intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ 2008-2011 và các giải pháp kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: Truong Thi Truc Linh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:44

826
lượt xem
108
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cơ sở lý luận về lạm phát, thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008-2011, các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay là những nội dung chính trong 3 chương của đề tài "Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ 2008-2011 và các giải pháp kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay". Mời các bạn cùng tham khảo để có thêm tài liệu học tập và nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ 2008-2011 và các giải pháp kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay

  1. ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ 2008­2011  VÀ CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁTỞ NƯỚC TA  HIỆN NAY MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU:
  2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       Lý do chọn đề tài..................................................................................2 1. 2. Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................3 3. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................4 4. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................4 6. Tình hình nghiên cứu............................................................................4 7. Hướng đóng của đề tài........................................................................5 8. Cấu trúc đề tài......................................................................................5 B. PHẦN NỘI DUNG:             Chương 1: Cơ sở lý luận về lạm phát:..............................................6 1.1. Khái niệm lạm phát...................................................................6 1.2. Phân loại lạm phát.....................................................................6 1.3. Đo lường lạm phát và các chỉ tiêu đo lường lạm phát.............7 1.3.1. Đo lường lạm phát................................................................7 1.3.2. Các chỉ tiêu đo lường lạm phát............................................8 1.4. Nguyên nhân của lạm phát........................................................9 1.5. Tác động của lạm phát............................................................10             Chương 2: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008­2011:12                   2.1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008­2011............12                 2.2. Nguyên nhân của lạm phát ở Việt Nam....................................23                 2.3.Tác động của lạm phát đối với kinh tế­xã hội...........................30             Chương 3: Các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay: ............................................................................................................................32            3.1. Thực hiện chính sách tài chính­ tiền tệ  một cách thận trọng,  linh hoạt và hiệu quả........................................................................32           3.2.Thực hiện chính sách tài khóa thu hẹp, thắt chặt đầu tư công,  giảm bội chi ngân sách...................................................................35             3.3. Chính sách ổn định tỷ giá...........................................................36           3.4. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm  chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng................................37 C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:................................................39 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................40 NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 2
  3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài:                      Lạm phát là một hiện tượng kinh tế  xã hội gắn với nền kinh tế  thị  trường. Nó là một trong những hiện tượng quan trọng nhất của thế kỷ XXI và  ảnh  tới mọi hệ thống kinh tế dù phát triển hay không.    Lạm phát được coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng  hoá­tiền tệ.Nó có tính thường trực,nếu không thường xuyên kiểm soát,không có  những giải pháp chống lạm phát thường trực,đồng bộ và hữu hiệu thì lạm phát  có thể xảy ra ở bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kì chế độ xã hội nào.              Trong đời sống hằng ngày , lạm phát là một trong những vấn đề kinh  tế vĩ mô, nó trở  thành mối quan tâm lớn của các nhà  chính trị  và công chúng  .Lạm phát giờ đây đã trở thành vấn đề toàn cầu chứ không phải là vấn đề  riêng   của Việt Nam. Châu Âu , Châu Úc , Châu Mỹ , hay Việt Nam đều gặp rủi ro lạm  phát  ở  những mức độ  khác nhau và đang dùng nhiều bài thuốc khác nhau để  chống lại lạm phát . Lạm phát như 1 căn bệnh của nền kinh tế thị trường , nó là  hai vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi mỗi quốc gia phải có sự đầu tư lớn về thời  gian và trí tuệ  mới có thể  mong muốn đạt kết quả  tốt . Kiểm soát lạm phát là   nhịêm vụ hàng đầu của chính phủ .    Ở Việt Nam, từ sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nền   kinh tế nước ta đã trải qua nhiều bước thăng trầm : từ khủng hoảng trầm trọng  với mức độ lạm phát lên đến 3 con số, tăng trưởng thấp, đời sống nhân dân khó  khăn dần tiến đến tỷ lệ lạm phát ổn định , tăng trưởng khá, rồi lại đứng trước  thách thức và nguy cơ  tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế các nước trong   khu vực và trên thế giới với tăng trưởng chậm và nguy cơ suy thoái. Ở nước ta  một số năm tỷ lệ lạm phát ở mức độ thấp, nhưng đến nay lạm phát lại có nguy  cơ tiềm ẩn và tái phát cao. Nhất là cho đến thời điểm này giá cả  các mặt hàng   thiết yếu trong và ngoài nước diễn ra rất phức tạp. Giá hầu hết các mặt hàng   nhập khẩu thiết yếu như : xăng dầu, sắt thép, chất dẻo, phân bón … đều tăng.   Đặc biệt trong thời gian gần đây khi giá vàng trong ngoài nước, tỷ giá ngoại hối  đột ngột tăng cao rồi lại có xu hướng giảm dần thì một câu hỏi đặt ra : liệu đó   NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 3
  4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       có phải là dấu hiệu báo trước của lạm phát tăng cao? Tình hình đó đòi hỏi nhà  nước phải có những quan điểm và giải pháp cẫp vĩ mô cũng như vi mô để kiềm   chế cũng như khắc phục lạm phát .  Chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, từ nền kinh   tế  tập trung sang nền kinh tế  thị  trường theo  định hướng xã hội chủ  nghĩa.  Nhắc đến nền kinh tế thị trường thì vấn đề  lạm phát là một vấn đề  mang tính  tất yếu và khách quan, và muốn được hưởng những lợi ích về vật chất mà nền   kinh tế thị trường có thể mang lại thì chúng ta phải khắc phục và giải quyết cho  được vấn đề lạm phát.   Lạm phát gây ra nhiều tác hại cho nền kinh tế  như  tình trạng khủng  hoảng,công nhân đình công đòi tăng lương,giá nguyên liệu tăng đột biến,thảm  hoạ tự nhiên,chi phí sản xuất tăng…  Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội , lạm phát nổi lên là một vấn đề  đáng quan tâm. Cùng với sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế thì   nguyên nhân dẫn tới lạm phát càng ngày càng phức tạp. Trong nền kinh tế tăng   trưởng nhanh của nước ta luôn thường trực nguy cơ tái lạm phát cao, mà trong   sự  nghiệp phát triển kinh tế  thị  trường  ở  nước ta lại theo định hướng xã hội  chủ  nghĩa có sự  điều tiết của nhà nước thì việc nghiên cứu về  lạm phát,tìm  hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát có vai trò to lớn góp phần  vào sự nghiệp phát triển của đất nước.    Nước ta từ  tháng 12/2007, do tác động của tình hình phát triển kinh tế  chung của hội nhập khu vực và thế giới, chỉ số giá tiêu dùng cho đến nay vẫn ở  mức 2 con số vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép của mỗi quốc gia là 9%. Mặc  dù chính phủ  đưa ra các biện pháp để  kiềm chế  lạm phát song vẫn chưa  ổn   định, giá cả  vẫn  ở mức cao. Tình hình lạm phát năm 2010 và những tháng đầu  năm 2011 đã và đang có nhiều diễn biến trái chiều với sự  dự đoán và có nhều   biến động do ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới cũng như các chính sách  kinh tế trong nước. Tình hình lạm phát  ở  Việt Nam hiện nay là một chủ  đề  cần phải đưa ra  bàn luận , nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn, từ đó có những giải pháp can   thiệp một cách linnh hoạt, hiệu quả   ổn định vĩ mô nền kinh tế  nước ta trong   NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 4
  5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy nghiên cứu lạm phát ở nước ta đang là  một vấn đề cấp thiết hiện nay.  Từ  những lí do trên nên em chọn đề  tài  “  Thực trạng  lạm phát  ở  Việt   Nam từ 2008­2011 và các giải  pháp kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay”. 2.Mục đích nghiên cứu: Đề tài này nhằm mục đích phân tích những nguyên nhân và diễn biến thực   tiễn về  lạm phát của Việt Nam giai đoạn năm 2008­2011, những tác động của  lam phát đến nền kinh tế xã hội, những giải pháp kiềm chế lạm phát ổn định và  phát triển kinh tế  quốc gia, đồng thời đưa ra những dự  báo về  tình hình lạm  phát trong thời gian tới. 3.Đối tượng nghiên cứu:  Xuất phát từ lý do trên, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:   ­ Tìm hiểu một số  lý luận chung về  lạm phát như  khái niệm, phân loại,   nguyên nhân, các tác động của lạm phát,…   ­ Khái quát thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008­2011.    ­ Dựa trên tình hình lạm phát trong giai đoạn này đưa ra những nguyên   nhân, các giải pháp kiềm chế đồng thời xem xét hiệu quả của chính sách kiềm   chế lạm phát tác động như thế nào đối với nền kinh tế.         4. Phạm vi nghiên cứu:   Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân và tác động lạm phát  ở  Việt Nam gian đoạn 2008­2011 và hiệu quả  của chính sách kiềm chế  lạm   phát của chính phủ.  5.Phương pháp nghiên cứu:   Đề tài sử dụng các phương pháp sau để nghiên cứu về lạm phát: Phương pháp tổng hợp Phương pháp phân tích Phương pháp so sánh Phương pháp đối chiếu NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 5
  6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Phương pháp thống kê… 6. Tình hình nghiên cứu: Trong thời gian gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thế  giới thì lạm phát đã và đang trở  thành một vấn đề  mang tính thời sự  cấp bách  đối với nhiều quốc gia. Lạm phát trong thời kì nào thì cũng luôn mang cùng một   bản chất tuy nhiên trong mỗi một thời kì khác nhau của nền kinh tế thì lạm phát   lại có những biểu hiện mới và có những nguyên nhân mới cần phải được xem  xét. Vì vậy tuy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học về  lạm phát  nhưng tôi nghĩ việc tiếp tục nghiên cứu về vấn đề “lạm phát ở Việt Nam” là rất  cần thiết và mang tính cấp thiết hiện nay, từ  đó giúp đưa ra được những giải  pháp nhằm giải quyết tình trạng lạm phát, giúp cho nền kinh tế  phát triển và  tăng trưởng một cách bền vững. 7. Hướng đóng góp của đề tài: Từ việc nghiên cứu các giai đoạn lạm phát từ 2008 đến nay để có cái nhìn  tổng quát hơn về lạm phát ở Việt Nam qua đó đánh giá hiệu quả của các chính   sách mà chính phủ đưa ra từ đó những đề xuất những giải pháp nhằm kiểm soát  và kiềm chế sự gia tăng tỷ lệ lạm phát trong thời gian tới.  8. Cấu trúc đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm có 3 chương: Chương 1: cơ sở lý luận về lạm phát; Chương 2: thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008­2011; Chương 3: các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay. NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 6
  7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT                        1.1. Khái niệm lạm phát:  ­Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền  giấy phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị  của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. ­ Một định nghĩa nữa về  lạm phát do các nhà kinh tế  học hiện đại đưa ra  và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường : "Lạm phát là  sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian" ­ Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ  số  lạm phát. Nó chính là GNP danh  nghĩa/ GNP thực tế. Trong thực tế  nó được thay thế  bằng tỷ  số  giá tiêu dùng   hoặc chỉ số giá bán buôn Ip = aip.d ip: chỉ số giá cả của từng loại nhóm hàng d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng.   ­Trong kinh tế  học, thuật ngữ  “lạm phát” được dùng để  chỉ  sự  tăng lên   theo thời gian của mức giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ  so với thời  điểm một năm trước đó. Như vậy tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách  so sánh giá cả của hai loại hàng hoá vào hai thời điểm khác nhau, với giả thiết  chất lượng không thay đổi.  ­Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức  mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá   giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.        1.2. Phân loại lạm phát:  ­ Thiểu phát: tỷ lệ lạm phát ở mức âm và dễ bi nhầm với giảm phát.  ­ Lạm phát vừa phải: mức lạm phát tương  ứng với tốc độ  tăng giá từ  3   đến 10% một năm, còn gọi là lạm phát một con số. Lạm phát vừa phải làm cho  giá cả  biến động tương đối. Trong thời kỳ  này nền kinh tế  hoạt động bình  thường, đời sống của người lao động  ổn định. Sự   ổn định đó được biểu hiện:  giá cả  tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra với tình trạng   NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 7
  8. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       mua bán và tích trữ  hàng hoá với số  lượng lớn...Có thể  nói lạm phát vừa phải   tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ  trông chờ  vào thu nhập. Trong thời   gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập  ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng  đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.  ­ Lạm phát phi mã: mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá tương đối  nhanh với tỷ  lệ 2 hoặc 3 con số  một năm, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát..  Ở  mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả  chung tăng lên nhanh chóng, gây biến   động lớn về kinh tế , các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ  hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất  bình thường.   Nhìn chung lạm phát thì phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ  gây ra  những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất  giá nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ  cho các giao   dịch hàng ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và  chuyển sang sử  dụng vàng hoặc các ngoại tệ  mạnh để  làm phương tiện thanh  toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải.   ­ Siêu lạm phát: Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát",  tốc độ  lưu  thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực  tế  bị  giảm mạnh, tiền tệ  mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác,   các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối  loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xảy ra. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát. Một định nghĩa cổ điển về  siêu lạm phát do nhà kinh tế ngưười Mỹ  Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát  hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). 1.3. Đo lường lạm phát và các chỉ tiêu đo lường lạm phát:   1.3.1. Đo lường lạm phát:   ­Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của  một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ  trong một nền kinh tế  (thông thường   dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn  lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng  hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả  trung bình, gọi  NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 8
  9. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức   giá trung bình  ở  thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng  tương  ứng  ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số  giá cả  là tỷ  lệ  phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở  thời điểm gốc.   ­Để  dễ  hình dung có thể  coi mức giá cả  như  là phép đo kích thước của   một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.  ­ Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị  của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong  chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện.  Tuy   nhiên   thước   đo   lạm   phát   phổ   biến   nhất   là   CPI­   Chỉ   số   giá   tiêu  dùng( consumer price index) đo giá cả  của một số  lượng lớn các loại hàng hóa  và dịch vụ khác nhau bao gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch vụ y  tế…,được mya bởi “người tiêu dùng thông thường” 1.3.2. Các chỉ tiêu đo lường lạm phát:  ­ Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá   cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số  giá tiêu dùng  (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là  có hay không việc một CPI có thể  cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự  tính.  Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được   điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để  phản ánh những khác biệt trong giá  cả  của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách   rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).   ­ Chỉ  số  giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả  các hàng hóa hay được mua bởi  "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia  công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là  con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được  sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những ng ười lao động mong muốn có  khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI.   Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả  sinh hoạt, nó   ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông   NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 9
  10. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       thường với một tỷ  lệ  chậm hơn so với lạm phát thực tế  (và cũng chỉ  sau khi  lạm phát đã xảy ra).  ­ Chỉ  số  giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được   không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là   sự  trợ  cấp giá, lợi nhuận và thuế  có thể  sinh ra một điều là giá trị  nhận được  bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán.  Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự  tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép   một dự  đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa  trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ  số  là khác  nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ. ­ Chỉ  số  giá bán buôn đo sự  thay đổi trong giá cả  các hàng hóa bán buôn  (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ  số  này rất   giống với PPI.   ­ Chỉ  số  giá hàng hóa đo sự  thay đổi trong giá cả  của các hàng hóa một  cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử  dụng là vàng. Khi nước Mỹ  sử  dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ  số  này bao gồm   cả vàng và bạc.  ­ Chỉ  số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc   nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế  (GDP danh định) với tổng giá   trị  GDP của năm gốc, từ  đó có thể  xác định GDP của năm báo cáo theo giá so   sánh hay GDP thực.  1.4. Nguyên nhân của lạm phát:    ­ Lạm phát do cầu kéo: Kinh tế  học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao   hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ  sinh ra lạm phát. Trong khi đó,  chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu  về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm   phát. Nhiều người có trong tay một khoản tiền lớn và họ  sẵn sàng chi trả  cho   một hàng hoá hay dịch vụ với mức giá cao hơn bình thường. Khi nhu cầu về một  mặt hàng tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của  các mặt hàng khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự  tăng giá của hầu hết các  NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 10
  11. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       loại hàng hoá trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu được gọi là “lạm  phát do cầu kéo”, nghĩa là cầu về một hàng hoá hay dịch vụ ngày càng kéo giá cả  của hàng hoá hay dịch vụ đó lên mức cao hơn.các nhà khoa học mô tả tình trạng   lạm phát này là "quá nhiều tiền đuổi theo quá ít hàng hóa”  ­ Lạm phát do cầu thay đổi: Giả  dụ  lượng cầu về một mặt hàng giảm đi,  trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người   cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng  mà không thể  giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá.  Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả  là mức giá   chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.   ­ Lạm phát do chi phí đẩy:  Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền   lương, giá cả  nguyên liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân,  thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất  của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên. Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên,  thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức  lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền   kinh tế cũng tăng.        ­ Lạm phát do cơ cấu: Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh   nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể  không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo  mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả  sẽ  tăng giá thành sản phẩm.   Lạm phát nảy sinh vì điều đó.  ­ Lạm phát do xuất khẩu: Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn  tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản   phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm   phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.  ­ Lạm phát do nhập khẩu: Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được  mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng  giá như  trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong   nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình   thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên. NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 11
  12. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                        ­ Lạm phát tiền tệ: Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung  ương   mua ngoại tệ  vào để  giữ  cho đồng tiền ngoại tệ  khỏi mất giá so với trong   nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung  ương mua công trái theo yêu cầu của  nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra   lạm phát.  ­ Lạm phát đẻ ra lạm phát: Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính   duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng  hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.  1.5. Tác động của lạm phát: ­ Các hiệu ứng tích cực: Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ  tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ  "dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa  phải làm cho chi phí thực tế  mà nhà sản xuất phải chịu để  mua đầu vào lao   động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất.  Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm. ­ Các hiệu ứng tiêu cực: + Đối với lạm phát dự kiến được: Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể  tham gia vào nền kinh tế  có thể  chủ  động  ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn  gây ra những tổn thất cho xã hội: Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người   giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát  nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó  họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã  dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất  tiện cũng như  thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so   với không có lạm phát.  Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ  dẫn đến giá cả  tăng lên, các  doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm. NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 12
  13. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                         Làm thay  đổi giá tương  đối một cách không mong muốn: trong   trường hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh  chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn  phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ  trở  nên rẻ  tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế  thị  trường   phân bổ  nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình  trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô. Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái   với ý muốn của người làm luật do một số  luật thuế  không tính đến  ảnh  hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân   không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải  nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu  nhập thực tế.  Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để  làm thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước  này co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định   của mình.  + Đối với lạm phát không dự kiến được: Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại   của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín  dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự  kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị  thiệt hại, khi lạm   phát thấp hơn dự  kiến người cho vay sẽ  được lợi còn người đi vay chịu   thiệt hại. lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên  tác   dụng   của   nó   rất   lớn.   Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu   cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát  gây ra là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn   định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của   nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán   rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ  của tất cả  các nước đều tìm cách  chống lại loại lạm phát này. NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 13
  14. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008  ­2011: 2.1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008­2011 Năm 2008  ­ Ty lê lam phat  đang  ̉ ̣ ̣ ́ ở mức cao nhât kê t ́ ̉ ừ năm 1991, khi Viêt Nam găp kho ̣ ̣ ́  ̉ ́ ̣ ̉ ́ ̉ khăn vê tai chinh. Cac chuyên gia canh bao lam phat trong ca năm 2008 co thê lên  ̀ ̀ ́ ́ ́ ̣ ́ ̣ trên 30%, bô Kê hoach ­ Đâu t ̀ ư VN dự đoan con sô lam phat ca năm se vao  ́ ́ ̣ ́ ̉ ̃ ̀ ̉ khoang 25%.   ­Theo thông tin của tổng cục thống kê, chỉ  số  lạm phát khởi điểm năm  2008 với mức chỉ số CPI tháng 1 là 2.38% cho thấy dấu hiệu lạm phát tăng cao   trong năm 2008, lạm phát bắt đầu tăng bất thường vào tháng 3/2008 tăng 2.99%  (tháng 2 tăng 3.56%).  ­Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ tháng này tăng mạnh đẩy giá lên là:   các nhóm hàng lương thực tăng 10.5%, phương tiện đi lại, bưu điện tăng 5.76%,  nhà ở  và vật liệu xây dựng tăng 3.55%, các nhóm hang hóa và dịch vụ  khác chỉ  tăng ở mức 0.3­1.5%.          ­ Chỉ  số giá tiêu dùng tháng 4/2008 đã tăng thấp mức tăng của các tháng  trước nhưng vẫn còn tăng và nhiều mặt hàng đứng  ở  mức giá cao. Giá cả  thị  trường diễn biến phức tạp. Giá tiêu dùng tháng 5/2008 so với tháng trước tăng  3.59% tăng cao nhất trong 5 tháng đầu năm 2008.  ­ Giá tiêu dùng tháng 6/2008 đã tăng chậm lại, ở mức tăng 2.14% so với  tháng trước. Giá tiêu dùng tháng 7 tăng 1.13% so với tháng 6. Thông kê chinh th ́ ́ ức  ước tinh ty lê lam phat cua Viêt Nam  ́ ̉ ̣ ̣ ́ ̉ ̣ ở thang 7 la 27,04%, du ch ́ ̀ ̀ ưa tinh tac đông  ́ ́ ̣ ̉ ̣ cua viêc tăng gia xăng m ́ ới đây. ̉ ̣ ̣ ́ ̉ ̉ ̣ ­Ty lê lam phat cua thang 6 la 26,8%. Tuy nhiên Tông cuc Thông kê VN cho  ́ ̀ ́ ́ ̣ ̃ ̉ ̉ ́ hay tôc đô tăng gia trong thang 7 đa giam, chi sô tiêu dung (CPI) tăng 1,13% so v ́ ́ ̀ ới  tháng 6. Ðây là mức tăng thấp nhất kể từ đầu năm đến nay. ́ ương thực thang 6 giam 0,37% so v ­Gia l ́ ̉ ơi thang 6, vi đang đ ́ ́ ̀ ược mua lua  ̀ ́ ̣ gao. NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 14
  15. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       ̉ ̣ ­Theo Tông cuc Thông kê, các nhóm hàng ăn và d ́ ịch vụ ăn uống, đồ uống và  thuốc lá, may mặc, mũ nón, giầy dép… đêu ti ̀ ếp tục giảm mạnh so với tháng  trươc. ́ ­ Giá tiêu dùng tháng 9 tăng chậm lại một mặt do giá trên thị trường thế giới  của một số hàng hóa nước ta nhập khẩu đã giảm và sản xuất nông nghiệp trong  nước được mùa, nhưng yếu tố quan trọng nhất là do những nổ lực của các cấp  các ngành trong việc thực hiện 8 nhóm giải pháp của chính phủ. Giá tiêu dùng  tháng 12/2008 so với tháng 11 giảm 0.68%. ­Lạm phát thực sự bùng nổ và thực sự gây nên những bất ổn vĩ mô vào năm  2008. Lạm phát đỉnh điểm vào tháng 7 năm 2008 khi lên tới trên 30% (YoY). Kết  thúc năm 2008, lạm phát lùi về còn 19.89%, đây là mức cao nhất trong vòng 17  năm qua. Trong đó CPI của lương thực tăng cao nhất và đạt 49.16%. ­Tháng 5/2008, CPI một tháng tăng gần 4%, đó là thời điểm tăng đột biến  của giá lương thực (CPI lương thực tăng  22.19%). Trước đó tháng 3/2008 lạm  phát cũng tăng 3.56% so với tháng trước. Tính trung bình 6 tháng đầu năm 2008  lạm phát lên tới 2.86% cho mỗi tháng. ­Các chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, các biện pháp kìm chế lạm  phát của chính phủ đồng thời từ tháng 9/2008 khủng hoảng tài chính từ Mỹ bắt  đầu lan rộng ra toàn cầu làm giá cả nhiều mặt hàng giảm mạnh, nhờ đó lạm  phát kể từ tháng 9 đã giảm mạnh so với những tháng trước đó. Liên tiếp 3 tháng  10, 11 và 12/2008 CPI tăng trưởng âm.  Năm 2009 ­Những tháng đầu năm 2009 lạm phát không còn là một vấn đề đáng lo  ngại.Trung bình 7 tháng đầu năm lạm phát chỉ tăng 0.45%/tháng, so với tháng  12/2008 đến tháng 7/2009 lạm phát chỉ tăng 3.22%, trong đó lương thực thực  phẩm giảm 0.33%.              ­ CPI năm 2009 có mức tăng chậm hơn so với các năm trước, không có   những đột biến lớn không bất thường về quy luật. Lạm phát cả năm 2009 được  công bố chính thức là 6.88%. NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 15
  16. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                              ­ Trong tháng 1/2009 CPI lên nhẹ  0.32% chủ yếu do yếu tố tâm lý, người  tiêu dùng chấp nhận giá cao hơn trong tháng giáp Tết Nguyên đán. Sang tháng 2  CPI tăng 1.17% do vào dịp tết và rằm tháng giêng kéo giá lương thục, thực phẩm  và nhiều loại hàng hóa dịch vụ đồng loạt lên mức cao.         ­ Chỉ số giá USD đã tăng 10.7% trong vòng 1 năm, tính đến tháng 12/2009   gây áp lực rất lớn lên giá hàng hóa nhập khẩu và các mặt hàng sử dụng nguyên  liệu nhập khẩu. Biểu đồ 1: Biểu đồ diễn biến CPI năm 2009 Nguồn: Tổng cục thống kê ­Theo quy luật, giá cả  một số  mặt hàng thiết yếu thường tăng giá trước  Tết nguyên đán. Mức tăng này đã đẩy chỉ  số  giá mặt hàng lương thực tháng 12  tăng 6,88% so với tháng trước và tăng 4.57% so với năm 2008.         ­Mặt hàng thực phẩm so với tháng trước không tăng mạnh nhưng so với  năm 2008 lại có mức tăng cao 8,39%.          ­Sức tăng của 2 mặt hàng này đã đưa chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ  ăn uống trong tháng 12 tăng mạnh ở mức 2,06%. So với năm ngoái mức tăng này  NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 16
  17. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       chênh cao 8,71%.         ­Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng bao gồm: tiền thuê nhà ở, điện, nước,  chất đốt và vật liệu xây dựng tháng 12 cũng tăng ở mức 1,4%. So với năm 2008,  mức tăng này thấp hơn so với một số nhóm hàng khác.         ­Nhóm đồ uống, thuốc lá tăng 0,97%, nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép  tăng 0,81%. Một số nhóm khác có mức tăng không cao, đạt ở mức từ 0,07 đến  0,25% như nhóm văn hoá, giải trí, thiết bị và đồ dùng gia đình. ­Trong 11 nhóm hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu, trong tháng 12 và cả  năm 2009 nhóm Bưu chính viễn thông lại giảm 0,11%. ­Riêng chỉ số giá vàng trong tháng qua đã tăng cao 10,49%, đưa cả năm tăng   19,16% so với năm 2008. Chỉ  số  đô la Mỹ  tháng 12 tăng 3,19% đưa con số  cả  năm 2009 lên 9,17% so với năm 2008. Mức tăng này cũng đã được các chuyên  gia dự báo ngay từ đầu năm. Tuy nhiên với những chính sách bình ổn hiện nay,   dự báo chỉ số giá vàng sẽ nằm trong vòng ổn định hơn trong những tháng tới. ­Một số  chuyên gia nhận định, chỉ  số  giá năm 2009 đang nằm trong mức   như mong đợi, tuy nhiên vẫn còn một số lo ngại bởi, so với cùng kỳ năm ngoái  một số mặt hàng thiết yếu vẫn đang có xu hướng tăng cao, từ 8,53 đến 9,56%. Diễn biến làm phát hàng tháng năm 2009 NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 17
  18. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       ­Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008­2009 đã góp phần làm giảm lạm phát  ở  Việt Nam từ cuối năm 2009, giá quốc tế giảm cùng với tổng cầu giảm đã giúp  Việt Nam đảo ngược xu thế đáng ngại so với năm 2008. Năm 2010  ­Diễn biến CPI năm 2010 tạo bởi mức chênh lệch giữa tháng tăng đỉnh và   đáy lên đến hơn 1.5%, khá tương đồng với năm 2007. Hai điểm tăng cao nhất   được tạo thành từ mức tăng xấp xỉ 2% của tháng 2 và tháng 12.  ­ Tết Canh dần rơi vào đầu tháng 2/2010  các mức tăng CPI hai tháng đầu   năm đều trên 1% và tiến gần 2%, nhưng khác biệt trong năm nay lại rơi vào  tháng 3 khi chỉ số giá tiêu dùng không giảm mạnh như các năm trước. Trong tháng 3 bắt đầu có những đột biến:   + NHNN công bố tỷ giá VND/ USD tăng 2% ở mức giá trần là 19.000   + Đồng loạt áp dụng từ  ngày 1/3: giá than bán cho điện tăng đến 47% tùy  loại, giá điện tăng 6,8%, giá nước sạch tại Tp.HCM tăng khoảng 50%.   + Một tác động khác gây ảnh hưởng lớn đến giá cả  và tâm lý người dân,  ngay trước ngày các viên chức trở  lại làm việc sau kỳ  nghỉ  Tết kéo dài, trưa  21/2, giá xăng đột ngột được điều chỉnh tăng khoảng 3,6%.   +Tiếp theo các diễn biến này, gas, xi măng, sắt thép… cũng kéo nhau tăng  giá.    + Ngay sau đó, từ  ngày 15/3 những thông tin về  khả  năng CPI tháng sau  Tết tăng cao đã được một số  nguồn tin dự  báo sớm. Con số  chính thức sau đó  chốt lại mức tăng 0,75%, chỉ  kém năm 2008 đột biến nhưng tương đương năm  2004 và 1996.    ­Mục tiêu được Chính phủ  đặt ra lúc này là ổn định nền kinh tế, đặc biệt  là kiềm chế lạm phát, tăng trưởng cung tiền cả năm giới hạn ở 20% so với cuối  năm 2009; tăng trưởng tín dụng 25%.  ­ Trái với suy luận trong khoảng 5 tháng từ tháng 4 đến tháng 8, chỉ số giá   tiêu dùng liên tục tăng rất thấp, về  gần sát mức 0% (tháng 7 chỉ  tăng 0,06% so  với tháng 6). Xét về  cao độ, các mức tăng này lập kỷ  lục về  độ  thấp kể  từ  2004. NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 18
  19. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                          + Sức mua tăng đột ngột thể hiện ở tổng mức bán lẻ đi lên trong tháng 4   và đến tháng 5 đạt mức tăng gần 27% so với cung kỳ.     + Mức tăng trưởng đi xuống dầnvà đến tháng 10/2010, giá trị  sản xuất   công nghiệp đã giảm 3,4% so với tháng 9.   ­ Trong 4 tháng cuối năm, chỉ số giá tiêu dùng liên tục duy trì ở mức cao.   Có tới 3 tháng đạt kỷ lục về cao độ, cho thấy sức nóng của lạm phát đã ở gần.    + Ngày 9/8, giá xăng dầu sau một thời gian dài được giữ cố định đã điều   chỉnh tăng lên khoảng 2,5%, đẩy CPI tháng 9 vào vòng thử thách mới.     + ngày 18/8, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh tỷ  giá bình quân   liên ngân hàng giữa VND với USD lên mức 18.932 VND (tăng gần 2,1%) và giữ  nguyên biên độ tỷ giá +/­3%.    + Đại lễ 1000 năm Thăng Long ­ Hà Nội kéo dài 10 ngày cũng ảnh hưởng  không nhỏ  đến chỉ  số  giá tiêu dùng tháng 10. Lại thêm lũ lụt diễn ra liên miên  tại miền Trung kéo dài thêm chuỗi tác động đến chỉ  số  giá tiêu dùng giai đoạn  cuối năm.    + Khoảng trung tuần tháng 10, thị  trường lại ghi nhận các đợt leo thang  của giá vàng và USD, trong bối cảnh xu hướng CPI đã bắt đầu tăng cao.    + Chính sách tiền tệ đã nới lỏng hơn, giá trị sản xuất công nghiệp tháng  11 đã tăng 4,9% so với tháng 10 và dự kiến tháng 12 này con tăng khoảng 6% so   với tháng trước. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến cũng giảm dần về  mức 28% tăng hơn so với cùng kỳ.    +Lạm phát dự báo vẫn ở mức thấp trong bối cảnh dư thừa năng lực sản  xuất và tỉ lệ thất nghiệp cao. Sự phục hồi giá cả hàng hóa đã làm tăng chỉ số giá   tiêu dùng trên phạm vi toàn cầu.  Ước tính lạm phát của các nước phát triển sẽ  tăng lên mức 1,4% trong năm 2010 so với mức 0,1% trong năm 2009; lạm phát  tại các nước mới nổi và đang phát triển ở mức 6,2% so với mức 5,2% của năm   2009; tại các nước đang phát triển châu Á, lạm phát dự kiến tăng lên mức 6,1%  so với mức 3,1% của năm 2009 (biểu đồ 3)   Lạm phát tại các nước phát triển, các nước mới nổi và đang phát  triển, các nước châu Á đang phát triển và Việt Nam (binh quân năm ̀ )  NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 19
  20. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC                                       Nguồn: World Economic Outlook, IMF, 10/2010 ­Trong năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng tăng 11,75% so với tháng 12/2009, vượt   xa chỉ tiêu lạm phát Quốc hội thông qua đầu năm là không quá 7% và mục tiêu   Chính phủ  điều chỉnh là không quá 8%. Trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ  ăn   uống tăng 16,18%, với quyền số  39,93%, nhóm này đã đóng góp vào mức tăng  chung của chỉ  số  CPI khoảng 6,46%, hơn một nửa mức tăng CPI của cả  năm.  Tiếp đến là nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt, VLXD, tăng 15,74%, với quyền  số 10,01%, nhóm này góp phần làm tăng chỉ số chung khoảng 1,57%. Nhóm giáo  dục có mức tăng cao nhất 19,38%, với quyền số  không lớn là 5,72%, nhưng   nhóm này đã đóng góp mức tăng khoảng 1,1% vào mức tăng chung của chỉ  số  CPI. NGUYỄN THỊ KIM SỮA Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2