intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài nghiên cứu khoa học: Giá trị văn hóa của chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:82

23
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài "Giá trị văn hóa của chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định)" nhằm lý luận về giá trị văn hóa và bảo tồn, phát huy về di sản văn hóa nói chung và Chợ Viềng nói riêng, đề tài đã khảo sát, phân tích, đánh giá các giá trị văn hóa của chợ Viềng huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Từ đó tìm ra các nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và gìn giữ nét đẹp truyền thống độc đáo của chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài nghiên cứu khoa học: Giá trị văn hóa của chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định)

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA CHỢ VIỀNG ( HUYỆN VỤ BẢN, TỈNH NAM ĐỊNH) Mã số đề tài: ĐTSV.2022.57 Chủ nhiệm đề tài : Nguyễn Tài Lộc Thành viên tham gia : Đinh Mai Hƣơng Lớp : 1805QLVA Cán bộ hƣớng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Kim Chi Hà Nội - 2022
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA CHỢ VIỀNG ( HUYỆN VỤ BẢN, TỈNH NAM ĐỊNH) Mã số đề tài: ĐTSV.2022.57 Chủ nhiệm đề tài : Nguyễn Tài Lộc Thành viên tham gia : Đinh Mai Hƣơng Lớp : 1805QLVA Cán bộ hƣớng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Kim Chi Hà Nội - 2022
  3. LỜI CAM ĐOAN Chúng tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu khoa học: “Giá trị văn hóa của chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định)” là công trình của chúng tôi tự viết, không sao chép của bất cứ ai. Các số liệu sử dụng trong bài nghiên cứu là trung thực và chính xác. Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2022. Tác giả Nguyễn Tài Lộc
  4. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, Nhóm tác giả đề tài xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Quản lý xã hội và đặc biệt là. ThS. Nguyễn Thị Kim Chi - Giảng viên hướng dẫn, đã quan tâm, chỉ bảo tận tình, hướng dẫn chúng tôi trong suốt quá trình hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học. Đồng thời Nhóm tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các anh, chị cán bộ Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Vụ Bản (tỉnh Nam Định) đã nhiệt tình tạo mọi điệu kiện giúp đỡ Nhóm tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và xác thực tài liệu, số liệu tại địa phương. Trong quá trình nghiên cứu, chắc chắn đề tài không tránh khỏi sai sót, Nhóm tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của các thầy cô để đề tài nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn. Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2022. TM Nhóm tác giả Nguyễn Tài Lộc
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1.Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................ 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................... 4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................... 5 6. Đóng góp của đề tài ............................................................................... 6 7. Bố cục của đề tài.................................................................................... 6 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KHÁI QUÁT VỀ CHỢ VIỀNG (HUYỆN VỤ BẢN, TỈNH NAM ĐỊNH) ............................... 7 1.1. Cơ sở lý luận chung ........................................................................... 7 1.1.1. Các khái niệm cơ bản ...................................................................... 7 1.1.2. Các giá trị văn hóa của chợ truyền thống Việt Nam.................... 12 1.2. Khái quát về huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định ................................ 17 1.2.1. Vị trí địa lý ...................................................................................... 17 1.2.2. Đặc điểm kinh tế ............................................................................ 18 1.2.3. Đặc điểm xã hội ............................................................................. 19 1.3. Khái quát về chợ Viềng truyền thống ............................................ 20 1.3.1. Nguồn gốc, tên gọi của chợ Viềng ................................................ 20 1.3.2. Hoạt động của chợ Viềng truyền thống........................................ 23 Tiểu kết chƣơng 1.................................................................................... 24 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA CHỢ VIỀNG HIỆN NAY ............................................................................. 25 2.1. Thực trạng hoạt động của chợ Viềng hiện nay ............................. 25 2.1.1. Các hoạt động của chợ Viềng ....................................................... 25 2.1.2. Công tác quản lý hoạt động chợ Viềng ......................................... 38
  6. 2.2. Đánh giá các giá trị văn hóa của chợ Viềng .................................. 46 2.2.1. Giá trị trao đổi kinh tế, quảng bá sản phẩm của địa phương ..... 46 2.2.2. Giá trị tâm linh ............................................................................... 46 2.2.3. Giá trị giao lưu cộng cảm .............................................................. 47 2.2.4. Giá trị bảo tồn văn hóa truyền thống ............................................ 48 2.2.5.Giá trị quảng bá hình ảnh địa phương .......................................... 48 Tiểu kết chƣơng 2.................................................................................... 49 Chƣơng 3. BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CHỢ VIỀNG HUYỆN VỤ BẢN TỈNH NAM ĐỊNH........................................... 50 3.1. Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của chợ Viềng....................................................................... 50 3.1.1. Vấn đề thương mại hóa ảnh hưởng đến giá trị văn hóa của chợ Viềng truyền thống .................................................................................. 50 3.1.2.Vấn đề nguồn nhân lực làm công tác quản lý chợ Viềng ............ 51 3.1.3. Vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa đi đôi với phát triển kinh tế.. 51 3.2. Các giải pháp để khai thác giá trị văn hóa chợ Viềng .................. 54 3.2.1. Tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu, định hướng chiến lược bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa chợ Viềng .............................. 54 3.2.2. Tăng cường đào tạo đội nguồn lực nhân lực làm công tác quản lý văn hóa nói chung và chợ Viềng nói riêng............................................. 55 3.2.3. Bảo tồn phát huy giá trị văn hóa chợ Viềng gắn với phát triển du lịch ............................................................................................................ 56 Tiểu kết chƣơng 3.................................................................................... 60 KẾT LUẬN .................................................................................................... 61 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 63 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 65
  7. MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Chợ truyền thống của Việt Nam không chỉ là nơi trao đổi, buôn bán các loại hàng hóa, phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân, thúc đẩy giao thương, phát triển kinh tế mà còn là nơi tụ họp, giao lưu của cư dân nội vùng, tạo nên những giá trị văn hóa đặc trưng cho một địa phương hoặc một vùng miền nhất định. Nhiều chợ nổi tiếng đã đi vào ký ức của người dân được nhắc đến như: chợ Bưởi ở Hà Nội, chợ Kỳ Lừa ở Lạng Sơn, chợ Thị Cầu ở Bắc Ninh,...Và đặc biệt không thể không nhắc tới một khu chợ nổi tiếng không chỉ ở xứ Sơn Nam Hạ xưa mà với cả toàn miền Bắc. Đó chính là chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Chợ Viềng họp vào tối ngày mùng bảy, rạng sáng ngày mùng tám tháng Giêng. Mỗi năm chợ chỉ họp một lần duy nhất vào dịp đầu xuân năm mới. Dù có xa xôi, bận rộn đến mấy thì người dân ở Nam Định nói riêng cũng như người dân trên toàn miền Bắc nói chung cũng dành thời gian để đến du xuân, tham gia vào phiên chợ, xin tài, xin lộc, mua may bán rủi đầu năm. Đây chính là ý nghĩa văn hóa, tâm linh độc đáo của chợ Viềng mà không phải chợ nào cũng có được. Chợ Viềng tại huyện Vụ Bản là một giá trị văn hóa, sản phẩm, là địa điểm, là đứa con tinh thần được đúc kết từ những gì tinh túy nhất, chắt lọc nhất từ vùng đất cổ Kim Thái. Nó phản ánh một cách rõ nét nhất về tính giá trị văn hóa và tính lịch sử. Phiên chợ Viềng được mở ra vào đầu xuân năm mới gắn liền với tiềm thức của mỗi người dân nơi đây từ khi họ được sinh ra và lớn lên việc đi chợ Viềng vào đầu xuân là một thói quen không thể thiếu. Tuy nhiên trong cuộc sống bộn bề lo toan như hiện nay, không phải ai cũng biết tới chợ Viềng và hiểu rõ những nét độc đáo vốn có của phiên chợ này. Hơn nữa cùng với sự phát triển mạnh mẽ của CNH - HĐH quy mô, mức độ của phiên chợ cũng được nâng lên, nhiều nét đẹp, giá trị truyền thống vẫn còn được giữ nhưng một số thì lại bị lai tạp, mai một theo thời gian, nhiều 1
  8. hoạt động ở phiên chợ vẫn giữ nguyên được giá trị và phát huy rất tốt theo Nghị quyết trung ương 5 về việc “Xây dựng và phát triển một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Chính vì thế việc giữ gìn và phát huy các giá trị của chợ Viềng càng trở nên quan trọng. Theo thời đại 4.0 hiện nay trong điệu kiện mới, đất nước hội nhập quốc tế sẽ có đôi chút đan xen, pha trộn của những yếu tố mới đem lại cũng có rất nhiều cái lợi và cái hại đi song hành với nhau. Là một người con của Nam Định đồng thời là một sinh viên chuyên ngành Quản lý văn hóa, được học và chắt lọc rất nhiều những kiến thức để để vận dụng cho công việc, cho niềm đam mê với văn hóa và có trách nhiệm nâng tuyên truyền nâng cao tinh thần của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Chính vì thế nhóm tác giả quyết định chọn đề tài: “Giá trị văn hóa của chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định)” làm đề tài nghiên cứu khoa học năm 2022. 2. Lịch sử nghiên cứu Là chợ nổi tiếng không chỉ ở đất Nam Định (xứ Sơn Nam Hạ) xưa mà còn với cả nước, chợ Viềng đã được rất nhiều tài liệu sớm đề cập đến. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu: Tác giả Nguyễn Như tự Ôn Ngọc, Hiệu Nhuệ Khê trong cuốn Nam Định tỉnh địa dư chí lược tân biên (1893) đã nói và đề cập đến rất nhiều địa danh của tỉnh Nam Định, trong đó có huyện Thiên Bản (tức huyện Vụ Bản ngày nay) và chợ Viềng ở xã Kim Thái [7]. Trong cuốn Khảo sát thực trạng văn hóa lễ hội truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ (2001), của tác giả Nguyễn Quang Lê đã nghiên cứu khảo sát thực trạng lễ hội Phủ Dày, thông qua đó giới thiệu chợ Viềng, chợ được ví như là một ngày hội lớn cho vùng đất Vụ Bản cổ giàu tính lịch sử và bản sắc dân tộc.[5] Năm 2003, trong cuốn Lễ hội cổ truyền ở Nam Định, tác giả Hồ Đức Thọ đã nêu nổi bật lên được quá trình hình thành, phát triển lễ hội ở tỉnh Nam Định quảng bá và giới thiệu được rất nhiều các lễ hội lớn nhỏ mang đậm bản sắc văn hóa như: lễ hội phủ Dầy, lễ hội đền Trần, chùa Đại Bi,… Trong đó 2
  9. khi nhắc về hội chợ Viềng, tác giả đã phân tích và giải nghĩa cho ý nghĩa và sự thành hành tên của hội chợ Viềng, từ đó tiến hành việc mô tả những đặc điểm, đặc trưng của chợ và các trò chơi dân gian mang ý nghĩa phồn thực toát lên được những dấu ấn rõ nét về con người Thành Nam cổ.[11] Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Nam định kết hợp cùng với HĐND đã chỉ đạo và nghiên cứu, biên soạn cuốn Địa chí Nam Định (2003), là công trình nghiên cứu tổng quan và khái quát chung nhất về địa giới, lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội và con người của tỉnh Nam Định qua các cột mốc lịch sử, trong đó cũng có đề cập đến Vụ Bản và giới thiệu tổng quan về hội chợ Viềng trong phần Văn hóa.[9] Qua tiến trình của thời gian, Bùi Văn Tam tác giả cuốn Văn hóa làng trên đất Thiên Bản vùng đồng bằng Sông Hồng (2010) [8] đã tập trung đi sâu vào văn hóa của huyện Vụ Bản một nơi có lịch sử lâu đời nằm ở phía nam của đồng bằng sông Hồng. Hội chợ Viềng được nhắc đến và được đặc cách nằm trong những hội lớn trong đầu xuân năm mới của làng Tiên Hương và Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, mở ra vào tối ngày mùng 7 rạng sáng ngày mùng 8 tháng Giêng, dấu hiệu mở đầu cho một mùa nông nghiệp của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trong cuốn Huyền tích Thánh mẫu Liễu Hạnh và di sản văn hóa lễ hội Phủ Dày (2010) của tác giả Hồ Đức Thọ, chợ Viềng được đề cập là một sinh hoạt văn hóa dân gian rất được nâng niu và trân trọng của những người dân tỉnh Nam Định, đây tuy chỉ là một phần rất nhỏ trong nội dung chung của cuốn sách nhưng đã đưa ra những giả thuyết và nguồn gốc, sự ra đời của chợ Viềng một cách rất chi tiết và đầy đủ đồng thời đã nêu nổi bật lên được phong tục tập quán của vùng đất Cổ Kim Thái - Vụ Bản.[12] Ngoài các cuốn sách, các công trình nghiên cứu do các tác giả nghiên cứu và xuất bản. Chợ Viềng cũng được rất nhiều các tạp chí và các nhà văn hóa có chuyên môn về mỗi lĩnh vực riêng biệt trong văn hóa đã góp phần làm tăng giá trị cho hội chợ Viềng trong đó tiêu biểu phải kể đến: “Chợ viềng 3
  10. xuân, nét đẹp văn hóa vùng Thiên Bản (Vụ Bản) xưa” tác giả Đức Linh đăng báo năm 1966 trên báo Nam Hà xưa; “Thú chơi chợ Viềng ở Vụ Bản và hội chợ Viềng” (2006) của tác giả Bùi Văn Tam tại tạp chí Văn hóa nghệ thuật; “Bảo tồn tinh hoa văn hóa cộng đồng”(đăng 08/02/2019) của tác giả Nguyễn Kiên tạp chí Thương hiệu công luận (Cơ quan trung ương của hiệp hội VATAP); “Ký ức chợ Viềng”(đăng ngày 06/02/2022) của tác giả Minh Thuận đăng trên báo Nam Định và rất nhiều bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng khác như truyền hình, phát thanh, các trang báo mạng, website,.. Tuy nhiên, tất cả các nguồn tài liệu trên mới chỉ dừng lại ở mức đưa thông tin về hoạt động của chợ Viềng ở các mức độ khác nhau chứ chưa đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu giá trị văn hóa tâm linh của chợ Viềng. Vì vậy đề tài nghiên cứu khoa học của nhóm tác giả được thực hiện, mong muốn là công trình đầu tiên đi sâu làm rõ giá trị văn hóa của chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận về giá trị văn hóa và bảo tồn, phát huy về di sản văn hóa nói chung và Chợ Viềng nói riêng, đề tài đã khảo sát, phân tích, đánh giá các giá trị văn hóa của chợ Viềng huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Từ đó tìm ra các nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và gìn giữ nét đẹp truyền thống độc đáo của chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Đề tài hệ thống các cơ sở lý luận về văn hóa, giá trị và giá trị văn hóa. Qua đó có cái nhìn tổng quan về giá trị văn hóa của chợ Viềng (huyện Vụ Bản ,tỉnh Nam Định). - Đánh giá nhận định và đưa đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý bảo tồn và phát huy các giá trị của chợ Viềng ( huyện Vụ Bản , tỉnh Nam Định). 4
  11. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Giá trị văn hóa của chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). 4.2.Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi không gian: Không gian nghiên cứu khảo sát của đề tài là chợ Viềng được diễn ra trên phạm vi địa bàn hai xã Kim Thái và Trung Thành, (huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định) - Phạm vi thời gian: Chợ Viềng là chợ truyền thống của huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, có từ xa xưa và được lưu truyền cho đến ngày nay. Chợ được mở thường xuyên vào dịp đầu xuân hàng năm. Trong phạm vi đề tài, nhóm tác giả lựa chọn thời gian khảo sát từ năm 2018 cho đến nay. Đây là giai đoạn nhóm tác giả có điều kiện tham dự trải nghiệm trực tiếp tại chợ Viềng, đồng thời cũng là giai đoạn có nhiều biến động, đặc biệt là đại dịch covid 19 ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của chợ Viềng, đồng thời cũng bộc lộ nhiều vấn đề về nhu cầu văn hóa tâm linh của người dân thông qua việc tạm dừng hoạt động của chợ phục vụ phòng chống dịch. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để tiến hành triển khai thực hiện đề tài, nhóm tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Để có những thông tin, dữ liệu tham khảo cho đề tài, nhóm tác giả đã tiến hành tổng hợp, khai thác các tư liệu liên quan đến đề tài tại thư viện như các loại sách liên quan đến lý luận văn hóa, giá trị văn hóa, các tài liệu,sách, báo, đề tài nghiên cứu về chợ Việt Nam nói chung và chợ Viềng nói riêng. Trên cơ sở đó làm cứ liệu cho tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài. - Phương pháp điền dã là phương pháp chính của đề tài. Thực hiện phương pháp nghiên cứu này, nhóm tác giả đề tài đã trực tiếp trải nghiệm thực tế tại chợ Viềng, tiến hành quan sát trực tiếp, ghi chép, quay phim, chụp ảnh, phỏng vấn cán bộ làm công tác quản lý chợ, phỏng vấn du khách. Từ đó 5
  12. tổng hợp, ghi chép các thông tin, dữ liệu từ thực địa phục vụ cho việc triển khai đề tài. - Phương pháp phân tích: Trên cơ sở dữ liệu thu thập được, nhóm tác giả đề tài tiến hành xử lý, phân tích, làm nổi bật thực trạng hoạt động và giá trị văn hóa của chợ Viềng, từ đó đưa ra những khuyến nghị cho việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của chợ Viềng trong bối cảnh hiện nay. 6. Đóng góp của đề tài - Đóng góp về mặt lý luận: Thông qua nghiên cứu giá trị văn hóa của chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định), đề tài góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận về giá trị văn hóa của chợ truyền thống Việt Nam. - Đóng góp về mặt thực tiễn: Đề tài đã chỉ ra được các giá trị văn hóa của phiên chợ Viềng tại huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Từ đó góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ làm công tác quản lý và người dân về các giá trị truyền thống, nâng cao ý thức bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa của chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Đề tài cũng đề xuất một số kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của phiên chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác quản lý văn hóa tại địa bàn nghiên cứu và giảng viên, sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội về công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa chợ Viềng (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). 7. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của đề tài có bố cục gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung và khái quát về chợ Viềng (huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định) Chương 2: Thực trạng hoạt động và giá trị văn hóa của chợ Viềng hiện nay Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa chợ Viềng huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định 6
  13. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KHÁI QUÁT VỀ CHỢ VIỀNG (HUYỆN VỤ BẢN, TỈNH NAM ĐỊNH) 1.1. Cơ sở lý luận chung 1.1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Khái niệm văn hóa Văn hóa là một lĩnh vực rất rộng lớn, bao trùm mọi hoạt động của xã hội và sự sáng tạo của con người. Chính vì vậy cho đến nay, trên thế giới và Việt Nam có rất nhiều khái niệm về văn hóa được đưa ra. Theo UNESCO: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”. [15, tr23, 24]. Như vậy theo UNESCO, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt mà là tổng thể tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, đồng thời mang bản sắc của mõi cộng đồng, dân tộc. Ở Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. [6, tr.431]. Đây là khái niệm mô tả mang nghĩa rộng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa được 7
  14. hiểu là toàn bộ phát minh, sáng tạo của loài người để phục vụ mục đích của cuộc sống và lẽ sinh tồn. Năm 1994, tác giả Ngô Chính Vinh, trong cuốn Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc có đưa ra khái niệm “Văn hoá mà chúng ta thường dùng trong nghiên cứu, lí luận lại chỉ những thức có quan hệ đến văn minh tinh thần như triết học, sử học, văn học, mĩ học, âm nhạc và cả tôn giáo, v.v... Có một khái niệm rộng hơn về văn hoá, đó là tất cả những gì loài người sáng tạo ra, là tổng hoà của văn minh vật chất và văn minh tinh thần, bao gồm các chế độ điển chương trong đời sống chính trị, sự trao đổi sản xuất trong đời sống kinh tế, việc ăn mặc trong đời sống xã hội, .v.v... Nghĩa là tất cả những gì con người bằng lao động thể xác và lao động trí não tạo nên. Lại còn có cái gọi là văn hoá tầng sâu, chỉ kết tinh của tinh thần dân tộc được hình thành trong những điều kiện tự nhiên và điều kiện lịch sử nhất định, cũng có nghĩa là đặc trưng văn hoá và bộ mặt tinh thần của một dân tộc.” [13, tr.16] . Ở đây tác giả chỉ ra rằng nghĩa bao trùm của văn hóa đó là “tất cả những gì loài người sáng tạo ra”, “là tổng hoà của văn minh vật chất và văn minh tinh thần…”. Trong cuốn Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm (2000), tác giả Trần Quốc Vượng quan niệm: “Văn hoá, theo nghĩa rộng, là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, bao hàm cả kĩ thuật, kinh tế,... để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với hệ thống những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm ... tạo nên phong cách diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người” [16, tr. 35- 36]. Ở đây, tác giả Trần Quốc Vượng đã nhấn mạnh đến sự sáng tạo của con người với tư cách là chủ thể của văn hóa trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và quan hệ với chính bản thân mình để hình thành nên những giá trị văn hóa. Tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (1997) cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, 8
  15. trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”.[10, tr.27]. Khái niệm này của Trần Ngọc Thêm đã chỉ ra bốn đặc trưng cơ bản của văn hóa là tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử. Như vậy có thể thấy tùy từng mục đích khác nhau mà các nhà nghiên cứu đưa ra hoặc sử dụng những quan niệm về văn hóa khác nhau. Mặc dù có nhiều quan niệm về văn hóa nhưng các quan niệm không chống nhau, mà góp phần bổ sung cho nhau để làm sáng rõ hơn định nghĩa văn hóa. Và điểm chung của các quan niệm đó là văn hóa là tất cả những sản phẩm và giá trị do con người sáng tạo nên, đồng thời văn hóa phải thúc đẩy sự nhân văn tiến bộ của nhân loại. 1.1.1.2. Khái niệm giá trị Giá trị là một phạm trù rất riêng của con người, liên quan trực tiếp đến lợi ích vật chất cũng như tinh thần của con người. Giá trị gắn liền với nhu cầu con người. Mà nhu cầu của con người lại rất phong phú và đa dạng, được biểu hiện dưới nhiều góc độ, hình thức khác nhau Cho đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa, quan niệm khác nhau về giá trị, xuất phát từ những góc độ tiếp cận khác nhau. Nhà triết học cổ điển Đức E. Căng giải thích: “Vật nào có thể đem trao đổi được đều có một giá, duy có một số vật không lấy gì thay thế được thì có một giá trị. Ví dụ như chiếc đồng hồ có một giá, còn tình bạn, tình yêu, lòng yêu nước, tinh thần hi sinh vì đại nghĩa, kiệt tác nghệ thuật, tín ngưỡng, thần linh…là những cái vô giá - tức là những giá trị xã hội” [14]. Su - nê - sa - bu - ra Ma - ki - gu - chi (Tsunesabura makiguchi) - người sáng lập ra Hội giáo dục giá trị của Nhật Bản, đã đưa ra định nghĩa: “Giá trị là sự thể hiện có tính định hướng về mối quan hệ giữa chủ thể đánh giá và đối tượng của sự đánh giá” [14] Nhà nghiên cứu văn hóa của Hoa Kỳ C. Cơ - lắc - khôn cho rằng: “Giá trị mang trong nó những quan niệm thầm kín hoặc bộc lộ về cái ao 9
  16. ước riêng của một cá nhân hay của một nhóm. Những quan niệm ấy chi phối sự lựa chọn trong các phương thức, phương tiện và mục đích khả thể của hành động” [14]. Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tập thể tác giả Viện điển sử Lai - xích (Liên Xô cũ) đưa ra định nghĩa: “Giá trị như là những điểm tích tụ của tư tưởng một giai cấp nhất định hoặc một chế độ xã hội nhất định. Tức là, các giá trị thể hiện một cách lịch sử, cụ thể các mục tiêu, quy tắc, lý tưởng của lợi ích xã hội, các yêu cầu của mỗi chế độ xã hội và của mỗi giai cấp nhất định. Và do đó, giá trị trong nhiều trường hợp là định hướng phát triển cơ bản của đời sống tinh thần, nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định” [14]. Các quan niệm trên dù có những điểm khác nhau nhưng có điểm gặp gỡ chung là ở chỗ tất cả đều xem giá trị như một kết quả của hoạt động đánh giá từ phía chủ thể (con người). Dù công khai hay ngầm ẩn, con người thường quy các sự vật, hiện tượng vào những giá trị tốt - xấu, cao cả - thấp hèn, đáng trọng - đáng khinh…Hơn thế các hành động của con người đều mang tính hướng đích, tức là hướng đến các giá trị mà mỗi cá nhân tôn thờ. Giá trị xã hội mang tính cộng đồng, là sở thích của cộng đồng nảy sinh trong một bối cảnh xã hội nhất định và đóng vai trò điều tiết hành vi của mỗi cá nhân trong cộng đồng ấy. 1.1.1.3. Khái niệm giá trị văn hóa Giá trị văn hóa không phải là cái chủ quan hay bị áp đặt mà nó mang tính khách quan, gắn liền với dân tộc giai cấp và nhân loại, cho nên, giá trị văn hóa cũng mang tính phổ biến. Giá trị văn hóa là sự đánh giá mang tính cộng đồng đối với các hiện tượng, sản phẩm văn hóa do con người tạo ra trong bối cảnh xã hội nhất định. Những giá trị đó được coi là tốt đẹp, là có ích, đáp ứng nhu cầu của con người trong mọi thời đại. Một khi những giá trị đó được hình thành và được định hình thì nó có tác dụng chi phối những nhận thức, quan niệm, hành vi, tình 10
  17. cảm của con người trong mỗi cộng đồng ấy. Giá trị văn hóa về thực chất là sự khẳng định của con người đối với sự tồn tại vật chất và tinh thần trong đời sống xã hội, quan hệ, trật tự của mình, hành vi, thái độ của mình, khích lệ con người sống và phát triển theo thang giá trị mà cộng đồng xã hội tôn vinh. Bên cạnh những giá trị tổng quát (yêu nước, cộng đồng, cần cù, hiếu học) còn tồn tại giá trị bộ phận. Giá trị này được thể hiện trong từng lĩnh vực hoạt động của con người như: Khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong ăn uống, đi lại, phong tục tập quán, lễ hội... Những giá trị bộ phận không phải là những thực thể riêng biệt mà chúng góp phần chung đúc nên giá trị văn hóa tổng quát và ngược lại. Tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam cho rằng “Văn hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người” [10, tr.23]. Về phân loại giá trị, tác giả Trần Ngọc Thêm cũng cho rằng: “Các giá trị văn hóa theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần). Theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ (chân, thiện, mỹ). Theo thời gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời” [10,tr.23,24]. Vận dụng quan điểm trên, nhóm tác giả xem xét hoạt động của chợ Viềng từ góc độ giá trị văn hóa tinh thần. Mặc dù chợ là nơi buôn bán, trao đổi hàng hóa, phục vụ cho nhu cầu vật chất của con người, nhưng với chợ Viềng ở huyện Vụ Bản (tỉnh Nam Định), giá trị về tinh thần, về tâm linh là yếu tố nổi bật và chủ đạo được đề cao chứ không phải giá trị kinh tế. 1.1.1.4. Khái niệm về chợ Chợ là nơi, trung tâm diễn ra hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ bằng tiền tệ hoặc hiện vật (hàng đổi hàng, hoặc quy đổi tiền lấy hàng). Đây cũng có thể là nơi diễn ra các hoạt động nghiên cứu, giới thiệu, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm - dịch vụ, một điểm rất đặc trưng của cư dân Việt Nam chính vì thế mà cũng có rất nhiều các khái niệm chợ được nghiên cứu và ra 11
  18. đời để phục vụ cho công tác nghiên cứu cũng như trong đời sống xã hội. Theo Đại từ điển Tiếng Việt (2003): “Chợ là nơi tụ hợp giữa người mua và người bán để trao đổi hàng hóa, thực phẩm hàng ngày theo từng buổi hoặc từng phiên nhất định (chợ phiên)” [3]. Bên cạnh nghĩa đơn thuần về chợ thì còn có một khái niệm nữa đó chính là chợ truyền thống sẽ được hiểu một cách rất thuần Việt. Chợ truyền thống là một khái niệm đơn thuần chỉ một số loại hình thức kinh doanh được phát triển và kế thừa dựa trên những yếu tố hoạt động có tính cổ truyền, lưu giữ và nối tiếp mang tính thương mại, kinh tế lợi nhuận trong đó, được tổ chức tại một địa điểm cố định và có chu kỳ lặp đi lặp lại theo tuần, theo tháng; Đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa - dịch vụ và cả về nhu cầu đời sống tinh thần của cộng đồng dân cư tại đó. 1.1.2. Các giá trị văn hóa của chợ truyền thống Việt Nam 1.1.2.1. Giá trị trao đổi kinh tế, quảng bá sản phẩm của địa phương Chợ truyền thống của Việt Nam mang rất nhiều giá trị văn hóa trong đó. Mộc mạc, đơn giản về cách nghĩ, thô sơ giản về hình thức chỉ có vài mái lợp rơm rạ hay mái lá, cả người bán lẫn người mua đã có thể tao ra một tụ điểm chợ để trao đổi buôn bán. Mặc dù bé nhưng đem lại hiệu quả rất cao về mặt doanh thu cũng như quảng bá các sản phẩm nổi bật của địa phương từng vùng. Ở phiên chợ có đủ các mặt hàng, thường là rau, củ quả trong vườn nhà tự trồng để ăn thừa thì mang ra chợ kiếm đồng cải thiện cuộc sống; Có được hay những con gà, con vịt nhà chăm, để đem ra chợ bán lấy lời, chỗ thì bán nông cụ phục vụ cho nông nghiệp sinh hoạt thường ngày, chỗ thì bán những món quà vặt như: Xôi, chè, ngô nướng hay mấy món bánh quê giản dị vừa túi tiền, ai thấy ưng thì mua về làm quà, hay cứ ngồi xuống ăn thoải mái vô tư không suy nghĩ về giá cả. Cả phiên chợ toát lên cái giản dị, thường ngày rất đặc trưng cho chợ truyền thống của Việt Nam. Một phiên chợ đông ứng trừng khoảng vài trăm người, không khí thân mật hiền hòa bởi đa phần là người quen với nhau trong cùng một làng, xã; 12
  19. Hay là bạn bè cùng nhau ra vui chơi. Hình như mọi người ai cũng thích đi chợ, không mua gì thì cứ đi ngắm, đi chơi. Đông người nhất chắc là ở các quán nước chè đầu chợ dưới gốc đa, gốc đề, người ta gặp nhau, vừa uống nước chè vừa hỏi thăm nhau. Đây cũng chính là nơi, bàn bạc xôi nổi về các loại mặt hàng, giá cả so kè tính ít nhiều về giá trị có tương đương với vật mà họ mua hay không. Chỉ những thứ đơn thuần, rất riêng như vậy thôi đã tạo nên giá trị vô hình cho sự quảng bá, trao đổi về cả mặt vật chất lẫn tinh thần theo một nghĩa truyền thống. Dù còn mang nặng tính tự cung, tự cấp nhưng chợ truyền thống không vì thế mà đơn điệu, lạc lõng với thế giới ở bên ngoài. Người mua, kẻ bán, tất cả mọi người đều xởi lởi, vui vẻ. Đối với người “Nhà quê”, những phiên truyền thống là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần, là một cái gì đó gần gũi đến thân thương lạ kỳ, đã đi vào tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam. Những hình ảnh hết sức mộc mạc, thân quen và cũng rất tự nhiên như tâm hồn, bản tính của người Việt… Bởi chợ truyền thống là nơi lưu giữ được những nét văn hóa cũng như tục lệ của người dân vùng đó. 1.1.2.2. Giá trị tâm linh Theo Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng, tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm” [2, tr.11]. Giá trị tâm linh ở những phiên chợ truyền thống như một nét văn hóa không thể thiếu trong đời sống của người dân Việt Nam. Giá trị tâm linh được biểu hiện qua ba khía cạnh chính như sau: Thứ nhất, tâm linh trong tiềm thức của mỗi cá nhân: Trong tiềm thức của mỗi cá nhân thì họ chỉ mang một niềm tin thiêng liêng duy nhất vào những vị thần, vị thánh mà họ cho rằng và tin là có sức ảnh hưởng, che chở và bảo trợ cho họ về mặt tinh thần. Tâm linh rất phong phú và đa dạng nhưng không phải lúc nào con người chúng ta cũng thường trực trong đời sống tâm 13
  20. linh, mà tâm linh phải gắn liền với hoàn cảnh, môi trường phù hợp. Thứ hai, tâm linh trong các mối quan hệ gia đình, dòng họ: Trong mỗi gia đình, dòng họ thì bàn thờ tổ tiên là biểu tượng, tượng trưng cho sự linh ứng, tin vào những gì mà người thân của mình dù đã khuất nhưng họ vẫn hiện hữu ngay bên cạnh chúng ta để đó là nơi hội thụ, đoàn tụ, sum họp, nhớ về cội nguồn duy trì những giá trị thiêng liêng chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác trong gia đình “Ông, Bà, Cha, Mẹ” rồi đến “Cô Chú Anh Chị em”, Ở dòng họ thì trao cho “Trưởng họ” đó là một nét tâm linh rất đặc trưng của Việt Nam. Thứ ba, Tâm linh trong cộng đồng - xã hội: Tâm linh trong cộng đồng xã hội là một thuật ngữ được dùng để chỉ một loại hình văn hoá tâm linh tinh thần đặc thù của cộng đồng người Việt lấy đối tượng là sự bày tỏ tình cảm linh thiêng, niềm tin linh thiêng, sự tri ân của những người đang sống đối với những người thân đã mất, đối với những vị anh hùng dân tộc, những liệt sĩ được tôn làm Thần, làm Thánh, làm Thành hoàng làng,… diễn ra trong một không gian và thời gian mang tính thiêng nhất định. Từ xa xưa, trong các hoạt động văn hoá truyền thống dân tộc, người Việt Nam đều có tổ chức các hoạt động văn hoá tâm linh, hoặc do cộng đồng làng, xã tổ chức theo những lễ nghi trang trọng, uy nghiêm, với sự tham gia một cách thành kính, tự nguyện của nhân dân đến với các vị Thần, Thánh, nghi thức tế đối Tổ tiên, dòng họ nhằm mục đích cầu cho quốc thái, dân an, cho mọi người nhà nhà đều được hạnh phúc ấm no. Ở Việt Nam, trong truyền thống, chợ ngoài giá trị trao đổi kinh tế còn hàm chứa cả giá trị tâm linh, thể hiện khía cạnh tâm linh trong đời sống cộng đồng của người dân quê. Cụ thể nhiều ngôi chợ họp không phải chỉ để trao đổi hàng hóa thông thường mà còn để thỏa mãn nhu cầu tâm linh. Ví dụ như chợ Âm Dương tại làng Ó (tức Xuân Ổ) xã Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh họp mỗi năm một lẫn vào đêm mùng 4, rạng sáng ngày mùng 5 tháng Giêng. Tương truyền nơi đây có nhiều người tử nạn, nên phải tổ chức 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2