intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành, một số vấn đề lí luận và thực tiễn

Chia sẻ: Nguyễn Hào Hiệp | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

204
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghĩa vụ dân sự là một trong những chế định quan trọng của Bộ Luật Dân sự của nước ta. Hiện nay, xoay quanh nội dung này còn khá nhiều vấn đề về mặt lí luận cũng như thực tế đáng quan tâm. Nhằm giúp các bạn hiểu hơn về vấn đề này, mời các bạn cùng tham khảo nội dung đề tài "Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành, một số vấn đề lí luận và thực tiễn" dưới đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành, một số vấn đề lí luận và thực tiễn

  1. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 A. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghĩa vụ dân sự là một trong những chế định quan trọng của Bộ Luật Dân  sự  của nước ta. Hiện nay, xoay quanh nội dung này còn khá nhiều vấn đề  về  mặt lí luận cũng như thực tế đáng quan tâm. Xuất phát từ yêu cầu như vậy, tại  bài viết này em xin trình bày vấn đề  trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ dân sự   theo quy định của pháp luật hiện hành – Một số vấn đề  lí luận và thực tiễn   để phần nào góp phần giải quyết vấn đề mang tính pháp lí này. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I, Một số khái niệm . Để làm rõ vấn đề này, trước tiên, chúng ta nghiên cứu về một số khái niệm liên  quan, đó là: 1. Trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lí là một khái niệm chung  được  sử  dụng tại nhiều  ngành luật khác nhau. Về mặt khái niệm trách nhiệm pháp lý được hiểu là hậu   quả pháp lý (sự trừng phạt) đối với chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối   quan hệ  đặc biệt giữa nhà nước với các chủ  thể  vi phạm pháp luật, được các   quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ  thể vi phạm pháp luật   phải chụ những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy định ở   chế tài các quy phạm pháp luật1.  Trách nhiệm pháp lý có những đặc điểm sau: 1  Theo giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà  Nội, NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 1 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  2. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2  ­ Thành phần đang chú ý nhất của trách nhiệm pháp lý là "hậu quả pháp lý" hay  nói cách khác là chế tài, thái độ của nhà nước đối với các hành vi vi phạm pháp  luật được thể hiện qua việc áp dụng các chế tài và được thực hiện bởi bộ máy  cưỡng chế nhà nước. ­ Tính đền bù, mục đích của trách nhiệm pháp lý không chỉ là trừng trị hành vi vi  phạm pháp luật mà bên cạnh đó còn có sự  khôi phục tình trạng tương  ứng đối  với phần hậu quả mà người vi phạm đã gây ra do không thực hiện nghĩa vụ của  mình. ­ Về  hình thức của trách nhiệm pháp lý chỉ  tồn tại khi được quy định trong các  văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. 2. Nghĩa vụ dân sự Nghĩa vụ  dân sự  luôn là một vấn đề  pháp lý đáng quan tâm của các Bộ  luật dân sự  đã từng tồn tại  ở  Việt Nam từ  trước đến nay.  Về  mặt khái niệm,  hiện nay theo quy định tại điều 280 Bộ luật dân sự năm 2005:  "Nghĩa vụ dân sự   là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa   vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền, hoặc giấy tờ có giá, thực   hiện công việc khác hoặc không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của môt   hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi là bên có quyền).  Nghĩa vụ dân sự được phân thành nhiều loại khác nhau, đó là nghĩa vụ dân   sự riêng rẽ, nghĩa vụ dân sự liên đới, nghĩa vụ dân sự được phân chia theo phần,   nghĩa vụ  hoàn lại và nghiã vụ  bổ  sung. Nghĩa vụ  dân sự  có những đặc điểm   riêng đó là: Nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp luật dân sự; Các bên chủ  thể  trong nghĩa vụ dân sự luôn được xác định cụ thể; quyền và nghĩa vụ dân sự của  NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 2 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  3. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 hai bên chủ thể  đối lập nhau; Quyền dân sự  của các bên chủ  thể  là một quyền   đối nhân. 3. Trách nhiệm dân sự. Về mặt thuật ngữ, trách nhiệm dân sự theo nghĩa rộng là các biện pháp có   tính cưỡng chế  được áp dụng nhằm khôi phục lại t ình trạng ban đầu của một   quyền dân sự bị vi phạm, trách nhiệm dân sự theo nghĩa hẹp là các biện pháp có   tính cưỡng chế2. II, Căn cứ phát sinh trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ dân sự. Trách nhệm pháp lí do vi phạm nghĩa vụ  dân sự  là một hiện tượng trong   thực tế và được pháp luật điều chỉnh. Vì vậy căn cứ phát sinh trách nhiệm pháp  lý do vi phạm nghĩa vụ dân sự phải được pháp luật quy định cụ thể. 1, Theo điều 302 bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1, Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì   phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. 2, Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự   do sự  kiện bất khả  kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ  trường   hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 3, Bên có nghĩa vụ  không phải chịu trách nhiệm dân sự  nếu chứng minh được   nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền"  Như vậy căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự bao g    ồm:  2  Theo chuyên đề về bộ luật dân sự năm 2005 và Tạp chí pháp luật dân chủ của  Bộ Tư Pháp. NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 3 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  4. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 1.1 Hành vi vi phạm nghĩa vụ. Hành vi không thực hiện nghĩa vụ  được hiểu là người có nghĩa vụ  phải  thực hiện nghĩa vụ  trước người có quyền theo mối quan hệ  nghĩa vụ  được xác  lập nhưng người có nghĩa vụ đã không thực hiện, hành vi không thực hiện nghĩa  vụ có thể được biểu hiện qua các trường hợp sau đây: ­ Người có nghĩa vụ  không thực hiện nghĩa vụ  chuyển giao tài sản nếu  đối tượng của nghĩa vụ được các bên thỏa thuận là tài sản và theo đó các bên có  nghĩa vụ phải chuyển giao tài sản cho bên có quyền. ­ Người có nghĩa vụ không thực hiện công việc theo thỏa thuận với bên có  quyền hoặc theo quy định của pháp luật, hành vi thực hiện không đúng nghĩa vụ  được hiểu là người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ theo nội dung được xác   định cụ thể (thực hiện đúng đối tượng, đúng thời hạn...) nhưng người có nghĩa  vụ đã không thực hiên đúng nội dung của nghĩa vụ theo thỏa thuận với người có  quyền, hoặc dù đã thực hiện nhưng chỉ  mới thực hiện môt phần, chưa đầy đủ  (không giao đủ tiền, không giao đủ số lượng hàng hóa...). Sự vi phạm hay không thi hành nghĩa vụ có thể được thể  hiện thông qua  một lời tuyên bố của người có nghĩa vụ là sẽ không thi hành, sự kiện này có thể  có nhiều lý do: Người có nghĩa vụ không muốn thi hành vì giả dối; Do sự nhầm  lẫn, người có nghĩa vụ tưởng rằng nghĩa vụ  đã chấm dứt trong khi trên thực tế  họ  vẫn đang bị  ràng buộc với nghĩa vụ  đó (ví dụ: Tưởng đã thanh toán hết số  tiền mua hàng, nhưng trên thực tế còn thiếu còn thiếu khoản tiền cước phí vận  chuyển).  Ngoài ra, có thể  trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên giao kết có  thể  không đồng ý với nhau về  nội dung nghĩa vụ, vì thế  một bên từ  chối thực  NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 4 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  5. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 hiện nghĩa vụ viện cớ rằng theo họ nghĩ thì họ không phải thi hành nghĩa vụ mà  bên kia đòi hỏi (ví dụ: Hai bên giao kết hợp đồng biểu diễn ca nhạc, bên thuê   không trả  hết tiền vì cho rằng, tiền thuê nhạc cụ  và âm thanh bên biểu diễn  phải tự chịu hoặc đã bao gồm trong phí thuê biểu diễn). Nếu người có nghĩa vụ  tuyên bố công khai về việc không thực hiện thì ý định của họ đã rõ ràng, nhưng  nhiều khi giữ thái độ im lặng, không thông báo gì. Đối với trường hợp này cần  phải xem xét việc họ chưa thực hiện nghĩa vụ là do họ không thể thực hiện hay   từ chối thực hiện, để làm được điều này thì người có quyền cần gửi cho người  có nghĩa vụ một giấy thông báo yêu cầu thực hiện nghĩa vụ như thỏa thuận, nếu  người có nghĩa vụ  không trả  lời hoặc đưa ra lý do không chính đáng và không  hợp pháp, thì đây có thể là căn cứ hợp pháp để người có quyền khởi kiện ra tòa. 1.2. Lỗi. Tại điều 308 Bộ luật dân sự có quy định như sau:  Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ tâm lý của con người đối với hành  vi của mình và hậu quả  của hành vi đó gây ra. Để  xác định người có nghĩa vụ  khi vi phạm nghĩa vụ đó có phải chịu trách nhiệm dân sự  hay không, trước hết  phải xem xét người đó có lỗi hay không và trường hợp đó thuộc lỗi cố  ý hay vô  ý. Lỗi cố  ý được hiểu là một người khi thực hiện một hành bi nhất định,  nhận thức được hành vi của mình sẽ  gây ra thiệt hại cho người khác, mặc dù  mục đích của hành vi đó không nhất thiết là phải gây thiệt hại. Lỗi vô ý gây thiệt hại là một người khi thực hiện một hành vi không thấy  trước được hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác, mặc dù phải biết  hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra, hoặc biết trước hành vi của mình sẽ  NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 5 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  6. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 gây thiệt hại nhưng cho rằng thiệt hại không xảy ra hoặc có thể  ngăn chặn   được. Bộ  luật dân sự  2005 quy định người có nghĩa vụ  mà không thực hiện  nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự khi   họ  có lỗi. Trong một số  trường hợp nhất  định, thì điều kiện xác định trách  nhiệm dân sự phải là lỗi cố ý. Người vi phạm nghĩa vụ  phải chịu trách nhiệm về  hành vi vi phạm của   mình dù lỗi cố  ý hay vô ý, nhưng cần lưu ý, việc phân biệt lỗi cố  ý hoặc vô ý  trong trách nhiệm dân sự  có ý nghĩa trong việc giảm mức bồi thường thiệt hại  cho người vi phạm hoặc xác định trách nhiệm của người có quyền nếu họ có lỗi  đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ của người có nghĩa vụ. Trong một số  trường hợp yếu tố  lỗi cố   ý hay vô ý được nhận thức dễ  dàng từ tính chất của vụ việc. Mặc dù vậy, không phải lúc nào cũng có thể xác   định được việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ  là do lỗi  cố ý hay lỗi vô ý của người có nghĩa vụ. Do đó, trước đây điều 309 Bộ luật dân   sự  năm 1995 quy định trách nhiệm chứng minh lỗi cố  ý hoặc vô ý thuộc về  người vi phạm nghĩa vụ. Tuy nhiên, đây là quy định thuộc về pháp luật tố tụng,   việc đưa ra các chứng cứ chứng minh m ình có lỗi trong việc thực hiện nghĩa vụ  dân sự  hay không đã được bộ  luật tố  tụng dân sự  2004 quy định đầy đủ  và cụ  thể, vì thế bộ luật dân sự 2005 không điều chỉnh quy định này. 2, Trách nhiệm buộc phải thực hiện nghĩa vụ. 2.1. Trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ  phải làm một công  việc hoặc không được làm một công việc. NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 6 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  7. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 Đây là trường hợp trách nhiệm phát sinh khi đối tượng của nghĩa vụ  là  công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện, nếu giữa các bên có thỏa  thuận rằng một bên có nghĩa vụ  phải làm một việc hay không được làm một  việc thì bên có nghĩa vụ phải thực hiện theo đúng thỏa thuận đó. Thông thường   đối tượng của công việc phải thực hiện hoặc không thực hiện được thỏa thuận  trong các hợp đồng gia công hoặc dịch vụ. Công việc phải được làm được coi là đối tượng của nghĩa vụ, nếu đó là   công việc được nhiều người xác lập với nhau một quan hệ nghĩa vụ mà theo đó,  người có nghĩa vụ  phải thực hiện công việc theo đúng nội dung đã được xác   định. Công việc phải làm có thể có thể  được hoàn thành với một kết quả nhất   định, nhưng cũng có thể  không gắn với một kết quả  nào đó, có thể  được thể  hiện vật chất cụ thể, cũng có thể không thể hiện dưới dạng vật chất (ví dụ: A  ký với B vẽ riêng cho B một bức tranh chân dung. đây là dạng vật chất cụ thể; C   ký với D hợp đồng gia sư cho con mình. không dưới dạng vật chất cụ thể). Khi các đã thỏa thuận trong hợp đồng về  việc phải thực hiện hay không  được thực hiện một việc mà bên có nghĩa vụ  vi phạm cam kết thì phải chịu  trách nhiệm dân sự  theo khoản 1 điều 304 Bộ  luật dân sự  2005: "Trong trường  hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện một công việc mà mình phải thực hiện thì   bên có quyền có thể  yêu cầu bên có nghĩa vụ  tiếp tục thực hiện hoặc giao cho   người khác thực hiện công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí  hợp lý và bồi thường thiệt hại". Khoản 2 điều 304 quy định: "Khi bên có nghĩa vụ  không được thực hiện   một công việc mà lại thực hiện công việc đó thì bên có quyền được quyền yêu  cầu bên có nghĩa vụ phải chấm dứt việc thực hiện, khôi phục tình trạng ban đầu  và   bồi   thường   thiệt   hại".   Như   vây,   trách   nhiệm   bồi   thường   thiệt   hại   trong  NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 7 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  8. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 trường hợp này đi kèm với biện pháp tiếp tục thực hiện hoặc chấm dứt thực   hiện nghĩa vụ, đối với việc áp dụng việc tiếp tục thực hiện một công việc phải   làm hay chấm dứt một công việc không được làm mới chỉ  là biện pháp nhằm  ngăn chặn hậu quả đã hoặc có thể xảy ra cho bên vi phạm nghĩa vụ, còn chế tài  bồi thường đi kèm nhằm đền bù, khắc phục những thiệt hại về  mặt vật chất   cho bên bị vi phạm. 2.2   Trách   nhiệm   do   không   thực   hiện   hoặc   thực   hiện   không   đúng  nghĩa vụ giao vật: Là việc triển khai tất cả các nội dung mà các bên đã cam kết   trong hợp đồng, các bên phải hoàn thành nghĩa vụ của mình để đảm bảo quyền   lợi cho phía bên kia. Nghĩa vụ  chuyển giao tài sản là nghĩa vụ  phổ  biến trong  hợp đồng thông thường, tồn tại  ở  đa số  các hợp đồng như  hợp đồng mua bán  hàng hóa, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng thuê khoán...Bên có nghĩa vụ chuyển  giao tài sản phải thực hiện nghĩa vụ của mình và việc không thực hiện nghĩa vụ  chuyển giao tài sản là một trong những nguyên nhân làm phát sinh trách nhiệm  dân sự do vi phạm nghĩa vụ. Theo quy định tại điều 16 bộ luật dân sự 2005, tài sản mà bên có nghĩa vụ  chuyển giao có thể vật, giấy tờ có giá và quyền tài sản, khi thực hiện nghĩa vụ  chuyển giao vật, bên có nghĩa vụ cần phải chú ý đối tượng của hợp đồng là vật   đặc định và vật cùng loại. Theo khoản 3 điều 303 quy định: "Khi bên có nghĩa vụ  không thực hiện   nghĩa vụ giao vật đặc định thì người có quyền được quyền yêu cầu bên có ngĩa   vụ  phải giao đúng vật đó; Nếu vật không còn hoặc bị  hư  hỏng thì phải thanh   toán giá trị của vật". Trong trường hợp này nhà làm luật không quy định bên bị  vi phạm có quyền yêu cầu Tòa án cưỡng chế bên vi phạm nghĩa vụ trên thực tế,   NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 8 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  9. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 vì lí do trong thực tiễn nghĩa vụ đó đã trở nên không thực hiện được khi mà đã bị  mất hoặc hư hỏng. Đáng chú ý đối với các nghĩa vụ  gắn với nhân thân và liên quan đến các  vấn đề  thanh danh cá nhân, thì khi bên có nghĩa vụ  không thực hiện nghĩa vụ  chuyển giao vật, thì bên có quyền cũng không thể yêu cầu Tòa án cưỡng chế thi  hành nghĩa vụ dân sự được (ví dụ: Hợp đồng thuê nhac sĩ sáng tác ca khúc, nếu   họ  không có cảm hứng hoàn thành tác phẩm thì cũng không thể cưỡng chế bắt   họ  làm ra tác phẩm nghệ  thuật của m ình). Trong trường hợp đó, bên có quyền  chỉ có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán giá trị tài sản phải chuyển giao và   bồi thường thiệt hại vì hành vi vi phạm hợp đồng. Do có những tính chất chung đặc điểm, nếu đó là vật cùng loại, bên vi  phạm nghĩa vụ có thể khắc phục bằng việc thay thế vật đã bị hư hỏng bằng vật  khác. Vì vậy, bên có nghĩa vụ  có thể  xin gia hạn thực hiện nghĩa vụ  đó và bồi   thường thiệt hại xảy ra nếu đến thời hạn mà bên có nghĩa vụ  chuyển giao vật   chưa thực hiện được nghĩa vụ giao vật cùng loại. Thực hiện nghĩa vụ  dân sự  là một trong các nguyên tắc mà các bên thực   hiện hợp  đồng thực  hiện  không  đúng nghĩa vụ  chuyển giao tài sản là việc   chuyển giao tài sản không đúng số lượng, không đúng phương thức, không đúng   địa điểm, do không giao vật đồng bộ, không đúng chủng loại...việc thực hiện   không đầy đủ nghĩa vụ cũng được coi là thực hiện không đúng nghĩa vụ. Đối với nghĩa vụ  giao vật đồng bộ  cũng như  vậy, nếu như  bên có nghĩa   vụ không giao đúng vật đồng bộ dẫn đến mục đích sử dụng vật không đạt được  thì  bên  chuyển   giao  vật  cũng   có  trách   nhiệm  về   hành  vi  vi  phạm  nghĩa   vụ  chuyển giao vật theo khoản 1 điều 436 Bộ luật dân sự 2005. NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 9 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  10. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2  Việc thực hiện không đúng nghĩa vụ  chuyển giao tài sản còn thể  hiện ở  việc chuyển giao không đúng vật chủng loại, bên có nghĩa vụ  không được lấy  vật khác thay thế  cho vật đã thỏa thuận, quy định tại điều 437 Bộ  luật dân sự  2005: "Trong trường hợp vật dược giao không đúng chủng loại thì bên mua có   một trong các quyền sau: 1. Nhận và thanh toán theo giá mà các bên thỏa thuận; 2. Yêu cầu giao đúng chủng loại và bồi thường thiệt hại; 3. Hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại;" Đối với trường hợp thực hiện nghĩa vụ  không đúng thời gian thỏa thuận,   như  thực hiện trước thời hạn hoặc thực hiện muộn nghĩa vụ  chuyển giao tài  sản, thì việc chậm nghĩa vụ  lại là một căn cứ  khác làm phát sinh trách nhiệm  của bên vi phạm nghĩa vụ. Nhưng đối với việc thực hiện sớm nghĩa vụ thì cẩn  giải quyết thế  nào và có được coi là một trong các tr ường hợp phát sinh trách  nhiệm do thực hiện không đúng nghĩa vu không? Có thể  thấy trong việc thực   hiện sớm nghĩa vụ, bên có quyền có tiếp nhận hoặc không tiếp nhận nghĩa vụ  đó, việc thực hiện trước, trường hợp nếu rủi ro mà xảy ra là lỗi hoàn toàn thuộc  về bên có nghĩa vụ, những rủi ro đó do bên có nghĩa vụ  phải gánh chịu. Bên có  quyền cũng không được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ  phải bồi thường thiệt  hại và cũng không có quyền chấm dứt hợp đồng. Vì thế, bên có nghĩa vụ  thực  hiện trước thời hạn thì có lẽ  không nên đặt ra vấn đề  trách nhiệm dân sự  đối  với bên có nghĩa vụ. 2.3 Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự: Chậm thực hiện nghĩa vụ  là bên có nghĩa vụ  phải thể  hiện d ưới hành  động cụ  thể  hướng tới bên có quyền bằng việc thông báo là không thể  hoàn  NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 10 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  11. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 thành nghĩa vụ đúng thời hạn, bên có quyền chấp nhận việc gia hạn cho bên có  nghĩa vụ  để  hoàn thành nghĩa vụ, bên có nghĩa vụ  sau đó phải có những hành  động cụ  thể  chứng tỏ  việc thực hiện nghĩa vụ  của mình vẫn diễn ra và vẫn  muốn được tiếp tục thực hiện nghĩa vụ.  Trường hợp bên có nghĩa vụ  hoàn toàn không có ý thức muốn thực hiện  nghĩa vụ, khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ, bên có nghĩa vụ  không hoàn thành   nghĩa vụ của mình và cũng không thể hiện có hành động và thông báo cho bên có  quyền biết, được coi là không thực hiện nghĩa vụ.  Trường hợp trong hợp đồng có quy định thời hạn thực hiện nghĩa vụ  cụ  thể, bên có nghĩa vụ  không hoàn thành nghĩa vụ  đúng thời hạn, xin gia hạn  nhưng không được bên có quyền chấp nhận và từ chối việc tiếp nhận nghĩa vụ  thì cũng được coi là trường hợp không thực hiện nghĩa vụ. Theo quy định tại khoản 1 điều 305 Bộ  luật dân sự  2005 người có nghĩa  vụ  phải bồi thường thiệt hại cho người có quyền: "Khi nghĩa vụ  dân sự  chậm  được thực hiện thì bên có quyền có thể gia hạn để  bên có nghĩa vụ  hoàn thành  nghĩa vụ; nếu quá thời hạn này mà nghĩa vụ vẫn ch ưa được hoàn thành thì theo  yêu cầu của bên có quyền, bên có nghĩa vụ vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ  và bồi thường thiệt hại. Nếu việc thực hiện không còn cần thiết đối với bên có  quyền thì bên này có quyền từ chối tiếp nhận nghĩa vụ  và yêu cầu bồi th ường  thiệt hại". Đối với nghĩa vụ trả tiền, nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng thời  hạn thì phải trả thêm tiền lãi đối với thời gian chậm trả, theo lãi xuất cơ bản do  ngân hàng nhà nước công bố, tương ứng. Trừ khi hai bên có thỏa thuận khác. 2.4. Trách nhiệm do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự: NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 11 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  12. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 Theo quy định tại điều 288 Bộ  luật dân sự  2005: "Chậm tiếp nhận thực   hiện nghĩa vụ dân sự là khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ   đã thực hiện theo thỏa thuận, nh ưng bên có quyền không tiếp nhận việc thực   hiện nghĩa vụ đó". Theo quy điều 306 quy định về trách nhiệm do chậm tiếp nhận việc thực   hiện nghĩa vụ như sau: "Bên có quyền chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ   dân sự làm phát sinh thiệt hại cho bên có nghĩa vụ thì phải bồi thường thiệt hại   cho người đó và phải chịu mọi rủi ro xảy ra kể  từ thời điểm chậm tiếp nhận,   trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Qua đó có thể  thấy một số  điểm đáng lưu ý khi nghiên cứu vấn đề  trách   nhiệm của các bên trong việc tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ: + Người có nghĩa vụ không được miễn việc thực hiện nghĩa vụm nhưng  được miễn mọi điều bất lợi gắn liền với việc không thực hiện nghĩa vụ, khi   bên có quyền chấp nhận tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ, thì bên có nghĩa vụ  vẫn phải có các biện pháp cần thiết để bảo quản tài sản và có quyền thanh toán  chi phí hợp lý phát sinh đối với việc bảo quản đó.(khoản 2 điều 288). + Nếu đối tượng của nghĩa vụ  là tài sản có nguy cơ  bị  hỏng thì bên có  nghĩa vụ có quyền bán tài sản là thanh toán bằng tiền cho bên có quyền từ việc   bán tài sản (trừ đi chi phí hợp lý để bảo quản và bán tài sản đó). Ngoài ra bên có  nghĩa vụ  không phải chờ  sự  đồng ý của bên có quyền về  việc bán tài sản của  mình (khoản 3 điều 288). + Nếu việc chậm tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ  của bên có quyền làm  phát sinh thiệt hại cho bên có nghĩa vụ thì mới phải bồi th ường thiệt hại cho bên  có nghĩa vụ. NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 12 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  13. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 III. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại. 1. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. 1.1  Hành vi vi phạm: Là một loại trách nhiệm pháp lí nên trách nhiệm  bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ chỉ phát sinh khi có sự vi phạm và áp  dụng đối với chủ  thể  có hành vi vi phạm, hành vi vi phạm nghĩa vụ  là hành vi   không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, đầy đủ các quy định của hợp đồng. 1.2 Lỗi: Đây là một trong những căn cứ  quan trọng trong việc xác định  trách nhiệm dân sự, về nguyền tắc, người nào gây thiệt hại thì phải bồi th ường  thiệt hại và chỉ  bồi thường khi có lỗi, nếu bên có nghĩa vụ  không có lỗi th ì  không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có hành vi vi phạm. 1.3 Có thiệt hại thực tế xảy ra: Nội dung của trách nhiệm bồi thường  thiệt hại là việc người có nghĩa vụ  phải bù đắp cho bên bị  thiệt hại những tổn  thất mà mình đã gây ra do việc mình đã vi phạm nghĩa vụ dân sự, bởi vậy thiệt  hại được coi là yếu tố  bắt buộc và tiền đề  để  giải quyết có phát sinh trách  nhiệm bồi thường thiệt hại hay không. Thiệt hại trong vi phạm nghĩa vụ theo nghĩa đơn thuần là thiệt hại về vật  chất, theo giáo trình Luật dân sự trường đại học luật hà nội thì: "Thiệt hại là sự  biến đổi theo chiều hướng xấu đi trong tài sản của một người thể hiện ở những  vật chất tính được bằng tiền mà người đó phải gánh chịu". Thiệt hại về  vật  chất bao gồm: tài sản bị  mất, bị  hủy hoại, bị  hư  hỏng, chi phí bỏ  ra để  khắc  phục, ngăn chặn thiệt hại cũng như  hoa lợi, lợi tức không thu được mà đáng ra  thu được. NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 13 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  14. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 Việc xác định thiệt hại có xảy ra hay không, thiệt hại đến mức nào là  việc làm hết sức quan trọng và cần thiết khi áp dụng trách nhiệm bồi th ường  thiệt hại, vì ý nghĩa của việc gánh chịu trách nhiệm là việc khắc phục hậu quả  và bù đắp tổn thất về  tài sản do việc vi phạm nghĩa vụ  gây ra. Phạm vi trách  nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ  tương đương với mức độ  thiệt hại xảy ra trên   thực tế, có thể phân loại các thiệt hại thành 2 loại sau: + Những thiệt hại trực tiếp: Là những thiệt hại đã xảy ra một cách khách  quan trong thực tế mà mức thiệt hại dễ dàng xác định được như: chi phí thực tế  và hợp lý; tài sản bị mất mát, hư hỏng, hủy hoại. + Những thiệt hại gián tiếp: Là những thiệt hại phải dựa trên sự tính toán  khoa học mới xác định được thiệt hại, thiệt hại này còn gọi là thu nhập thực tế  bị mất mát hoặc giảm sút. 1.4 Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại  xảy ra. Trong khoa học pháp lý, mối quan hệ  nhân quả  giữa hành vi vi phạm và   thiệt hại xảy ra được hiểu là giữa chúng có mối quan hệ  nhân quả, nội tại và  tất yếu. Trong đó hành vi vi phạm là nguyên nhân, thiệt hại xảy ra là kết quả,  chỉ khi nào thiệt hại xảy ra là hậu quả tất yếu của hành vi vi phạm thì người vi  phạm mới phải bồi thường thiệt hại. Nguyên nhân và kết quả  có mối quan hệ  nối tiếp nhau, nguyên nhân bao   giờ cũng là các đi trước, là cái sinh ra kết quả. Vì vậy, hành vi vi phạm và thiệt   hại xảy ra tất yếu phải là hau giai đoạn gắn bó với nhau của một quá trình vận  động. Trong lĩnh vực hợp đồng cũng vậy, chỉ khi nào hành vi vi phạm nghĩa vụ  của một bên là nguyên nhân dẫn tới những thiệt hại, tổn thất cho bên kia thì bên  NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 14 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  15. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 vi phạm mới phải chịu trách nhiệm, trong trường hợp thiệt hại xảy ra do không  phải lỗi của bên có nghĩa vụ  mà do một nguyên nhân khác th ì sẽ  không đặt ra  vấn đề bồi thường thiệt hại. Bên cạnh đó một kết quả  có thể  do nhiều nguyên nhân sinh ra và một  nguyên nhân sinh ra cũng có thể  làm phát sinh nhiều hậu. Vì vậy nếu có nhiều  nguyên   nhân   khác   nhau   dẫn   đến   thiệt   hại   thì   khi   xác   định   trách   nhiệm   bồi   thường thiệt hại thuộc về ai, cần phải xem xét hành vi vi phạm của họ có quan  hệ như thế nào đối với thiệt hại xảy ra, nếu không xác đinh chính xác mối quan  hệ này có thể dẫn đến nhiều sai lầm khi áp dụng trách nhiệm dân sự. 2. Xác định thiệt hại. Khoản 2 điều 307 : “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về  vật chất là   trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi   phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế,   khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Như vậy, tài sản có thể là tài sản hiện hữu và cũng có thể là tài sản h ình  thành trong tương lai, vì tài sản trong tương lai cũng được coi là đối tượng của  hợp đồng, nhưng với tài sản hình thành trong tương lai phải được xác định là  chắc chắn sẽ có. Khi có vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm cũng phải áp dụng hết các biện  pháp hợp lí để  ngăn chặn, hạn chế  những tổn thất trên thực tế. Do đó, ngoài  những thiệt hại xảy ra do vi phạm nghĩa vụ  gồm những tài sản bị  mất mát, bị  hủy hoại hoàn toàn, giảm sút giá trị về tài sản, thiệt hại còn tính đến cả những   chi phí mà người bị  vi phạm phải bỏ  ra ngăn chặn, hạn chế, khắc phục hậu   quả, những tổn thất do thu nhập thực tế bị giảm sút hay mất đi. Có những loại  NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 15 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  16. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 thiệt hại có thể tính toán một cách chính xác, cụ  thể, nhưng có những thiệt hại   chỉ  có thể  xác định một cách  ước lượng, xấp xỉ  chứ  không thể  đưa ra một con  số thiệt hại chính xác, có thể  xác định thiệt hại dựa trên những tổn thất sau: + Tổn thất về  tài sản: Tài sản được xác định theo quy định của bộ  luật  dân sự bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bị tổn thất là  những tài sản bị mất mát, hư hỏng, bị giảm sút về giá trị hoặc bị hủy hoại hoàn   toàn. Tài sản bị  mất mát, hư  hỏng trên thực tế  do không được bảo quản tốt  trong quá trình vận chuyển, vật bị  giao thiếu, giao không đồng bộ  so với thỏa   thuận…Một điều cần lưu ý là đối với các tài sản hao mòn tự nhiên, thì hao mòn   tự  nhiên của tài sản không được coi là thiệt hại và bên có nghĩa vụ  không phải   chịu trách nhiệm về những hao mòn tự nhiên đó. Ví dụ  về  thiệt hại trực tiếp: A và B ký với nhau hợp đồng cung cấp bát   đĩa thủy tinh, A phải vận chuyển hàng tới tận trụ sở của B, do không cẩn thận,  không tuân thủ  quy trình, A đã làm vỡ và sứt mẻ  một nửa lô hàng gồm 100 bát   con và 80 đĩa thủy tinh; Trong trường hợp này, tài sản bị thiệt hại được xác định   là thiệt hại trực tiếp do vi phạm nghĩa vụ gây ra. Tuy vậy, với các hợp đồng mua bán, hợp đồng vận chuyển…Có thể thấy  các thiệt hại về  tài sản có thể  dễ  dàng được xác định và tính toán cụ  thể, còn  đối với hợp đồng dịch vụ thì cách xác định thiệt hại sẽ khó tính toán được. + Chi phí hợp lí để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại: Có thể hiểu  chi phí hợp lý là một khoản tiền đúng với sự  cần thiết phải bỏ  ra đê giảm bớt   thiệt hại. Những chi phí này rất đa dạng như  chi phí thuê kho chứa, bảo quản,  chi phí sửa chữa những hỏng hóc của máy móc, thiết bị, chi phí thuê lao động…   NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 16 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  17. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 tính hợp lý của các chi phí này được hiểu là vào trường hợp đó, bất kể ai cũng  phải áp dụng các biện pháp nhằm giảm bớt thiệt hại. Ví dụ: Bão đổ bộ vào đất liền, việc vận chuyển hàng hóa lúc này là không  thể và khó khăn, bên bị thiệt hại phải thuê gấp một nhà kho để  bảo quản hàng   hóa và chấp nhận thuê với giá cao hơn ngày bình thường và thuê người vận  chuyển vào trong kho. Chi phí mới này phát sinh sẽ được coi là hợp lý trong hoàn  cảnh đó. Nó hợp lý vì đã kịp thời ngăn chặn nhằm giảm bớt thiệt hại về tài sản,   bên phải bồi thường không thể cho rằng mình không phải trả  thêm khoản tiền  mới phát sinh trên. + Thu nhập thực tế  bị  mất, giảm sút: Đây là khoản thu nhập mà bên bị  thiệt hại không thể có được do hành vi vi phạm nghĩa vụ  gây thiệt hại của bên  kia gây ra. Đối với các thu nhập khác của người bị  thiệt hại nếu bị  mất hoặc  giảm sút mà không phải do hành vi vi phạm nghĩa vụ  gây ra thì không được bồ  thường. Khác với bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thu nhập thực tế bị mất   hoặc bị  giảm sút không phải là tiền lương hay thu nhập từ  lao động   mà là  khoản lợi ích mà nếu như  không có hành vi vi phạm nghĩa vụ  thì người đó sẽ  được hưởng khoản tiền phát sinh từ hợp đồng đó. 3. Mức bồi thường thiệt hại. Theo quy định của pháp luật việt nam, khi tính toán các khoản thiệt hại về  tài sản phải bồi thường, nhà làm luật quy định bên vi phạm chỉ phải bồi thường   đối với những tổn thất thực tế, tính được bằng tiền, từ  đó suy ra các thiệt hại  khác về danh dự, uy tín do việc vi phạm nghĩa gây ra sẽ không được bồi thường   thiệt hại, thiệt hại được bồi thường là toàn bộ những tổn thất thực tế phát sinh,  do đó thiệt hại thực tế là bao nhiêu thì bên vi phạm phải bồi thường bấy nhiêu. NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 17 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  18. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 IV, Các trường hợp miễn trừ nghĩa vụ dân sự. Dựa vào quy định tại Điều 302 BLDS và các quy định hướng dẫn khác,   chúng ta có thể nêu ra một số trường hợp miễn trừ nghĩa vụ dân sự, đó là:         + Không phát sinh do sự kiện bất khả kháng (khoản 2 điều 302).          + Không phải chịu trách nhiệm do lỗi của bên có quyền  (khoản 3 điều  302).         + Miễn trừ trách nhiệm do thỏa thuận trong hợp đồng. Ngoài ra, cũng cần nói thêm rằng thời hiệu hưởng miễn trừ nghĩa vụ dân sự có  tính liên tục từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc; nếu có sự kiện làm gián đoạn   thì thời hiệu phải được tính lại từ đầu, sau khi sự kiện làm gián đoạn chấm dứt. V. Phạt vi phạm. Phạt vi phạm là một vấn đề đáng quan tâm trong Bộ luật dân sự. Giua Bộ  luật dân sự 1995 và 2005 có sự khác nhau về bản chất của phạt vi phạm. Trong   bộ luật dân sự năm 1995 phạt vi phạm được  coi là một trong các biện pháp bảo   đảm thực hiện nghĩa vụ  bằng khoản tiền xác định hoặc hoặc khoản tiền theo   giá trị nghĩa vụ chậm thực hiện mà bên có hành vi vi phạm phải nộp cho bên bị   vi phạm, do pháp luật quy định hoặc các bên tự thỏa thuận (được quy định trong  phần bảo đảm thực hiện nghĩa vụ  từ  điều 377 đến điều 397).  Việc quy định  mức phạt vi phạm có thể làm cho bên bị vi phạm nghĩa vụ nhận được số tiền bị  thiệt hại đã tính trước mà không cần phải chứng minh có thiệt hại thực tế xảy   ra hay không. Bộ luật dân sự 2005 đã xác định lại bản chất của phạt vi phạm hợp đồng,  không còn quy định phạt vi phạm là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện   NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 18 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  19. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 nghĩa vụ  , mà cụ  thể  tại khoản 1 Điều 422 quy định: Phạt vi phạm là sự  thỏa   thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một   khoản tiền cho bên bị vi phạm. Cũng theo quy định tại khoản 3 điều 422 Bộ luật dân sự  2005 thì các bên  khi đã thỏa thuận phạt vi phạm là một trong các biện pháp bảo đảm vẫn có thể  thỏa   thuận   hoặc   không   thỏa   thuận   về   vấn   đề   bồi   thường   thiệt   hại.   Trong  trường hợp các bên không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm  nghĩa vụ  chỉ  phải nộp khoản tiền phạt vi phạm, nếu có thỏa thuận về  bồi   thường thiệt hại nhưng không thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại th ì  phải bồi thường toàn bộ. 1. Hình thức phạt vi phạm. Bộ  luật dân sự  2005 không quy định hình thức cụ  thể  của phạt vi phạm.   Nghiên cứu các quy định về hợp đồng trong thương mại quốc tế, thông thường  có hai hình thức phạt vi phạm đó là bội ước và phạt vạ. Bội  ước tức là không  thực hiện những cam kết trong hợp đồng, do vậy phạt bội ước là phạt do không  thực hiện hợp đồng, trong trường hợp mức phạt tương đối cao nhằm thực hiện   chức năng phục hồi lại tài sản trở  lại trạng thái ban đầu cho bên bị  vi phạm,   đồng thời thực hiện chức năng đảm bảo nghĩa vụ thực hiện hợp đồng. Phạt vạ  được áp dụng trong các trường hợp các bên thực hiện hợp đồng không đúng  nghĩa vụ như chậm giao hàng, chậm thanh toán tiền…Phạt vạ là hình thức phạt   mà sau khi nộp một khoản tiền phạt, bên vi phạm vẫn phải thực hiện đầy đủ  nghĩa vụ đã cam kết, mức phạt vi phạm thường nhỏ hơn mức phạt bội ước. 2 Mức phạt vi phạm. NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 19 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
  20. LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM MODULE 2 Mức phạt vi phạm là một khoản tiền nhất định mà bên vi phạm nghĩa vụ   phải nộp cho bên bị vi phạm, các bên có thể ấn định một mức phạt nhất định khi  thỏa thuận giao kết hợp đồng hoặc chỉ  thỏa thuận một mức phần trăm tương  đối dựa trên nghĩa vụ  bị  vi phạm và mức độ  bị  giới hạn bởi các quy định của   pháp luật. Kế thừa và phát huy kinh nghiệm của  pháp luật nước ngoài , tại Bộ luật  dân sự 2005, mức phạt vi phạm được quy định mở hơn, tức là để cho các bên tự  thỏa thuận (khoản 2 điều 442) khi được tự do thỏa thuận mức phạt vi phạm, th ì  khoản tiền phạt là bao nhiêu hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên khi tham   gia giao kết hợp đồng. Nếu như các bên coi khoản tiền phạt vi phạm là mức bồi  thường thiệt hại dự  tính trước, thì các bên phải tính toán rất cẩn thận về  các  hậu quả  về  tính chất của bên vi phạm như  việc chậm giao hàng, chậm thanh  toán  hay không thực hiện đúng nghĩa vụ  chuyển giao vật cũng như  các chi phí   phát sinh từ  hành vi vi phạm, để  đưa ra một khoản tiền phạt hợp l ý; Trong  trường hợp các bên không tính toán kỹ càng, không lường trước được các chi phí  bì đắp cho thiệt hại phát sinh, thì khi xảy ra vi phạm nghĩa vụ, mức phạt vi   phạm có thể là rất nhỏ hoặc rất lớn so với thực tế. Còn nếu như  các bên coi phạt vi phạm chỉ  là một biện pháp trừng phạt   đối với bên vi phạm và là biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì khoản tiền  đó chỉ  mang tính chất tương đối, khi đó các bên thường áp dụng đồng thời bồi  thường thiệt hại. Khi áp dụng các điều khoản phạt vi phạm, các bên có thể thỏa thuận một  khoản tiền cụ thể, cũng có thể đề ra mức phạt dựa trên giá trị nghĩa vụ của hợp  đồng. Bộ luật dân sự  2005 không quy định về giới hạn của mức vi phạm, mức   phạt vi phạm ngoài việc các bên tự thỏa thuận còn có thể thấy trong một số loại  NGUYỄN HÀO HIỆP 340835                                                      L 20 ỚP NO8 – TL2 – NHÓM 2
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1