intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ĐỀ TÀI "VÙNG VĂN HÓA NAM BỘ"

Chia sẻ: Trinh Thi Bich Phuong | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

3.855
lượt xem
272
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong nền văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thì mỗi dân tộc, mỗi vùng miền lại có nét văn hóa riêng rất độc đáo, đa dạng và phong phú. Nam bộ tuy là vùng đất tổ tiên ta mới khai phá lập nghiệp hơn 300 năm, nhưng văn hóa của nông thôn Nam bộ bắt nguồn từ nền văn hóa chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam có hơn 4000 năm lịch sử.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ĐỀ TÀI "VÙNG VĂN HÓA NAM BỘ"

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LỚP: DS35_123 NHÓM: 6 VĂN HÓA ĐẠI CƯƠNG BỘ MÔN: CHỦ ĐỀ: THÀNH VIÊN NHÓM TÊN MSSV 1. Trịnh Thị Bích Phương (01887134616) 1055 020 216 2. Nguyễn Văn Phú 1055 020 204 3. Nguyễn Nhật Tân 1055 020 242 4. Trịnh Lê Minh Phúc 1055 020 207 5. Đào Việt Thắng 1055 020 244 6. Nguyễn Thị Thanh Phương 1055 020 211 7. Nguyễn Thị Thu Phương 1055 020 217 8. Nguyễn Lê Yến Trang 1055 020 295 9. Nguyễn Dương Thanh Thủy 1055 020 275 10. Lê Thị Kim Trai 1055 020 285 Nguyễn Văn Phúc 11. 1055 020 205 Đỗ Hùng Phương 12. 1055 020 215 Phan Nhã Phương 13. 1055 020 213 Đỗ Văn Tiến 14. 1055 020 277 15. Trần Minh Trí 1055 020 298 16. Tôn Đức Tân 1055 020 241 Nguyễn Văn Phú 17. 1055 020 204 Ngô Thị Minh Hằng GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
  2. Lời nói đầu Trong nền văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thì mỗi dân tộc, mỗi vùng miền lại có nét văn hóa riêng rất độc đáo, đa dạng và phong phú. Nam bộ tuy là vùng đất tổ tiên ta mới khai phá lập nghiệp hơn 300 năm, nhưng văn hóa của nông thôn Nam bộ bắt nguồn từ nền văn hóa chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam có hơn 4000 năm lịch sử. 1.KHÔNG GIAN V ĂN HÓA Về pham vi, vung văn hoá nay bao gôm đia ban 19 tinh thanh: Đông Nai, Binh Dương, ̣ ̀ ̀ ̀ ̣ ̀ ̉ ̀ ̀ ̀ Binh Phước, Tây Ninh, Bà Ria - Vung Tau, thành phố Hồ Chí Minh, Long An, ̀ ̣ ̃ ̀ Tiên Giang, Bên Tre, Vinh Long, Trà Vinh, Đông Thap, TP. Cân Thơ, Hâu Giang, ̀ ́ ̃ ̀ ́ ̀ ̣ Soc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bac Liêu, Cà Mau. ́ ̣ Có thể chia thanh ba tiêu vung văn hoa: tiêu vung Đông Nam Bô, tiêu vung Tây Nam ̀ ̉ ̀ ́ ̉ ̀ ̣ ̉ ̀ Bô, và tiêu vung Sai Gon. ̣ ̉ ̀ ̀ ̀ Về đia hinh, đây là một vung đông băng sông nước rất đặc trưng, có diên tich và độ ̣ ̀ ̀ ̀ ̀ ̣́ phì nhiêu cao nhât trong tât cả cac đông băng nước ta. ́ ́ ́ ̀ ̀ Toàn vùng có đến 4.000 kinh rach, dai tông công 5.700km. ̣ ̀̉ ̣ Đia hinh và thổ nhưỡng cua hai tiêu vung có khac nhau: ̣ ̀ ̉ ̉ ̀ ́ Đông Nam Bộ có độ cao 100m-200m là vung đât đỏ bazan và đât phù sa cô. ̀ ́ ́ ̉ • • Tây Nam Bộ có độ cao trung binh chưa đây 2m, là vung đât phù sa mới. ̀ ̀ ̀ ́ Đồi núi trong vùng không nhiều và tập trung ở miền Đông, như núi Bà Rá (Bình • Phước, 736m), núi Chứa Chan (Đồng Nai, 839m), núi Bao Quan (Bà Rịa - Vũng Tàu, 529m), núi Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu, 461m), núi Bà Đen (Tây Ninh, 986m)... • Ở miền Tây chỉ có hai điểm cao là dãy Thất Sơn (An Giang, cao nhất là núi Cấm 718m), dãy Hàm Ninh (Kiên Giang, cao nhất là núi Chúa 602m). Hai hệ thống sông lớn nhất của vùng là hệ thống sông Đồng Nai và hệ thống sông Cửu Long. Hệ thống sông Đồng Nai ở khu vực Đông Nam Bộ có lượng phù sa khá thấp, • tốc độ bồi lắng ven biển khá chậm, nhưng nhờ lòng sông sâu nên là nơi tập trung các cảng chính của khu vực như cảng Sài Gòn, cảng Cát Lái, cảng Hiệp Phước, cảng Phú Mỹ...
  3. Hệ thống sông Cửu Long đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành • đồng bằng sông Cửu Long mà diện tích lên tới 39.734km². Với lượng nước trung bình hằng năm vào khoảng 4.000 tỷ mét khối, vận chuyển khoảng 100 triệu tấn phù sa, sông Cửu Long đã phối hợp với biển Đông để tạo ra những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông, các giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, Tây Nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau. Điểm bất lợi là lượng phù sa bồi lắng quá lớn làm cạn các luồng lạch và cửa biển. Các hồ lớn ở miền Đông như Thác Mơ trên sông Bé, Trị An trên sông Đồng Nai, • Dầu Tiếng trên sông Sài Gòn, là những hồ nước nhân tạo trữ nước cho thuỷ điện và điều hoà lưu lượng cho hệ thống sông Đồng Nai. Các vùng trũng ở miền Tây nhưĐồng Tháp Mười ở hai bên sông Tiền, tứ giác • Long Xuyên ở phía Tây sông Hậu, là những hồ nước thiên nhiên góp phần điều hoà lưu lượng cho sông Cửu Long vào mùa nước nổi tháng 9, tháng 10. Ngoài khơi là vùng biển nông, có nhiều đảo và quần đảo như Côn Sơn, Thổ Chu, Nam Du, Phú Quốc... Về khí hâu: Nam Bộ là vùng tương đối điều hoà, ít bão, quanh năm nóng ẩm, không có ̣ mùa lạnh. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4. 2. THỜI GIAN VĂN HÓA Nam Bộ là vùng văn hóa trẻ. Khoảng 5.000-4.000 năm trước, người Indonesian đã đên đây khai pha, tao nên ́ ̣́ • văn hoá Đông Nai. ̀ Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VIII, người Indonesian và nhiêu lớp người ngoai ̀ ̣ • nhâp (Thiên Truc, Nguyêt Thi, Nam Dương...) tao lâp nên văn hoá Oc Eo ở đông ̣ ́ ̣ ̣ ̣̣ ̀ ́ ̀ băng Nam Bộ và Đông Campuchia, dựng nên vương quôc Phù Nam hung manh. ̀ ́ ̀ ̣ Ngoài trung tâm Óc Eo, nhà nước Phù Nam còn có một trung tâm chính trị, văn • hoá và tôn giáo nữa trên vùng đất Long An, nơi có tới 100 di tích văn hoá Óc Eo với 12.000 hiện vật, đặc biệt là quần thể di tích Bình Tả, gồm ba cụm di tích: Gò Xoài, Gò Đồnvà Gò Năm Tước, có niên đại từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII. Vào khoảng năm 550, vương quốc Chân Lạp tiêu diệt Phù Nam. Nền văn hoá Óc • Eo vẫn còn tiếp diễn ở một số nơi trên đồng bằng sông Cửu Long nhưng đến cuối thế kỷ VIII thì tàn lụi hẳn.
  4. Người Khmer chỉ thực thụ định cư ở Nam Bộ từ đầu thế kỷ XVI. • Khoảng cuối thế kỷ XVI, đã có những người Việt đầu tiên vượt biển tới khai • phá vùng đất này. Nhờ cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II từ năm 1620, mối quan hệ giữa Đàng Trong và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống. Khu vực Sài Gòn, Đồng Nai bắt đầu xuất hiện những người Việt định cư. Người Hoa bắt đầu di dân đến Nam Bộ từ năm 1679, khi chúa Nguyễn Phúc • Tần cho các tướng "phản Thanh phục Minh" Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên và 3.000 người tuỳ tùng tớiMỹ Tho, Biên Hoà và Sài Gòn để khai khẩn, định cư. Người Chăm Nam Bộ nguyên là di dân người Chăm ở Chân Lạp, gọi là người • Côn Man. Năm 1756, sau khi người Côn Man bị quân Chân Lạp đuổi đánh, Nguyễn Cư Trinh đã tâu xin chúa Nguyễn và đưa họ về định cư ở Châu Đốc, Tây Ninh. Về sau, người Chăm ở Châu Đốc (An Giang) tiếp tục di dân đến Kiên Giang, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương... Từ năm 1835, vùng đất này đã trải qua 8 lần thay đổi tên gọi cũng như vị trí của • nó trong hệ thống hành chính: Gia Định Phủ (1698-1802), Gia Định Trấn (1802- 1808), Gia Định Thành (1808-1832), Nam Kỳ (1832-1867), Cochinchine tức Nam Kỳ thuộc Pháp (1867-1945), Nam Phần (1945-1975), Nam Bộ (1945 đến nay). 3. CHỦ THỂ VĂN HÓA Hiện nay, Nam Bộ là nơi cư trú cua người Việt và cac tôc người thiểu số là cư dân bản ̉ ̣́ địa: Stiêng, Chrau, Ma, hoặc di dân: Khmer, Hoa, Chăm, Tay, Nung, Mường, Thổ... ̣ ̀ ̀ Người Stiêng cư trú ở Binh Phước, Binh Dương, Tây Ninh, Lâm Đông, Đăk Lăk, ̀ ̀ ̀ ́ ́ • có dân số 66.788 người, trong đó riêng Nam Bộ là 66.425 người (1/4/1999). Người Chrau cư trú ở Đông Nai, Binh Phước, Binh Thuân, Bà Ria - Vung Tau, ̀ ̀ ̀ ̣ ̣ ̃ ̀ • có 22.567 người, riêng Nam Bộ là 22.467 người. Người Mạ có dân số 33.338 người thì cư trú chủ yếu ở Lâm Đông, ở Đông Nai ̀ ̀ • thuộc Đông Nam Bộ chỉ có 2.482 người Mạ. Người Khmer cư trú ở Soc Trăng (350.000 người, chiếm 28,9% dân số toàn tỉnh, ́ • 32,1% tổng số người Khmer cả nước), Trà Vinh (290.900 người, chiếm 30,1% dân số toàn tỉnh, 27,6% số người Khmer cả nước), An Giang, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Kiên Giang, Tây Ninh..., với dân số 1.055.174 người.
  5. Người Hoa cư trú ở thành phố Hồ Chí Minh (428.576 người), Vĩnh Long, Trà • Vinh, Sóc Trăng, Cần Thơ, Kiên Giang, Bạc Liêu..., với dân số 862.371 người, riêng Nam Bộ là khoảng 800 ngàn người. Người Chăm có dân số 132.873 người, cư trú chủ yếu Nam Trung Bộ, nhưng ở • An Giang (12.435 người), thành phố Hồ Chí Minh (5.192 người), Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Phước, Kiên Giang, Bình Dương... thuộc địa bàn Nam Bộ cũng có 24.288 người Chăm. Các tộc người khác thì di dân vào Nam Bộ theo ba đợt chính: di dân có tổ chức • vào các năm 1954, 1975, và di dân tự do ồ ạt từ năm 1994. Trường hợp tiêu biểu là địa bàn tỉnh Bình Phước. Vào năm 1998, trên đia ban này đã có 468.000 ̣ ̀ người Viêt (hơn 82% dân sô), 12.000 người Tay, và 11.000 người Nung. Trong ̣ ́ ̀ ̀ luc đo, dân số người Stiêng tại chỗ chỉ tăng từ 49.177 người vao năm 1989 lên ́ ́ ̀ 55.250 người vao năm 1999. Do đó mà người Stiêng ngay cang thiêu đât canh tac ̀ ̀ ̀ ́ ́ ́ và luât tuc về quyên sở hữu công đông cua họ đôi với đât rừng bị xâm pham ̣̣ ̀ ̣ ̀ ̉ ́ ́ ̣ ̣ nghiêm trong. Do vậy, Nam Bộ cũng là môt vung đât đa tôc người. ̣ ̀ ́ ̣ Chủ thể văn hoá chinh của toan vung vân là người Viêt, tộc người đa số mà ́ ̀ ̀ ̃ ̣ • dân số ở riêng Nam Bộ lên đến hơn 26 triêu người, chiếm 90,9% dân số của ̣ vùng. • Riêng ở tiêu vung Tây Nam Bô, chủ thể văn hoá chinh bên cạnh người Viêt ̉ ̀ ̣ ́ ̣ còn có người Khmer và người Hoa. Người Khmer là một tộc người thiểu số đông dân, xêp thứ 5 trong 54 ́  tôc người ở Việt Nam, và có trinh độ kinh tế - xã hôi phát triển. ̣ ̀ ̣ Người Hoa cũng là một tộc người thiểu số đông dân, xêp thứ 6 trong ́  54 tôc người ở Việt Nam, và có trinh độ kinh tế - xã hôi phát triển ̣ ̀ ̣ 4. ĐĂC TRƯNG VĂN HOÁ NAM BỘ ̣ Hình thành trên một vung đông băng sông nước và trên môt vung đât đa tôc người, văn ̀ ̀ ̀ ̣ ̀ ́ ̣ hoá Nam Bộ có hai đặc trưng chủ đạo là đặc trưng đồng bằng sông nước và sự tiếp biến các yếu tố văn hoá của người Chăm, người Khmer, người Hoa vào văn hoá Việt trong vùng. 4.1. Nét tính cách của người dân Nam Bộ: Người miền Nam rất Hiếu khách, tính tình bộc trực mạnh mẽ, hào phóng và • đôn hậu.
  6. Tính nghĩa khí hào hiệp, tấm lòng nhân hậu, bao dung, tư chất thông minh và • giàu nghị lực. Phụ nữ miền Nam rất đỗi vị tha, dịu dàng mà lại khéo tay, nhưng đáng quý nhất • là sự hy sinh cho chồng con, cho quê hương Đất nước. 4.2 Trang phục của người Nam bộ: Về trang phục, do sống trong môi trường sông nước, nông dân người Việt ở Nam Bộ, cả nam và nữ, rất thích chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn. Chiếc áo bà ba gọn nhẹ rất tiện dụng khi chèo ghe, bơi xuồng, lội đồng, tát mương, tát đìa, cắm câu giăng lưới, và có túi để có thể đựng một vài vật dụng cần thiết. Chiếc khăn rằn được dùng để che đầu, lau mồ hôi, và có thể dùng quấn ngang người để thay quần. Trang phục thường nhật của nam giới người Khmer Nam Bộ cũng là bộ bà ba • đen, quấn khăn rằn. Trong dịp lễ tết, họ mặc áo bà ba trắng, quần đen (hoặc áo đen, quàng khăn quàng trắng chéo ngang hông vắt lên vai trái). Riêng thanh niên hiện nay khi ở nhà thường không mặc áo và quấn chiếc xà rông kẻ sọc. Trang phục nữ giới thông thường cách đây ba, bốn mươi năm là xăm pốt, một • loại váy bằng tơ tằm, hình ống (kín). Chiếc váy điển hình là loại xăm pốt chân khen, một loại váy hở, quấn quanh thân, nhưng khác nhiều tộc người khác cũng có loại váy này là cách mang váy luồn giữa hai chân từ sau ra trước, rồi kéo lên giắt cạnh hông. Họ thường mặc váy trong những ngày lễ lớn, mỗi ngày mặc một màu khác nhau. Đó là loại xăm pốt pha muông. Ngày nay các loại trên ít thấy, có khả chăng chỉ trên sân khấu cổ truyền mà thôi. Thường nhật hiện nay, trang phục của người Khmer giống với người Việt ở địa phương. Trong lễ tết, họ lại mặc loại áo dài giống người Chăm. • Người Chăm Nam Bộ cũng sử dụng những trang phục dân tộc nhưng có tiếp nhận ảnh hưởng trang phục của các tộc người cộng cư. Phụ nữ Chăm khi tiếp xúc với khách hoặc khi ra đường đều đội khăn để che kín tóc, nhưng không phải mang mạng che mặt như phụ nữ Hồi giáo ở Trung Đông. 4.3. Kiến trúc nhà ở: Vùng đát Nam bộ là vùng đất trũng có hơn phân nửa diện tích ven biển lqà vùng đất lợ, điều kiện môi trường rất thích hợp cho các laọi cây sú, vẹt, đước, bần, tràm, dừa nước…sinh sống. Người dân ở đây đã tận dụng các sản vật tự nhiên này làm vật liệu xây dựng cho ngôi nhà của mình. Nam Bộ có ít bão tố, nhiều kênh rạch, con người phải dồn sự chăm chút cho ghe
  7. xuồng và vườn tượt nên nhà của khá tạm bợ. Một ít cây làm cột , làm kèo, một ít lá dừa nước vừa lợp mái, vừa thưng vách là đã có một ngôi nhà ấm cúng. Nhà ở của người Việt Nam Bộ có ba loại chính: nhà đất cất dọc theo ven lộ, nhà sàn cất dọc theo kinh rạch, và nhà nổi trên sông nước. Nhà nổi trên sông nước là nơi cư trú đồng thời là phương tiện mưu sinh của những gia đình theo nghề nuôi cá bè, vận chuyển đường sông, buôn bán ở các chợ nổi, bán sỉ và bán lẻ trên sông. Người Khmer trước đây đều ở nhà sàn, nhưng ngày nay phần nhiều đã chuyển thành nhà đất, nhà sàn chỉ còn phổ biến ở những khu vực gần biên giới. Nhà ở của họ ngày nay về hình dáng, vật liệu kiến trúc cũng gần giống với nhà của người Việt và người Hoa. Nếu sống trên đất cao thì người Khmer thường làm nhà đất, còn ở nơi đất thấp họ phải cất nhà sàn, nhỏ nhưng nóc cao, mái rất dốc và thường được lợp bằng lá dừa nước, ở các vùng gần biên giới thì dùng lá dừa chằm để lợp. Người Chăm Nam Bộ trước đây cũng ở nhà sàn, nhưng ngày nay phần nhiều cũng đã chuyển thành nhà đất. Ở miền Đông, người Stiêng vẫn còn sử dụng nhà sàn dài, phù hợp với chế độ đại gia đình phụ hệ, nhưng người Chrau thì phần nhiều cũng đã chuyển nhà sàn thành nhà đất như người Việt. 4.4 . Kiên trúc đình chùa: Đình Nam Bộ là một quần thể kiến trúc nghệ thuật gồm nhiều nhà vuông có 4 cột cái rất to ( tứ cột). Nhà vuông là một loại hình kiến trúc tôn giáo đặc trưng cho Nam Bộ. Nhà này nóc ngắn so với chiều dài diềm mái và có 4 mái trải rộng ra 4 phía. Một ngôi đình Nam Bộ khi bước qua cổng thì có một bệ gạch được xây ở giữa sân đình gọi là đàn xã tắc. • Các kiến trúc như chánh tẩm, võ ca,hội sở lại có nhiều nếp nhà nối liền nhau mà người dân Nam bộ thường gọi là xếp đọi (Đình Thông Tây Hội – Gò Vấp – TP Hồ Chí Minh). Chánh điện gồm hai nếp nhà hội sở gồm ba nếp nhà, võ ca gồm 7 nếp nhà. • Kiến trúc đình chùa buổi đầu và kể cả ngày nay tai vùng nông thôn, trong các công trình phụ như: bếp, kho, nhà khách…loại vật liệu thô sơ cũng được người ta tận dụng đẻ kiến tạo. Đặc biệt: cây tràm đến ngày nay vẫn là loại cây tiện dụng nhất tại Nam bộ. • Kiến trúc Thánh Đường Giáo Hội của người Chăm được xây dựng với những kiểu kiến trúc đẹp theo phong cách riêng với các tháp và nóc vòm ngoạn mục tạo nên một nét văn hóa riêng ở các khu vực người Chăm theo đạo Islam. Có hai
  8. loại thánh đường. + Thánh đường lớn xây dụng theo hướng Đông Tây có hậu cung được trang hoàng chạm trỗ đẹp mắt. +Thánh đường nhỏ là những căn nhà thường không có hậu cung + Thánh đường Hồi Giáo có cửa sổ, cửa ra vào đều xây uốn theo kiểu kiến trúc hồi giáo cổ điển. Những công trình kiến trúc tồn tại cùng thời gian đã tạo nên nét riêng cho kiến • trúc Nam Bộ. Sự tiếp thu văn hoá của Campuchia đã để lại nhiều dấu ấn là các công trình kiến trúc đặc sắc. 4.5. Ẩm thực Nam bộ: Nói đến tính hoang dã và tính sáng tạo trong văn hóa ẩm thực Nam Bộ là nói đến đặc tính ăn uống của người Miền Nam thể hiện trong các món có nhiều nguồn gốc tự nhiên và sự chế biến các món ăn tự nhiên đó thành các món ăn khác nhau ,sự trù phú của vùng đất này về các nguồn lợi tự nhiên , vùng đất “làm chơi ăn thiệt “ . Vì đây là nơi được thiên nhiên ưu đãi cho con người , con người không phải làm lụng nhiều mà vẫn có cái ăn gặp gì ăn nấy , từ những cây cỏ trên bờ , con cá dưới sông , con chim trên trời , cho đến các loài sinh vật khác. Tính hoang dã trong văn hóa ẩm thực của người Nam Bộ đã được định hình từ đây. • Điều dễ nhận thấy nhất ở tính hoang dã này là người Nam Bộ ăn rất nhiều rau , đây là loại thức ăn có sẵn ở vùng sông nước , ao hồ , ruộng vườn rất dễ tìm không cần nhiều thời gian chế biến , có loại chỉ cần hái vào rửa sạch là ăn được . Người ta có thể ăn các loại rau từ rau đắng , rau dền , rau răm , cải xanh , tía tô, hành , hẹ , ngò gai, … đến các loại cây bông như : bông điên điển , thiên lí , bông kim châm…  Trong danh mục này có thứ dùng để ăn sống , có thứ dùng để nấu canh , có thứ luộc lên chấm với cá kho thịt kho hay nước chấm. Người Việt nơi đây rất chuộng ăn canh, và do tiếp biến các món canh chua của người Khmer, nên các món canh chua Nam Bộ cực kỳ phong phú. Do nguồn thuỷ sản dồi dào, thành phần thuỷ sản như cá, tôm, cua, rùa, rắn, nghêu, sò, ốc, hến, lươn... giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu bữa ăn. Cũng do môi trường lắm tôm cá, nên các loại mắm nơi đây phong phú hơn hẳn các vùng miền khác: mắm cá lóc, mắm cá sặc, mắm cá linh, mắm tôm chua, mắm rươi, mắm còng, mắm ba khía, mắm ruốc, mắm nêm... Cách chế biến cũng rất đa dạng và đặc sắc: mắm sống, mắm kho, mắm chưng, lẩu mắm, bún mắm...
  9. Từ các nguồn nguyên liệu thuỷ sản này kết hợp với các loại rau trái phong phú, người Nam Bộ đã sử dụng các kỹ thuật nấu nướng khác nhau như nướng, hấp, chưng, luộc, kho, xào, khô, mắm... để chế biến ra các loại món ăn khác nhau với những hương vị độc đáo. Rất nhiều món ăn bình dân nhưng hấp dẫn: canh chua cá kèo, chuột đồng xào sả ớt, cháo cá rau đắng, cá lóc hấp bầu, bún mắm Đồng Tháp, bánh canh Trảng Bảng, v.v. đã có mặt trong thực đơn của các "làng ẩm thực", nhà hàng sang trọng trong vùng. Bên cạnh đó, mỗi địa phương lại có những đặc sản nổi tiếng của mình. • Tây Ninh có bánh canh Trảng Bàng, bánh tráng Trảng Bàng... Long An có dưa hấu Long Trì, dứa Bến Lức, rượu đế nếpGò Đen... • Đồng Tháp có bánh phồng tôm Sa Giang, nem Lai Vung, quýt hồng Lai Vung, • chuột đồng Cao Lãnh, sen... Trà Vinh có cốm dẹp trộn dừa kiểu Khmer, các món đuông như đuông chà là, • đuông đất, đuông dừa, mắm rươi, rượu Xuân Thạnh, bánh tét, bánh tráng ba xe, mắm kho, bún nước lèo, lươn um lá cách, cá cháy Cầu Quan, tôm càng nấu lẩu chua cơm mẻ, chuột đồng khìa nước dừa, vọp chong nướng lụi, bánh xèo, bánh ống, bánh canh Bến Có... Sóc Trăng có bánh pía, lạp xưởng, bún nước lèo, bánh cống Đại Tâm (Mỹ • Xuyên), bò nướng ngói Mỹ Xuyên, bún xào Thạnh Trị, bún gỏi già... Hậu Giang có khóm Cầu Đúc (Vị Thanh), bưởi Năm Roi (Châu Thành), cá thát lát mình trắng (Long Mỹ)... Kiên Giang có nước mắm Phú Quốc, rượu sim, bánh tằm bì, tôm khô,phồng • mực, bún cá, tiêu, xôi Hà Tiên, bún nước lèo... • Cà Mau có mắm lóc U Minh, ba khía Rạch Gốc (Ngọc Hiển), sò huyết Bãi Bồi (Ngọc Hiển), tôm khô Bãi Háp (Năm Căn), v.v. Người Khmer Nam Bộ cũng có các món ăn đặc trưng như mắm prahoc, canh sòm lo ko kô, bún sòm lo mun mờ chat... Mắm prahoc(người Việt gọi là mắm bò hóc) được làm bằng nhiều loại cá, cách làm rất công phu và tốn thời gian (khoảng hơn 4 tháng). Bên cạnh đó còn có các loại mắm pro ot (bò ót), ơng pa, pơ ling làm bằng tép mồng, tép bạc, và một loại mắm chua rất ngon có tên là pha ơk (mắm chao). Dùng tôm tép trộn muối và cho vào nhiều thính (gạo rang) xong đem phơi nắng khoảng 7-10 ngày. Khi ăn người ta trộn với đu đủ xanh thái nhỏ, củ gừng, củ riềng, ớt, chuối chát xắt mỏng. Canh sòm lo ko kô (canh sim lo) thì có cách nấu rất công phu, phải dùng thịt, cá tươi nấu với rau ngổ, chuối rém, hoặc trái đu đủ non và nêm bằng mắm prahoc. Đây là món canh phổ thông được dùng ở nhiều nơi. Món bún sòm lo mun mờ chat (bún nước lèo)
  10. thì cả người Khmer và người Việt đều có và ưa thích. Ngoài ra, người Khmer còn có món canh vừa chua vừa cay vừa béo gọi là sòm lo mò chu được nấu với cơm mẻ rất đặc sắc, hoặc thêm trái chuối xiêm còn xanh và một ít mắm prahoc gọi là sòm lo mò chu pha le rất ngon. Người Chăm Nam Bộ theo Hồi giáo có những món ăn riêng phù hợp với đạo Hồi, gọi là các món halal. Họ được ăn thịt, nhưng phải là các loại thịt do chính người Chăm Hồi giáo cắt tiết, đọc kinh. Riêng thịt heo, thịt chó, thịt của những con vật tự nhiên ngã ra chết hoặc bị giết bằng cách xiết cổ, đập đầu, bị ngã, bị húc, bị mãnh thú xé xác, thì không được phép dùng. Trong tháng chay nhịn Ramadan, người Chăm Hồi giáo phải giữ mình trong sạch và phải chịu thử thách bằng cách nhịn mọi thứ vào ban ngày và chỉ được phép ăn, uống, hút thuốc vào ban đêm. Đối với các loại thuỷ hải sản , ngoài các loại cá , tôm bắt ở ao người ta còn ăn các loài mang tính hoang dã như : con còng , con cua , ba khía , chuột , cóc , nhái , ếch , dơi , luôn…và thậm chí người ta còn ăn một số côn trùng như : cào cào , dế.. Nhưng nổi bật hơn trong tính hoang dã này chính là môi trường của việc ăn uống, người Nam Bộ thường có thói quen chế biến món ăn và ăn ngay tại chỗ , nên tính hoang dã ở đây thể hiện ở việc các món ăn gắn với không gian của một khoảng vườn, mảnh ruộng , bờ ao. Món cá lóc nướng trui là một minh chứng cho điều này , hoặc một nồi canh chua cá lóc được nấu ngay sau buổi tát đìa cũng thể hiện điều đó . Bởi vì , mọi thứ đều là cây nhà lá vườn, tát đìa xong người ta dựa những con cá lóc to đem nấu canh chua. Mọi thứ như bạc hà , cà chua , ớt …đều có sẵn gần đó không phải ra chợ mua. Khi chín chỉ chặt lá chuối tươi để lót nồi và làm dĩa đựng cá , thêm một chén muối ớt để chấm cá là đã có được một món canh chua cá lóc của một gia đình Nam Bộ giữa một đồng ruộng mênh mông. Món cào cào rang cũng đặc biệt , bởi vùng này nhiều cào cào đến độ chỉ cần cầm túi ra bắt một tí là được một buổi ăn của gia đình , bắt cào cào đem về lặt chân, móc ruột cho vào chảo rang vơi xã ớt , ít gia vị là xong một món khoái khẩu . Nhưng cũng có những món ăn hoang dã ở Nam Bộ dù chưa hẳn là ngon nhưng cũng phần do lạ mà hấp dẫn . Mà Nam Bộ là nơi “đất lành chim đậu” nhờ mưa thuận gió hòa mà nới đây càng trừu phú phồn thịnh: Sự tiếp biến trong văn hóa ẩm thực của các dân tộc ở đây đã làm cho các món ăn nơi vùng đất này không ngừng phong phú qua việc tiếp thu rồi chế biến lại , tạo ra hương vị khác . Bún nước lèo của người Khmer là một ví dụ . Món này vốn là đặc trưng của người Khmer nhưng được cả người Việt và người Hoa ưa thích. Bún nước lèo được chế biến từ tôm, cá nấu nhừ, rồi rỉa bỏ hết xương, nêm vào nước lèo sả, ớt, củ ngải bún được giã nhuyễn, sau đó nêm mắm bò-hóc vào cho đậm đà. Ăn kèm với món này là các loại rau húng nhủi, húng quế, hẹ, bắp chuối... Nhưng khi bún nước lèo này qua tay những thợ nấu người Việt thì các nguyên liệu của nó không được giữ nguyên như
  11. cũ, mà nó đã được thêm bớt cho phù hợp với cái “gu” của mình: người Việt lại cho thêm tép bóc vỏ, thịt heo quay và một số loại rau khác, mà những loại rau này đôi khi nó khác hẳn nguyên gốc. Một món ăn cũng đặc trưng của người Khmer đó là món canh xiêm lo. Canh xiêm lo là một loại canh chua nói chung, được người Khmer nấu với đầu xương cá khô và rau ghém (chuối cây non hoặc bắp chuối). Nấu món này người Khmer thường dùng me hoặc cơm mẻ. Nhưng khi món canh xiêm lo này qua bàn tay chế biến của các bà nội trợ người Hoa thì họ có cách làm hơi khác một chút: nấu canh xiêm lo, người Hoa vẫn dùng rau ghém và đầu xương cá khô, nhưng lại không dùng me hoặc cơm mẻ; cá khô dùng để nấu món canh này, người Hoa thường dùng loại khô cá sửu, chứ không phải cá lóc như người Khmer. Đối với các món ăn của người Hoa, các dân tộc Việt, Khmer cũng có sự chế biến lại. Như món cháo trắng, hột vịt muối của người Hoa vẫn được người Việt ưa dùng. Nhưng khi ăn cháo trắng, người Việt không chỉ ăn với hột vịt muối mà còn có dưa mắm và cá cơm, cá lòng tong kho khô... Hay món heo quay của người Hoa thường được ăn kèm với bánh hỏi thì người Việt dùng heo quay đem kho lại, nêm thêm gia vị vào... Hoặc món vịt tiềm của người Hoa thường được nấu với chanh muối nhưng lại được người Việt đem tiềm với cam - ngon cũng không kém. Món canh chua của người Việt thường được nấu với các loại cá thì người Hoa lại nấu canh chua với gà. Món cá rô kho tộ của người Việt được người Hoa giữ nguyên công thức cũ khi nấu, nhưng họ lại cho mỡ và tiêu nhiều hơn... Như vậy, quá trình cộng cư lâu dài giữa các dân tộc Việt, Hoa, Khmer trên vùng đất Nam bộ này đã khiến mọi mặt văn hóa hòa hợp và giao lưu lẫn nhau. Mỗi dân tộc, đều lưu giữ một nền văn hóa riêng của mình, đồng thời cũng đóng góp vào nền văn hóa chung của một vùng đất làm cho nền văn hóa Nam bộ nói chung, văn hóa ẩm thực ở Nam bộ nói riêng có sự phong phú, đa dạng và nhiều màu sắc. Tính sáng tạo thể hiện ở việc con người chế biến ra các món ăn khác . Việc chế biến này nhìn nhận ở hai phương diện . Thứ nhất một món ăn người ta có thể chế biến bằng nhiều loại động thực vật khác . Chỉ một món kho người ta có thể chế biến kho với các loại động thực vật hoặc thủy hải sản khác để tạo ra hương vị món ăn khác nhau . Thứ hai , chỉ một loài sinh vật , người ta có thể chế biến ra nhiều món ăn khác , với cách làm khác và hương vị cũng khác . Chỉ môt loại cá lóc , người dân có thể chế biến ra nhiều món ăn khác nhau như : khô lóc nướng , canh chua đầu cá lóc , cá lóc nướng trui, cá lóc kho ba chỉ - hột vịt, cá lóc xào ớt xanh , cháo cá lóc… Bên cạnh đó , nói đến món ăn Nam Bộ không thể không đề cập đến các mon mắm . Món mắm là một sáng tạo độc đáo của người Nam Bộ , mắm chủ yếu được chế biến từ cá , ngoài ra còn có mắm rươi, mắm tôm , ba khía .. Điều này cũng được làm trò vui trong khi đố cuộc nhau .
  12. 4.6. Đi lại Để đi lại, vận chuyển, các tộc người cư trú nơi đây đều phải lựa chọn những phương tiện phù hợp với các địa hình đặc trưng của không gian Nam Bộ. Ở trên đất liền thì các cư dân Nam Bộ dùng xe bò, xe ngựa, xe đạp, xe thồ, xe • tải... • Ở vùng sông nước thì dùng xuồng, ghe, tắc ráng, vỏ lãi, tàu, bè, bắc (phà), cộ... Ở miền Tây sông nước, xuồng ghe có vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là • phương tiện vận chuyển tiện dụng cho tất cả mọi người, vừa là phương tiện mưu sinh và phương tiện cư trú của một số lớn cư dân làm nghề đò ngang, đò dọc, buôn bán và nuôi cá trên sông. • Hình ảnh dòng sông, con đò vì vậy đã phổ biến đến mức trở thành một hình tượng văn học, một biểu tượng của không gian Nam Bộ. • Trong thời Pháp thuộc, khi giao thông đường bộ bước đầu phát triển, người Nam Bộ đã gọi các chuyến xe khách liên tỉnh, liên vùng là xe đò. Nói chung, cho đến nay ở miền Tây giao thông đường thuỷ vẫn rất thông dụng và thuận lợi, mặc dù giao thông đường bộ đã được cải thiện nhiều. 4.7. Lễ hội truyền thống: Lễ hộicủa người Việt Nam Bộ cũng rất đa dạng, bao gồm bốn loại: lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo: bao gồm các lễ hội thường niên của đạo Phật, đạo • Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, hội đền Linh Sơn Thánh mẫu ở núi Bà Đen... Nhưng lớn nhất vẫn là lễ hội Vía Bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc. • lễ hội nông nghiệp. lễ hội ngư nghiệp. lễ hội Nghinh Ông là sự kiện quan trọng bậc nhất trong đời • sống văn hoá và tâm linh của cư dân. lễ hội văn hoá - lịch sử : Ở các đình làng, thường xuyên có các lễ hội Kỳ • yên tiến hành vào đầu năm và cuối năm, để tạ ơn Thành hoàng Bổn cảnh, thần
  13. linh và các bậc tiền hiền, hậu hiền có công khai khẩn, khai cơ, giúp dân an cư lạc nghiệp. Lễ tết cổ truyền như tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ..., các lễ hội tưởng niệm các danh nhân có công mở đất như Nguyễn Hữu Kính, Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu), Lê Văn Duyệt, Trần Thượng Xuyên, và lễ hội tưởng niệm các anh hùng dân tộc như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Đốc binh Kiều, Phan Công Hớn, Ngô Tán Đước, Nguyễn Thanh Long, Trương Văn Rộng, Trần Công Thận Lễ hội Nam Bộ đan xen pha trộn nhiều dòng văn hóa khác nhau : VD : + Giao lưu văn hoá Việt – Hoa : Lễ hội chùa bà ở Bình Dương ( Rước linh vị bà sang miếu Quan Thánh rồi sang chùa bà Chúa Thuận Thiên của người Việt) + Giao lưu văn hoá Việt Khmer : Lễ hội đình Linh Sơn Thánh mấu ở Tây Ninh…. - Lễ hội Nam Bộ còn có nội dung tưởng niệm những anh hùng lịch sử địa phương thời cận đại , những người có công khia hoang mở đất , bảo vệ đất nước ( Nguyễn Trung Trực , Trương Định …) bắt nguồn từ nhu cầu bảo đảm liên kết cộng đồng để sống còn trước những thử thách nghiệt ngã của tự nhiên và kẻ thù xâm lược . - Lễ hội Nam Bộ đã định chế hoá loại hình diễn xướng Hát bội ( Cung đình ) và một số loại hình diễn xướng dân gian khác như múa bóng rỗi , địa Nàng , múa mâm vàng …( cúng miếu bà Chúa Xứ) vào lễ hội truyền thống của người Việt Nam Bộ. - Mật đọ lễ hội tại Nam Bộ thưa thớt hơn Miên Bắc nhưng sức cuốn hút lại vô cùng to l ớ n . - Nữ thần được tôn vinh đây là một đặc điểm nổi trội của yếu tố giới . * Một số lễ hội lớn: I. Lễ hội của người Việt: 1 . Lễ hội Kỳ Yên : thường diễn ra từ 15/1 đến 15/3 tuỳ theo mỗi địa phương , thường được tổ chức ở đình làng. Những nét đặc trưng của lễ hội : Cầu quốc thái dân an Phong điều vũ thuận ( đất nước thái bình , mưa thuận gió hoà ) - Nghi thức tế lễ ở đình gồm : + Nghi thức túc yết kiểm soát : lễ vật cúng phải tinh khiết ( lau mặt trống , chiêng , dâng hương, nước, rượu , trái cây, hoa quả..) + Nghi thức đàn cả : giống túc yết nhưng thêm nghi thức “ ẩm phước” dâng hương , rượu, trà ) cúng cầu siêu cho anh hùng liệt sĩ vì quốc vong thân , cúng tiền hiền, hậu hiền. Thái cực : Ông bàn cổ , cầm nhang vái bốn phía với ý nghĩa thái cực đang vận hành , khai thiên lập địa Lưỡng nghi : âm dương sang nhật nguyệt , cầm dĩa đỏ trắng tương hợp Tam tài : thiên - địa – nhân , thể hiện Phúc - Lộc - Thọ không múa hát chỉ hát câu chúc
  14. phúc. Tứ tượng : tứ thiên vương cũng múa , giương bốn câu liễn chúc phúc Ngũ hành : 1 nam già , 4 nữ trẻ hát những bài quốc thái dân an . Bát quát : Lễ bát tiên hiến thọ, tặng quả đào. Lễ gia quan tấn tước , ông địa câmg quạt múa có chữ “ gia quan tấn tước “ + Nghi thức xây chầu đại hội : trong lễ cầu an , người ta dâng cúng cho thần một chầu hát bội ( hát cho thần xem ) , phải có nghi thức xây chầu để cầu cho buổi diến được thành công và cầu bình an cho làng xóm . ( 5 giai đoạn diễn trên sân khấu theo sự vận chuyển trong vũ trụ : thái cực , lưỡng nghi , tam tài , tứ tượng , ngũ hành, bát quái ) + Nghi thức lễ hồi chầu - kết thúc cuộc lễ Kết luận : Cúng đình là nghi lễ để củng cố tình cảm cộng đồng , quê hương, đề cao công ơn thần tiền hiền , hậu hiền , người có công với làng nước thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn , giáo dục thế hệ trẻ ý thức về lịch sử , tôn kính tiền nhân (những người mở đất khẩn hoang Nam Bộ ) 2 . Hội đền Linh Sơn Thánh Mẫu ( 10 – 15 / 1 ) Núi Bà Đen Tây Ninh và Lễ Hội Diêu Trì Cung ( 15 / 8 âm lịch ) Đền Phật Mẫu Toà thánh Cao Đài ở Tây Ninh Cả hai lễ hội này đều là một dạng triễn lãm sản phẩm nông nghiệp được làm ra trong năm và cầu cho năm mới được thu hoạch bội thu hơn. 3 . Lễ hội Bà Chúa Xứ : diễn ra từ 23 – 27 / 4 ( chánh vía 24/4 – ngày an vị tượng bà , tháng chuẩn bị làm đồng và tạ ơn bà cầu bà phù hộ ) nơi diễn ra lễ hôị tại Núi Sam – Châu Đốc ( An Giang ) . Đây là lễ hội lớn nhất , dài ngày nhất ở Nam Bộ là nơi cầu phúc cho bá tánh khắp nơi quy tụ về đây. 4 . Lễ hội Nghing Ông ( Cầu ngư , tế cá Ông ) Thời gian diễn ra lễ hội từ tháng 3 đến tháng 8 hằng năm ( biển yên tĩnh thời tiết thuận hoà) Nơi diễn ra lễ hội tại các lăng đình thờ cá Ông trên dọc bãi biển Nam Bộ từ Kiên Giang đến Bình Thuận. Đây là lễ hội lớn nhất của cư dân ven biển cầu an , cầu được mùa cá và thể hiện lòng biết ơn cá Voi ( cứu nạn ngư dân trên biển ) . Nhân dịp này ngu dân vừa tế , nginh vừa vui chơi : cà keo , múa bông , hò khoan , đua thuyền thúng, chèo cạn. II . Lễ hội của người Hoa : 1 . Lễ hội bà ( Thiên Hậu ) : thời gian mở hôi và 15/1 ( tết Nguyên tiêu ) vía 23/3 âm lịch. Nơi mở hội là những nơi tập trung đông đảo cư dân người Hoa trên Nam Bộ : Chợ Lớn – Sài Gòn , Lái Thiêu , Bình Dương…Đây không chỉ là ngày của những người Hoa mà nó còn thu hút hàng triệu lượt người không thuộc dân tộc Hoa. Những người tham gia lễ hội thương vay tiền tượng trưng , tổ chức rước kiệu , hát Tiều , Quảng , múa Lân, Sư , Rồng,thi và bán đấu giá đèn lồng , thi võ thuật…
  15. 2 . Tết Đoan Ngọ : 5/5 âm lịch hằng năm đựơc tổ chức tại các am miếu , đình của người Hoa . Về tham dự khách thâp phương và bà con nơi đây thường làm việc thiện : phóng sinh ( chim , cá ..) , bố thí người nghèo , đóng góp công ích cho khu phố , trường học …Ngoài ra còn có xin xăm , bói toán đoán vận mệnh. Người Hoa còn có vay tiền tượng trương để làm ăn ( mua bột mì , cam quýt ) với quan niệm dân gian : Vay rằm tháng một trả rằm tháng chạp. Những người đến tham dự lễ hội thường cầu xin con trai đến bà Kim Hoa Nương nương… III. Lễ hội của người Khmer : 1 . Lễ vào năm mới ( pithi chol chnam thơ Mây ) Lễ lớn nhất trong năm của người Khmer : Thời gian khai hội 3 ngày giữa tháng 4 dương lịch ( tháng Chét Khmer ) thời điểm giao mùa bắt đầu mùa mưa , chuẩn bị mùa vụ mới . Những nét đặc trưng của lễ hội : - Tiễn thần Têvôđa cũ , đón Têvôđa mới - Rước Đại lịch ( tích thần Mâh Prưm ) 3 vòng quanh chính điện . - Nghe thuyết pháp - Cúng dường cho sư sãi - Tắm tượng phật để cầu phúc . - Tắm ông bà để báo hiếu tích phứơc 2 . Lễ cúng ông bà ( Pithi Dolta ) nhớ ơn ông bà , cầu phúc cho linh hôn thân nhân quá vãng . thời gian diễn ra lễ hội khoảng tháng 8, 9 âm lịch hằng năm. Nơi diễn ra lễ hội tại các chùa chiền của người Khmer . Những nét đặc trưng của lễ hội : - Đón linh hồn ông bà cha mẹ về nghe kinh lấy phước . - “Phchun Banh “ lễ góp bánh cho những linh hồn thiếu đói . - Ở Tinh Biên – An Giang có lễ hội đua bò truyền thống . IV . Lễ hội của người Chăm : 1 . Lễ cúng trăng ( Ok ombok ) lễ đút cốm dẹp : đây là một dạng ma phục cầu phước . Tống tiễn mùa mưa , đón mùa khô để làm ruộng , Quan niệm sự vận hành của mặt trăng ảnh hưởng đến mùa màng , ruộng rẫy . Cúng nông sản phẩm. Thường được diên ra 15/10 âm lịch tại các chùa và trong Phum sóc. Những nét đặc trưng của lễ hội : - Cúng trăng - Đút cốm dẹp - thả đèn nước , thả đèn gió , đua ghe ngo.
  16. 2 . Lễ Roya Idila ( kết thúc mùa chay Ranladat) lễ xả chay , ngày tết . Tháng 7-10 ( tháng 12 Hồi lịch ) đựơc diễn ra tại các thánh đường Hồi giáo và Plây . Những nét đặc trưng của lễ hội : - Dịp mọi người ở xa về xum họp gia đình . Tiễn năm cũ , đón năm mới . Thăm viếng nhau cầu nguyện điều lành cho nhau . - Tập tục “ Hiến sinh “ một con bò. Khuyên mọ người thực hiện tốt đức tin thịt bò chia đều cho các nhà trong xóm ( Truyền thuyết sự hi sinh của thần Ỉhohim , biểu lộ đức tin vào thượng đế đức thánh Ala ) Ngoài những lễ hội đặc trưng của từng dân tộc ở Nam bộ được kể trên Nam Bộ còn có những lễ hội đặc trưng của từng vùng , miền đang về văn hoá tín ngưỡng và mang tính lịch sử tồn tại và liên tục được kế thừa phát huy trên khắp các tỉnh ở Nam Bộ như : - Châu Thới Sơn - một di tích anh hùng , Thuận An – Bình Dương . - Đình Phong Phú – Nôi cách mạng “ Bưng 6 xã “ , phường Hiệp Phú , Quận 9 – TP Hồ Chí Minh. - Nam thiên Nhất Trụ - Chùa Một cột sừng sững giữa trời Nam , Quận Thủ Đức – TP Hồ Chí Minh - Lễ hội Trùng Cửu ( 9/9 âm lịch hằng năm) – Nhà thờ lớn Long Sơn – Vũng Tàu Và hàng trăm lễ hội lớn nhỏ khác kéo dài từ mũi Cà Mau đến Bình Thuận... 4.8. Văn học nghệ thuật: Nam Bộ có một kho tàng văn học, văn nghệ dân gian phong phú. Đó là các truyện dân gian phản ánh sự nghiệp khai phá đất đai, gắn liền với những danh thắng, di tích và nhân vật lịch sử. Đó là kho tàng ca dao và dân ca với các điệu hò, điệu lý, các bài hát huê tình, hát ru em, hát đồng dao, hát sắc bùa, hát thài, hát rối, hát vọng cổ, hát tài tử, v.v. Đặc biệt, hát vọng cổ và hát tài tử rất được người Nam Bộ ưa thích. Ngoài ra, Nam Bộ còn có một số thể loại văn học dân gian đặc sắc khác là nói vè, nói tuồng, nói thơ. • Đây là loại hình tự sự dân gian khá phổ biến, nó thông tin nhanh những nỗi niềm, tâm sự. Trong đó, vè chiếm vị trí quan trọng, có những vè tiêu biểu như vè Chàng Lía, vè Trịnh Hâm, vè thầy Thông Chánh... Truyện thơ và hình thức diễn xướng nói thơ cũng là một hoạt động văn nghệ • dân gian phổ biến tại Nam Bộ, với các truyện thơ nổi tiếng như Lục Vân Tiên,
  17. Phạm Công - Cúc Hoa, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Lâm Sanh - Xuân Nương, Thạch Sanh - Lý Thông, Dương Ngọc, Hoàng Trừu, Tấm Cám, Hậu Vân Tiên... Hát bội (tuồng) từ miền Trung đưa vào đã phát triển mạnh mẽ trên đất Nam • Bộ. Hầu hết các lễ hội thường có kèm theo hát bội. Ca nhạc tài tử phát sinh từ Gia Định rồi lan đến các tỉnh miền Tây, là một trong • những cội nguồn của nghệ thuật cải lương là loại hình sân khấu mới ra đời tại Nam Bộ vào đầu thế kỷ XX. Người Khmer Nam Bộ có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú bao gồm nhiều thể loại như truyện cổ tích (rương prêng), thần thoại (rương boran), tục ngữ (sopheaset), bài ca (châm riêng)..., và được chia làm hai mảng lớn là văn xuôi (peak sâmrai) và văn vần (kâm nap). Người Khmer Nam Bộ cũng có nhiều loại hình nghệ thuật rất độc đáo như múa, • âm nhạc, sân khấu, kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, trang trí... Nghệ thuật múa được chú ý nhiều nhất, bao gồm múa dân gian và múa chuyên • nghiệp. Ram vong, lâm lêv và sarvan là ba điệu múa dân gian phổ thông nhất, hầu như bất cứ người Khmer nào cũng biết. Ngoài ra là các điệu múa con sáo (sarikakev), múa trống chhayam, múa đám cưới, • múa đám tang, múa cúng Neak Ta và cầu Arăk... Người Hoa ở Nam Bộ có nên văn học, nghệ thuật rất phat triên, gồm đủ các bộ môn: ̀ ́ ̉ văn học, âm nhạc truyền thống, tân nhạc, ca kịch, hí kịch, múa hầu, múa lân - sư - rồng, tạp kỹ, kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, thư pháp, tranh kiếng, v.v. Người Chăm Nam Bộ có các hoạt động văn nghệ như ca, múa, kịch... Tuy bị câu thúc bởi đạo Hồi nhưng các hoạt động này vẫn được cộng đồng ủng hộ trong những dịp lễ hội. Thành tựu nổi bật nhất về nghệ thuật của người Chăm Nam Bộ là các thánh đường lớn với lối kiến trúc và trang trí rất độc đáo, đặc thù. Người Chăm Nam Bộ có chữ viêt riêng là chữ Chăm Melayu do người Chăm ́́ • Nam Bộ xây dựng dựa trên chữ Ả Rập và chữ Jawi của người Melayu ở Đông Nam Á, dùng để trao đổi trong cộng đồng và tìm hiểu đạo Hồi. Cac tôc người Stiêng, Chrau đều có nền văn học dân gianriêng, và có hệ thông chữ ̣́ ́ viêt được xây dựng theo mẫu tự La Tinh nhưng chưa được triên khai, phổ biên. ́ ̉ ́ Nói đến nghệ thuật ca hát dân ca cổ truyền Nam Bộ chúng ta sẽ nghĩ ngay đến các loại hình nghệ thuật phổ biến như : đờn ca tài tử , cải lương , tuồng , lý .. Và một kho
  18. tàng dân ca nhạc cổ phong phú . Có được kho tàng âm nhạc độc đáo như vậy cũng nhờ Nam Bộ có sự đa dạng và hài hòa giữa con người và thiên nhiên.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2