫn này  không đảm bảo lúc nào HS cũng giải được bài tập một cách chắc chắn. 1.5.2.3. Hướng dẫn định hướng khái quát chương trình hóa. Định hướng khái quát chương trình hóa là sự  hướng dẫn HS tự  tìm  tòi cách giải quyết nhưng GV định hướng hoạt động tư  duy của HS theo   đường lối khái quát của việc giải quyết vấn đề (theo phương pháp giải bài   tập nói chung đã trình bày ở mục 1.4). Ngay sự định hướng ban đầu đã đòi hỏi sự tự lực tìm tòi giải quyết  của HS, nếu không đáp ứng được thì sự giúp đỡ của GV là cụ thể hóa hơn   để HS thu hẹp phạm vi tìm tòi, đảm bảo sự vừa sức của HS. Nếu HS vẫn   không tìm tòi, giải quyết được thì sự hướng dẫn của GV chuyển dần thành   hướng dẫn theo mẫu để  đảm bảo HS hoàn thành được một bước. Sau đó  tiếp tục cho HS tự lực tìm tòi cách giải quyết bước tiếp theo, cứ như vậy  cho đến khi HS giải quyết được vấn đề đặt ra. Kiểu hướng dẫn này áp dụng khi có điều kiện hướng dẫn toàn bộ  tiến trình hoạt động giải của HS giúp họ  giải quyết được bài tập đã cho,   đồng thời dạy họ cách suy nghĩ trong quá trình giải bài tập và rút ra phương  pháp giải một loại bài tập cụ thể nào đó. 16
  17. Kiểu hướng dẫn này đảm bảo HS giải  được bài tập đã cho, rèn  luyện kĩ năng tư duy của HS trong quá trình giải bài tập. Nhưng nó đòi hỏi   sự  hướng dẫn của GV phải theo sát tiến trình giải bài tập của HS, không   thể  chỉ  dựa vào những lời hướng dẫn có thể  soạn sẵn, mà phải dựa vào  nhận thức của HS để điều chỉnh sự hướng dẫn cho phù hợp. Để  hình thành KTM thông qua giải BTVL, chúng tôi sử  dụng hai  kiểu hướng dẫn sau cùng là hướng dẫn  ơritic và hướng dẫn định hướng   khái quát chương trình hóa. 1.5.3. Yêu cầu của câu hỏi định hướng tư  duy của HS trong quá trình   giải bài tập Để hướng dẫn HS giải bài tập nhằm hình thành KTM bằng hai kiểu  hướng dẫn trên GV phải dùng các câu hỏi định hướng tư  duy HS. Các câu  hỏi phải tuân theo những yêu cầu chủ yếu sau: ­ Câu hỏi phải diễn đạt chính xác về ngữ pháp, nội dung khoa học và  điều muốn hỏi. ­ Câu hỏi phải vừa sức với HS. ­ Câu hỏi phải định hướng đúng đắn tư duy của HS trong tình huống  học tập cụ thể đang xét. 1.6. Giải bài tập trong tiết học NCTLM về vật lí Giải BTVL là một bộ  phận đa số  trong các tiết học như  NCTLM,  luyện tập, ôn tập, kiểm tra. Nó có thể  chiếm một phần hoặc toàn bộ  tiết  học. Đồng thời nó cũng được sử  dụng trong cả  chương trình ngoại khóa.   BTVL thường được sử dụng trong cả trong hai loại tiết học là NCTLM và  luyện tập giải bài tập. Trong khuôn khổ  khóa luận, chúng tôi chỉ quan tâm  đến loại tiết học đầu. 17
  18. Mỗi kiến thức khoa học đều là lời giải đáp cho một câu hỏi. Nếu   không nảy sinh câu hỏi thì sẽ không có nhu cầu giải đáp câu hỏi. Vì thế sẽ  không có kiến thức khoa học để giải đáp câu hỏi đó. Cho nên việc NCTLM   thường  được bắt  đầu bằng việc  đặt vấn đề  hay đề  xuất vấn đề. Theo   I.Ia.Lemer [19, tr.5], vấn đề trong dạy học là một câu hỏi xuất hiện hay được   đặt ra đối với người chưa biết trước câu trả lời, mà phải tìm tòi sáng tạo và  để tìm ra câu trả lời đó, dựa vào những tài liệu nào đó làm cơ sở xuất phát.   Có nhiều cách để  làm xuất hiện vấn  đề  cần nghiên cứu tìm cách giải  quyết. Một trong số đó là sử dụng bài tập đề  xuất vấn đề. Việc xây dựng   các vấn đề trong dạy học bằng bài tập sẽ kích thích được hứng thú học tập   của HS, tạo ra được khả  năng củng cố  kiến thức đã có và xây dựng mối   quan hệ giữa kiến thức đã có và cả KTM. V.G.Razumôvxki gọi bài tập đề  xuất vấn đề  là bài tập trong đó nêu  ra một yêu cầu xác định được thực hiện trên cơ sở  hiểu biết các định luật  vật lí, nhưng lại không có chỉ  dẫn trực tiếp, tường minh các định luật để  giải bài tập. Bài tập đề  xuất vấn đề  được sử  dụng  ở  đầu giờ  học. Nó  không những có tác dụng xây dựng vấn đề dạy học mà còn có thể chuẩn bị  cho việc nghiên cứu vấn đề. Trong dạy học, có không ít vấn đề  được giải quyết bằng bài tập.  Thông thường, sau khi nêu vấn đề  nghiên cứu, GV sẽ  đưa ra một bài tập   phức hợp, chia nó thành các bài tập bộ  phận, mà việc giải các bài tập đó,  HS sẽ  thu được lời giải, nghĩa là thu được KTM. Dựa vào phương pháp  giải, có thể chia bài tập giải quyết vấn đề thành hai loại: 1) Giải bài tập bằng lập luận lôgic và cách biến đổi toán học trên cơ  sở các kiến thức đã biết. 18
  19. 2) Buộc phải quan sát tiến hành thí nghiệm. Tức là trong quá trình  giải bài toán này, việc sử dụng lập luận lôgic và biến đổi toán học không  đưa đến câu trả lời cuối cùng. Hoặc tuy dẫn đến kết quả cuối cùng nhưng  không rõ có phù hợp thực tiễn hay không thì người giải buộc phải quan sát,  làm thí nghiệm, mới thu được câu trả lời của bài tập. ­ KTM HS thu được sau khi giải bài tập là những khái niệm về định   luật vật lí, tính chất, quy tắc, hiện tượng mà HS chưa biết. Chúng thường   có mối quan hệ với những tính chất quy tắc, định luật đã biết. ­ Mục đích của bài tập nhằm hình thành KTM là HS lĩnh hội được  kinh nghiệm mà xã hội đã biết, giải quyết được những vấn đề  mà các nhà  khoa học đã giải quyết, nhưng lại là mới đối với HS. Bản chất của việc  hình thành những KTM bằng giải bài tập là trong mỗi trường hợp phải tạo   ra tình huống đặc biệt đòi hỏi HS phải độc lập tìm cách giải quyết. Tức là  ở chỗ đề ra một hay một hệ thống bài tập gây cho HS có một vướng mắc  nào đó về  lí thuyết hoặc phương pháp và có nhu cầu giải quyết vấn đề,  đồng thời có khả năng giải quyết được. 1.7. Mỗi quan hệ BTVL và phát triển năng lực giải quyết vấn đề, nắm  vững kiến thức 1.7.1. Mỗi quan hệ  giữa giải BTVL với phát triển năng lực giải quyết   vấn đề Theo Ph.N.Gônôbôlin: “Trong khoa học tâm lí, người ta coi năng lực  là những thuộc tính tâm lí riêng lẻ của cá nhân, nhờ những thuộc tính ấy mà  con người hoàn thành tốt đẹp một hoạt động nào đó mà mặc dù bỏ ra ít sức  lao động vẫn đạt kết quả cao” [6, tr.61]. P.A.Ruđich còn đưa ra định nghĩa:  “Năng lực ­ đó là tính chất tâm lí của con người chi phối trong quá trình   19
  20. tiếp thu kiến thức, kĩ năng và kĩ xảo cũng như  hiệu quả  thực hiện một   hành động nhất định” [13, tr.382]. Khi xem xét bản chất của năng lực, cần chú ý tới ba dấu hiệu chủ  yếu của nó: 1) Là sự  khác biệt các thuộc tính tâm lí cá nhân, làm cho người này  khác người kia; 2) Chỉ  là sự  khác biệt có liên quan đến hiệu quả của việc thực hiện  một hoạt động nào đó; 3) Được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động của cá  nhân. Các nhà tâm lí học thường chia năng lực thành ba mức độ phát triển:   năng lực, tài năng, thiên tài. Trong đó, năng lực vừa là danh từ  chung nhất,   vừa chỉ mức độ nhất định biểu thị sự hoàn thành có kết quả một hoạt động  nào đó và chúng tôi chỉ  quan tâm đến mức độ  này trong hoạt động giải  BTVL của HS. Năng lực được phân loại theo hai cách phổ biến: theo mức  độ  phản ánh (năng lực được chia thành năng lực tái tạo và năng lực sáng   tạo), theo sự chuyên môn hóa (năng lực được chia thành năng lực chung và  năng lực riêng). Mức độ  phát triển của năng lực phụ  thuộc vào mức độ  nắm vững  kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo. Muốn phát triển năng lực, phải nắm vững và  vận dụng một cách sáng tạo những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo đã tích lũy  được về  một lĩnh vực nhất định. Mặt khác, năng lực giúp cho việc nắm   vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo được dễ  dàng và nhanh chóng hơn. Tuy   nhiên, năng lực khác với kĩ năng, kĩ xảo  ở  chỗ  kĩ năng, kĩ xảo là kết quả  của sự luyện tập, học tập, còn để phát triển năng lực, ngoài luyện tập, học   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
18=>0