intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

152
lượt xem
45
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xhcn là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước việt nam hiện nay', luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước Việt Nam hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước Việt Nam hiện nay
  2. Lời mở đầu Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sự nghiệp đổi mới kinh tế dòi hỏi phải nhanh chóng tiếp cận những lý luận và thực tiễn quản lý kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Quá trình đổi mới kinh tế cần có những cán bộ kinh tế có kiến thức có phương pháp thích hợp với kinh tế thị trường. Vào cuối những năm 80 của thế kỷ 20, về cơ bản nền kinh tế của Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên hiện vật, tự cung, tự cấp còn chiếm ưu thế, vận hành theo cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp và có nhiều sai lầm trong nhận thức về mô hình xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã không nhận thức đúng về kinh tế thị trường, cho rằng sản xuất hàng hoá là hình thức tổ chức của Chủ nghĩa tư bản, đồng nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức kinh tế và thành phần kinh tế, coi nhẹ qui luật giá trị, qui luật cạnh tranh, chỉ thấy mặt tiêu cực của thị trường. Xã hội Việt Nam vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Vì vậy Việt Nam vẫn là nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Do đó phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong những bước đường đi tới. Muốn vậy phải chuyển nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền kinh tế thị trường cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để làm được điều đó chúng ta cần phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Đây là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở Việt Nam hiện nay. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hành chính, quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế của Việt
  3. Nam trong hiện tại và trong tương lai để đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá để huy động sức mạnh của toàn dân vào việc khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, cần phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Đó là chủ trương có tính chiến lược trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay mà Đảng và nhà nước Việt Nam đã xác định. Vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước Việt Nam hiện nay và nó sẽ được giải quyết ở trong tiểu luận này với những nội dung chính như sau: Phần I : lý luận chung gồm:  Lý luận chung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.  Nêu lên tính tất yếu khách quan của việc tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phần II : Một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
  4. Phần I : Lý luận chung I. Lý luận chung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở việt Nam. Nói đến quan điểm nền kinh tế nhiều thành phần thì trước hết ta phải hiểu các thành phần kinh tế ? khái niệm xã hội chủ nghĩa là gì ? và tại sao phải phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà không theo một định hướng khác. 1. Khái niệm về xã hội chủ nghĩa Tại đại hội Đảng lần thứ VIII vào tháng 6 – 1996 đã xác định xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chủ yếu có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột mọi người có quyền làm chủ bản thân mình và làm theo năng lực hưởng theo lao động. Là xã hội mà người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, tự do trong khuôn khổ pháp luật, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ và hợp tác với nhân dân ở các nước trên thế giới. Theo Mác xã hội chủ nghĩa đáng lẽ phải ra đời từ các nước tư bản văn minh có nền kinh tế phát triển cao, song do lịch sử Việt Nam đã chịu ách thống trị của phong kiến và thực dân, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc đưa đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Vì vậy Việt Nam là nước có nền kinh tế chưa phát triển còn nghèo nàn lạc hậu. Do vậy Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa để Việt Nam theo kịp các nước phát triển trên thế giới. 2. Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đi đến mục tiêu không còn áp bức, bóc lột, đi đến chế độ công hữu các tư liệu sản xuất
  5. thực hiện được công bằng xã hội và xã hội có mức sống cao. Đi theo kinh tế tư bản chủ nghĩa là khác với cơ chế tư bản chủ nghĩa là khả năng từng bước rút ngắn khoảng cách giầu nghèo trong khi chủ nghĩa tư bản có thể dẫn đến tiêu cực. “ Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa việc phát triển lực lượng sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất mới, phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu về kinh tế, xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Phải có những cải cách mới các hình thái kinh tế xã hội thay thế chế độ sở hữu này bằng chế độ sở hữu khác nhưng sự thay thế đó không diễn ra trong một lúc mà có tính kế thừa lịch sử trong thời kỳ quá độ, lâu dài có một chế độ sở hữu thuần nhất theo quy luật phủ định của phủ định. Mỗi sự vật - một hiện tượng mới ra đời đều kế thừa những yếu tố tích cực và từng bước thải loại những nhân tố tiêu cực của hình thái cái mới và cái cũ đan kết với nhau trong mỗi sự vật và tác động lẫn nhau. Quá trình đổi mới nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc một vấn đề quan trọng nhất, cơ bản nhất của tư duy kinh tế mới của Đảng Việt Nam ”. Thực hiện mục tiêu đó là một nhiệm vụ lâu dài của nhiều thế hệ, phải giải quyết bằng nhiều biện pháp không làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của công dân. II. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta: 1. Xuất phát từ đặc điểm của thời kỳ quá độ Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong đó kết cấu kinh tế - xã hội vừa bao hàm những yếu tố của xã hội cũ đang suy thoái dần, vừa bao hàm những yếu tố của xã hội mới ra đời, đang lớn lên từng bước, nhưng chưa giành toàn thắng. Điều đó có nghĩa là nó mang tính chất quá độ. V.I. Lênin viết “danh từ quá độ có nghĩa là gì ? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không ? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có”. (V.I. Lênin : toàn tập, Nxb Tiến Bộ. 1978, t.43, tr248)
  6. Lênin cũng chỉ ra rằng, ở các nước đi lên chủ nghĩa xã hội, phổ biến có ba thành phần kinh tế cơ bản : kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Vận dụng tư tưởng của Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng ta khẳng định, ở nước ta hiện có các thành phần kinh tế sau: - kinh tế Nhà nước - kinh tế hợp tác - kinh tế tư bản Nhà nước - kinh tế cá thể tiểu chủ - kinh tế tư bản tư nhân Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế nói trên ở nước ta là tất yếu. Tính tất yếu đó được quy định bởi các điểm sau đây: - Khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền và bước vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội thì một đòi hỏi khách quan là phải từng bước xây dựng cở sở kinh tế - xã hội của chế độ mới - chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, với hình thức sở hữu Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sở hữu tập thể. Kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác hình thành trên cơ sở chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. - Do lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các vùng, các ngành và trong nội bộ từng vùng, do tính chất quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nước ta tất yếu còn kinh tế tư bản tư nhân , kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người làm thương nghiệp, dịch vụ và kinh tế tự nhiên. - Để phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa , các thành phần kinh tế phải được cải tiến. Không htể “xoá bỏ” hay ‘chuyển đổi”các thành phần kinh tế một cách chủ quan duy ý chí, mà phải căn cứ vào trình độ phát triển
  7. của lực lượng sản xuất, tính chất của từng ngành nghề mà từng bước hình thành quan hệ sản xuất mới từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Ph.Ăngghen viết : “bất cứ một sự cải tiến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với quan hệ sản xuất cũ nữa. Việc cải tiến các thành phần kinh tế tư nhân phải xuất phát từ yêu cầu và trình độ xã hội hoá sản xuất, tuỳ thuộc vào khả năng tổ chức và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bởi vì khi chính quyền nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thì việc xoá bỏ hình thức sở hữu này và thay thế bằng hình thức sở hữu khác không phải là khó, mà khó khăn phức tạp là ở chỗ, phải làm cho tư liệu sản xuất chủ yếu sau khi đã về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động sẽ được sử dụng tốt hơn, có hiệu quả hơn, làm cho quá trình sản xuất xã hội vẫn diễn ra bình thường và gắn liền với việc xây dựng, phát triển lực lượng sản xuất , bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển có hiệu quả. Xuất phát từ những yêu cầu khách quan nói rên, kinh tế tư bản chủ nghĩa được cải biến thành bộ phận kinh tế Nhà nước ; kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước ; còn kinh tế của những người sản xuất hàng hoá nhỏ tiếp tục tồn tại dưới hình thức kinh tế cá thể hoặc chuyển thành kinh tế hợp tác. Trước đây về mặt lý luận đã khẳng định rằng, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là tất yếu khách quan, là đặc trưng kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song trên thực tế, chúng ta lại chủ trương sớm xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần bằng “làn sóng” quốc doanh hoá, tập thể hoá , tạo dựng nên bức tường ngăn cách giữa kinh tế xã hội chủ nghĩa và thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể. Điều này trái với quy luật khách quan, trái với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin ; nó đã dẫn đến hậu quả tiêu cực : các tiềm năng kinh tế của đất nước không được khai thác, lực lượng sản xuất xá hội bị lãng phí một cách nghiêm trọng, sự phát triển kinh tế hàng hoá bị kìm hãm, do đó đời sống của nhân dân lao động gặp nhiều khó khăn.
  8. Đổi mới kinh tế không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan nhiều thành phần kinh tế, mà còn phải thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tóm lại : Tính chất nhiều thành phần kinh tế là đặc trưng, là đặc điểm bản chất mang tính quy luật khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề không phải chỉ là sự thừa nhận đó mà mấu chốt là phải thực hiện chính sách nhiều thành phần kinh tế trong đời sống kinh tế hiện thực, coi đó là nhiệm vụ có tính chất chiến lược lâu dài. 2. Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sau khi hoàn thành cuộc đấu tranh chống xâm lược, đất nước đã thống nhất. Vào thời điểm đó nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhưng hết sức nhỏ bé và còn tồn tại nhiều yếu điểm, hạn chế cần phải khắc phục. cụ thể : a. Một số thành tựu đạt được : Khi bước vào thời kỳ quá độ, nước ta cơ bản đã xây dựng được một nền kinh tế quốc doanh có năng lực đáng kể và giữ vai trò nòng cốt, chủ chốt trong nền kinh tế. Trước thời kỳ quá độ và cả trong thời gian đầu của thời kỳ quá độ nước ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế thuần khiết XHCN, nghĩa là chỉ tập chung phát triển những thành phần kinh tế XHCN, ra sức quốc hữu hóa các doanh nghiệp tư nhân và các thành phần kinh tế phi XHCN. Do vậy, Đảng và nhà nước tập chung phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và đã đạt được những thành công nhất định. Đến năm 1975, nước ta có hệ thống nông trường quốc doanh với số lượng lớn, thu hút hàng trăm nghìn công nhân và hơn 3000 máy kéo. Các ngành trong kinh tế quốc doanh như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải … đều được chú trọng phát triển. Nhiều nghành công nghiệp như công nghiệp điện đã có những đóng góp đáng kể tạo ra điện năng phục vụ cuộc sống và sản xuất. Nhờ đó cuộc sống của người dân từng bước được nâng cao.
  9. Nhờ vào phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế xã hội, chúng ta cũng đã xây dựng được một cở sở vật chất kỹ thuật chuẩn bị cho thời kỳ sau. ở miền Bắc, đến năm 1975 giá trị tài sản cố định của các nghành sản xuất vật chất đã gấp 5, 1 lần giá trị tài sản cố định của các nghành sản xuất vật chất năm 1960. Trong đó, công nghiệp gấp 4, 8 lần, xây dựng gấp 16 lần, nông lâm nghiệp gấp 7, 2 lần. Nhờ đó nền kinh tế đã có những bước tăng trưởng nhất định. Tổng sản phẩm xã hội năm 1975 gấp trên 2, 3 lần năm 1960, thu nhập quốc dân gấp 1, 9 lần, bình quân mỗi năm tăng 4, 3%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp gấp 3, 4 lần, bình quân mỗi năm tăng 8, 4%. Các ngành khác cũng đạt tốc độ tăng trưởng khá. Đó là những thành tựu hết sức quan trọng đối với nước ta. Nó làm cho nhân dân ta thên tin tưởng vào chế độ mới. b. Những mặt hạn chế : Tuy chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng chúng ta vẫn còn gặp phải rất nhiều những mặt còn hạn chế, những nhược điểm trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ. Trước hết, ở nước ta trong thời kỳ quá độ nền kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, kinh tế mang nặng tính tự cấp tự túc, . Đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế mang nặng tính sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu là một trong những hạn chế của nước ta trong suốt thời kỳ này. Hầu hết các sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế quốc dân tính bình quân đầu người trong năm 1975 còn ở mức thấp, lương thực bình quân quy thóc đạt khoảng 200kg/người. Cơ cấu kinh tế nước ta còn mất cân đối. Nước ta nói chung vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu với một tỷ lệ lớn lao động nằm trong nông nghiệp, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. các ngành kinh tế vẫn tăng trưởng và phát triển chưa xứng với tiềm năng. sản xuất trong nước không đáp ứng được đủ nhu cầu tiêu dùng, thu không đủ chi. Do phần vay nợ và dựa vào viện trợ nước ngoài chiếm
  10. tỷ trọng ngày càng lớn. Nước ta chưa có thị trường theo đúng nghĩa, năng xuất lao động còn thấp, lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Do vậy, năng suất lao động trong các ngành còn thấp, sản lượng sản xuất ra chưa nhiều và chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Vì thế, thu nhập của người lao động còn thấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Ngân sách nhà nước không lớn do đó không đủ khả năng để đầu tư phát triên các ngành kinh tế đúng mức và tương xứng với tiềm năng. Do những thiếu sót trong những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế tập chung trong thời kỳ này, chúng ta mới chỉ chú trọng phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể còn các thành phần kinh tế khác chưa được coi trọng vì thế kinh tế nước ta phát triển không cân đối. Chúng ta chưa thấy được vai trò của, vị trí và đóng góp của các thành phần kinh tế này là rất quan trọng trong giai đoạn đầu để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, vì thế chúng chưa được phát triển tương xứng với vị trí và tiềm năng vốn có của mình. Thêm vào đó trình độ của người lao động còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế. Trình độ các cán bộ quản lý cũng chưa đáp ứng được đòi hỏi. Nhận thức về nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ, chưa đúng đắn do vậy kinh tế thị trường chưa phát triển. Việc giao lưu buôn bán, mở rộng hợp tác với các nước khác trong vùng chưa được coi trọng đúng mức và vì thế chúng ta chưa khai thác hết tiềm năng để phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, việc áp dụng mô hình kinh tế chỉ huy tập chung quan liêu bao cấp cũng đã gây tình trạng trì trệ cho nền kinh tế nước ta trong một thời gian dài trước khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Bộ máy tổ chức hành chính của nước ta còn hết sức cồng kềnh, quan liêu, bao cấp, hoạt động không hiệu quả. Các cơ chế chính sách đã không khuyến khích được mọi người tích cực lao động Nhiều chính sách kinh tế đưa ra tỏ ra không hợp lý và kém hiệu quả. Chẳng hạn như chính sách chuyển hàng loạt HTX nông nghiệp bậc thấp lên bậc cao, từ quy mô thôn lên
  11. quy mô xã mà chưa được chuẩn bị kỹ về mặt kỹ thuật, tư tưởng và tổ chức cán bộ, buông lỏng quản lý nên hoạt động kém hiệu quả. Đường lối công nghiệp hoá theo hướng ưu tiên phát triên công nghiệp nặng, đặt nông nghiệp và công nghiệp nhẹ xuống hàng thứ yếu là đường lối mang nặng tính giáo điều. Kinh tế quốc doanh phát triển tràn lan, ham quy mô lớn, không được chuẩn bị kỹ về cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu ngành, về lựa chọn phương án kinh tế kỹ thuật nên sản xuất kinh doanh kém phát triển, kém hiệu quả. Nhìn chung, các cơ sơ kinh tế quốc doanh thời kỳ này chỉ huy động được 50% công suất. Quan hệ kinh tế của đất nước ta thời kỳ này còn nhiều bất cập cần phải giải quyết Một sai lầm rất lớn là ta dập khuôn máy móc theo mô hình của Liên Xô mà không xét đến điều kiện thực tế của nước ta. Do những hạn chế trên mà trong thời gian dài, trong nhận thức của chúng ta thành phần kinh tế ngoài quốc doanh luôn bị coi là phi XHCN bị ép buộc phải cải tạo vì chúng ta chỉ nhìn thấy mặt hạn chế của nó. Kinh tế quốc doanh phát triển tràn lan, bất chấp điều kiện kỹ thuật và trình độ quản lý còn hạn chế kết quả là kinh tế ngoài quốc doanh bị kìm hãm còn kinh tế quốc doanh kém hiệu quả, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có phát triển vì dựa trên cơ sở bao cấp, bội chi ngân sách, lạm phát và vay nợ nước ngoài. lực lượng sản xuất xã hội không được giải phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng tụt hậu. Do những hạn chế như trên nên ta phải tiến hành đổi mới, cụ thể là phải sử dụng các thành phần kinh tế III. Cơ cấu sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ: 1. Đặc trưng, vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta: Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong nền kinh tế mỗi nước, số lượng các các thành phần kinh tế và tỷ trọng mỗi thành phần kinh tế có thể khác nhau tuỳ theo đặc điểm lịch sử cụ thể của từng nước. Song, theo Lênin, phổ biến ở các nước có ba
  12. thành phần kinh tế : xã hội chủ nghĩa, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ và kinh tế tư bản tư nhân. Trong điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến đi lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, kết cấu kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ càng phức tạp: nó vừa có những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa , vừa có những quan hệ xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định nên kinh tế ở nước ta hiện nay có các thành phần kinh sau đây: a. Kinh tế nhà nước : Là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước các xí nghiệp quốc gia và tài sản thuộc quyền sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước ... Kinh tế nhà nước rộng và mạnh hơn doanh nghiệp nhà nước phân biệt được hai phạm trù này nhận thức đầy đủ vai trò kinh tế nhà nước là một bước phát triển về nhận thức thực tiễn nền kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới. Kinh tế Nhà nước dựa trên hình thức sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất . Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giả quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước thược hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. b. Kinh tế tập thể: Là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống. Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng từ thấp đến cao từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã theo tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ thực hiện đúng luật hợp tác xã. Kinh tế tập thể được phát triển, rộng rãi và đa dạng
  13. trong các ngành nghề ở nông thôn và thành thị, nó giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. c. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước: Đó là đơn vị kinh tế hình thành do sự liên doanh giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với tư bản tư nhân trong nước hoặc với tư bản tư nhân nước ngoài, kinh tế tư bản nhà nước ra đời còn do nhà nước xã hội chủ nghĩa góp vốn cổ phần hoặc do tư nhân ở trong và ngoài nước thuê tài sản. Kinh tế tư bản nhà nước là cầu nối giữa sản xuất nhỏ với sản xuất lớn, hoặc “nhịp cầu trung gian” đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã khẳng định kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý của các nhà tư bản, vì lợi ích của bản thân họ cũng như công việc xây dựng và phát triển đất nước. d. Kinh tế cá thể, tiểu chủ : Bao gồm những đơn vị kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân qui mô nhỏ về tư liệu sản xuất và hoạt động dựa vào sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Trong một số ngành nghề ở nông thôn và thành thị kinh tế cá thể và tiểu chủ có vị trí quan trọng nó có khả năng tận dụng tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Nhưng đến một trình độ nhất định, việc mở rộng sản xuất kinh doanh của kinh tế cá thể tiểu chủ sẽ bị hạn chế vì thiếu vốn, trình độ công nghệ thấp và khó tìm thị trường tiêu thụ, bởi vậy cần được sự hỗ trợ của nhà nước để khắc phục những hạn chế nói trên. Các đơn vị kinh tế cá thể tiểu chủ có thể tồn tại độc lập, hoặc tham gia các loại hình kinh tế tập thể, hay liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nhà nước dưới nhiều hình thức. e. Kinh tế tư bản tư nhân:
  14. Là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản góp lại để sản xuất kinh doanh và thuê mướn nhân công. Kinh tế tư bản tư nhân có nhiều hình thức là xí nghiệp tư doanh hay công ty trách nhiệm hữu hạn. Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong điều kiện quá độ lên CNXH ở nước ta, thành phần kinh tế này còn có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Các thành phần kinh tế có mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau, hoạt động đan xen nhau vào trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Vai trò, tỷ lệ của mỗi thành phần kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, hiệu quả sản xuất - kinh doanh và sự đóng góp của chúng vào sự phát triển chung của nền kinh tế. 2. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế: Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm nhiều thành phần khác nhau, trong đó: - Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất tuy có sự độc lập tương đối và có bản chất riêng, nhưng trong hoạt động sản xuất - kinh doanh không có sự ngăn cách, có thể hỗn hợp, đan kết với nhau (cùng một chủ sở hữu có thể tham gia nhiều quan hệ sở hữu, cùng một đối tượng sở hữu có nhiều quan hệ sở hữu ), hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. - Trong nền kinh tế quốc dân thống nhất do Nhà nước hướng dẫn, điều tiết, kiểm soát, cùng với việc kinh tế Nhà nước nắm giữ vai trò chủ đạo, các chủ thể sản xuất - kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bỏ sung cho nhau, vừa cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật. Tuy vậy các thành phần kinh tế ấy đều nằm trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, có mối liên tương tác và mâu thuẫn với nhau.
  15. Tính thống nhất biểu hiện ở chỗ : mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận của nền kinh tế xã hội, phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, các thành phần kinh tế nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, liên hệ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Đó là sụ thống nhất “không hữu cơ” ; sự thống nhất đó không phải tự nhiên mà có mà phải qua hợp tác và đấu tranh để hợp tác tốt hơn. Các thành phần kinh tế mang bản chất kinh tế và quan hệ kinh tế khác nhau. Vì vậy giữa chúng có sự mâu thuẫn với nhau : mâu thuẫn giữa tư hữu và công hữu, giữa lao động và bóc lột , giữa tính kế hoạch và tính tự phát , mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế ,về xu hướng chính trị, về hệ tư tưởng. ở một nước sản xuất nhỏ chiếm ưu thế, thì trong nội bộ kết cấu kinh tế quá độ “là giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng nhau đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản Nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội “. Không thể giải quyết mâu thuẫn nói trên bằng cách xoá bỏ kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể, mà phải bằng cách sử dụng hướng dẫn và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, hướng các thành phần kinh tế tư nhân đi vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước và hiệp tác lao động, liên kết, liên doanh để từng bước hướng theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ, mỗi thành phần kinh tế đều không nguyên dạng (ít nhiều đã mang tính chất mới) : kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác còn nhiều mặt yếu kém và tiêu cực, chưa thể hiện đầy đủ tính chất xã hội chủ nghĩa. Dù các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập và ít nhiều mang tính chất mới, cũng không vì thế mà kết luận rằng, các thành phần kinh tế đều mang tính chất xã hội chủ nghĩa : do đó, không cần phân biệt kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác và kinh tế tư nhân, cá thể. Trong thời kỳ quá độ, những người sản xuất các thể, các nhà tư bản tư nhân chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự tác động của kinh tế xã hội chủ nghĩa, không còn giữ nguyên bản chất riêng của minh, tuy nhiên nếu nền kinh tế Nhà nước không được củng cố và phát triển, nếu sự quản lý của Nhà nước lỏng lẻo , nó sẽ tự phát đi theo con đường riêng của mình, chứ không phải là “tất yếu định hướng theo con đường hợp tác xã hội chủ nghĩa”.
  16. Các thành phần kinh tế thống nhất và mâu thuẫn với nhau, hợp thành cơ câu các thành phần kinh tế. Cơ cấu này không phải là một tập hợp tuỳ tiện, giản đơn những thành phần kinh tế khác nhau, mà phải bảo đảm hai tiêu chuẩn: - Tính định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy kinh tế Nhà nước phải không ngừng củng cố và phát triển có hiệu quả để từng bước nắm giữ vai trò chủ đạo, định hướng sự vận động của nền kinh tế, tiến tới xác lập phát triển sản xuất mới. - Kết cấu hợp lý, nghĩa là phải tạo điều kiện khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng kinh tế, các nguồn lực của xá hội, giả phóng và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển ; tạo nguồn lực để đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động năng động, đáp ứng nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng trong nước, hoà nhập vào thị trường thế giới với hiệu quả kinh tế xá hội cao. Chỉ có như vậy mới bảo đảm sự phát triển kinh tế ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa,mới giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng kinh tế, động viên và tạo điều kiện cho mọi thành phân kinh tế, mọi người , mọi gia đình… làm giàu cho mình và cho đất nước. Phần II Phương hướng nhằm phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở nước ta I. Phương hướng chung : + Có cơ chế và chính sách đúng đắn + Phải xây dựng các hành lang pháp lý tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật.
  17. + Phải tăng cường và phát triển thành phần kinh tế nhà nước để nó thực sự giữ vai trò chủ đạo định hướng nền kinh tế đi nên XHCN. + Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam Đối với thành phần kinh tế nhà nước cần tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của mình đối với nền kinh tế, thành phần kinh tế tập thể cũng được tạo điều kiện cho phát triển để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình các thành phần kinh tế khác : mỗi thành phần kinh tế có vai trò nhiệm vụ và thế mạnh riêng của mình do đó cần phải phát huy tối đa năng lực hiện có tận dụng triệt để ưu thế của mình để phát triển đi lên. II. Phương hướng và giải pháp cụ thể đối với từng thành phần kinh tế : Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế và từ các quan điểm cơ bản nêu trên, có thể tìm các bước được cụ để nhằm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta bằng một số giải pháp chủ yếu sau:  Một là đối với nền kinh tế quốc dân phải củng cố và phát triển để có thể củng giữ được vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh (KTQD). Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, những bước đi và biện pháp phải đối mới. Đổi mới trước tiên và cấp bách là sửa chữa bước đi sai lầm trước đây bằng giải pháp xác định lại phạm vi kinh tế quốc doanh. Trước đây chúng ta đã phát triển kinh tế quốc doanh tràn lan, tạo nên quá trình xã hội hoá (XHH) hình thức, do vậy đến nay phải lựa chọn lại theo hướng giảm bớt số cơ sở KTQD hiện có. Đấy là vấn đề dễ đạt được sự nhất trí nhưng giữ lại cái gì, giảm bớt ở chỗ nào và bằng biện pháp nào không phải là việc đơn giản, vì nó không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị và xã hội. Giải quyết vấn đề kinh tế quốc doanh đang là một trong những nội dung lớn của đường lối đổi mới kinh tế của nhiều nước, do vậy đã có hàng loạt biện pháp được áp dụng. ở ấn Độ đã tiến hành hiện đại hoá và đa dạng hoá sản xuất, sử dụng và bảo dưỡng máy móc thiết bị đúng tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm nâng cao công việc sử dụng công suất các cơ sở quốc doanh, cho phép các xí nghiệp quốc doanh tự chủ về vốn đầu tư, xây dựng mục đích và kinh doanh sản xuất, sửa đổi giá cho phù hợp, bãi bỏ hình thức trợ
  18. cấp giá, nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo xí nghiệp và học vấn của công nhân. ở Inđônêxia đã áp dụng các biện pháp đánh giá và phân loại hệ thống xí nghiệp quốc doanh, đổi mới cơ chế bằng cách thực hiện cơ chế hoạch toán chặt chẽ, cắt giảm các khoản trợ cấp không cần thiết, cải tổ bộ máy kết hợp với phong trào quần chúng chống tham nhũng chuyển một bộ phận KTQD sang tư nhân. Ngoài ra Inđônêxia còn áp dụng biện pháp chế hoá các đạo luật hoá văn bản về KTQD. Như vậy, việc sử lý KTQD các nước đã áp dụng nhiều biện pháp, sở dĩ như vậy vì không có biện pháp nào hoàn chỉnh cả, mỗi biện pháp vừa có mặt tích cực vừa có mặt hạn chế. Chỉ có trên cơ sở sử dụng nhiều biện pháp mới tạo ra được sức mạnh tổng hợp, chúng ta phải kết hợp nó để hạn chế thấp nhất những tiêu cực, tăng các mặt tích cực để KTQD đạt hiệu quả mong muốn.  Hai là đối với các thành phần kinh tế khác đang có một câu hỏi lớn đặt ra là: Mặc dù nhà nước khuyến khích phát triển nhưng tốc độ tăng chậm chạp và không tương xứng với tiềm năng hiện có. Muốn phát triển sản xuất thì nguyên lý muôn thủa là phải tăng xuất đầu tư, trước hết là đầu tư về tài chính. Nguồn tài chính này trong dân khá lớn nhưng chưa được sử dụng để phát triển sản xuất, để các nguồn này có thể góp phần tăng thêm suất đầu tư cho sản xuất kinh doanh cần phải có hàng loạt các biện pháp. Có thể bắt đầu ngay từ tên gọi. Không nên xuất phát từ KTQD để đặt tên cho các thành phần kinh tế (TPKT) khác, gọi là “ngoài quốc doanh”. Trong nền kinh tế nhiều thành phần cho dù kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo thì vẫn phải đảm bảo tính bình đẳng của các thành phần kinh tế và thực chất mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất, không có bộ phận này là “trong” còn các bộ phận khác là “ngoài”. Thay đổi cách gọi cũng là giải pháp xoá đi tâm lý tự ti, bi quan của các thành phần kinh tế khác mà một thời họ đã bị chèn ép, lãng quên. Việc cải tạo các thành phần kinh tế phải được tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện và trên cơ sở hoàn cảnh XHH thực tế. Giải pháp đạt hiệu quả cao chính là không cô lập các thành phần kinh tế với nhau mà phải sử dụng các hình thức hợp doanh, đan xen các
  19. hệ sử dụng khác nhau vào trong cùng một lĩnh vực, thậm chí trong cùng một công ti, xí nghiệp. Các xí nghiệp hợp doanh giữa nhà nước và tư nhân, giữa hợp tác xã (HTX) và tư nhân, giữa nhà nước và HTX, tư nhân cần phải trở thành một trong các hình thức cơ bản tổ chức các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần. Trong sản xuất nông nghiệp, do tính đặc thù của nó nên ngoài việc phải giải quyết tốt quyền sở hữu ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân. còn phải chuyển kinh tế HTX hiện nay thành kinh tế nông trại. Kinh tế hộ nhận khoán là cơ sở hình thành kinh tế nông trại và các tổ chức nông trại. Đây cũng đang là xu hướng chung của nền nông nghiệp thế giới. Trong điều kiện nước ta hiện nay, không gian tổ chức các nông trại lớn và chưa vội hợp tác nhiều nông trại với nhau. Có thể mỗi nhóm chỉ nên 5-20 hộ tự nguyện góp ruộng đất, lao động và tiền vốn để sản xuất kinh doanh. Ngoài ra còn có các hình thức hợp tác khác như : Các nông trại chung nhau mua “đầu vào” hoặc chung nhau bản hoặc chung nhau bản “đầu ra” hoặc cũng thể hợp tác kinh doanh. Tổ chức nông trại và sự hợp tác giữa các nông trại chính là hình thức HTX nông nghiệp theo mô hình mới cần đạt được. Để nhân dân yên tâm bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh và hoạt động đúng hướng. Nhà nước phải đưa ra được một hệ thống các văn bản pháp quy như luật kinh doanh, luật thừa kế, luật chuyển nhượng, luật thuê mướn lao động… Đồng thời hoàn thiện chế độ đăng ký kinh doanh, kế toán, thống kê, thuế, hợp đồng kinh tế. Các luật và chế độ này không chỉ nhằm đảm bảo lợi ích của nhà nước mà phải góp phần thoả đáng 3 lợi ích: Nhà nước-tập thể-cá nhân, khuyến khích làm giàu trên cơ sở bỏ vốn kinh doanh đúng pháp luật.  Ba là tiến hành đồng bộ những giải pháp vĩ mô để tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động có hiệu quả, bao gồm: Hoàn thiện nhanh chóng hệ thống tài chính và ngân hàng bằng những công nghệ kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại, đảm bảo thông suốt trong và ngoài nước. Đại bộ phận, các khoản thanh toán, ngân hàng phải đảm đương được qua bộ máy của mình ; sử dụng tiền mặt chỉ ở mức hạn chế. Tín dụng ngân hàng phải thực hiện đi vay để cho vay chứ không
  20. dựa vào nguồn phát hành và chủ yếu đảm bảo cho kinh tế quốc doanh như hiện nay. Hoạt động tài chính cũng phải được đổi mới, lấy thu lương chi, thu đủ và chi đúng. Trong điều kiện nguồn thu có hạn, không nên chi quá khả năng bằng cách vay nợ nước ngoài và phát hành. Điều đó chỉ dẫn đến “lạm phát” thì không thể nâng cấp bất cứ ngành nào, lĩnh vực nào, do đó cần phải từ bỏ ngay ý định nâng cấp ngành này hay lĩnh vực kia bằng lạm phát. Lâu nay, tài chính nước ta thường chạy theo nhu cầu chi quá lớn của một số ngành, một số lĩnh vực trong khi nguồn thu hạn hẹp. Đây rõ ràng không thực tế. Do đó chống lạm phát không đạt được mục tiêu đề ra - phải nhanh chóng xây dựng được một thị trường đầy đủ. Ơ nước ta hiện nay còn thiếu nhiều trung tâm quan trọng của nền sản xuất hàng hoá như : Thị trường vốn, thị trường lao động ... Thời đại ngày nay, thông tin được coi là yếu tố của lực lượng sản xuất. Thông tin là sức mạnh của quyền lực. Do vậy, phải hoàn thiện các hệ thống thông tin kỹ thuật phục vụ cho các nhà doanh nghiệp và phát huy dân chủ hoá trong dời sống kinh tế. Hệ thống thông tin của nước ta hiện nay còn rất yếu và tổ chức chưa hợp lý, thông tin bị chia cắt, số người hiểu biết về thông tin chưa nhiều. Để đổi mới hoạt động này phải có hoạt động thông tin kinh tế là một ngành dịch vụ, trong đó tất có các thành phần kinh tế cá thể và cần thiết tham gia. Xây dựng đội ngũ các doanh nghiệp giỏi, các nhà quản lý vĩ mô có tài, đồng thời liên kết họ lại. Cái thiếu hụt lớn nhất của chúng ta hiện nay là ở chỗ : Chúng ta đội ngũ cán bộ khá đông đảo nhưng chất lượng không phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế. Có một bộ phận quá quen với cơ chế quản lý cũ, đến nay hoàn toàn không có đủ khả năng thích ứng với cơ chế mới, một bộ phận khác chưa được đào tạo trước khi bố trí vào các vị trí then chốt trong các đơn vị sản xuất kinh doanh. Tóm lại là đại bộ phận số cán bộ hiện có phải đựợc bố trí, sắp xếp và đào tạo lại. Về chính sách sử dụng cán bộ thì mạnh dạn phải được coi là một trong những phương châm chủ yếu nếu không muốn nói là số một.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0