Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 3/2017<br />
<br />
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br />
<br />
ĐIỀU TRA NGUỒN LỢI HAI LOÀI HẢI SÂM VÚ (Holothuria fuscogilva<br />
Cherbonnier, 1980), HẢI SÂM LỰU (Thelenota ananas Jaeger, 1833)<br />
PHÂN BỐ Ở VÙNG BIỂN KHÁNH HÒA, BÌNH THUẬN<br />
A SURVEY OF RESOURCES OF WHITE TEATFISH (Holothuria Fuscogilva Cherbonnier, 1980)<br />
AND PRICKLY RED FISH (Thelenota ananas Jaeger, 1833)<br />
Nguyễn Văn Hùng1, Tôn Nữ Mỹ Nga2, Đặng Ngọc Hảo2<br />
Ngày nhận bài: 21/7/2017; Ngày phản biện thông qua: 21/9/2017; Ngày duyệt đăng: 25/9/2017<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Một cuộc điều tra đã được thực hiện để đánh giá nguồn lợi hai loài hải sâm vú Holothuria fuscogilva<br />
(Cherbonnier, 1980) và hải sâm lựu Thelenota ananas (Jaeger, 1833) phân bố ở vùng biển Khánh Hòa, Bình<br />
Thuận. Nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và phương pháp điều<br />
tra xã hội học sử dụng bộ câu hỏi bán cấu trúc. Đối tượng được điều tra phỏng vấn là người dân khai thác hải<br />
sâm, đại lý thu mua, buôn bán hải sản tươi sống tại Khánh Hòa và Bình Thuận. Số lượng phiếu điều tra ở mỗi<br />
tỉnh là 40 phiếu. Kết quả cho thấy vùng biển vịnh Nha Trang, huyện đảo Trường Sa, Phú Quý là vùng phân bố<br />
cũng như ngư trường khai thác hải sâm vú, hải sâm lựu của người dân ở Nha Trang (Khánh Hòa) và Phú Quý<br />
(Bình Thuận). Ngư dân khai thác hải sâm bằng nghề lặn có bình hơi, máy nén khí. Mùa vụ khai thác cao điểm<br />
từ tháng 3 đến tháng 6 hàng năm. Kích cỡ hải sâm vú, hải sâm lựu khai thác là từ 0,3 đến 1,5 kg/con. Sản lượng<br />
khai thác ở cả 2 khu vực Phú Quý và Nha Trang đều giảm từ năm 2012 đến năm 2017, từ 15 tấn/chuyến xuống<br />
5 tấn/chuyến và từ 5 tấn/chuyến xuống 2 tấn/chuyến một cách tương ứng. Giá cả hải sâm ở Nha Trang nhìn<br />
chung cao hơn ở Phú Quý. Từ năm 2012 đến năm 2015, giá tăng từ 300.000 - 600.000 đồng/kg ở Nha Trang,<br />
150.000- 450.000 đồng/kg ở Phú Quý. Thị trường tiêu thụ chủ yếu là nhà hàng và xuất khẩu.<br />
Từ khóa: Bình Thuận, hải sâm lựu Thelenota ananas, hải sâm vú Holothuria fuscogilva, Khánh Hòa, nguồn lợi<br />
ABSTRACT<br />
A survey has been conducted to assess resources of white teatfish Holothuria fuscogilva (Cherbonnier, 1980)<br />
and prickly red fish Thelenota ananas (Jaeger, 1833) distributing in Khanh Hoa and Binh Thuan marine areas. The<br />
research was done by RRA method and sociological investigation method using semi-structured questionnaire. The<br />
interviewees were sea cucumbers divers, buying agents and traders of fresh seafood in Khanh Hoa and Binh Thuan.<br />
The number of questionnaires in each province was 40. The result showed that the waters of Nha Trang Bay, Truong<br />
Sa District and Phu Quy District were distributing areas as well as fishing grounds of white teatfish and prickly red<br />
fish of fishermen from Nha Trang (Khanh Hoa) and Phu Quy (Binh Thuan). Fishermen caught them by scuba diving<br />
with air compressors. Main catching season from March to June of each year. The catching sizes of them were from<br />
0.3 to 1.5 kg /individual. The catches in both Phu Quy and Nha Trang areas were reduced from 2012 to 2017, from 15<br />
tons / trip to 5 tons / trip and from 5 tons / trip to 2 tons / ship, respectively. Their prices in Nha Trang were generally<br />
higher than in Phu Quy. From 2012 to 2015, the price increased from 300,000 to 600,000 VND / kg in Nha Trang,<br />
150,000- 450,000 VND / kg in Phu Quy. The main consumption market were the restaurants and exporters.<br />
Keywords: Bình Thuận, Khánh Hòa, prickly red fish Thelenota ananas, resources, white teatfish<br />
Holothuria fuscogilva<br />
1<br />
2<br />
<br />
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III<br />
Viện Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
28 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Hải sâm là loài động vật da gai có giá trị<br />
kinh tế cao, là nguồn thực phẩm bổ dưỡng, quý<br />
giá cho con người và có chức năng làm sạch<br />
môi trường. Kết quả điều tra về nguồn lợi của<br />
hải sâm ở các nước như Indonesia, Philippin,<br />
Ấn Độ… cho thấy hiện nay, nguồn lợi của các<br />
loài hải sâm đang bị suy giảm nghiêm trọng.<br />
Nguyên nhân chính là do nhu cầu sử dụng hải<br />
sâm làm thực phẩm tăng mạnh và việc quản lý<br />
khai thác nguồn lợi không hợp lý [2].<br />
Ở Việt Nam hiện nay, hai loài hải sâm<br />
vú (Holothuria fuscogilva) và hải sâm lựu<br />
(Thelenota ananas) đang nằm trong danh mục<br />
các loài thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt<br />
chủng ở Việt Nam cần được bảo vệ, phục hồi<br />
và phát triển [1]. Khánh Hòa và Bình Thuận là<br />
hai tỉnh có nguồn lợi hải sản phong phú, đa<br />
dạng và là nơi phân bố của hai loài hải sâm vú<br />
và hải sâm lựu [3] đang có nguy cơ tuyệt chủng.<br />
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, được sự<br />
phân công của Viện Nuôi trồng Thủy sản -<br />
<br />
Số 3/2017<br />
Trường Đại học Nha Trang và được sự cho<br />
phép của Trung tâm Nghiên cứu và Phát<br />
triển nuôi biển Nha Trang - Viện Nghiên<br />
cứu Nuôi trồng thủy sản III, tôi thực hiện đề<br />
tài tốt nghiệp“Điều tra nguồn lợi hai loài hải<br />
sâm vú (Holothuria fuscogilva) và hải sâm<br />
lựu (Thelenota ananas) phân bố ở vùng biển<br />
Khánh Hòa và Bình Thuận”.<br />
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu<br />
Thời gian nghiên cứu: 15/2/2017 - 15/5/2017<br />
Địa điểm nghiên cứu: vùng biển Khánh<br />
Hòa (đảo Hòn Tre, Nha Trang) và Bình Thuận<br />
(huyện đảo Phú Quý).<br />
2. Vật liệu nghiên cứu<br />
Đối tượng nghiên cứu: hải sâm vú<br />
(Holothuria fuscogilva Cherbonnier, 1980) và<br />
hải sâm lựu (Thelenota ananas Jaeger, 1833)<br />
(Hình 1).<br />
<br />
Hải sâm vú Holothuria fuscogilva<br />
Hải sâm lựu Thelenota ananas<br />
Hình 1. Hải sâm vú (Holothuria fuscogilva Cherbonnier, 1980)<br />
và hải sâm lựu (Thelenota ananas Jaeger, 1833)<br />
<br />
3. Phương pháp thu thập số liệu điều tra<br />
Số liệu thứ cấp: Được thu thập từ tài liệu<br />
tham khảo nghiên cứu về hải sâm vú và hải<br />
sâm lựu, các tài liệu về khóa phân loại, đặc<br />
điểm hình thái, số liệu thống kê của các cơ<br />
quan quản lý trên 2 địa bàn điều tra Khánh Hòa<br />
và Bình Thuận.<br />
Số liệu sơ cấp: Số liệu được thu thập thông<br />
qua quá trình điều tra phỏng vấn người dân<br />
khai thác hải sâm, đại lý thu mua, buôn bán hải<br />
sản tươi sống tại Khánh Hòa và Bình Thuận.<br />
<br />
Phương pháp tiếp cận điều tra phỏng vấn trực<br />
tiếp và gián tiếp, các nội dung phỏng vấn được<br />
chuẩn bị trước theo mẫu phiếu điều tra.<br />
Phương pháp tiếp cận xác định vùng điều<br />
tra: Dựa trên các kết quả phân tích, tổng hợp<br />
về hệ sinh thái, tình hình phân bố, thành phần<br />
loài hải sâm đã được nghiên cứu trước kia.<br />
Nghiên cứu được thực hiện theo phương<br />
pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và<br />
phương pháp điều tra xã hội học sử dụng bộ<br />
câu hỏi bán cấu trúc.<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 29<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Số lượng phiếu điều tra:<br />
40 phiếu/tỉnh × 2 tỉnh = 80 phiếu.<br />
4. Phương pháp xử lý số liệu<br />
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel.<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
1. Phân bố<br />
Kết quả điều tra 80 người dân khai thác<br />
và mua bán hải sâm trên khu vực Khánh Hòa,<br />
Bình Thuận cho thấy hai loài hải sâm vú và<br />
hải sâm lựu có phân bố ở vịnh Nha Trang<br />
(Hòn Tre, Trí Nguyên, Hòn Một, Hòn Nội, Hòn<br />
Ngoại) - Khánh Hòa, huyện đảo Trường Sa Khánh Hòa, huyện đảo Phú Quý - Bình Thuận<br />
(Rạn Cả, Rạn Trứng, Gò Dài). Kết quả cho thấy<br />
vùng phân bố của hải sâm trong nghiên cứu<br />
của chúng tôi rộng hơn vùng phân bố trong kết<br />
quả nghiên cứu của Đào Tấn Hỗ (2006). Theo<br />
Đào Tấn Hỗ (2006), vùng phân bố hải sâm ở<br />
vùng biển Khánh Hòa là đảo Hòn Tre.<br />
80% số người được phỏng vấn cho biết<br />
hải sâm vú và hải sâm lựu phân bố ở vùng<br />
nước sâu từ 30 đến 40 m. 20% số người được<br />
phỏng vấn cho biết hải sâm sống ở độ sâu ><br />
40 m. Ở độ sâu lớn như vậy tương ứng với<br />
vùng biển xa bờ có độ mặn cao. Kết quả này<br />
phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn<br />
Thị Thanh Thùy và ctv (2016) về vùng phân<br />
bố của nguồn gen hải sâm vú, hải sâm lựu tại<br />
vùng biển Phú Quý (Bình Thuận).<br />
<br />
Số 3/2017<br />
ở tỉnh Khánh Hòa và Bình Thuận đều chọn<br />
vùng biển huyện đảo Trường Sa (Khánh Hòa)<br />
làm ngư trường khai thác chính. Vùng biển<br />
Trường Sa có sự phân bố hệ sinh thái rạn san<br />
hô, cát sỏi là nơi cư trú thích hợp của các loài<br />
hải sâm.<br />
Kết quả điều tra tại Nha Trang, Khánh Hòa<br />
cho thấy hiện nay chỉ có 4 tàu khai thác hải<br />
sâm xa bờ ở xã Vĩnh Lương. Ngư trường khai<br />
thác chính của họ là vùng biển ở đảo Phú Quý<br />
(Bình Thuận), Trường Sa (Khánh Hòa). Ở đảo<br />
Phú Quý (Bình Thuận), có khoảng 20 tàu hành<br />
nghề lặn hải sâm nhưng trong đó có khoảng 5<br />
tàu có công suất lớn và khai thác xa bờ (đảo<br />
Trường Sa), còn lại chỉ khai thác ven bờ của<br />
vùng biển huyện đảo Phú Quý. Người dân cho<br />
biết nghề lặn hải sâm nguy hiểm đến tính mạng<br />
nên đòi hỏi người dân phải có kinh nghiệm,<br />
sức khỏe. Vì vậy, số lượng ngư dân còn bám<br />
trụ với nghề lặn rất ít. Bên cạnh đó, theo người<br />
dân cho biết nguồn lợi hải sâm vú, hải sâm<br />
lựu ở vùng biển Khánh Hòa đã cạn kiệt, sản<br />
lượng đánh bắt thấp, dẫn đến đa số ngư dân<br />
đều chuyển đổi ngành nghề hoặc chuyển sang<br />
hình thức khai thác khác như lưới, bẫy… Nghề<br />
lặn đánh bắt hải sâm của ngư dân ở Khánh<br />
Hòa còn sử dụng các trang thiết bị khá thô sơ.<br />
Ngư dân sử dụng máy bơm hơi trên tàu để làm<br />
máy bơm khí cho người lặn làm việc dưới biển.<br />
Hệ thống ống dẫn khí còn đơn giản và thiếu an<br />
toàn khi sử dụng.<br />
<br />
Vậy, vùng phân bố của 2 loài hải sâm trên<br />
là vịnh Nha Trang, Trường Sa (Khánh Hòa),<br />
Phú Quý (Bình Thuận), ở độ sâu từ 30 đến<br />
> 40 m.<br />
2. Phương pháp và mùa vụ khai thác<br />
Ảnh hưởng của độ sâu là yếu tố hình thành<br />
phương pháp khai thác hải sâm. 100% số<br />
người được phỏng vấn đều khai thác hải sâm<br />
bằng nghề lặn có bình hơi, máy nén khí. Hầu<br />
hết các tàu khai thác hải sâm có công suất lớn<br />
<br />
30 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Hình 2. Ngư dân Vĩnh Lương (Nha Trang)<br />
chuẩn bị ngư cụ khai thác<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Kết quả điều tra cho thấy 97,5% số người<br />
dân được phỏng vấn trả lời rằng mùa vụ đánh<br />
bắt hải sâm là mùa hè (từ tháng 3 đến tháng 6<br />
hàng năm). Những tháng còn lại có bắt gặp hải<br />
sâm nhưng tần suất thấp hơn. Vào thời gian<br />
này, thời tiết trên biển khá tốt phù hợp cho nghề<br />
lặn làm việc. Thời gian khai thác nằm trong<br />
khoảng thời gian hải sâm sinh sản từ tháng 1<br />
đến tháng 8 hằng năm [4]. Kết quả nghiên cứu<br />
này có thể làm tiền đề cho việc ứng dụng sinh<br />
sản nhân tạo hải sâm vú và hải sâm lựu trong<br />
công tác bảo tồn nguồn gen quý hiếm.<br />
Vậy, nghề khai thác hải sâm là nghề lặn<br />
có bình hơi, máy nén khí. Mùa vụ đánh bắt<br />
<br />
Số 3/2017<br />
hải sâm là mùa hè (từ tháng 3 đến tháng 6<br />
hàng năm).<br />
3. Kích cỡ và sản lượng khai thác<br />
Kết quả điều tra cho thấy 75% số người<br />
được phỏng vấn cho biết kích cỡ khai thác hải<br />
sâm vú, hải sâm lựu là từ 0,3 đến 1,5 kg/con.<br />
Một số người dân cho biết trước đây có thời<br />
điểm khai thác được hải sâm lựu có khối lượng<br />
lên đến 5 kg/con, nhưng trong 5 năm gần đây<br />
hầu như không khai thác được hải sâm lựu có<br />
khối lượng > 2 kg/con. Tương tự, hải sâm vú<br />
khai thác được có khối lượng giảm so với 5<br />
năm gần đây.<br />
<br />
Hình 3. Hải sâm vú được người dân Phú Quý Bình Thuận) khai thác<br />
<br />
Số liệu thống kê của Trung tâm Khuyến<br />
<br />
10 – 20 ngày/chuyến, trung bình 15 ngày/<br />
<br />
nông tỉnh Khánh Hòa và Bình Thuận về chi tiết<br />
<br />
chuyến. Một số ngư dân khai thác ven bờ thì<br />
<br />
sản lượng của hải sâm vú, hải sâm lựu chưa<br />
<br />
khai thác bằng nghề lặn hàng ngày, không<br />
<br />
được tổng kết rõ ràng như ở các nhóm tôm,<br />
cá. Sản lượng hải sâm chỉ thống kê được khi<br />
điều tra trực tiếp các ngư dân khai thác tại 2<br />
vùng biển ở huyện Phú Quý tỉnh Bình Thuận<br />
và Nha Trang (xã Vĩnh Lương, phường Vĩnh<br />
Nguyên) tỉnh Khánh Hòa. Tùy theo thời gian<br />
đánh bắt, sản lượng khai thác ở mỗi ngư dân<br />
<br />
chỉ lặn hải sâm mà còn lặn các loài khác như<br />
tôm, cua, cá. Do bị đánh bắt liên tục và thường<br />
xuyên nên số lượng hải sâm càng ngày càng<br />
giảm dần qua các năm.<br />
Kết quả nghiên cứu về sản lượng khai thác<br />
hải sâm vú, hải sâm lựu tại Nha Trang (Khánh<br />
<br />
có khác nhau. 90% số người được phỏng<br />
<br />
Hòa) và Phú Quý (Bình Thuận) được trình bày<br />
<br />
vấn cho biết thời gian khai thác hải sâm từ<br />
<br />
ở Hình 4.<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 31<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 3/2017<br />
<br />
Hình 4. Biến động sản lượng khai thác hải sâm vú, hải sâm lựu tại Nha Trang (Khánh Hòa)<br />
và Phú Quý (Bình Thuận) giai đoạn 2012 - 2017<br />
<br />
Hình 4 cho thấy sản lượng khai thác hải<br />
sâm ở Phú Quý (Bình Thuận) lớn hơn sản<br />
lượng khai thác hải sâm ở Nha Trang (Khánh<br />
Hòa). Sản lượng khai thác trung bình năm<br />
2012 ở huyện Phú Quý khoảng 15 tấn/chuyến.<br />
Sau đó, sản lượng giảm dần qua các năm. Đến<br />
năm 2017, sản lượng giảm còn 5 tấn/chuyến.<br />
Sau 5 năm, sản lượng đánh bắt hải sâm vú,<br />
hải sâm lựu đã giảm 10 tấn/chuyến. Qua đó, có<br />
thể thấy nguồn lợi hải sâm vú, hải sâm lựu đã<br />
bị suy giảm nghiêm trọng. Tương tự, tại vùng<br />
biển Nha Trang, sản lượng khai thác hải sâm<br />
cũng suy giảm. Cụ thể, năm 2012, sản lượng<br />
khai thác được 5 tấn/chuyến, sau đó giảm dần<br />
qua các năm. Đến năm 2017, sản lượng khai<br />
thác chỉ còn khoảng 2 tấn/chuyến. Có chuyến<br />
ngư dân không khai thác được hải sâm vú, hải<br />
sâm lựu. Đa số các ngư dân hành nghề lặn<br />
đều khai thác các loài sống ở tầng đáy như<br />
cua, tôm và hải sâm.<br />
Điều này có thể là do ngư dân ở Phú<br />
Quý có kinh nghiệm trong nghề lặn hơn, ngư<br />
trường khai thác chính (Trường Sa, Phú Quý)<br />
cũng gần với huyện đảo Phú Quý. Bên cạnh<br />
đó, khai thác hải sâm ở vùng biển xa bờ đòi hỏi<br />
tàu thuyền có công suất lớn mà ngư dân ở Nha<br />
Trang không đáp ứng được vấn đề này, chủ yếu<br />
họ chỉ khai thác bằng thuyền có công suất nhỏ<br />
<br />
32 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
(< 20 CV). Người dân địa phương cho biết<br />
nguồn lợi hải sâm ở vùng biển vịnh Nha Trang<br />
đã cạn kiệt nghiêm trọng, dẫn đến sản lượng<br />
đánh bắt thấp.<br />
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy 95%<br />
số người được điều tra cho rằng nguồn lợi hải<br />
sâm ở vùng biển vịnh Nha Trang và đảo Phú<br />
Quý đã suy giảm nghiêm trọng. Minh chứng rõ<br />
nhất cho điều này chính là sản lượng khai thác<br />
giảm rõ rệt. 100 % số người được phỏng vấn<br />
đều cho rằng nguyên nhân suy giảm nguồn<br />
lợi hải sâm vú, hải sâm lựu hiện nay chủ yếu<br />
do sự khai thác quá mức của người dân. Đối<br />
tượng hải sâm là loài có giá trị kinh tế cao, đặc<br />
tính di chuyển chậm nên bị đánh bắt khá dễ<br />
dàng. Ngoài ra, quá trình phát triển về cơ sở<br />
hạ tầng, quá trình san lấp biển đã phá hủy các<br />
hệ sinh thái, nơi cư ngụ và môi trường sống<br />
của 02 loài hải sâm. Thời gian sinh sản, tái tạo<br />
quần đàn của hải sâm diễn ra chậm cũng là<br />
nguyên nhân dẫn đến nguồn lợi bị suy giảm.<br />
Tóm lại, kích cỡ khai thác hải sâm vú, hải<br />
sâm lựu là từ 0,3 đến 1,5 kg/con. Sản lượng<br />
khai thác ở cả 2 khu vực Phú Quý và Nha<br />
Trang đều giảm từ năm 2012 đến năm 2017,<br />
từ 15 tấn/chuyến xuống 5 tấn/chuyến và từ<br />
5 tấn/chuyến xuống 2 tấn/chuyến một cách<br />
tương ứng.<br />
<br />