intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài "NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN VỚI PHÁT HUY CÁC NGUỒN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN"

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

194
lượt xem
41
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sự cần thiết của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta Một trong những thành tựu lớn nhất của gần 18 năm đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế, tạo nên những tiềm lực mới cho sự phát triển của đất nước. Có được thành tựu ấy là do nhiều nguyên nhân, trong đó đổi mới tư duy kinh tế, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, gắn với thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ bản nhất. Một thời chưa xa, chúng ta lúng túng trong nền kinh tế...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài "NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN VỚI PHÁT HUY CÁC NGUỒN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN"

  1. NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN VỚI PHÁT HUY CÁC NGUỒN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN TRẦN QUANG NHIẾP 1 – Sự cần thiết của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta Một trong những thành tựu lớn nhất của gần 18 năm đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế, tạo nên những tiềm lực mới cho sự phát triển của đất nước. Có được thành tựu ấy là do nhiều nguyên nhân, trong đó đổi mới tư duy kinh tế, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, gắn với thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ bản nhất. Một thời chưa xa, chúng ta lúng túng trong nền kinh tế chỉ thừa nhận hai thành phần là quốc doanh và tập thể. Và không ít người cho rằng, chỉ có như vậy mới thực sự là xã hội chủ nghĩa.(!) Chúng ta không phê phán một cách phi lịch sử, nhưng quan trọng là đã nhận ra những lẽ cần thiết của sự tồn tại hai thành phần kinh tế đó và những hạn chế làm kìm hãm sự phát triển của đất nước khi thực hiện nền kinh tế chỉ có hai thành phần như vậy để từ đó tìm ra cách làm ăn mới phù hợp với quy luật phát triển. Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế với nhiều hình thức rất phong phú, đa dạng và sáng tạo. Nhờ đó, chỉ sau hơn 10 năm, vẫn những con người ấy, cũng những điều kiện tự nhiên ấy, từ một đất nước thiếu ăn quanh năm, trông chờ chủ yếu vào sự viện trợ từ bên ngoài; hàng tiêu dùng khan hiếm, người lao động không có việc làm… đã trở thành một đất nước không những đủ ăn, mà còn có lương thực, thực phẩm dự trữ và đến nay xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai thế giới; nhu cầu tiêu dùng trong nước được thỏa mãn về nhiều mặt, kết cấu hạ tầng phát triển, nền kinh tế – xã hội sôi động, đất nước không ngừng phát triển. Chính nhờ đổi mới cơ chế, chính sách nhằm không ngừng phát triển các
  2. thành phần kinh tế, các tiềm năng của xã hội được khai thác, nội lực được phát huy, sức mạnh của bên ngoài được huy động. Chính sách đối với phát triển các thành phần kinh tế là một bộ phận trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Từ chỗ không thừa nhận kinh tế tư nhân đến chỗ thừa nhận nó; từ chỗ thừa nhận kinh doanh nhỏ ở một số ngành nghề, đến chỗ không hạn chế về quy mô và lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Từ chỗ cho làm, đến chỗ được làm, mỗi lần thay đổi tư duy như vậy là một lần nhận thức của chúng ta được mở rộng, sâu thêm và kinh tế tư nhân cùng các thành phần kinh tế phát triển. Những biến đổi như vậy đã thúc đẩy các thành phần kinh tế đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm tạo cơ hội cho những chủ thể kinh tế, các doanh nhân mới năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm với mình và với đất nước. Từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định thực hiện nhất quán nền kinh tế nhiều thành phần với ý nghĩa nêu trên và được coi như một giải pháp chiến lược góp phần giải phóng và khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất. Nghị quyết Trung ương 6, khóaVI, chỉ rõ: "Trong điều kiện nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội". Đại hội VIII của Đảng nêu 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Đại hội IX của Đảng xác định, ở nước ta hiện nay, cần phát triển 6 thành phần kinh tế, tức là ngoài 5 thành phần kinh tế nêu trên, có thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và nhấn mạnh các thành phần kinh tế đó đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Có thể nói đây là quá trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt, nó tạo điều kiện cho mọi cá nhân, đơn vị, tập thể khai thác phát huy mọi tiềm năng, nội lực, tạo ra một tổng hợp lực thật sự cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
  3. Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xác định và phát triển các loại hình sở hữu, phân định các thành phần kinh tế là cần thiết, hợp quy luật làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế nói chung và tạo điều kiện cho từng thành phần kinh tế nói riêng phát triển, phát huy được mọi nguồn sức mạnh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, hỗ trợ thúc đẩy, cạnh tranh lẫn nhau làm cho nền kinh tế của đất nước thực sự năng động phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành phần kinh tế này có diện mạo riêng nhưng đều nằm trong sự thống nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lâu dài, vừa hợp tác vừa cạnh tranh lành mạnh góp phần phát triển vững mạnh nền kinh tế nước ta trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. 2 – Phát huy sức mạnh các thành phần kinh tế Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài nguyên quốc gia và các tài sản sở hữu nhà nước như hầm mỏ, đất đai, rừng, biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác… Đại hội VIII của Đảng, chỉ rõ, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở "làm đòn bẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới". Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật. Sản xuất hàng hóa càng phát triển, sự cạnh tranh càng gay gắt thì những người lao động riêng rẽ, các hộ cá thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng có yêu cầu phải liên kết, hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển. Vì thế, phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã là con
  4. đường để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ manh mún với sản xuất hàng hóa lớn, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh tế hợp tác là hình thức kinh tế mang tính tập thể, xã hội hóa, là nhân tố quan trọng để xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nó giáo dục ý thức cộng đồng, tinh thần hợp tác hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên xã hội, giữa các thành phần kinh tế để sản xuất, kinh doanh đúng pháp luật. Hợp tác xã kiểu mới đã khắc phục những hạn chế của hợp tác xã kiểu cũ. Nó do các thành viên bao gồm cả thể nhân và pháp nhân (người lao động, hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ…), cả người ít vốn và người nhiều vốn, người góp sức hoặc góp vốn xây dựng nên, trên cơ sở tự nguyện, tôn trọng các nguyên tắc, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Hợp tác xã không tập thể hóa mọi tư liệu sản xuất của các thành viên mà dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể. Tổ chức và hoạt động của hợp tác xã không bị giới hạn bởi quy mô, lĩnh vực và địa bàn, hoàn toàn tự chủ trong sản xuất, kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị trường. Hình thức phân phối vừa theo lao động, vừa theo cổ phần và mức độ tham gia, dịch vụ… Với những ưu việt như vậy, Đại hội IX của Đảng xác định: Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác xã đa dạng. Nhà nước phải giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học – công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường… để cùng với kinh tế nhà nước ngày càng giữ vai trò nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Trong chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội IX của Đảng coi kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Loại hình kinh tế này xuất hiện và phát huy tác dụng ở cả thành thị và nông thôn, cả trong nông nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Sự phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa gắn với thị trường có vai trò quan trọng trước mắt cũng như lâu dài trong việc thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Qua thực tế gần 18 năm đổi mới cho thấy, kinh tế hộ cá thể, tiểu chủ là loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh mang tính chất của một xí nghiệp gia đình chứa đựng những khả năng lớn của sáng kiến cá nhân. ở đây, nguyên tắc kinh doanh, theo đuổi mục tiêu doanh
  5. lợi kết hợp hài hòa với các giá trị gia đình. Những thành viên trong hộ gắn bó với nhau bằng quan hệ ruột thịt, nên có tính cộng đồng, trách nhiệm cao dễ thống nhất. Ngoài các hoạt động sản xuất, kinh doanh, chủ hộ còn quan tâm đến việc học hành, giáo dục truyền thống, đạo đức, pháp luật cho các thành viên để hướng tới sự thành đạt. Quan hệ sản xuất ở đây là trực tuyến, bỏ qua các khâu trung gian, nên việc quản lý rất chặt chẽ, hiệu quả. Chất lượng sản phẩm, thương hiệu hàng hóa được quan tâm đầu tiên, bởi nó tạo nên chữ tín của gia đình. Mọi tiềm năng trí tuệ, kinh nghiệm quản lý, tay nghề, bí quyết, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh… được tích lũy qua nhiều đời là tiềm năng" chất xám" quan trọng của kinh tế cá thể, tiểu chủ được phát huy. Quy mô của kinh tế cá thể, tiểu chủ vừa và nhỏ nên dễ tổ chức sản xuất, kinh doanh, ít tốn kém, dễ thích nghi. Nó có khả năng huy động mọi nguồn lực phân tán như vốn, lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, thiết bị kỹ thuật… kết hợp lại với nhau, qua đó giải quyết việc làm cho đông đảo người lao động, tăng thu nhập, tăng tích lũy, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo cơ hội cho người lao động tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất và hưởng thụ các thành quả tăng trưởng nền kinh tế. Kinh tế cá thể, tiểu chủ góp phần tích cực xóa đói giảm nghèo, nâng cao mặt bằng kinh tế – xã hội, cải thiện đáng kể bộ phận đông đảo dân cư ở thành thị và nông thôn. Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở nước ta, thành phần kinh tế này có vai trò quan trọng xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, về phát triển nền sản xuất hàng hóa, về giải quyết các vấn đề xã hội. Đại hội VIII của Đảng khẳng định: "Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước. Khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh". Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định rõ hơn vai trò vị trí của kinh tế tư bản tư nhân và Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX, xác định: "Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển
  6. kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế". Theo V.I. Lê-nin, chủ nghĩa tư bản nhà nước là con đường hữu hiệu nhất để cải tạo các quan hệ tiểu nông, để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức hợp tác, liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. V.I. Lê-nin cũng nhấn mạnh: Chủ nghĩa tư bản nhà nước là chủ nghĩa phục tùng sự điều tiết của nhà nước (giám sát, kiểm tra, quy định các hình thức trật tự, v.v) (1). Chủ nghĩa tư bản nhà nước gắn liền với nhà nước, phụ thuộc vào bản chất của nhà nước, khả năng điều tiết của nhà nước và phụ thuộc vào sự vững mạnh của nhà nước. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chúng ta hoàn toàn có khả năng làm được những điều nêu trên. Vì vậy, Đảng ta chủ trương phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước trong việc khai thác các nguồn vốn, máy móc, thiết bị, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường v.v.., để mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước. Từ Đại hội IX Đảng ta khẳng định thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, phản ánh đúng thực tế đang diễn ra trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Việc triển khai thực hiện các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra một khối lượng đáng kể năng lực sản xuất, đã tiếp nhận được một số kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trong một số ngành kinh tế như thông tin viễn thông, thăm dò dầu khí, sản xuất phụ tùng, lắp ráp xe máy, hóa chất, trồng trọt theo công nghệ tiên tiến, nuôi tôm nước lợ theo công nghệ mới, xây dựng khách sạn cao cấp, sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm có chất lượng cao… Đồng thời đã tiếp thu được một số phương pháp quản lý tiến bộ, một số kinh nghiệm về tổ chức sản xuất, kinh doanh. Đảng, Nhà nước ta đã tạo điều kiện thông thoáng nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài vào những mục tiêu trọng điểm và lĩnh vực ưu tiên phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, như sản xuất hàng xuất khẩu; nuôi trồng, chế biến nông – lâm –
  7. thủy sản; sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư, chế biến nguyên liệu và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; tập trung ở các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Trong xu thế toàn cầu hóa, để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, với chính sách kinh tế mở, chúng ta đang tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam ngày một tăng, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu GDP. Cho nên việc tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu kinh tế – xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm là chủ trương đúng của Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 3 – Những vấn đề cần tháo gỡ để phát triển các thành phần kinh tế Lý luận cũng như qua thực tiễn gần 18 năm đổi mới đã chứng minh sức sống và vai trò to lớn của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các thành phần kinh tế ấy không tồn tại biệt lập với nhau mà bổ sung lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau, cạnh tranh với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Song để khắc phục những khó khăn, phát huy những thuận lợi, tiếp tục thúc đẩy phát triển các thành phần kinh tế, phát huy các nguồn lực xây dựng nền kinh tế quốc dân vững mạnh trước hết cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc chính sau: a – Nhận thức đúng về sự cần thiết tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phải thực sự giải phóng tư tưởng cho các chủ thể các thành phần kinh tế, tạo "sân chơi" bình đẳng, lành mạnh cho các thành phần kinh tế. Khắc phục tâm lý mặc cảm, kỳ thị, sợ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, mất độc lập chủ quyền, đi theo hướng tư bản chủ nghĩa… Từ đó ngại ngùng, không dám cho các thành phần kinh tế phát triển với mọi năng lực của nó. Thực tế chúng ta có Đảng vững mạnh; có Nhà nước với hệ thống pháp luật và các cấp quản lý chặt chẽ; ý thức độc lập tự chủ của nhân dân rất cao nên không dễ gì chệch hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
  8. khiến ta phải băn khoăn, lo ngại không dám chấp nhận nó. Phải coi đây là hình thức quá độ cần thiết, tạo sức mạnh vật chất cho nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội. b – Hoàn thiện hệ thống pháp luật để định hướng, điều chỉnh, quản lý kinh tế vĩ mô đối với các thành phần kinh tế bằng pháp luật; xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách, thích hợp, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế bình đẳng, tự chủ, tự do phát triển lâu dài. Đổi mới nội dung, phương thức quản lý của Nhà nước sao cho đúng, hiệu quả, thực sự "chặt" mà không gò ép, cứng nhắc; "thoáng" mà không buông. Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chúng ta có cơ chế "thoáng" song vẫn giữ được độc lập tự chủ của đất nước để tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài giúp ta phát triển nhanh, mạnh, vững chắc ở một số ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng tâm trọng điểm như một số nước đã làm. c – Thực hiện công khai, công bằng, dân chủ trong chính sách đầu tư, quản lý, thuế, tài chính v.v.. đối với các thành phần kinh tế. Xóa cơ chế "xin – cho"; ngăn chặn hữu hiệu xu hướng quay lại bao cấp trong một số ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế. Khắc phục mọi biểu hiện đặc quyền đặc lợi, ban phát, chạy chọt, tham nhũng, hối lộ v.v.. trong các khâu của quá trình vận hành nền kinh tế nhiều thành phần gắn với thị trường. d – Chăm lo đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ các loại cho các thành phần kinh tế. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Mở rộng thông tin và tăng khả năng lãnh đạo của Đảng và định hướng của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế để bảo đảm sản xuất, kinh doanh đúng hướng đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho các chủ thể các thành phần kinh tế tiếp cận với thị trường khu vực và quốc tế, giúp cho việc chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới, tăng sức cạnh tranh, tiếp thu được những tiến bộ khoa học – công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiến bộ của thế giới. đ – Coi trọng bảo vệ môi trường trong sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế nhằm bảo đảm phát triển ổn định, bền vững. Kiên quyết phát hiện, ngăn chặn kịp thời những vi phạm làm ô nhiễm môi trường gây tổn thất cho sản xuất, kinh doanh và gây tác hại ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
  9. e – Thực hiện nghiêm việc xử phạt những chủ thể kinh tế, các đơn vị kinh tế sản xuất, kinh doanh hàng kém phẩm chất, làm hàng giả, gian lận trong sản xuất, kinh doanh để tạo nên nền kinh tế lành mạnh, bền vững, khắc phục những biểu hiện sai trái, tiêu cực của các thành phần kinh tế có thể xảy ra gây nên những biến động về kinh tế – xã hội của đất nước. (1) Xem: V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t 44, tr 418
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0