intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Lạm phát tại Việt Nam thực trạng, nguyên nhân và biện pháp khắc phục từ năm 2009-2013

Chia sẻ: Nguyễn Đỗ Quyên | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:15

185
lượt xem
51
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này trình bày các nội dung sau: thực trạng lạm phát tại Việt Nam từ năm 2009-2013, nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam, những biện pháp khắc phục lạm phát tại Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo để nắm kiến thức cụ thể.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Lạm phát tại Việt Nam thực trạng, nguyên nhân và biện pháp khắc phục từ năm 2009-2013

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN<br /> ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH THÁI NGUYÊN<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> BÀI THẢO LUẬN<br /> Lạm phát tại Việt Nam: thực trạng, nguyên nhân và biện pháp khắc  <br /> phục từ năm 2009 ­ 2013<br /> Môn: Tài chính tiền tệ<br /> I.  Thực trạng lạm phát tại Việt Nam từ năm 2009 ­ 2013<br /> <br /> 1. Thực trạng lạm phát năm 2009<br /> Chốt lại năm 2009, lạm phát tháng 12 cao hơn 6,52% so với cùng kỳ; lạm phát <br /> bình quân 12 tháng năm 2009 so với cùng kỳ  năm 2008 cao h ơn 6,88%. Như  vậy, <br /> Chính phủ đã kiềm chế lạm phát thành công, ở mức dưới 7%.<br /> Nhìn lại diễn biến CPI trong 12 tháng của năm 2009, Tổng cục Thống kê cho <br /> rằng, tính quy luật diễn biến giá tiêu dùng hàng tháng đã diễn ra (quy luật này thường <br /> xác lập trong những năm nền kinh tế phát triển ổn định, nh ư các năm 2006, hay 2007 <br /> trước đó). Cụ thể, giá hàng hóa, dịch vụ thường tăng cao trong hai tháng đầu năm do <br /> ảnh hưởng của Tết Nguyên đán, sau đó giảm trong tháng 3 rồi tăng nhẹ  từ  tháng 4  <br /> đến tháng 10, hai tháng cuối năm giá tăng khá cao do áp lực tăng chi tiêu dùng và đầu  <br /> tư xã hội.<br /> Tuy nhiên, việc CPI tháng 12/2009 tăng mạnh, trước thời điểm Tết Nguyên đán <br /> tới 2 tháng, là diễn biến sớm so với nhiều năm tr ước. Nguyên nhân có thể do kỳ vọng <br /> về một quy mô thị trường tiêu thụ lớn dịp Tết Nguyên đán, đang khiến nhiều nguồn <br /> hàng tiêu dùng thiết yếu bị “găm” lại để chờ thời.<br /> Trở  lại với diễn biến giá cả  tháng 12/2009, động lực mạnh mẽ  nhất thúc đẩy <br /> CPI tăng mạnh đến từ  mặt hàng lương thực, với mức tăng tới 6,88%. Được sự  tiếp <br /> sức của hàng thực phẩm (tăng 0,89%) và ăn uống ngoài gia đình (tăng 0,69%), nhóm  <br /> hàng ăn và dịch vụ ăn uống “cầm cờ” trong các nguyên nhân tác động đến CPI tháng <br /> 12/2009, với mức tăng tới 2,06%.  Dù quyền số  thấp hơn nhưng mức tăng cao hơn, <br /> nhóm giao thông tháng 12 xác lập mức tăng cao nhất, với 2,47%. Nguyên nhân chủ <br /> yếu đến từ đợt tăng giá xăng dầu cuối tháng 11/2009.<br /> Những hàng hóa, dịch vụ có chu kỳ tăng cuối năm cũng đang rục rịch tăng giá. <br /> Chỉ số  giá nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng tháng này cũng tăng mạnh tới 1,4% do giá <br /> sắt thép, vật liệu xây dựng tiếp tục xu h ướng tăng và thị trường bước vào mùa hoàn <br /> thiện công trình xây dựng. Tương tự là nhóm đồ uống, thuốc lá tăng tới 0,97%; nhóm <br /> may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,81%; các nhóm còn lại tăng không nhiều trong  <br /> tháng 12/2009. Trong 11 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu, duy nhất chỉ số <br /> giá tháng 12/2009 nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,11% so với tháng trước đó. <br /> Trong một tháng, chỉ số  giá vàng đã tăng 10,49%; chỉ số giá USD tăng 3,19%. So với  <br /> một năm trước, các con số tương ứng là 64,32% và 10,7%. Bình quân cả năm 2009 so <br /> với năm 2008 tương ứng tăng 19,16% và 9,17%.<br /> CPI tháng 12/2009 đã đạt mức tăng cao nhất so với các tháng trong năm nay. <br /> Trước đó, kỷ  lục thuộc về  tháng 2 với mức tăng 1,17%.  Xu thế  tăng chỉ  số  giá xác <br /> lập từ tháng trước, nay đã được khẳng định (tháng 11 chỉ tăng 0,55%; tháng 10/2009 <br /> tăng nhẹ  0,37%...). Một số  nhận định cho rằng, CPI dường như đang bước vào giai <br /> đoạn tăng tốc nước rút cuối năm âm lịch. Đồng quan điểm này, Tổ  thị  trường trong <br /> nước (Bộ  Công Thương) trước đó cho rằng, việc giá cả  hàng hoá thế  giới tiếp tục <br /> tăng ở mức cao cùng với việc điều chỉnh tỉ giá USD/VND đã tác động tới nhiều loại  <br /> hàng hoá nhập khẩu, hoặc phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu.<br /> Trong khi đó, tác động của tăng giá xăng dầu cuối tháng 11 cũng làm "đội giá"  <br /> cước vận tải, vận chuyển và các hàng hoá khác; lãi suất c ơ bản tăng từ 7 lên 8% áp <br /> dụng từ  1/12 cũng tác động tới lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng  <br /> thương mại, ảnh hưởng tới chi phí vốn của doanh nghiệp.  Ngoài ra, giá gạo, đường, <br /> thịt tươi sống, thủy sản, hàng may mặc, vật liệu xây dựng… vẫn trong xu h ướng <br /> tăng, cũng là nguyên nhân đẩy chỉ  số  giá tăng  ở  nhiều tỉnh, thành phố  trên cả  n ước. <br /> Về  nguyên nhân tiền tệ, những con số  mới nhất cho biết, tăng trưởng tín dụng năm <br /> 2009 đã tăng 37,73%.<br /> Năm 2009 khép lại với mức tăng CPI trong vòng kiểm soát, nhưng gạo và xăng <br /> dầu, hai mặt hàng có quyền số  lớn trong rỏ  hàng hóa, dịch vụ  tính CPI vẫn luôn là  <br /> yếu tố bất định trong năm 2009.<br /> 2. Thực trạng lạm phát năm 2010<br /> Theo tin từ  Tổng cục thống kê, chỉ  số  tiêu dùng (CPI) tháng 12/2010 của cả <br /> nước tăng 1,98%, qua đó đẩy mức lạm phát  năm của cả  nước 2010 lên 11,75% so <br /> với năm 2009. Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu <br /> năm 2010 (khoảng 8%). Trong khi đó, nếu tính bình quân theo từng tháng (cách tính <br /> mới của Tổng cục thống kê), chỉ số lạm phát năm 2010 tăng 9,19% so với năm 2009.<br /> Trong tháng 12, CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ  ăn uống tăng 3,31% trong đó  <br /> nhóm lương thực tăng 4,67%, thực phẩm tăng 3,28% so với tháng 11. Ngành bưu <br /> chính viễn thông giảm nhẹ 0,02% so với tháng trước.<br /> Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%. Tiếp đó là  <br /> hàng ăn (16,18%), nhà  ở  ­ vật liệu xây dựng (15,74%). Các ngành Giao thông, hàng  <br /> hóa & dịch vụ khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn thông là <br /> nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010.  Trong năm 2010, chỉ <br /> số  giá vàng tăng 36,72%, chỉ  giá USD tăng 7,63%. Về  CPI của các vùng miền, đáng <br /> chú ý là chỉ số  CPI khu vực nông thôn tháng 12 tăng 2,04%;  cao h ơn 1,87% của khu <br /> vực thành thị.<br /> 3. Thực trạng lạm phát năm 2011<br /> Mức tăng CPI từ  tháng 1 đến tháng 12/2011  ở  Việt Nam được thể  hiện trong  <br /> bảng sau:<br /> Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12<br /> Mức tăng CPI (%)1,74 2,09 2,17 3,32 2,21 1,09 1,17 0,93 0,82 0,36 0,39 0,53<br /> ­ Tháng 1/2011: So với tháng 12/2010, CPI cả  nước tháng 1/2011 tăng 1,74%. <br /> So với tháng 1/2010, CPI tháng 1 năm 2011 tăng 12,17%. Những nhóm hàng có CPI  <br /> tăng mạnh so với tháng 12/2010 gồm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, nhóm hàng giáo dục <br /> và nhóm hàng đồ uống, thuốc lá.<br /> ­ Tháng 2/2011: CPI tháng 2/2011 tăng 2,09% so với tháng trước. So với cùng <br /> kỳ  2010, CPI tháng 2 tăng 12,31% và tăng 3,87% so với tháng 12/2010. Hàng ăn và  <br /> dịch vụ ăn uống là nhóm hàng có chỉ số giá tăng nhanh nhất là 3,65%.<br /> ­ Tháng 3/2011: CPI tháng 3/2011 tăng 2,17% so với tháng 2, và tăng 6,12% so  <br /> đầu năm và tăng 13,89% so với cùng kỳ năm trước. CPI tháng 3 có mức tăng cao nhất <br /> kể từ tháng 6/2008. Mức tăng cao nhất thuộc về nhóm giao thông với mức tăng 6,69%  <br /> do chịu tác động mạnh của đợt điều chỉnh giá xăng dầu.<br /> ­ Tháng 4/2011: So với tháng 3/2011, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tháng 4 <br /> tăng 3,32%. Nhóm hàng giao thông có mức tăng lớn nhất 6,04%. Nguyên nhân chính là <br /> giá xăng dầu tăng mạnh gây áp lực tăng giá ở nhóm hàng này.<br /> ­ Tháng 5/2011: So với tháng 4/2011, CPI cả nước tháng 5 tăng 2,21%. Trong số <br /> 11 nhóm hàng tính giá chỉ có nhóm Bưu chính viễn thông là giảm so với cùng kỳ với <br /> mức giảm 1,68%. Nhóm hàng có mức tăng giá mạnh nhất là nhà  ở  và vật liệu xây <br /> dựng (nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng) với mức tăng 3,19%.<br /> ­ Tháng 6/2011: So với tháng 5/2011, CPI cả  nước tháng 6 tăng 1,09% – mức <br /> thấp nhất trong 6 tháng đầu năm 2011. Tăng mạnh nhất là nhóm hàng ăn và dịch vụ <br /> ăn uống với mức tăng 1,79%.<br /> ­  Tháng 7/2011: so với tháng 6/2011, CPI cả  nước tháng 7 tăng 1,17%, tăng <br /> 14,61% so với tháng 12/2010 và tăng 22,16% so với tháng 7/2010. Tăng mạnh nhất  <br /> vẫn là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống với mức tăng 2,12%.<br /> ­  Tháng 8/2011: So với tháng 7/2011, CPI cả  nước tháng 8 tăng 0,93%, tăng <br /> 17,64% so với cùng kỳ năm 2010 – đây là tháng có mức tăng thấp nhất trong 12 tháng  <br /> qua kể  từ tháng 8/2010. Nhóm có mức tăng mạnh nhất vẫn là nhóm hàng ăn và dịch  <br /> vụ ăn uống với 1,35%.<br /> ­  Tháng 9/2011: So với tháng 8/2011, CPI cả  nước tháng 9 tăng 0,82%, tăng <br /> 22,42% so với tháng 9/2010. Nhóm có mức tăng cao nhất là giáo dục.<br /> ­ Tháng 10/2011: So với tháng 9/2011, CPI cả  nước tháng 10 tăng 0,36%, tăng <br /> 21,59% so với tháng 10/2010. Nhóm tăng mạnh nhất là giáo dục với mức tăng là  <br /> 3,2%.<br /> ­  Tháng 11/2011: so với tháng 10/2011, CPI cả  nước tháng 11 tăng 0,39%, so <br /> với đầu năm 2011 tăng 17,5%. Nếu so với cùng kỳ năm 2010, CPI 11 tháng đầu năm <br /> 2011 tăng 18,62%. Nhóm hàng có mức tăng giá mạnh nhất là nhóm hàng may mặc, mũ <br /> nón, giày dép với 0,65%.<br /> ­ Tháng 12/2011: So với tháng 11/2011, CPI cả nước tháng 12 tăng 0,53%, đẩy <br /> CPI cả  nước tháng 12/2011 tăng 18,13% so với tháng 12/2010. Nhóm may mặc, mũ <br /> nón, giày dép tăng mạnh nhất với mức tăng 0,86%.<br /> Theo số  liệu của Tổng cục Thống kê thì tỷ  lệ  lạm phát cả  năm 2011 lên tới <br /> 18,58% với 4 nhóm mặt hàng có mức tăng mạnh nhất bao gồm: l ương thực và thực <br /> phẩm (24,8%), giáo dục (20,41%), phương tiện đi lại (19,04%) và nhà  ở  và vật liệu  <br /> xây dựng (17,29%). Trong đó, đáng chú ý nhất là nhóm lương thực và thực phẩm, nếu <br /> loại trừ nhóm này thì CPI chỉ tăng khoảng 7,8% trong năm 2011.<br /> Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư do Bộ trưởng Bùi Quang Vinh trình <br /> bày tại Hội nghị Chính phủ mở rộng ngày 22/12/2011 thì tính cả năm 2011, chỉ số giá <br /> tiêu dùng (CPI) bình quân đã tăng 18,12%. Bộ tr ưởng đánh giá, CPI năm 2011 chủ yếu <br /> tăng cao trong những tháng đầu năm và giảm dần trong những tháng cuối năm. Trong  <br /> 4 tháng cuối năm, CPI có dấu hiệu giảm tốc, chỉ tăng dưới 1% mỗi tháng và tháng sau <br /> thấp hơn tháng trước.Trong kỳ  họp cuối năm 2010, Quốc hội đã thông qua chỉ  tiêu  <br /> CPI năm 2011 không quá 7%. Đến giữa năm 2011, trước tình hình lạm phát tăng cao, <br /> Chính phủ đã đề nghị nới lỏng chỉ tiêu CPI cả năm lên không quá 17%, tuy nhiên cả <br /> năm 2011 thì chỉ số CPI bình quân đã tăng v ượt mục tiêu ban đầu đã được Quốc hội <br /> phê chuẩn.<br /> Tháng 5/2011, Liên Hợp Quốc đã nhận định Việt Nam là một trong 5 quốc gia  <br /> có tỉ lệ lạm phát cao nhất thế giới. Nhưng so với cùng kì năm 2008 khi mức lạm phát <br /> lên đến 28,3 % và thời kì siêu lạm phát vào thập kỉ 80 (năm 1886 tỷ  lệ  lạm phát lên <br /> đến 775%) thì mức lạm phát trong tháng 8/2011 ở Việt Nam vẫn còn thấp hơn nhiều.<br /> 4. Thực trạng lạm phát năm 2012<br /> Như  dự  báo trước của nhiều tổ  chức, lạm phát của Việt Nam năm 2012 chỉ <br /> tăng 6,81%, thấp hơn nhiều so với ngưỡng dưới 10% mà Chính phủ đặt mục tiêu.<br /> Theo công bố của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 năm <br /> nay tăng 0,27% so với tháng 11 và tăng 6,81% so với tháng 12/2011. CPI bình quân  <br /> năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân năm 2011.<br /> Tháng 12 so với tháng 11, nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng mạnh nhất, tới  <br /> 1,17%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng cao h ơn mức tăng chung nhưng cũng <br /> đều dưới 1% là thiết bị  và đồ  dùng gia đình tăng 0,59%, văn hóa, giải trí và du lịch <br /> tăng 0,34%, đồ  uống và thuốc lá tăng 0,32%. Nhóm có tỷ  trọng lớn nhất trong “rổ”  <br /> hàng hóa tính CPI là hàng ăn và dịch vụ ăn uống chỉ tăng khiêm tốn là 0,28% (Lương <br /> thực tăng 0,13%; thực phẩm tăng 0,28%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,4%).  Những <br /> nhóm hàng “nhạy cảm”, vốn tác động mạnh tới CPI trong nhiều tháng tr ước thì ở <br /> tháng này, lại tăng thấp hơn cả mức tăng chung. Đó là nhà ở và vật liệu xây dựng chỉ <br /> tăng 0,15%, nhóm giáo dục tăng 0,09% trong đó, dịch vụ giáo dục tăng 0,05%, nhóm <br /> giao thông giảm 0,43%... Sau 2 tháng liên tiếp tăng kỷ lục tới 10­20%, Chính phủ yêu <br /> cầu giãn thời gian tăng giá viện phí thì các thuốc và dịch vụ y tế chỉ còn tăng 0,14%, <br /> trong đó, dịch vụ y tế tăng 0,03%.<br /> Nhìn lại năm 2012, Tổng cục Thống kê đánh giá, lạm phát năm nay chỉ “nhỉnh” <br /> hơn mức tăng 6,52% của năm 2009 – năm suy giảm kinh tế mạnh và thấp hơn nhiều <br /> so với mức tăng 11,75% của năm 2010 và mức tăng 18,13% của năm 2011.<br /> 5. Thực trạng lạm phát năm 2013<br /> Theo Tổng cục Thống kê, CPI trong sáu tháng đầu năm 2013 tăng 2,4% và là <br /> mức tăng CPI thấp nhất so với cùng kỳ trong 10 năm qua.<br /> CPI tháng 7­2013 chỉ tăng 0,27% so với tháng trước và tăng 2,68% so với tháng <br /> 12­2012, chủ  yếu do  ảnh hưởng bởi giá xăng dầu được điều chỉnh tăng hai đợt vào  <br /> ngày 14­6­2013 và ngày 28­6­2013, làm chỉ số giá nhóm này tăng 2,38% so với tháng <br /> trước, đóng góp vào chỉ số giá chung 0,09%.<br /> CPI tháng 8­2013 tăng 0,83% so với tháng trước; tăng 3,53% so với tháng 12­<br /> 2012 và tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân tám tháng đầu năm nay  <br /> tăng 6,90% so với bình quân cùng kỳ năm 2012.<br /> Các nhóm hàng hóa và dịch vụ  có chỉ  số  giá tăng cao hơn mức tăng chung là: <br /> Thuốc và dịch vụ y tế tăng 4,11% (dịch vụ y tế tăng 5,09%); giao thông tăng 1,11%;  <br /> giáo dục tăng 0,9% (dịch vụ  giáo dục tăng 0,86%); nhà  ở  và vật liệu xây dựng tăng  <br /> 0,88%.<br /> Các nhóm hàng hóa và dịch vụ  còn lại có chỉ  số  giá tăng thấp hơn mức tăng  <br /> chung hoặc giảm gồm: Hàng ăn và dịch vụ  ăn uống tăng 0,54% (lương thực tăng  <br /> 0,7%; thực phẩm tăng 0,62%); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,44%; hai nhóm đồ <br /> uống và thuốc lá và văn hóa, giải trí và du lịch đều tăng 0,27%; thiết bị và đồ dùng gia  <br /> đình tăng 0,22%; bưu chính viễn thông giảm 0,02%.<br /> Chỉ số giá đô­la Mỹ tháng 8/2013 tăng 0,06% so với tháng trước; tăng 1,59% so  <br /> với tháng 12/2012; tăng 1,63% so với cùng kỳ năm 2012. Chỉ số giá vàng tháng 8/2013  <br /> tăng 0,32% so với tháng trước; giảm 20,17% so với tháng 12/2012; giảm 13,43% so  <br /> với cùng kỳ năm trước.<br /> Ngân hàng Nhà nước cho biết, kết quả cuộc điều tra kỳ vọng lạm phát của các  <br /> tổ chức tín dụng cho thấy, các tổ chức này kỳ vọng CPI tháng 12/2013 chỉ tăng 0,62%  <br /> so với tháng 11/2013, cao hơn mức tăng cùng kỳ 2 năm trước (0,27% tháng 12/2012 và  <br /> 0,53% tháng 12/2011). Theo nhận định của Ngân hàng Nhà nước, đến nay, có thể nói <br /> mục tiêu kiềm chế lạm phát trong năm 2013 gần như đã thành hiện thực theo chỉ tiêu  <br /> đề ra.<br /> Với tốc độ  tăng CPI thực tế  trong 11 tháng vừa qua cùng với mức kỳ  vọng <br /> 0,62% trong tháng 12/2013, lạm phát cả năm 2013 có khả năng đạt khoảng 6,15% và <br /> vẫn nằm trong tầm kiểm soát của Chính phủ.<br /> II. Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam<br /> <br /> 1. Nguyên nhân bên trong<br /> ­  Thứ  nhất, do tốc độ  tăng trưởng tín dụng quá cao nhưng chất lượng thấp. <br /> Trong giai đoạn 2007­2009 tốc độ tăng trưởng tín dụng trung bình đạt mức 25 – 30%, <br /> đặc biệt năm 2009 khi Chính phủ thực hiện gói kích cầu trị giá gần 08 tỷ USD để đối  <br /> phó  với  cuộc khủng hoảng tài  chính  – tiền tệ  trên thế  giới,  trong  đó  nổi bật là <br /> chương trình cho vay hỗ  trợ  lãi suất 4% trị  giá 17.000 tỷ  VNĐ (01 tỷ  USD), thì chỉ <br /> riêng gói HTLS này đã đưa hơn 400.000 tỷ  VNĐ vào lưu thông. Đầu tư của toàn xã <br /> hội cũng duy trì mức trên 40% GDP trong giai đoạn 2005 – 2009. Mặc dù có tốc độ <br /> tăng trưởng tín dụng và đầu tư toàn xã hội ở mức khá cao so với nhiều quốc giá khác  <br /> tuy nhiên tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn này chỉ trung bình ở mức 6 <br /> – 7%.<br /> ­ Thứ hai, do đầu tư công dàn trải và thiếu hiệu quả. Đây là nguyên nhân sâu xa  <br /> gây ra thực trạng lạm phát như hiện nay. Theo thống kê mỗi năm Việt Nam đầu t ư <br /> công khoảng 17­20% GDP, trong khi các nước trong khu vực chỉ dưới 5% như Trung <br /> Quốc 3,5%, Indonesia 1,6%. Tuy nhiên hiệu quả đầu tư công của Việt Nam hiện còn <br /> rất kém, điển hình như  hoạt động thua lỗ  của Vinashin, công ty cho thuê tài chính <br /> VFII…<br /> ­  Thứ  ba, do tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt th ương mại diễn ra <br /> trong thời gian dài: Trong giai đoạn 2005 – 2010 liên tục gia tăng từ mức 7,1 nghìn tỷ <br /> năm 2005 lên mức 115.900 tỷ  đồng năm 2009 và mức 69 nghìn tỷ  năm 2010; nhập  <br /> siêu cũng gia tăng mạnh từ  mức 4,3  ỷ  USD lên mức 12,2 tỷ  USD năm 2009 và  ước <br /> xấp xỉ 12,4 tỷ USD năm 2010. Nhập siêu trong 5 tháng đầu năm 2011 đã lên đến 6,4  <br /> tỷ USD.<br /> ­ Thứ  tư, do sản xuất trong nước chưa đủ  cho đầu tư và tiêu dùng cuối cùng, <br /> hay đầu tư  và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10% hàng năm, phải <br /> nhập siêu, phải vay nợ từ nước ngoài để bù đắp. Khi tổng cầu vượt quá tổng cung thì <br /> Việt Nam không chỉ  ở  vị  thế  nhập siêu, mà còn rất dễ  rơi vào lạm phát cao, nếu có <br /> sự  bất  ổn  ở  bên ngoài (khủng hoảng, lạm phát…) và có trục trặc  ở  bên trong (thiên <br /> tai, dịch bệnh, bất  ổn vĩ mô…). Vốn đầu tư/GDP gia tăng từ  34,9% trong thời kỳ <br /> 1996­2000 lên 39,1% trong thời kỳ 2001­2005 và lên 43,5% trong thời kỳ 2006­2010.  <br /> Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam đã tăng tương  ứng từ  71,1% thời kỳ 2001­<br /> 2005 lên 72,2% thời kỳ  2006­2010. Đây là tỷ  lệ  cao so với một số  n ước (năm 2009 <br /> của Việt Nam là 72,8%, trong khi của Brunei là 47%, Trung Quốc 48,7%, Singapore <br /> 52,4%, Malaysia 64%, Indonesia 68,2%, Thái Lan 68,3%,  Ấn Độ  69,6%, Hàn Quốc <br /> 70,3%…). Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do  <br /> quy mô GDP bình quân đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu h ướng tăng <br /> lên; nhưng có một phần do đã xuất hiện tình trạng “ăn ch ơi sớm” và chuộng hàng <br /> ngoại của một bộ phận dân cư.<br /> ­ Thứ năm, do năng suất lao động xã hội của Việt Nam còn thấp: Năng suất lao  <br /> động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,3 triệu đồng/ng ười, chỉ tương đương với <br /> 2.067 USD, thấp xa so với các con số  tương  ứng của một số  nước (năm 2008 của <br /> Nhật Bản 73.824 USD, Brunei 72.500 USD, Singapore 62.724 USD, Hàn Quốc 38.235  <br /> USD, Malaysia 17.718 USD, Thái Lan 6.915 USD, Trung Quốc 5.460 USD, Indonesia  <br /> 4.597 USD, Philippines 4.535 USD, Ấn Độ 2.706 USD…).<br /> ­ Thứ sáu, do tình trạng vàng hóa và Đô la hóa khá cao, đã tác động tiêu cực đối  <br /> với lạm phát trên 4 mặt sau: (1) Hút vào đây một lượng vốn lớn của xã hội mà không <br /> được đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm để cân đối với tiền; <br /> (2) Vàng và USD trở  thành phương tiện thanh toán, làm cho tổng phương tiện thanh <br /> toán tăng lên; (3) Giá vàng trong nước biến động, nhiều lần cao hơn giá vàng thế giới, <br /> tác động tới nhập lậu, kéo tỷ  giá biến động theo. Khi giá vàng và tỷ  giá tăng cao lại  <br /> tác động đến tâm lý, đến lòng tin vào đồng nội tệ…; (4) Tỷ giá tăng tuy khuyến khích <br /> xuất khẩu, nhưng lại làm khuyếch đại lạm phát  ở  trong nước và đây là yếu tố  lạm <br /> cho lạm phát của Việt Nam cao hơn lạm phát của thế giới; làm tăng nợ quốc gia khi <br /> tính bằng VND.<br /> 2. Nguyên nhân bên ngoài<br /> ­ Thứ nhất, do giá cả trên thế giới tăng: do bất  ổn chính trị tại Bắc Phi, Trung <br /> Đông và một số nơi khác trên thế giới làm giá cả nhiều mặt hàng nguyên, nhiên, vật <br /> liệu quan trọng cho sản xuất tăng liên tục trong những tháng cuối năm 2010 và 4 <br /> tháng đầu năm 2011, nhất là xăng dầu, sắt thép, nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn <br /> nuôi, nguyên liệu sữa… đã tác động đến giá đầu vào sản xuất trong nước.<br /> Ngoài ra, giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ  quá trình <br /> biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm <br /> tăng trưởng kinh tế  mạnh trên thế  giới – là những năm quá trình công nghiệp hoá <br /> được đẩy mạnh khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất  <br /> cả  những điều trên làm sản lượng lương thực – thực phẩm ngày càng giảm mạnh. <br /> Ngoài ra, giá năng lượng tăng cao đã khiến nhiều nước sử  dụng một sản lượng lớn <br /> ngũ cốc chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm cho nguồn cung lương <br /> thực đã giảm càng giảm sút. Có thể thấy, giá thế  giới tăng sẽ  làm cho chi phí đẩy ở <br /> trong nước tính bằng VND tăng kép: vừa tăng do đơn giá tính bằng USD tăng, vừa  <br /> tăng do tính bằng VND tăng.<br /> ­ Thứ  hai, do có một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế  toàn cầu: <br /> Trước việc giá dầu và giá lương thực – thực phẩm liên tục leo thang đã tạo nên cú <br /> sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đã buộc các ngân hàng  <br /> trung ương phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật <br /> Bản tăng 1 lần từ  0,25%­ 0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ  3,5%­3,75%­<br /> 4,0%/năm; Anh tăng 3 lần từ 5%­5,5%/năm (trong đó có 1 lần giảm); Thụy Điển tăng <br /> 4 lần từ  3,0%­4,0%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ  6,12­7,47%/năm. Việc cứu vãn <br /> nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền <br /> kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao.<br />  III. Những biện pháp khắc phục lạm phát tại Việt Nam<br /> <br /> 1. Những biện pháp cơ bản chiến lược<br /> <br /> <br /> ­ Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế­xã hội đúng đắn: ở Việt <br /> Nam, kể từ khi đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chuyển <br /> đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có điều  <br /> tiết, đã có tác dụng rất to lớn.<br /> <br /> ­ Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển ngành mũi nhọn: ổn định cơ cấu kinh tế <br /> nhằm đáp ứng được nhu cầu cơ bản về đời sống và việc làm của người lao động, do <br /> đó tùy hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà có những chiến lược điều chỉnh cơ cấu <br /> kinh tế  khác nhau.  Ở  Việt Nam cơ  cấu kinh tế  được điều chỉnh theo hướng công <br /> nghiệp hóa ­ hiện đại hóa, trước mắt nông – lâm ­ ngư  nghiệp vẫn giữ  vị  trí quan  <br /> trọng, phát triển mạnh mẽ các ngành dịch vụ (ngân hàng ­ bưu điện ­ du lịch…)<br /> Cơ  cấu kinh tế  hợp lý sẽ  tạo cho nền kinh tế  phát triển mạnh và chắc chắn. <br /> Ngoài ra, còn phát triển ngành kinh tế mũi nhọn xuất khẩu, bởi vì trong điều kiện mở <br /> rộng giao lưu kinh tế quốc tế thì hoạt động ngoại thương nói chung và xuất khẩu nói <br /> riêng có vị trí quan trọng, nó vừa tạo ra nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia vừa tác động  <br /> đến các hoạt động của các ngành kinh tế khác, ổn định lưu thông tiền tệ trong nước.<br /> <br /> ­ Nâng cao hiệu lực của bộ  máy quản lý Nhà nước: vai trò của Nhà nước đối  <br /> với quản lý kinh tế rất to lớn. Nhà nước là nguời duy nhất đảm bảo tính công bằng  <br /> và  ổn định kinh tế, đồng thời Nhà nước có thể  tác động thúc đẩy hiệu quả  và tăng <br /> trưởng kinh tế.<br /> <br /> Bằng các công cụ về pháp luật, tài chính, giá cả, tiền tệ…đã tác động đến mọi  <br /> mặt hoạt động của nền kinh tế  xã hội, do đó việc nâng cao hiệu lực của bộ  máy  <br /> quản lý Nhà nước được coi như là biện pháp mang tính chiến lược để  ổn định tiền  <br /> tệ, tinh giảm biên chế, kiệm toàn bộ máy quản lý hành chính.<br /> <br /> 2. Những biện pháp cấp bách trước mắt<br /> <br /> ­ Thứ nhất, thắt chặt tiền tệ: Các biện pháp dành cho chính sách thắt chặt tiền  <br /> tệ hiện nay cần phải được áp dụng một cách linh hoạt. Xuất phát từ  nhận định lạm <br /> phát thường xuất hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng, chúng ta cần hạn chế <br /> lượng tiền trong lưu thông bằng cách: Tăng lãi suất cho vay vốn và lãi suất tái chiết <br /> khấu và hạn chế  mức tăng tín dụng. Quy định dự  trữ  bắt buộc hợp lí để  vừa bảo  <br /> đảm an toàn hệ  thống đồng thời nâng cao được khả  năng thanh khỏan trong hoạt  <br /> động ngân hàng. Thêm nữa là việc phát hành tín phiếu và phân hạn mức mua cho các <br /> Ngân hàng Thương mại để rút bỏ bớt tiền khỏi lưu thông<br /> ­ Thứ  hai, chính sách tài khóa: Cần phải thực hiện từng b ước kế  hoạch giảm <br /> thâm hụt để  tiến tới cân bằng ngân sách, vì đây cũng là một chỉ  tiêu kinh tế  vĩ mô <br /> quan trọng. Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu <br /> tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan <br /> nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra hiệu quả.  <br /> Với các dự  án, cần loại bỏ  những dự  án đầu tư  kém hiệu quả, thắt chặt những <br /> khoản chi chưa thực sự  cần thiết nhưng tạo mọi điều kiện cho đầu tư  tư  nhân và <br /> đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng.<br /> ­ Thứ  ba, sử  dụng công cụ  tỉ  giá: Nên điều chỉnh tăng nhẹ  VND so với USD.  <br /> Điều này cũng phù hợp với việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các đồng <br /> tiền khác. Tăng nhẹ  giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá <br /> lớn. Tăng giá VND sẽ  làm giá hàng nhập khẩu giảm, tăng nguồn cung, có tác dụng  <br /> giảm mức tăng giá trên thị  trường nội địa, nhất là trong điều kiện nhập khẩu hiện  <br /> chiếm tỉ  lệ  cao trong GDP của nước ta. Tăng giá VND cũng góp phần kìm giữ  giá <br /> lương thực hiện đang tăng tăng cao và có khả  năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu <br /> của thị trường thế giới.<br /> ­ Thứ  tư, tập trung phát triển sản xuất công ­ nông nghiệp, khắc phục nhanh  <br /> hậu quả  của thời tiết và dịch bệnh để  tăng sản lượng lương thực, thực phẩm phục <br /> vụ  trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó cần đảm bảo cân đối cung cầu về  hàng  <br /> hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu. Việc cân đối cung cầu về hàng hóa, nhất  <br /> là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiền đề đề quyết định <br /> để không gây ra đột biến về giá và ngăn chặn đầu cơ.<br /> ­ Thứ  năm, tăng cường công tác quản lý thị  trường, kiểm soát việc chấp hành <br /> pháp luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến  <br /> động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất <br /> và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, l ương thực, thực <br /> phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu,  <br /> khoáng sản.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2