intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Thiết kế các hoạt động dạy học Hóa học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập bộ môn

Chia sẻ: Phạm Công Trữ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:43

187
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài là phân tích, so sánh, đánh giá hiệu quả của việc thiết kế các hoạt động dạy học, sử dụng các dụng cụ trực quan kết hợp với công nghệ thông tin trong dạy học môn Hóa học ở cấp THPT; tạo sự hứng thú trong học tập, phát huy tính tích cực của học sinh dưới tác dụng của các hoạt động dạy học và thiết bị trực quan;... Mời các bạn cùng tham khảo. 

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Thiết kế các hoạt động dạy học Hóa học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập bộ môn

  1. PHẦN I: MỞ ĐẦU A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Từ khi hình thành kiểu dạy học “thông báo”. Giáo viên quan tâm trước  hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nội dung  qui định trong chương trình và sách giáo khoa, cố gắng làm cho mọi học sinh  trong lớp hiểu và nhớ những lời thầy giảng. Cũng từ  đó hình thành kiểu học   thụ  động, thiên về  ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ. Tình trạng này ngày càng được  phổ biến, đã hạn chế đến chất lượng, hiệu quả dạy học không đáp ứng được  yêu cầu của xã hội. Để  khắc phục tình trạng đó, người ta thấy cần phát huy  tính cực chủ động học tập của học sinh thông qua quá trình dạy học dưới sự  chỉ đạo của giáo viên, người học phải tích cực chủ động chính mình không ai   có thể làm thay cho mình được. Tư  tưởng nhấn mạnh vai trò tích cực chủ  động của người học, xem  người học là chủ  thể  của quá trình học tập đã có từ  lâu.  Ở  thế  kỷ  XVII,   A.Kômenski đã viết “giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm,   phán đoán, phát triển nhân cách … hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo   viên làm việc ít hơn , học sinh làm việc nhiều hơn ”. Chương trình đổi mới giáo dục trên phạm vi toàn quốc từ  gần 10 năm  qua  vẫn đang là tâm điểm được xã hội quan tâm sâu sắc. Một trong những   nhiệm vụ  cơ  bản của đội ngũ nhà giáo không ngừng cải tiến phương pháp  giảng dạy nhằm giáo dục học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ  động và   sáng tạo. Việc học hiện nay không chỉ thu nhận kiến thức từ tiết học mà các  em cần học cách chiếm lĩnh tri thức   để  có thể  đạt yêu cầu của thời đại.  Chính vì điều đó mà người giáo viên trực tiếp giảng dạy biết thiết kế  các   hoạt động lên lớp một cách hợp lý, cụ  thể  phù hợp với từng đối tượng của  học sinh nhằm khơi dậy   niềm say mê sáng tạo và khả  năng khám phá thế  giới xung quanh. Trang   1
  2. Nhiệm vụ cơ bản của việc giảng dạy môn Hóa học cũng như các môn  học khác trong nhà trường phổ thông là đảm bảo cho học sinh nắm vững kiến   thức được truyền thụ, làm cho học sinh hiểu đúng bản chất của kiến thức ấy,  gắn được chúng với những điều đã tiếp thu từ  trước và vận dụng vào thực   tiễn. Trong các năm gần đây Bộ  Giáo Dục – Đào tạo đã và đang từng bước   tiến hành thay sách trong cả nước ở  lớp 10, 11 và lớp 12. Sự đổi mới chương   trình sách giáo khoa bắt buộc thay đổi cả  phương pháp truyền thụ  kiến thức   của giáo viên lẫn phương pháp học tập của học sinh. Từng bước áp dụng các   phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm  bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh. Hóa học đóng vai trò rất quan trọng trong giáo dục cũng như trong sản   xuất. Xuất phát từ  mục tiêu đào tạo của nhà trường và phát triển con người   toàn diện theo yêu cầu của xã hội. Trong những năm gần đây, giáo dục được  coi là ngành then chốt trong chiến lược đào tạo thế hệ trẻ  góp phần làm cho   dân giàu, nước mạnh dân chủ  và văn minh. Ta có thể  khẳng định rằng môn  hóa học  ở  trường phổ  thông nói chung và phương pháp hình thành kỹ  năng  thiết kế một bài dạy hóa học vừa chú ý rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo hóa học và  phát huy được tính tích cực học tập của học sinh…Trong phương pháp dạy  học Hóa học  ở  trường THPT  ở  mọi lĩnh vực để  thực hiện đúng kỹ  năng tự  chiếm  lĩnh tri  thức.  Học sinh phải trau dồi kiến thức  và phải nắm vững   phương pháp, thuật ngữ Hóa học. Do sự  phát triển như  vũ bão của khoa học kỹ  thuật, đặc biệt là công   nghệ  thông tin trên toàn thế  giới chúng ta cần nhìn thẳng vào những vấn đề  tồn tại của ngành giáo dục làm thế  nào đưa ngành giáo dục nước nhà tiến   nhanh và đuổi kịp với các nước trên thế giới. Để dạy tốt bộ môn Hóa học nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng  dạy trong nhà trường, theo tôi ngoài việc chú tâm xây dựng đầu tư chuyên sâu  vào nội dung kiến thức cần truyền tải đến học sinh thì việc đầu tư  cho một  Trang   2
  3. tiết dạy trên lớp đạt hiệu quả cao không phải là một sớm một chiều, nhất là   đối với các em học sinh đang ở độ tuổi mới lớn tư tưởng và tâm sinh lí bị ảnh  hưởng rất nhiều bởi các yếu tố bên ngoài xã hội do vậy cần nhanh chóng tạo  sự hứng thú cho các em trong học tập nói chung và môn Hoá nói riêng là việc   làm cấp bách và cần thiết ngay từ lúc các em bước vào THPT. Xuất phát từ  những vấn đề  trên trong giảng dạy nói chung và giảng  dạy Hóa học nói riêng tôi đã tìm tòi phương pháp giúp học sinh học tập tốt.   Một trong các phương pháp đó là  “Thiết kế  các hoạt động dạy học Hóa   học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập bộ môn” B. CỞ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN Việc đổi mới phương pháp dạy học theo chương trình thay sách giáo khoa  hiện nay là:  Đổi mới phương pháp giảng dạy. Đổi mới cách soạn bài. Đổi mới trong từng bài giảng. Đổi mới cách đánh giá. Khi viết mục tiêu bài học, giáo viên phải hình dung rõ là sau khi học  xong bài đó, học sinh của mình có được kiến thức, kỹ năng, trình độ gì? Mức  độ  như  thế  nào? Thay đổi thói quen suy nghĩ tập trung vào những điều giáo  viên phải đạt được sau khi học xong bài đó. Theo hướng phát huy vai trò chủ thể tích cực chủ động của người học   thì mục tiêu đề ra là cho học sinh, do học sinh thực hiện, chính học sinh thông  qua các hoạt động học tập tích cực phải đạt những mục tiêu ấy. Giáo viên là  người chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn, trợ giúp học sinh nắm được kiến của bài  học. Việc giảng dạy hóa học trong nhà trường phổ thông không nhằm trang  bị  cho học sinh những kiến thức mà còn phát huy  ở  các em tư  duy sáng tạo,   hình thành ở học sinh kỹ năng, kỹ xảo: Quan sát, nghiên cứu, chứng minh các  Trang   3
  4. thí   nghiệm   hóa   học,   tự   làm   các   thí   nghiệm   hóa   học,   tập   dượt,   làm   quen   phương pháp nghiên cứu để có hiểu biết thực tế về đời sống con người, gần   gũi nhất là hiểu biết về chính bản thân mình. Phát triển năng lực trí tuệ  và khả  năng tự  học của học sinh trong giờ  học, học sinh không chỉ  được trang bị kiến thức trong sách giáo khoa mà còn   hình thành phẩm chất của người lao động mới trong thời đại phát triển…  1. Đối với giáo viên  ­ Thiết kế  giáo án bao gồm các hoạt động của giáo viên và học sinh theo   những mục tiêu cụ  thể  của mỗi bài học hóa học mà học sinh cần đạt được.   Thiết kế hệ thống câu hỏi và bài tập để định hướng cho học sinh hoạt động. ­ Tổ chức các hoạt động trên lớp để học sinh hoạt động cá nhân hoặc theo  nhóm như: nêu vấn đề cần tìm hiểu, tổ chức các hoạt động tìm tòi, phát hiện   tri thức và hình thành kỹ năng ... ­ Định hướng điều chỉnh các hoạt động của học sinh: chính xác hóa các  khái niệm hóa học, các kết luận về các hiện tượng, bản chất hóa học mà học  sinh tự tìm tòi được.  ­ Thiết kế và việc thực hiện việc sử dụng các phương tiện trực quan, hiện   tượng thực tế, thí nghiệm… là nguồn để  học sinh khai thác, tìm kiếm, phát  hiện những kiến thức, kỹ năng về hóa học. ­ Tạo điều kiện để học sinh được vận dụng nhiều hơn những tri thức của   mình để  giải quyết một số  vấn đề  có liên quan tới hóa học trong đời sống,   sản xuất. 2. Đối với học sinh  ­ Tự phát hiện vấn đề hoặc nắm bắt vấn đề do giáo viên nêu ra.  ­ Hoạt động cá nhân hoặc hợp tác theo nhóm nhỏ để tìm tòi, giải quyết các  vấn đề đặt ra. Các hoạt động có thể là:  + Dự  đoán: Tính chất của chất, hiện tượng thí nghiệm, phản  ứng có  xảy ra hay không? Trang   4
  5. + Làm thí nghiệm, quan sát, mô tả  hiện tượng, giải thích và rút ra kết   luận  + Phán đoán, suy luận. + Đề ra giả thuyết. + Trả lời câu hỏi. + Giải bài toán hóa học. + Quan sát sơ đồ, hình ảnh, tranh vẽ… rút ra nhận xét. + Tham gia thảo luận theo nhóm: Trình bày quan điểm của mình, lắng  nghe, nhận xét ý kiến của  người khác… + Báo cáo kết quả hoạt động của cá nhân hoặc nhóm. + Rút ra kết luận. + Lắng nghe, quan sát, nhận xét kết qủa của học sinh khác và bổ sung ý   kiến … ­ Vận dụng kiến thức kỹ năng đã biết để giải thích một số hiện tượng hóa   học xảy ra trong đời sống sản xuất. ­ Tự học, tự đánh gía và đánh gía việc nắm bắt kiến thức kỹ năng của bản  thân và nhóm. Trong tình hình cụ  thể  hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học hóa  học phải làm cho học sinh:   Phát huy tính tích cực tự giác sáng tạo của người học.  Chuyển trọng tâm từ hoạt động của thầy sang hoạt động của trò.  Hứơng tới hoạt động chủ  động, chống thói quen học tập thụ  động,  học sinh tích cực chiếm lĩnh kiến thức và kỹ  năng thu thập, xử  lý, trình bày  trao đổi thông tin thông qua các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức hướng   dẫn.  Tăng cường hoạt động  theo nhóm và học tập cá nhân.  Giảm trình bày lý thuyết, tăng thực hành vận dụng. C. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trang   5
  6. 1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và khách thể nghiên cứu ­ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào việc thiết  kế các hoạt động dạy học và sử dụng phương tiện trức quan nhằm phát huy  tinh tích cực của học sinh trong học tập bộ môn Hóa học ở cấp THPT.    ­ Khách thể  nghiên cứu: Học sinh khối 10, 11 trường THPT Nam Phù  Cừ 2. Phương pháp nghiên cứu           Phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp, đánh giá... 3. Thời gian nghiên cứu Năm học 2012 – 2013, 2013 ­ 2014  Trang   6
  7. PHẦN II: NỘI DUNG A. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU  Phân tích, so sánh, đánh giá hiệu quả của việc thiết kế các hoạt động  dạy học, sử dụng các dụng cụ trực quan kết hợp với công nghệ thông tin  trong dạy học môn Hóa học ở cấp THPT. Tạo sự hứng thú trong học tập, phát huy tính tích cực của học sinh dưới  tác dụng của các hoạt động dạy học và thiết bị trực quan. Xây dựng khả năng làm việc nhóm qua đó tạo sự đoàn kết, biết giúp đỡ  và học hỏi lẫn nhau trong học tập bộ môn Hóa học. Vận dụng các kiến thức đã học để giá và giải thích các hiện tượng  trong tự nhiên có liên quan. B. CÁC GIẢI PHÁP Với những thực trạng nêu trên tôi đã đưa ra những giải pháp cụ  thể  trong  việc thiết kế nội dung hoạt động học tập cho bộ môn hóa học nhằm phát huy   trí lực học sinh gồm các yêu cầu cụ thể sau:  ­ Lựa chọn phương pháp khi thảo luận. ­ Sử dụng đồ dùng dạy học, mô hình, hình vẽ, sơ đồ, tin học ứng dụng hiện  đại. ­ Dùng phiếu học tập, bài tập thảo luận. ­ Sử dụng bài tập thực tiễn trong giảng dạy hóa học. ­ Cung cấp thông tin. ­ Chọn cách ghi bảng. 1. Lựa chọn phương pháp khi thảo luận * Phương pháp hoạt động nhóm:  Học tập hợp tác theo phương pháp này trong dạy học hóa học được thực hiện  khi:  + Thỏa thuận để tìm ra lời giải, một nhận xét, một kết luận nào đó. Trang   7
  8. + Cùng thực hiện một việc giáo viên giao cho.  Để phát huy tính tích cực hợp tác theo nhóm, cần đảm bảo một số yêu cầu sau  đây:   Phân nhóm nhóm trưởng và thư ký: Nhóm trưởng có nhiệm vụ phân  công trách nhiệm và yêu cầu mỗi thành viên thực hiện đúng trách   nhiệm của mình. Thư  ký có trách nhiệm ghi kết quả  thảo luận, cử  đại diện thành viên của nhóm báo cáo kết quả của mình   Những bài học có kiến thức khó đòi hỏi khả năng tư duy cao và tập  trung, giáo viên nên cho thảo luận nhóm lớn (2 bàn ghép lại )  Nội dung kiến thức vừa phải không cần tập trung nhiều học sinh để  tư duy thì có thể cho thảo luận nhóm nhỏ (2 học sinh )  Chú ý: Khi thảo luận nhóm quy định về  thời gian và đánh gía thảo luận  theo parem điểm của giáo viên đưa ra. Ví dụ : Hướng dẫn học sinh hoạt động để giải bài tập sau: Hoạt động của thầy Hoạt động của trò Ví dụ  1:  Tính thể  tích ôxi (  ở  đktc )  Học sinh  đọc đề bài  cần dùng để  đốt cháy hết 3,1 g phốt  pho . Biết sơ  đồ  phản  ứng như  sau :  P+O2   P2O5         Tính khối lượng của hợp chất tạo   thành sau phản ứng : Trang   8
  9. Hỏi : Đề bài cho biết gì ? tính gì ?  ­ Học sinh đứng tại chỗ  nêu tóm tắt            đề bài : Tóm tắt đề bài : mP = 3,1 g  V O    = ? 2 m P O  = ?        2 5   Gợi ý :   v =  n.22,4       ­ Muốn tìm thể  tích khí oxi (đktc) thì  ta áp dụng công thức nào?  ­ Vậy số mol oxi biết chưa ?  ­ Muốn tìm số mol oxi ta làm như thế  nào ? ­ Tính số mol của phốt pho ­   HS   thảo   luận   nhóm   lớn,   làm   vào  ­Lập PTHH bảng phụ. * Cho HS thảo luận nhóm trong vòng  ­ Nhóm trưởng điều hành  7 phút  ­Cử 1 thư ký ghi chép  ­   Cử   1   bạn   nhận   xét   kết   quả   của  nhóm khác  Số mol của Photpho là: mP 3,1 nP =  0.1(mol )    MP 31 Lập phương trình hóa học                   4P  + 5 O2    2P2O5      Theo PT: 4mol   5mol      2 mol       TheoĐB: 0,1mol     x            y   Số mol oxi là :  Trang   9
  10. 0 .1 5 nO 0.125(mol ) 2 4     Số mol P là :  0.1 2 nPO 0.05( mol ) 2 5 4 Thể tích khí oxi cần dùng là :  V O  = n x 22,4 = 0,125 x 22,4 2           = 2,8  (l)  ­ Khối lượng của chất tạo thành  m P O   =  142 x 0,05 2 5             =  7,1 ( g)  ­ Các nhóm nộp bảng phụ  ­ Cho các nhóm nhận xét và bổ sung . GV sữa chữa sai ( nếu có)  * Phương pháp đàm thoại, nêu vấn đề để dạy học môn hóa học tích cực           Lựa chọn những kiến thức đang được nghiên cứu, có nhiều quan  điểm, nhiều cách lý giải để  các em có cơ  hội khẳng định khả  năng tư  duy,   đánh giá vấn đề. Dạy học nêu vấn đề luôn chứa các yếu tố tích cực, nhưng ở  nhiều mức độ khác nhau. Cần dạy học nêu vấn đề một cách linh hoạt và phối   hợp với các phương pháp khác để đổi mới phương pháp dạy học như sau:  Đối với giáo viên :  Nêu vấn đề cần tìm hiểu, gợi mở để học sinh phát hiện vấn đề. Yêu cầu học sinh giải quyết vấn đề. Học sinh báo cáo kết qủa. Lắng nghe nhận xét bổ sung. Trang   10
  11. Đối với học sinh :  Nhận thức vấn đề hoặc phát hiện vấn đề như: + Thực hiện thí nghiệm hóa học, hình ảnh…thu thập và xử lý thông tin  sách giáo khoa. + Thực hiện các nhiệm vụ  được giao: Trả  lời câu hỏi, quan sát, nhận   xét rút ra kết luận…từ đó rút ra kết luận tính chất chung và tính chất cụ thể,   công thức, khái niệm… Kiểu dạy học nêu vấn đề  sẽ  đạt được hiệu quả  cao khi học sinh được   rèn luyện có thói quen tích cực chủ động trong giờ học. Từ những câu hỏi, gợi ý  do giáo viên đưa ra kích thích sự tò mò, ham hiểu biết, tạo nhu cầu hứng thú học   tập bô môn tham gia thảo luận tính tích cực, tự giác trong giờ học. * Phương pháp vấn đáp tìm tòi :  Trong dạy học hóa học học sinh nhận thức các hiện tượng hóa học  không chỉ  bằng mất màu mà còn bằng các giác quan như: Nghe, ngửi, sờ  và  một số ít trường hợp nếm nữa. Đó chính là nguồn thông tin về sự vật và hiện  tượng đó làm cơ sở lĩnh hội trực tiếp nhờ các giác quan những kiến thức kỹ,   Trang   11
  12. năng, kỹ  xảo về  các phương tiện được nghiên cứu đều gọi là các phương   tiện trực quan. Nó bao gồm: + Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên. +  Thí nghiệm thực hành của học sinh. Những PPDH trên đây thường được sử  dụng đặc trưng cho môn hóa  học tuỳ theo loại kiến thức sẽ áp dụng PPDH cho thích hợp và phát huy tính  tích cực của HS.      Tóm lại, giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy ­   học để  dạy và học hoá học tích cực hơn. Sau đây là những nhận định cần   thiết về vấn đề này. a.  Dạy – Học không phải là một phương pháp mà là một quan điểm sư  phạm  b. Tất cả các phương pháp đã biết đều có thể sử dụng theo hướng tích cực  hóa hoạt động của HS. Cần lựa chọn phối hợp các phương pháp một cách   Trang   12
  13. linh hoạt, sáng tạo phù hợp với nội dung hóa học để  tạo điều kiện cho học   sinh tích cực, chủ  động độc lập sáng tạo khám phá, tìm tòi xây dựng kiến   thức mới từ kinh nghiệm, kiến thức đã biết dưới sự  tổ chức hướng dẫn của  giáo viên. c. Các phương pháp đặc trưng của bộ  môn hóa học phải được ưu tiên sử  dụng trong dạy học hóa học tích cực:  ­ Sử dụng thí nghiệm hóa học theo hướng nghiên cứu, hạn chế  hướng  minh họa . ­ Sử  dụng phương tiện dạy và  học nhằm vận dụng nguồn kiến thức   để học sinh linh hoạt  hơn. ­ Vận dụng linh hoạt phương pháp nêu vấn đề  trong mỗi bài học hóa  học. ­ Sử  dụng bài tập hóa học như  những vấn đề  cần giải quyết hoặc   những nguồn kiến thức… Trang   13
  14. 2. Đồ dùng hóa học và ứng dụng công nghệ thông tin a. Sử dụng thí nghiệm hóa học theo hướng khoa học tích cực giáo viên   cần chuẩn bị đầy đủ, đúng, chuẩn xác để  giới thiệu cho học sinh trực quan.   Khi giới thiệu tránh lan man, ôm đồm, không lựa chọn và gây phân tán khi sử  dụng. + Khi giới thiệu đồ dùng dạy học giáo viên cần đưa ra mục tiêu cụ  thể  để  học sinh vận dụng phương pháp trực quan vào bài học có hiệu quả  cao  nhất. Cụ thể như sau: Thí nghiệm về điều chế  khí Cl2 trong phòng thí nghiệm Một số dụng cụ và hóa chất  Bài thực hành thí nghiệm hóa học, sử dụng một cách tích cực như : ­ Học sinh phải nắm được mục đích của thí nghiệm.  ­   Học   sinh   biết   cách   sử   dụng   dụng   cụ   hoá   chất   để   tiến   hành   thí  nghiệm.  ­ Quan sát mô tả hiện tượng thí nghiệm do giáo viên hoặc do nhóm thực   hiện  ­ Giải thích hiện tượng, xác định chất tạo thành và viết phương trình hóa  học. b. Sử dụng phương tiện dạy học theo hướng tích cực của học sinh: Trang   14
  15. Băng  hình,  đĩa  nén,  máy chiếu,  máy chiếu vật thể,  phần mềm  dạy   học… các phương tiện này sẽ  giúp cho hoạt động của giáo viên và học sinh  tích cực hơn, sinh động hơn. Việc  ứng dụng công nghệ  thông tin để  đổi mới phương pháp dạy học   hiện nay chưa thành yêu cầu bắt buộc nên còn mang tính tự phát và có nhiều   vấn đề  cần phải quan tâm.Vì vậy khi sử  dụng công nghệ  thông tin cần đảm   bảo các yêu cầu sau: Bảo đảm tính mục đích: Sử dụng máy tính và các phần mềm hóa học là  phương tiện giúp giáo viên tổ  chức và học sinh thực hiện các hoạt động hoá   học theo hướng: học sinh tích cực, chủ động xây dựng kiến thức và rèn luyện  kỹ năng hoá học ­ Bảo đảm hiệu quả: Không coi máy tính và phần mềm hóa học chỉ  là   công cụ trình chiếu mà thực sự giúp học sinh tìm tòi, vận dụng kiến thức. ­ Đảm bảo tính thiết thực và phù hợp: Chỉ  sử  dụng máy tính và phầm   mềm đa phương tiện phù hợp với nội dung, hình thức và phương pháp cụ thể  ở mỗi bài, mỗi chương, không sử dụng tràn lan.  Ví dụ: Một số thí nghiệm hóa học có điều kiện giáo viên làm hoặc học sinh   thực hiện được thì không nên sử dụng hình ảnh thí nghiệm trong bài. Việc sử  dụng công nghệ  thông tin chỉ  khuyến khích các giáo viên  ở  những trường có điều kiện thực hiện. Bên cạnh sử  dụng những phương tiện dạy học hóa học tích cực trên,  trong quá trình soạn giáo án chúng tôi luôn cố  gắng đầu tư  cho hệ  thống câu  hỏi: Số lượng câu hỏi không cần nhiều nhưng phải chọn lọc để câu hỏi mang   tính tổng hợp trong quá trình tái hiện kiến thức cũ, gợi mở dẫn dắt đến kiến  Trang   15
  16. thức mới từ thông tin trong sách giáo khoa, cố  gắng hạn chế đến mức tối đa   những câu hỏi vụn vặt và những câu hỏi mà học sinh chỉ  dựa vào sách giáo   khoa để trả lời. Trang   16
  17. 3. Phiếu học tập, bài tập thảo luận trên lớp Đây là công việc rất quan trọng nhằm tạo ra hứng thú, say mê học tập   của học sinh nhằm đạt đến mục tiêu cuối cùng là phát huy tính tích cực, chủ  động của học sinh. Bài tập hóa học không chỉ  giúp HS củng cố, vận dụng, khắc sâu kiến  thức mà còn là nguồn tri thức là nguồn phương tiện giúp HS chiếm lĩnh kiến   thức mới. Thông qua giải một số  bài tập còn giúp học sinh nhận thức được   kiến thức mới về qui luật, tính chất về mối quan hệ về chất … Nếu nội dung câu lệnh trong sách giáo khoa còn chung chung, khó hiểu,  HS rất dễ  bỏ  sót khi thảo luận, thì giáo viên nên bám sát vào nội dung đó  nhưng ở dạng cụ thể bằng bảng để HS điền cụm từ cần tìm. Trường hợp nội dung câu lệnh dễ dẫn đến kết quả học sinh có những đáp   án thực tế lan man, khó đưa ra những kiến thức cơ bản trọng tâm, người dạy cần   thiết kế chúng ở dạng bài tập ghép cột hoặc lựa chọn câu trả lời phù hợp. Ví duï : Tiết 54:        Bài 32:     HIĐRO SUNFUA – LƯU HUỲNH ĐIOXIT LƯU HUỲNH TRIOXIT   Ghép các ý cột A và Cột B sao cho phù hợp với nhau Cột A Cột B Trả lời A1 : S B1 : Chỉ có tính oxi hóa B1 ghép với … A2 : SO2 B2 : Chỉ có tính khử B2 ghép với … A3 : H2S B3 : Có tính oxi hóa và tính khử B3 ghép với … A4 : H2SO4 B4 : Không có tính oxi hóa và tính khử B4 ghép với … A5 : SO3 Đáp án :    B1 ghép với A4                               B2 ghép với A3  B3 ghép với A1 ,  A2 B4 ghép với  A5 Nếu nội dung lệnh đã rõ ràng cụ  thể  thì giáo viên nên sử  dụng bảng  phụ để học sinh dễ dàng hơn trong báo cáo, trao đổi với nhau. Trang   17
  18. Đôi khi để kiểm tra học sinh thu nhận thông tin có sẵn, giáo viên cần đưa  ra dạng bài tập ngay trong bài bằng câu trắc nghiệm điền khuyết hoặc chọn câu  đúng nhất để có cơ sở nhận định việc lĩnh hội kiến thức của học sinh.  Ví dụ:  Cho các phản ứng sau: (1) SO2 +NaOH   →  NaHSO3.    (2) SO2 + 2H2S    →   3S + 2H2O (3) 2SO2 + O2       2SO3 (4) SO2 + Br2 + 2H2O  →  H2SO4 + 2HBr Các phản ứng mà SO2 có tính khử là A. (3), (4)                   B. (1), (2), (4)                C. (1), (3)                         D. (1), (4) Đáp án: A 4. Sử dụng bài tập thực tiễn trong giảng dạy hóa học Với đặc điểm đa dạng và phong phú của bài tập thực tiễn, việc truyền đạt  cho học sinh những kiến thức thực tiễn có thể  sử  dụng nhiều phương pháp   khác nhau, thông qua nhiều hình thức khác nhau, có thể đưa vào khi giảng bài  mới thông qua các câu hỏi, cách đặt vấn đề, hay một bài tập nhỏ, và cũng có   thể giáo viên thông tin cho học sinh, cũng có thể đưa vào trong các giờ luyện   tập thông qua các bài tập hay đưa vào đề  kiểm tra với một dung lượng nhất   định. Đặc biệt là tổ  chức các hoạt động ngoại khóa như  các cuộc thi,các câu  lạc bộ hóa học,.... a. Sử dụng trong giảng dạy bài mới:     Trong các giờ giảng bài mới giáo viên có thể linh hoạt nhiều phương pháp   khác nhau để kết hợp các kiến thức thực tiễn vào bài giảng, thuận lợi nhất là  hai phương pháp tích hợp và lồng ghép.     ­   Tích hợp :   là kết hợp một cách có hệ thống các kiến thức hóa học với kiến  thức thực tiễn, làm cho chúng hòa quyện vào nhau thành một thể thống nhất.     Ví dụ: Khi giảng bài về “Các hợp chất của cacbon”, bên cạnh giảng về vai   trò làm chất khử  của CO trong công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp luyện  kim, giáo viên cần kết hợp với kiến thức về khả năng gây ngộ  độc của CO,   Trang   18
  19. triệu chứng bị  ngộ  độc. Các nguồn sinh CO thường có trong cuộc sống để  phòng tránh. Hoặc khi giảng về khí CO2, song song với việc giảng về vai trò  của CO2 đối với quá trình quang hợp của cây xanh, đồng thời giáo viên phải  đề  cập đến vấn đề  gây “hiệu  ứng nhà kính” của CO2, và giáo dục học sinh  nên trồng cây xanh, bảo vệ rừng để bảo vệ môi trường và cuộc sống.      Hoặc khi dạy bài “Photpho”, giáo viên giải thích hiện tượng “Ma trơi”,   thông qua đó, giáo dục cho học sinh cách nhìn nhận đúng đắn và khoa học các  vấn đề trong cuộc sống, tránh những tư tưởng sai lầm, mê tín dị đoan do kém  hiểu biết. Đôi khi chỉ  một vài câu liên hệ  của giáo viên cũng gây được  ảnh   hưởng tốt cho học sinh.     ­   Lồng ghép :   là thể hiện sự lắp ghép nội dung bài học về mặt cấu trúc để  có thể đưa vào bài học một đoạn, một mục, một số câu hỏi có nội dung liên  quan đến thực tiễn.     Ví dụ: Khi giảng về pH của dung dịch ta có thể hỏi học sinh “Vì sao chúng  ta lại bị  sâu răng? Đặc biệt là khi ăn các thức ăn ngọt?” Hay khi dạy về  sự  thủy phân của các muối giáo viên có thể đặt câu hỏi “Vì sao phèn chua lại có   thể làm trong nước”. Hoặc trong bài “muối amoni”  giáo viên có thể yêu cầu  học sinh ““giải thích vì sao trước khi hàn người ta thường rắc một lớp bột   amoniclorua lên bề  nặt kim loại và nung nóng?”, “tại sao NH4HCO3 được  dùng làm bột nở ?”....Giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh vận dụng các  kiến thức trong bài để giải quyết vấn đề đặt ra và bổ sung thêm cho học sinh  những kiến thức có liên quan đến vấn đề  nhưng không nằm trong phạm vi   kiến thức hóa học như vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe,....   b. Sử dụng trong giờ bài tập và kiểm tra đánh giá:     Trong các giờ bài tập, giáo viên có thể đưa vào các bài tập có nội dung thực  tiễn mà học sinh có thể  vận dụng  được  những kiến thức trong nội dung   luyện tập để giải quyết hoặc thông qua một bài tập có nội dung lý thuyết, sau  Trang   19
  20. khi giải quyết xong giáo viên thông tin thêm những kiến thức thực tiễn có liên  quan.     Một số  câu hỏi hoặc bài tập mang tính thực tiễn nhưng nội dung trả  lời   ngắn   gọn   và   chỉ   vận   dụng   thuần   túy   các   kiến   thức   lý   thuyết   trong   các  chương, bài mà  học sinh đã được cung cấp có thể  đưa vào các đề  kiểm tra   15phút, 1 tiết, kiểm tra học kỳ.... Chẳng hạn, khi kiểm tra chương 1, trong   chương trình lớp 11 “Sự điện li” có thể đưa vào các câu như:    1.Vì sao nước cất để lâu ngày ngoài không khí lại có PH 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2