Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 3/2017<br />
<br />
VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI<br />
<br />
DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI – MỘT TIẾP CẬN KẾT HỢP<br />
TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG BIỂN<br />
ECOSYSTEM SERVICES - AN INTEGRATED APPROACH<br />
IN MARINE ENVIRONMENT MANAGEMENT<br />
<br />
Nguyễn Văn Quỳnh Bôi1<br />
<br />
Ngày nhận bài: 21/8/2017; Ngày phản biện thông qua: 23/9/2017; Ngày duyệt đăng: 25/9/2017<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Dịch vụ hệ sinh thái là các cấu trúc và những tiến trình mà thông qua đó các hệ sinh thái hỗ trợ và đáp<br />
ứng đời sống con người trực tiếp hoặc gián tiếp dựa trên hoạt động chức năng của hệ. Các can thiệp vào hệ<br />
sinh thái gắn liền với mức “chi trả” của các dịch vụ hệ sinh thái khác. Do vậy, việc đánh giá điều kiện của các<br />
hệ sinh thái, khả năng cung ứng các dịch vụ, và mối tương quan của chúng với đời sống của con người đòi<br />
hỏi một cách tiếp cận tổng hợp. Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (Payments for Ecosystems Services-PES) hay còn<br />
gọi là chi trả dịch vụ môi trường (Payments for Environment Services-PES) là một công cụ kinh tế, sử dụng để<br />
những người được hưởng lợi từ các dịch vụ hệ sinh thái chi trả cho những người tham gia duy trì, bảo vệ và<br />
phát triển các chức năng của hệ sinh thái đó. Cho đến nay, việc vận dụng khái niệm dịch vụ sinh thái và các<br />
vấn đề liên quan vào công tác quản lý môi trường biển ở Việt Nam vẫn còn mới. Theo đó, vấn đề nghiên cứu<br />
chi trả dịch vụ sinh thái đối với các hoạt động nuôi biển và khai thác hải sản cần được đặt ra.<br />
Từ khóa: Dịch vụ hệ sinh thái, Chi trả dịch vụ hệ sinh thái - chi trả dịch vụ môi trường, công cụ kinh tế,<br />
tiếp cận tổng hợp.<br />
ABSTRACT<br />
Ecosystem services are the structures and processes through which ecosystems support and provide for<br />
human well-being directly and indirectly based on functional activities of the systems. The interventions in<br />
ecosystems are associated with the cost of other ecosystem services. Thus, assessing ecosystem conditions,<br />
ability of providing services, and their relationship to human well-being requires integrated approach. Payments<br />
for Ecosystems Services (PES), known as Payments for Environment Services (PES), are an economic tool,<br />
used to force beneficiaries from ecosystem services to pay people that involve in maintaining, protecting and<br />
developing functions of the ecosystem. Up to date, applying concept of ecosystem services and related issues<br />
to marine environment management in Viet Nam is still rather new. Therefore, studies on PES for marine<br />
aquaculture and fishing should be proposed.<br />
Keywords: Ecosystem services, Payments for Ecosystems Services - Payments for Environment Services,<br />
economic tool, integrated approach<br />
<br />
1<br />
<br />
Viện Nuôi trồng thủy sản, Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 87<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
I. MỞ ĐẦU<br />
<br />
Số 3/2017<br />
là những lợi ích con người đạt được từ<br />
<br />
Trái đất là một phức hệ năng động của<br />
<br />
hệ sinh thái [5] hoặc dịch vụ sinh thái<br />
<br />
các quần xã động-thực vật và vi sinh vật và<br />
<br />
là những lợi ích của tự nhiên đối với các<br />
<br />
môi trường vô sinh, tương tác qua lại với tính<br />
<br />
hộ gia đình, cộng đồng và ngành kinh<br />
<br />
chất là một “đơn vị”. Và, con người là bộ phận<br />
<br />
tế [11]. Về mặt bản chất, có thể hiểu các<br />
<br />
không thể tách rời của trái đất. Về mặt bản<br />
<br />
dịch vụ hệ sinh thái là những điều kiện<br />
<br />
chất, có thể xem trái đất là một hệ sinh thái<br />
<br />
và các tiến trình mà thông qua đó các hệ<br />
<br />
– hệ sinh thái toàn cầu, gồm nhiều hệ sinh<br />
<br />
sinh thái hỗ trợ và đáp ứng đời sống con<br />
<br />
thái tiểu phần. Để duy trì đời sống, con người<br />
luôn tìm kiếm các cung ứng khác nhau từ<br />
những hệ sinh thái này và do vậy nhận lại<br />
các hệ sinh thái ở những trạng thái liên<br />
quan đến khả năng của chúng trong việc<br />
cung cấp các cung ứng được mong đợi.<br />
Theo đó, khái nhiệm “dịch vụ hệ sinh thái”<br />
đã được đề xuất vào khoảng những năm<br />
đầu của thập kỷ 1980 [8] nhằm giúp hiểu rõ<br />
hơn về việc sử dụng và quản lý môi trường<br />
tự nhiên.<br />
Cho đến nay, đã có nhiều công bố liên<br />
quan đến “dịch vụ sinh thái” trên thế giới.<br />
Tuy nhiên, vấn đề này ở Việt Nam vẫn còn<br />
tương đối mới. Bài viết này giới thiệu về<br />
khái niệm dịch vụ hệ sinh thái và một số ví<br />
dụ vận dụng liên quan đến dịch vụ hệ sinh<br />
thái biển ở Việt Nam.<br />
II. NỘI DUNG<br />
<br />
người trực tiếp hoặc gián tiếp dựa trên hoạt<br />
động chức năng của hệ. Các hệ sinh thái<br />
cung ứng một “dòng chảy” các “hàng hóa”<br />
và “dịch vụ” có tính thiết yếu đối với sự sống<br />
và các lợi ích khác của xã hội loài người.<br />
Bất chấp điều đó, các dịch vụ hệ sinh thái<br />
có xung hướng bị đánh giá thấp bởi xã hội.<br />
Những lý do bao gồm thiếu thông tin đầy đủ<br />
và kiến thức thỏa đáng về các chức năng<br />
của hệ sinh thái cũng như những lợi ích<br />
chúng tạo ra cho xã hội, và không tồn tại<br />
bất kỳ thị trường chính thức nào đối với các<br />
dịch vụ hệ sinh thái [14]. Trong khi việc khai<br />
thác các dịch vụ sinh thái được thực hiện ở<br />
nhiều quy mô khác nhau (địa phương, khu<br />
vực và toàn cầu) cho nhiều nhóm khác nhau<br />
(các cá nhân, công ty thương mại và lĩnh<br />
vực công cộng) [1].<br />
Cũng có thể xem các dịch vụ sinh thái<br />
là những tiến trình mà nhờ đó môi trường<br />
tự nhiên tạo ra các tài nguyên và lợi ích<br />
<br />
1. Dịch vụ hệ sinh thái - một phương<br />
<br />
được sử dụng bởi con người. Dựa theo<br />
<br />
thức tiếp cận đa lĩnh vực trong quản lý<br />
<br />
đó, Alcamo và cộng sự (2003) chỉ ra rằng<br />
<br />
môi trường tự nhiên<br />
<br />
những dịch vụ hệ sinh thái bao gồm các<br />
<br />
Các định nghĩa của Wallace (2007) và<br />
<br />
nhóm dịch vụ cung ứng, điều phối, văn hóa<br />
<br />
Fisher và Turner (2008) cho thấy dịch vụ<br />
<br />
và hỗ trợ (provisioning, regulating, cultural<br />
<br />
hệ sinh thái được tiếp cận theo nhiều cách<br />
<br />
and suppoting services) được tóm tắt theo<br />
<br />
khác nhau. Tổng quát, dịch vụ sinh thái<br />
<br />
bảng dưới đây:<br />
<br />
88 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 3/2017<br />
<br />
Bảng 1. Phân loại các dịch vụ sinh thái<br />
Các dịch vụ cung ứng<br />
Những sản phẩm thu được<br />
từ các hệ sinh thái<br />
- Thực phẩm<br />
- Nước ngọt<br />
- Củi đốt/than củi<br />
- Tơ sợi<br />
- Các chất có hoạt tính sinh học<br />
- Tài nguyên di truyền/Nguồn gen<br />
<br />
Các dịch vụ điều hòa/kiểm soát<br />
Những lợi ích đạt được từ sự điều<br />
phối các tiến trình sinh thái<br />
- Điều hòa khí hậu<br />
- Kiểm soát dịch bệnh<br />
- Điều tiết nước<br />
- Tinh lọc nước<br />
- Thụ phấn<br />
<br />
Các dịch vụ văn hóa<br />
Những lợi ích phi vật chất<br />
đạt được từ các hệ sinh thái<br />
- Tinh thần và đức tin<br />
- Giải trí và du lịch sinh thái<br />
- Thẩm mỹ<br />
- Truyền/tạo cảm hứng<br />
- Giáo dục<br />
- Cảm giác/ý nghĩa về nơi chốn<br />
- Di sản văn hóa<br />
<br />
Các dịch vụ hỗ trợ<br />
Những dịch vụ cần thiết đối với việc tạo nên tất cả các dịch vụ sinh thái khác<br />
- Hình thành đất<br />
- Thực hiện các chu trình dinh dưỡng<br />
- Sản xuất sơ cấp<br />
*Nguồn: [5]<br />
<br />
Theo khía cạnh quản lý môi trường, việc<br />
<br />
Mặc dù có nhiều đặc trưng về động học hệ<br />
<br />
đánh giá điều kiện của các hệ sinh thái, khả<br />
<br />
sinh thái (như là tính chống chịu, tính nhạy cảm,<br />
<br />
năng cung ứng các dịch vụ, và mối tương<br />
<br />
tính bền vững,…), báo cáo “Đánh giá Hệ sinh<br />
<br />
quan của chúng với đời sống của con người<br />
<br />
thái thiên niên kỷ phạm vi toàn cầu” (the global<br />
<br />
đòi hỏi một cách tiếp cận tổng hợp. Thống<br />
<br />
Millennium Ecosystem Assessment - MA)<br />
<br />
nhất với quan điểm phát triển bền vững, điều<br />
<br />
chỉ ra rằng có 3 đặc trưng của các dịch vụ hệ<br />
<br />
này cho phép tiến trình ra quyết định để xác<br />
<br />
sinh thái có tính chất quan trọng trong việc đánh<br />
<br />
định dịch vụ nào hoặc tập hợp những dịch vụ<br />
<br />
giá khả năng khai thác những dịch vụ này, đó<br />
<br />
nào được đánh giá cao nhất và làm thế nào<br />
<br />
là sự thay đổi (variability), khả năng phục hồi<br />
<br />
phát triển các phương thức tiếp cận nhằm<br />
<br />
(resilience) và ngưỡng giới hạn (threshold).<br />
<br />
duy trì các dịch vụ bằng cách quản lý tính bền<br />
<br />
Trong khi các mục tiêu quản lý thường được<br />
<br />
vững của hệ thống.<br />
<br />
nhìn nhận theo nghĩa nguồn cung cấp nguyên<br />
<br />
Mọi bộ phận của trái đất đều có khả năng<br />
<br />
liệu (stocks) hoặc “dòng chảy” (flow) năng<br />
<br />
tạo ra hàng loạt các dịch vụ hệ sinh thái. Tuy<br />
<br />
lượng – vật chất, việc làm giảm sự thay đổi của<br />
<br />
nhiên, chính sự can thiệp của con người có thể<br />
<br />
hệ thống và cải thiện khả năng dự báo thường<br />
<br />
làm tăng một số dịch vụ hệ sinh thái nào đó,<br />
<br />
được xem là những bộ phận chủ chốt của các<br />
<br />
thông thường với mức “chi trả” của các dịch<br />
<br />
chiến lược quản lý. Mặt khác, “chi phí” dành<br />
<br />
vụ hệ sinh thái khác. Ví dụ, các can thiệp của<br />
<br />
cho các lợi ích của con người từ việc khai thác<br />
<br />
con người đã gia tăng một cách kịch tính các<br />
<br />
các hệ sinh thái thường rất nghiêm trọng. Do<br />
<br />
dịch vụ cung cấp thực phẩm thông qua việc<br />
<br />
vậy, con người phải khảo sát không chỉ mức<br />
<br />
áp dụng các kỹ thuật/công nghệ sản xuất nông<br />
<br />
độ nguồn cung cấp nguyên liệu (stocks) hoặc<br />
<br />
nghiệp mặc dù điều này đã đưa đến những<br />
<br />
“dòng chảy” năng lượng – vật chất của (các)<br />
<br />
thay đổi đối với các dịch vụ khác cụ thể như là<br />
<br />
hệ sinh thái mà còn khả năng ổn định của<br />
<br />
điều hòa lượng nước trên hành tinh [5].<br />
<br />
chúng (dẫn theo [5]).<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 89<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 3/2017<br />
<br />
Hình 1. Minh họa việc phân tích các dịch vụ hệ sinh thái<br />
(Nguồn: Mô phỏng [5])<br />
<br />
Để khai thác những lợi ích từ các hệ sinh<br />
thái, con người đã đưa ra các sự lựa chọn hay<br />
quyết định về quản lý liên quan đến những hệ<br />
sinh thái. Do đó, các quyết định hay sự lựa<br />
chọn về quản lý thường làm thay đổi chức<br />
năng và dịch vụ mà hệ sinh thái cung cấp [4].<br />
Theo đó, thuật ngữ “đánh đổi dịch vụ hệ sinh<br />
thái” dần trở nên phổ biến trên thế giới và Việt<br />
Nam. Trong thực tế, nhiều sự thay thế mang<br />
tính khả dụng đối với các dịch vụ hệ sinh thái,<br />
tuy nhiên thông thường chi phí của một thay<br />
thế mang tính công nghệ sẽ rất cao và có thể<br />
<br />
90 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
không thay thế được tất cả các dịch vụ bị mất<br />
mát [5]. Ví dụ, những nhà máy xử lý nước hiện<br />
nay có thể thay thế các hệ sinh thái trong việc<br />
cung cấp nước sạch mặc dù điều này có thể<br />
đắt và không khắc phục được những tác động<br />
của ô nhiễm nước đối với những hợp phần<br />
khác của hệ sinh thái và các dịch vụ mà nó<br />
cung ứng. Một “kết quả” khác của việc thay thế<br />
là thông thường các cá nhân đạt được lợi ích<br />
không phải là những người thụ hưởng ban đầu<br />
từ các dịch vụ hệ sinh thái [14]. Trong bối cảnh<br />
đó, các quyết định mang tính đôi bên cùng<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
có lợi được áp dụng phổ biến mang tính thỏa<br />
hiệp và lý tưởng hóa các quyết định khó khăn.<br />
Tuy nhiên, cách tiếp cận thỏa hiệp này đã và<br />
đang dẫn đến nhiều hệ lụy và thách thức cho<br />
nhà quản lý và đòi hỏi một sự nhìn nhận thấu<br />
đáo từ nhiều khía cạnh trong quá trình ra quyết<br />
định [4]. Do vậy, một đánh giá đầy đủ về các hệ<br />
sinh thái và những dịch vụ của nó phải xem xét<br />
những vấn đề sau đây [5]:<br />
- Thông tin về chi phí của việc thay thế,<br />
- Chi phí cơ hội của việc duy trì dịch vụ,<br />
- Các chi phí và tác động qua lại của các<br />
dịch vụ, và<br />
- Các tác động mang tính phân bổ của bất<br />
kỳ sự thay thế nào.<br />
Hiện nay một thuật ngữ được sử dụng<br />
trong việc quản lý và khai thác các hệ sinh thái<br />
là “tiếp cận dịch vụ hệ sinh thái”. “Tiếp cận dịch<br />
vụ hệ sinh thái” được định nghĩa là sự lồng<br />
ghép dịch vụ hệ sinh thái trong việc ra quyết<br />
định bằng cách sử dụng các công cụ đánh giá<br />
khoa học để xem xét sự phụ thuộc và tác động<br />
của con người tới dịch vụ hệ sinh thái và lồng<br />
ghép các giá trị dịch vụ hệ sinh thái vào việc ra<br />
quyết định [4].<br />
2. Định giá các dịch vụ sinh thái<br />
Cho đến nay vấn đề định giá các dịch vụ<br />
sinh thái vẫn đang được phát triển. Groot và<br />
cộng sự (2010) đề xuất rằng tổng các giá trị sử<br />
dụng và không sử dụng gắn liền với một loại tài<br />
nguyên hoặc một khía cạnh môi trường được<br />
gọi là Tổng giá trị kinh tế (Total Economic value<br />
– TEV) [13]. Tuy nhiên, giá trị tài chính (tính<br />
thành tiền) chỉ thể hiện một phần giá trị thật<br />
hoặc tổng giá trị của những dịch vụ hệ sinh thái<br />
này. Theo các tác giả, có nhiều phương thức<br />
chuyển đổi giá trị kinh tế và một số giá trị văn<br />
hóa – xã hội thành giá trị tài chính (tính thành<br />
tiền). Điển hình là giá thị trường (giá trị biên tế<br />
- marginal values) tồn tại đối với nhiều dịch vụ<br />
hệ sinh thái, đặc biệt đối với việc cung cấp các<br />
“dịch vụ cung ứng” như là thủy sản và những<br />
sản phẩm chiết xuất từ thủy sản hoặc gỗ và các<br />
sản phẩm rừng khác,... Giá trị của những dịch vụ<br />
<br />
Số 3/2017<br />
khác cũng thường được thể hiện qua thị<br />
trường nhưng theo phương thức gián tiếp mà<br />
chúng có thể được đo lường thông qua những<br />
phương pháp khác, ví dụ phương pháp chi phí<br />
tổn thất (damage cost methods – đối với các<br />
dịch vụ điều hòa/kiểm soát), và các phương<br />
pháp xác định giá ẩn (giá bóng – hedonic<br />
pricing) và chi phí du hành (travel cost) đối với<br />
một số dịch vụ văn hóa như là các cảnh quan<br />
thưởng ngoạn. Việc định giá phát sinh (định<br />
giá ngẫu nhiên – contingent valuation, ví dụ<br />
đánh giá sự ưa thích dựa trên bộ câu hỏi) và<br />
chuyển dạng lợi ích (benefit transfer, ví dụ sử<br />
dụng dữ liệu từ các nghiên cứu so sánh) cung<br />
cấp những lựa chọn khác trong việc định giá<br />
các dịch vụ sinh thái. Mỗi một phương pháp<br />
có những thuận lợi và bất thuận lợi riêng và<br />
mặc dù kiến thức dựa trên giá trị tài chính<br />
đang được cải thiện; vẫn còn những khoảng<br />
trống về dữ liệu đòi hỏi các khung hoạt động<br />
(framework), mô hình (model) và cơ sở dữ liệu<br />
tốt hơn để tính toán Tổng giá trị kinh tế của các<br />
hệ sinh thái toàn vẹn và toàn bộ các dịch vụ mà<br />
chúng cung ứng [13].<br />
Một ví dụ điển hình của nghiên cứu phát<br />
triển việc định giá các dịch vụ sinh thái là<br />
công bố gần đây của Sumarga và cộng sự<br />
(2015). Các tác giả đã áp dụng hai cách tiếp<br />
cận định giá chủ yếu đối với các dịch vụ hệ<br />
sinh thái trong nghiên cứu cụ thể tại Central<br />
Kalimantan, Indonesia. Theo đó, việc phân<br />
tích những dịch vụ cung ứng và giải trí dựa<br />
trên nguồn tài nguyên cho thuê, và việc định<br />
giá các dịch vụ điều hòa là đồng hóa carbon<br />
(carbon sequestration) và sinh cảnh của nhóm<br />
linh trưởng địa phương được dựa trên tiếp<br />
cận dựa vào chi phí. Cụ thể, việc định giá các<br />
dịch vụ cung ứng được tính dựa trên nguồn<br />
tài nguyên cho thuê theo công thức sau:<br />
RR = TR – (IC + LC + UCF) với: RR (Resource<br />
Rent): Nguồn tài nguyên cho thuê, TR (Total<br />
revenue): Tổng doanh thu, IC (Intermediate<br />
consumption): Chi phí trung gian, LC (Labour<br />
cost = wages): Chi phí lao động (tiền công),<br />
UCF (User cost of fixed assets): Khấu hao<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 91<br />
<br />