intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đồ án tốt nghiệp: Tổng hợp vật liệu Ti/Fe kích thước nano bằng phương pháp đốt cháy Gel để xử lý Asen trong nước

Chia sẻ: Trần Thị Thanh Huyền | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:42

131
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đồ án tốt nghiệp: Tổng hợp vật liệu Ti/Fe kích thước nano bằng phương pháp đốt cháy Gel để xử lý Asen trong nước với mục đích nghiên cứu tổng hợp vật liệu Ti/Fe kích thước nanomet bằng phương pháp đốt cháy gel; đánh giá khả năng xử lý Asen bằng vật liệu Ti/Fe

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đồ án tốt nghiệp: Tổng hợp vật liệu Ti/Fe kích thước nano bằng phương pháp đốt cháy Gel để xử lý Asen trong nước

  1. LỜI CAM ĐOAN Tên em là Trần Thị Thanh Huyền, sinh viên lớp ĐH2KM1, chuyên ngành Công   nghệ  kỹ  thuật kiểm soát ô nhiễm môi trường, khóa 2012 – 2016, trường Đại Học  Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội. Em xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “ Tổng   hợp vật liệu Ti/Fe kích thước nano bằng phương pháp đốt cháy Gel để xử  lý Asen  trong nước” là công trình nghiên cứu của riêng em, dưới sự  hướng dẫn khoa học   của TS. Đào Ngọc Nhiệm, số liệu nghiên cứu thu được từ  thực nghiệm và không  sao chép. Em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước nhà trường về lời cam đoan này. Hà Nôi, tháng năm Sinh viên Trần Thị Thanh Huyền 1
  2. CẢM ƠN Trong thời gian qua, để  hoàn thanh được khóa luận của mình một cách tốt   nhất, cùng với sự  cố gắng của bản thân, em đã nhận được sự  giúp đỡ  tận tình và  tạp điều kiện hết mức từ  Viện Khoa học Vật liệu cùng với các cán bộ  của Viện  cũng như  giảng viên hướng dẫn trường Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà  Nội. Em xin cảm ơn ban lãnh đạo và các cán bộ tại Viện Khoa học Vật liệu đã tạo   điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ để em có cơ hội thực hiện khóa luận của mình, tiếp  cận với ngành khoa học vật liệu và trao dồi thêm những kiến thức thực tế, mới mẻ  về  chuyên ngành của bản thân. Đặc biệt, em xin chân thành cảm  ơn TS.Đào Ngọc   Nhiệm đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em trong suốt thời gian em tiến hành làm  khóa luận tốt nghiệp của mình. Em cũng xin cảm  ơn quý Thầy, Cô trong khoa Môi trường, trường Đại Học   Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội đã dạy dỗ, chuyền đạt những kiến thức cốt lõi   quý báu cho em trong những năm rèn luyện học tập tại trường. Với vốn kiến thức   được tiếp thu trong quá trình học không chỉ  là nền tảng cho quá trình nghiên cứu  khóa luận mà còn là hành trang quý báu để em bước vào đời một cách vững chắc và  tự tin. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô Phạm Phương Thảo là người   đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo sát sao để em hoàn thành tốt và đúng hạn báo cáo đồ  án của mình. Tuy nhiên với kiến thức, năng lực và kinh nghiệm còn hạn hẹp, em không   tránh khỏi có thể mắc phải nhiều thiếu sót nên em rất mong được ý kiến đóng góp,  nhận xét từ phía Thầy Cô trong hội đồng bảo vệ đồ án khoa Môi Trường – trường  Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội để  em có thể  hoàn thành bài báo cáo   này. Đó cũng là vốn kiến thức quý giá giúp em hoàn thiện kiến thức của bản thân. Cuối cùng em xin kính chúc quý Thầy, Cô khoa Môi Trường, trường Đại Học  Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội và các Cô, Chú, Anh, Chị trong Viện Khoa học   Vật liệu luôn dồi dào sức khỏe, hành phúc và thành đạt. Em xin chân thành cảm ơn! 2
  3. MỤC LỤC 3
  4. DANH MỤC THUẬT NGỮ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT Chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt Aas Atomic Absorption  Quang phổ hấp thụ nguyên tử Spectrophotometri c PVA Polyvinyl alcohol Polyvinyl alcohol SEM Scanning Eclectron  Kính hiển vi điện tử quét Microscope XRD X­Ray Diffraction Nhiễu xạ tia X BET Identifies   Specific  Xác định bề mặt riêng Surface 4
  5. MỞ ĐẦU  Asen hay còn gọi là thạch tín là một nguyên tố hóa học kí hiệu là As và nằm   trong ô thứ 33 trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, Asen là một nguyên tố  rất phổ biến và xếp thứ 20 trong tự nhiên, chiếm khoảng 0,0005% vỏ trái đất. Asen   là một á kim gây ngộ  độc cao và có nhiều dạng hình thù ( màu vàng, và một vài  dạng màu đen và xám). Asen hiếm khi được tìm thấy  ở  dạng tự  do trong tự  nhiên  mà phần lớn  ở trạng thái kết hợp với lưu huỳnh, oxi và sắt. Asen tồn tại trong các   nguồn nước tự  nhiên có số  oxi hóa +3 và+5. Các dạng thủy phân của Asen không  màu gồm: H3AsO3, H2AsO3­, HAsO32­, AsO33­, H3SO4, H2AsO4­, HAsO42­, AsO43­ phụ  thuộc nhiều vào pH của môi trường. Trong khi các kim loại có xu hướng không tan  trong nước  ở  môi trường trung tính thì Asen có thể tan trong môi trường trung tính   với nồng độ tương đối cao. Điều này có thể lý giải tại sao nước ngầm dễ bị nhiễm   Asen. Gần đây tình trạng nước dưới đất bị  nhiễm độc Asen, phổ  biến là các nước  Ấn Độ, Trung Quốc....mà  ở  Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện càng nhiều, điển hình  như  khu cực Quỳnh Lôi, Hai Bà Trưng (Hà Nội), đã có nhiều gia đình chịu hậu  quả  và di chứng nặng nề do nhiễm độc Asen, nhiều trường hợp đã tử  vong. Với  tình trạng khoan giếng bừa bãi hiện nay (do nước máy khan hiếm ), đa số  nguồn  nước khoan lên chủ yếu là sử dụng trực tiếp mà không qua xử lý triệt để ( thường  chỉ dùng biện pháp thô sơ như  lắng, lọc..) các biện pháp này không loại bỏ  được  các kim loại nặng còn lẫn trong nước, lại thiếu sự kiểm soát và hướng dẫn các cơ  quan chức năng lên chất lượng nước làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân   là điều không tránh khỏi. Việc sử  dụng nguồn nước nhiễm Asen gây rất nhiều  bệnh tật, ảnh hưởng đến sức khỏe con người, thậm chí cả tính mạng như rối loạn  thần kinh, ung thư.... Với mục đích khai thác tiềm năng  ứng dụng của vật liệu mới vào xử  lý môi  trường đặc biệt là môi trường nước em xin lựa chọn đề  tài:  “Tổng hợp vật liệu  Ti/Fe kích thước Nano bằng phương pháp đốt cháy Gel để  xử  lý Asen trong  nuớc” để nghiên cứu.  Mục tiêu nghiên cứu: ­Nghiên cứu tổng hợp được vật liệu Ti/Fe kích thước nanomet bằng phương   pháp đốt cháy gel. ­Đánh giá khả năng xử lý Asen bằng vật liệu Ti/Fe. 5
  6. Nội dung nghiên cứu: ­  Thu thập, tổng hợp    tài liệu liên quan đến vật liệu  nano, phương pháp xử  lý   Asen. ­ Chế tạo vật liệu Ti/Fe kích thước nano bằng phương pháp đốt cháy gel. ­ Phân tích cấu trúc của vật liệu   Ti/Fe kích thước nano  qua thông qua  chụp  bằng nhiễu xạ tia X (XRD), kính hiển vi điện tử quét (SEM), BET. ­ Đánh giá khả năng hấp phụ Asen trong nước của vật liệu Ti/Fe kích thước nano: + Thời gian cân bằng hấp phụ. + Dung lượng hấp phụ cực đại. + Các điều kiện tối ưu: pH, nhiệt độ, các ion hòa tan khác. 6
  7. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN 1.1. Tổng quan về vật liệu Ti/Fe a.  Giới thiệu chung về vật liệu TiO2 Vật liệu oxit titan (TiO2) là chất xúc tác bán dẫn. TiO2 trong tự nhiên tồn tại ba  dạng thù hình khác nhau là rutile, anatase, và brookite (hình 1.1). Cả ba dạng tinh thể  này đều có chung một công thức hóa học TiO2, tuy nhiên cấu trúc tinh thể của chúng  là khác nhau. Hằng số mạng, độ  dài liên kết Ti­O, và góc liên kết của ba pha tinh   thể. Titanium (IV) Oxide (II) có một pha bền đó là pha rutile (tetragonal) và hai pha   giả   bền   là   anatase   (tetragonal)   và   brookite   (orthorhombic).   Cả   hai   pha   giả   bền  chuyển thành pha rutile khi vật liệu được nung ở nhiệt độ trên 700 oC (915oC cho pha  anatase và 750oC cho pha brookite). Một số tác giả cũng thấy rằng ở nhiệt độ 500oC  pha anatase bắt đầu chuyển sang pha rutile trong các quá trình xử lý nhiệt . Hình 1.1. Các dạng thù hình khác nhau của TiO2: (A) rutile, (B) anatase, (C)   brookite. Cấu trúc mạng lưới tinh thể của rutile, anatase và brookite đều được xây dựng   từ  các đa diện phối trí tám mặt (octahedra) TiO 6   nối với nhau qua cạnh hoặc qua   7
  8. đỉnh oxy chung (hình 1.2). Mỗi ion Ti +4 được bao quanh bởi tám mặt tạo bởi sáu ion  O2­. Hình 1.2. Khối bát diện của TiO2. Các mạng lưới tinh thể  của rutile, anatase và brookite khác nhau bởi sự  biến   dạng của mỗi hình tám mặt và cách gắn kết giữa các octahedra. Pha rutile và anatase đều có cấu trúc tetragonal lần lượt chứa 6 và 12 nguyên tử  tương  ứng trên một ô đơn vị. Trong cả  hai cấu trúc, mỗi cation Ti+4 được phối trí  với sáu anion O2­; và mỗi anion O2­  được phối trí với ba cation Ti+4. Trong mỗi  trường hợp nói trên khối bát diện TiO6 bị biến dạng nhẹ, với hai liên kết Ti­O lớn  hơn một chút so với bốn liên kết còn lại và một vài góc liên kết lệch khỏi 90o. Sự  biến dạng này thể Pha rutile và anatase đều có cấu trúc tetragonal lần lượt chứa 6 và 12 nguyên tử  tương  ứng trên một ô đơn vị. Trong cả  hai cấu trúc, mỗi cation Ti+4 được phối trí  với sáu anion O2­; và mỗi anion O2­  được phối trí với ba cation Ti+4. Trong mỗi  trường hợp nói trên khối bát diện TiO6 bị biến dạng nhẹ, với hai liên kết Ti­O lớn  hơn một chút so với bốn liên kết còn lại và một vài góc liên kết lệch khỏi 90o. Sự  biến dạng này thể hiện trong pha anatase rõ hơn trong pha rutile. Mặt khác, khoảng   cách Ti­Ti trong anatase lớn hơn trong rutile nhưng khoảng cách Ti­O trong anatase   lại ngắn hơn so với rutile. Điều này ảnh hưởng đến cấu trúc điện tử  của hai dạng  tinh thể, kéo theo sự khác nhau về các tính chất vật lý và hóa học. 8
  9. Hình 1.3. Cấu trúc tinh thể của TiO2: (A) rutile, (B) anatase. b. Giới thiệu về Fe2O3 Oxit sắt tồn tại trong tự  nhiên  ở  một số  dạng, trong đó có magnetit (Fe3O4),  maghemit (γ­Fe2O3) và hematit (α­Fe2O3) là phổ  biến nhất. Hematit, α­Fe2O3 là oxit  bền nhất của sắt  ở điều kiện thường. Nó là sản phẩm cuối cùng trong sự  chuyển   hóa của các oxit sắt khác. Hematit có cấu trúc tinh thể kiểu corudum, trong đó ion  O2­ được sắp xếp ở các nút mạng của hình lục giác còn ion Fe3+ nằm ở lỗ trống bát  diện (hình 1.1a).                        a)     b) Maghemit, γ­Fe2O3 tồn tại ở trạng thái nửa bền và có mối quan hệ với α­Fe2O3  và Fe3O4. γ­Fe2O3 có cấu trúc tinh thể spinel khuyết, trong đó ion O2­ được sắp xếp  ở nút mạng của hình lập phương và  ion Fe3+ được sắp xếp ngẫu nhiên trong các lỗ  trống bát diện và tứ diện (hình 1.1b) 1.2. Ứng dụng của vật liệu TiO2 Vật liệu oxit titan (TiO2) là chất xúc tác bán dẫn. Gần một thế kỷ trở lại đây,  bột TiO2 với kích thước cỡ  µm đã được điều chế   ở  quy mô công nghiệp và được   ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau: làm chất độn trong cao su, nhựa,   9
  10. giấy, sợi vải, làm chất màu cho sơn, men đồ gốm, sứ…. Gần đây, bột TiO 2 tinh thể  kích  thước   nanomet  ở  các  dạng thù hình rutile,  anatase,  hoặc  hỗn  hợp rutile   và  anatase, và brookite đã được nghiên cứu  ứng dụng vào các lĩnh vực pin mặt trời,   quang xúc tác phân hủy các hợp chất hữu cơ trong nước và làm vật liệu quang xúc   tác tổng hợp các hợp chất hữu cơ, chế tạo sơn tự làm sạch, chế  tạo thiết bị  điện   tử, đầu cảm biến và trong lĩnh vực diệt khuẩn, xử  lý kim loại nặng độc hại trong   nước. Với hoạt tính xúc tác cao, cấu trúc bền và không độc, vật liệu TiO 2 được cho  là vật liệu triển vọng nhất để  giải quyết rất nhiều vấn đề  môi trường nghiêm   trọng và thách thức từ sự ô nhiễm. TiO2 đồng thời cũng được hy vọng sẽ mang đến  những lợi ích to lớn trong vấn đề khủng hoảng năng lượng qua sử dụng năng lượng  mặt trời dựa trên tính quang điện và thiết bị phân tách nước. Trong lĩnh vực xử lý asen vật liệu oxit TiO 2 đã được nhiều nhà khoa học quan  tâm.  1.3. Tình hình nghiên cứu của vật liệu Ti/Fe trong nước và thế giới a. Tình hình nghiên cứu trên thế giới Ngày nay, xu hướng phát triển bền vững ngày càng trở  lên phổ  biến và được  “toàn cầu hóa”. Mục tiêu hiện đại của lĩnh vực xử lý ô nhiễm nói chung và xử lý ô   nhiễm nước nói riêng cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Cho đến nay đã và đang  có nhiều công trình nghiên cứu  ứng dụng các loại vật liệu để  tiến hành xử  lý ô   nhiễm môi trường nước mà cụ thể hơn là xử lý Asen trong nước ngầm. Trong lĩnh  vực xử  lý asen vật liệu oxit TiO 2  đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Mixed  oxide TiO2 ­Fe2O3  bi­composite đã được công nhận là hấp thụ hiệu quả và kinh tế  với nhiều hứa hẹn cho việc loại bỏ  asen trong nước ngầm trên thế  giới. Trong  nghiên cứu này, chúng tôi sử  dụng một phương pháp tổng hợp nhanh chóng, đơn  giản và không tốn kém cho loại bi­composite và đánh giá hiệu suất hấp phụ của nó Minna Pirilä và cộng sự  đã nghiên cứu sử dụng hỗn hợp titan hydroxyt và titan   đioxit để  loại bỏ  asen trong nước. Sự  hấp phụ As(III) và As(V) được mô tả  bằng   mô hình đẳng nhiệt Langmui với dung lượng hấp phụ cực đại. Mitch D’Arcy và cộng sự đã nghiên cứu tổng hợp vật liệu compozit hệ TiO 2 –  Fe2O3 bằng phương pháp kết tủa và nghiên cứu khả năng hấp phụ asen. Sự hấp phụ  asen trên vật liệu compozit được mô tả bằng mô hình đẳng nhiệt Lăngmuir với hệ  số hồi quy R2 = 0,965. Dung lượng hấp phụ cực đại của vật liệu compozit hệ TiO 2  – Fe2O3 mgAs(V)/g, cao hơn dung lượng hấp phụ cực đaị  của TiO 2  .Tác giả chỉ ra  10
  11. rằng   sự   hấp   phụ   As(V)   theo   cơ   chế   tạo   phức   với   nhóm   hydroxyt   hình   thành   monobentat và bibentat trên bề mặt vật liệu compozit.  b. Tình hình nghiên cứu vật liệu Ti/Fe ở trong nước Ở  Việt Nam, cũng có một số  tác giả  đã nghiên cứu về  vật liệu Ti/Fe bằng   phương pháp đốt cháy Gel và nó đã trở  thành đối tượng nghiên cứu của TS.Phạm   Ngọc Chức, Phòng Vật Liệu Vô Cơ – Viện Khoa Học Vật Liệu. Tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, TS.Phạm Ngọc Chức cùng với  đồng nghiệp của mình trong Phòng Vật Liệu Vô Cơ – Viện Khoa Học Vật Liệu và   tôi đã chế tạo thành công vật liệu bằng phương pháp đốt cháy Gel dùng polyvinyl  ancol (PVA) làm nhiên liệu. Kết quả  bước đầu cho thấy hoàn toàn thu được vật   liệu có kích thước nhỏ  và có bờ  hấp thụ  ánh sáng trong vùng ánh sáng nhìn thấy.   Như vậy, đây là lần đâu tiên vật liệu Ti/Fe kích thước nano đơn pha tinh thể được  tổng hợp bằng phương pháp đốt cháy Gel sử  dụng PVA. Kế  thừa thông tin từ  TS.Phạm Ngọc Chức thì phương pháp đốt cháy Gel sử dụng PVA làm nhiên liệu có  ưu điểm là cho cấu trúc nano với nhiều lỗ xốp lên vật liệu nano thu được không chỉ  có diện tích bề  mặt lớn mà khả  năng hấp phụ  cũng lớn hơn nhiều so với trường   hợp sử dụng các phương pháp chế tạo khác. 1.4. Các phương pháp chế tạo vật liệu nano Trong những năm qua, việc tổng hợp vật liệu hạt nano có kích thước từ 1 đến  100nm đã phát triển mạnh trên các lĩnh vực nghiên cứu cơ  bản và nghiên cứu  ứng  dụng. Những tính chất điện, quang, từ  và cả  tính chất hóa học đặc biệt của chúng   phụ thuộc rất nhiều vào kích thước hạt nanomet. Có hai hướng tiếp cận và tổng hợp vật liệu nano đó là tổng hợp bằng phương  pháp vật lý và tổng hợp bằng phương pháp hóa học. Ưu điểm của phương pháp vật lý là tổng hợp được lượng lớn các hạt nano,   nhưng sự đồng đều về kích thước hạt không cao do khó điều khiển kích thước hạt. Ngược lại, các phương pháp hóa học đi từ các hợp chất trong pha lỏng cũng đã   thu hút nhiều nhà khoa học do có khả  năng điều khiển được kích thước hạt, thu  được các hạt nano đồng đều. Ngoài ra, các hạt nôn có hình dạng đa dạng nano dạng   hạt, dạng thanh, dạng sợi, dạng đĩa… có thể được tổng hợp từ các điều kiện phản  ứng rất khác nhau (như sử dụng hỗn hợp các chất trên bề mặt khác nhau…). 11
  12. Các phương pháp chế  tạo vật liệu nói chung và vật liệu nano nói riêng rất  phong phú và đa dạng. Mỗi cách tổng hợp đều có ưu hoặc nhược điểm khác nhau. Hiện nay, các phương pháp hóa học có thể  tạo ra các hạt nano đồng nhất có  kích thước và hình dạng đa dạng. Sau đây là các phương pháp tiêu biểu: phương  pháp thủy nhiệt, đồng tạo phức, quá trình sol­gel, đốt cháy gel. 1.4.1. Phương pháp thủy nhiệt Thủy nhiệt là những phản  ứng hóa học xảy ra với sự  có mặt của một dung   môi thích hợp (thường là nước) ở nhiệt độ phòng, áp suất cao (trên 1atm) trong một   hệ thống kín. Đầu tiên, trong bình thủy nhiệt chỉ  bao gồm nước và các tiền chất rắn. Khi  nhiệt độ tăng, các tiền chất liên tục bị hòa tan, khiến cho nồng độ  của chúng trong  hỗn hợp lỏng ngày càng tăng lên và phản  ứng hóa học xảy ra dễ  dàng hơn. Các   phần tử  cấu thành lên dung dịch  ở giai đoạn này có kích thước nhỏ  hơn tiền chất   ban đầu. Sau đó, hạ nhiệt độ sẽ xảy ra phản ứng ngưng tụ tạo thành chất mới. Sự  tạo thành chất mới phụ  thuộc vào rất nhiều tỷ  lệ các chất phản  ứng, lượng nước   dùng, các tiền chất, nhiệt độ, áp suất…. Phương pháp này có đặc điểm là kết tủa đồng thời các hidroxit kim loại  ở  điều kiện nhiệt độ và áp suất cao, cho phép khuếch tán các chất tham gia phản ứng   tốt, tăng đáng kể bề  mặt tiếp xúc các chất phản  ứng do đó có thể  điều chế  được  vật liệu mong muốn. Ưu điểm: + Thao tác đơn giản  + Có khả năng điều chỉnh kích thước hạt bằng nhiệt độ thủy nhiệt. + Có thể dùng các nguyện liệu rẻ tiền để tạo sản phẩm có giá trị Nhược điểm: + Tạo ra tạp chất không mong muốn. + Một số chất không thể hòa tan trong nước, do đó không thể dùng phản ứng   thủy nhiệt. Đây là phương pháp có nhiều  ưu điểm, tổng hợp được các vật liệu có kích  thước hạt nanomet, tuy nhiên phương pháp này yêu cầu thiết bị tiến hành phản ứng  tương đối phức tạp. 12
  13. 1.4.2. Phương pháp đồng tạo phức Nguyên tắc của phương pháp này là cho các muối kim loại tạo phức cùng với  khối tử  trong dung dịch. Sau đó tiến hành phân hủy nhiệt phức chất có thành phần  hợp phức mong muốn. Phương pháp này đạt được sự phân bố  lý tưởng các cấu tử  trong hệ  phản  ứng vì trong mạng lưới tinh thể  của phức rắn có sự  phân bố  hoàn   toàn có trật tự của các ion Ưu điểm: + Trong hỗn hợp ban đầu đưa vào nung (hỗn hợp các chất phức) đã đảm bảo  tỷ lệ hợp thức của các cấu tử đúng như trong vật liệu mong muốn. Nhược điểm: + Việc tìm ra các phức chất đa nhân không dễ  dàng và công việc tổng hợp   phức chất tương đối phức tạp đòi hỏi nhiều khối tử đắt tiền. 1.4.3. Phương pháp sol­gel Sol là trạng thái tồn tại  ổn định của các hạt rắn tướng colloide bê trong chất   lỏng, và để các hạt rắn tồn tại ở trạng thái ổn định kích thước, các hạt phải đủ nhỏ  để  các lực cần phân tán phải lớn hơn trọng lực. Colloide là các hạt có kích thước   trong phạm vi 2mm đến 0,2 um và trong mooic hạt tồn tại khoảng 103 đến 109 phân  tử. Gel là chất rắn rỗ xốp có cấu tạo mạng liên kết ba chiều bên trong môi trường   phân tán chất lỏng, và gel hình thành từ các hạt keo (colliode) gọi là collide gel, còn  trong trường hợp được tạo thành những đơn vị  hóa học nhỏ  hơn các hạt colloide  gọi là gel cao phân tử. Trong quá trình  sol­gel, giai đoạn đầu tiên là sự phân hủy và đông tụ tiền chất   để hình thành sol, dạng đồng nhất của các hạt oxit siêu nhỏ trong chất lỏng. Chất đầu để  tổng hợp sol này là các hợp chất hoạt động của kim loại như  alkoxide của silic, nhôm, titan…Giai đoạn này có thể  điều kiển bằng sự  thay đổi  pH, nhiệt độ, thời gian phản ứng xúc tác, nồng độ tác nhân, tỷ lệ nước… Các hạt sol có thể lớn lên và đông tụ hình thành mạng polime liên tục hay Gel   chứa các bẫy dung môi. Phương pháp này làm khô sẽ  xác định tính chất của sản   phẩm cuối cùng Gel có thể được nung nóng để loại trừ  các phân tử  dung môi, gây   áp lực lên mao quản và làm sụp đổ mạng Gel, hoặc làm khô siêu giới hạn, cho phép  loại bỏ các phân tử dung môi mà không sụp đổ mạng Gel. Sản phẩm cuối cùng thu   13
  14. được từ  phương pháp làm khô siêu tới hạn gọi là aerogel, theo phương pháp nung  gọi là xerogel. Bên cạnh Gel còn có thể thu được nhiều sản phẩm khác Ưu điểm: + Có thể  tạo ra mạng phủ  liên kết mỏng để  mạng sự  dính chặt rất tốt giữa   vật kim loại và mang + Có thể tạp màng dày cung cấp cho quá trình chống sự ăn mòn. + Có thể phun phủ lên các dạng phức tạp. + Có thể sản xuất được những sản phẩm có độ tinh khiết cao. + Là phương pháp hiệu quả, kinh tế,  đơn giản,để  sản xuất màng có chât   lượng cao. + Có thể tạo màng ở nhiệt độ bình thường. Nhược điểm: + Sự liên kết trong màng yếu. + Độ chống mài mòn yếu. + Rất khó để điều khiển độ xốp. + Dễ bị rạn nứt khi xử lý ở nhiệt độ cao. + Chi phí cao đối với những vật liệu thô. + Hao hụt nhiều trong quá trình tạo màng. 1.4.4. Phương pháp đốt cháy gel Tổng hợp đốt cháy (CS – Combustion synthesis) là một trong những kỹ  thuật  quan trọng trong điều chế các vật liệu gốm mới (về cấu trúc, chức năng), compozit,  vật liệu nano. Trong những phương pháp hóa học sử dụng để chế tạo vật liệu dạng oxit hay  oxit phức hợp, tổng hợp đốt cháy có thể tạo ra tinh thể nano oxit và oxit phức hợp ở  nhiệt độ  thấp hơn trong một thời gian ngắn và có thể đạt ngay đến sản phẩm cuối  cùng. Quá trình tổng hợp đốt cháy xảy ra phản ứng oxi hóa khử tỏa nhiệt mạnh giữa  hợp phần chứa kim loại và hợp phần không chứa kim loại, phản ứng trao đổi giữa  14
  15. các hợp chất hoạt tính hoặc phản  ứng chứa hợp chất hay hỗn hợp chứa oxit hóa   khử. Những đặc tính này làm cho tổng hợp đốt cháy thành một phương pháp hấp   dẫn cho sản xuất các vật liệu mới với chi phí thấp so với các phương pháp truyền  thống Một số ưu điểm khác của phương pháp đốt cháy là: + Thiết bị công nghệ tương đối đơn giản. + Sản phẩm có độ mịn, độ tinh khiết cao.. + Nhiệt độ nung Gel không cáo, tiết kiệm năng lượng. Trong phương pháp đốt cháy Gel polime, để  ngăn ngừa sự tách pha cũng như  sự đồng nhất cao cho sản phẩm, phương pháp hóa ướt thường sử dụng các tác nhân   tạo gel. Một số polime hữu cơ được sử  dụng ngoài vai trò tác nhân tạo gel còn là  nguồn nguyên liệu như polivinyl alcol, polietylen glycol, polyacrylic axit và có thể là  hồ  tinh bột. Trong phương pháp này, dung dịch tiền chất gồm dung dịch các muối  kim loại (thường là muối natri) được trộn với polime hòa tan trong nước tạo thành  hỗn hợp nhớt. Làm bay hơi nước hoàn toàn hỗn hợp này thu được khối xốp nhẹ và  đem nung ở khoảng 300 – 9000C thu được oxit phức hợp mịn. Phương pháp đốt cháy Gel polime đã được nhiều tác giả  quan tâm nghiên  cứu và đã tổng hợp được các vật liệu có kích thước nanomet, diện tích bề mặt lớn. Dựa trên  ưu điểm nổi trội của phương pháp kết hợp với điều kiện cơ  sở  vật chất hiện có của phòng Vật liệu Vô cơ thuộc Viện Khoa học Vật liệu nơi em  tiến hành khóa luận của mình, em lựa chọn phương pháp đốt cháy gel để  chế  tạo   vật liệu Ti/Fe. 1.5. Giới thiệu chung về Asen. 1.5.1. Nguồn gốc và sự tồn tại của Asen trong môi trường. Asen là nguyên tố khá phổ biến trên trái đất. Trữ lượng asen trong lớp vỏ trái   đất khoảng 0,0005%, tồn tại chủ yếu dưới dạng các loại quặng như : quặng asenit   của Cu, Pb, Ag hoặc quặng sunfua : As 2S2; As2S; As2S3,... Asen cũng có thể có trong  than đá với hàm lượng cao. Trong khí quyển tồn tại cả  Asen vô cơ  và hữu cơ,  người ta phát hiên được sự  có mặt của Asen trong nước mưa dưới dạng Asenit.   Ngoài ra Asen còn tồn tại trong cơ thể động thực vật. Dưới tác động của các quá   trình tự  nhiên và nhân sinh khác nhau Asen có thể  di chuyển từ  các hợp phần môi  trường này sang hợp phần môi trường khác dẫn đến sự  phân bố  phức tạp của các   15
  16. nguyên tố trong tự nhiên. Asen có ở khắp nơi, trong đất đá, nước, không khí và sinh  khối. Phần Asen chính nằm trong đất đá.  a. Nguồn gốc Asen trong  tự nhiên ­ Asen trong đá và quặng + Hàm lượng Asen trong các đá mangan từ  0,5 – 2,8 ppm, các carbonat – 2,0  ppm, đá cát kết – 1,2 ppm thấp hơn trong các đá trầm tích (6,6 ppm). Asen là một  trong những nguyên tố  có nhiều khoáng vật nhất, tới 368 dạng trong đó các nhóm  hydroarsen và arsenat – với 213 khoáng vật, sulfurarsenat – 73 khoáng vật, intêmtallit  – 40 khoáng vật … Trong các đá phiến sét phần lớn Asen tồn tại trong silicat (85,5 –   92,5%), phần nhỏ còn lại ở dạng hợp chất khác như oxit, sulfat, arsenua (khoảng 7­ 14,5 %). +  Ở  Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về  Asen  trong các thành tạo tự  nhiên. Trước đây, trong công tác lập bản đồ  địa chất và tìm  kiếm khoáng sản thường dùng phương pháp phân tích qua quang phổ phát xạ với độ  nhạy rất thấp nên khó phát hiện Asen. Bằng phương pháp mầu giã đãi đã tìm thấy  trong nhiều phức hệ đá xâm nhập có chứa arsenopyrit với mức hàm lượng Asen từ 
  17. + Hàm lượng tổng Asen trong bùn biển đại dương thế  giới là 1 ppm (A.P   Vinogradov,   1967),   trong  trầm  tích  Đệ   tứ   hạt  mịn  ở   Kyoto,   Sendai  (Nhật  Bản)   khoảng 1­30ppm. Hàm lượng As trong trầm tích Đệ tứ ở các lỗ khoan nước Hà Nội   (6­63 ppm trong trầm tích sét nâu, 2­12 ppm trong sét màu xám 0,5 – 5 trong cát vàng   – nâu xám) có quan hệ tuyến tính với hàm lượng Fe(OH)3, FeOOH. Trong trầm tích   biển ven bờ  Việt Nam có hàm lượng Asen ( trao đổi ion) dao động trong khoảng  0,1­6,1 ppm. ­  Asen trong không khí và nước + Hàm lượng Asen trong không khí (mg/m3) của thế  giới khoảng 0,007­ 2,3  (trung bình 0,5). Hàm lượng Asen trong không khí ở khu vực xung quanh Ngã Tư Sở  là 0,036­ 0,071 (trung bình 0,044). + Hàm lượng Asen trong nước dưới đất phụ  thuộc rất nhiều vào tính chất và   trạng thái môi trường địa hoá. Dạng Asen tồn tại chủ  yếu trong nước dưới đất là  H3AsO4­ (trong môi trường pH axit đến gần trung tính), HAsO42­( trong môi trường  kiềm). Hàm lượng Asen trong nước ngầm trong một số  vùng Miền Bắc khoảng  0,0001 ­ 0,32 mg/l.  ở Hà Nội, hàm lượng Asen trong nước ngầm  ở  những vùng có   trầm tích Đệ tứ với các lớp bùn giàu vật liệu hữu cơ thường cao hơn các vùng khác. ­ Asen trong sinh vật + Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới, cây trồng cũng  chứa một hàm lượng Asen nhất định, đôi khi khá cao. Hàm lượng trung bình của   Asen (ppm) trong lúa (khô) 110­200, ngô (khô) 30­40, bắp cải (tươi) 20­50… Asen   tích tụ chủ yếu ở rễ, ở những khu vực đất bị ô nhiễm thì rễ cây hấp thụ khá nhiều  As. Hàm lượng Asen trong rau trước đây (0,1­2,7 ppm trung bình 0,03­0,05 ppm),  thấp hơn hàm lượng chính nó trong rau hiện nay. Phải chăng đây là hậu quả của sự  ô nhiễm môi trường đất, nước bởi Asen hiện nay. Sinh vật biển nói chung thường  giàu Asen, hàm lượng trung bình của Asen trong cá biển từ  0,6­4,7 ppm, còn trong  nước ngọt là 0,54 ppm. Asen tập trung trong gan và mỡ cá.  b.Nguồn gốc Asen trong nhân tạo Từ  các hoạt động của con người asen  được phát thải vào môi trường khí,  nước, đất. Những nguồn phát thải chính là các hoá chất bảo quản gỗ, công nghiệp,  khai khoáng và luyện kim.  1.5.2. Cơ chế xâm nhập Asen vào nguồn nước ngầm. 17
  18. Hiện tượng ô nhiễm asen trong nước ngầm chủ  yếu là do hiện tượng giải   phóng asen có trong khoáng vật dưới lòng đất. Các nhà khoa học cho rằng asen giải  phóng ra nước ngầm theo ba cơ chế sau: ­ Cơ  chế  1: Asen được giải phóng ra bởi sự  oxi hoá Arsenical pyrite là một   khoáng vật phổ  biến trong trầm tích, khi mà mực nước ngầm cho phép oxi khí  quyển lan toả trong tầng ngập nước. ­ Cơ chế 2: Anion Asen hấp phụ trên khoáng vật ngập nước được giải phóng  ra nước bởi sự trao đổi cạnh tranh của anion photphat có mặt do sử dụng của phân  bón hoá học. ­ Cơ  chế  3: dưới điều kiện yếm khí cho phép quá trình khử  của sắt oxi   hydroxit (FeOOH) và giải phóng Asen đã hấp phu trên đó ra nước 1.5.3. Tác động của Asen đối với sức khỏe con người và sinh vật Mặc dù là nguyên tố  vi lượng cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của   động vật, thực vật song Asen và các hợp chất của Asen có độ  độc tính rất cao khi   hàm lượng của nó vượt mức cho phép. Các tác hại của Asen và hợp chất của Asen   lên thực vật thường như: làm giảm quá trình quang hợp, làm rụng lá cây, gây thiếu   sắt, thiếu photpho... Với người và động vật, Asen và hợp chất của Asen dù hàm   lượng rất nhỏ cúng gây độc hại tới tất cả các hệ cơ quan trong cơ thể, làm rối loạn  nhiều chức năng sống, hủy hoại nhiều protein quan trọng và  ức chế  các enzym  chuyển hóa Hiện nay, nhiễm độc Asen đang là mới quan tâm chung của nhiều quốc gia trên  thế giới, đặc biệt là tác hại gây ung thư cũng như  rối loạn gen khi tiếp xúc lâu dài  với Asen và hợp chất của Asen ở hàm lượng thấp qua hô hấp và ăn uống. +   Chết   người   nếu   ăn   phải   thực   phẩm   hoặc   nước   có   hàm   lượng   As   trên   60.000ug/L. +  Ảnh hưởng đến dạ  dày và ruột nếu ăn phải thực phẩm và nước có hàm  lượng asen vô cơ từ 300 – 30.000µg/L với với các triệu chứng như đau dạ dày, buồn   nôn và nôn, tiêu chảy. + Giảm khả năng tạo hồng cầu và bạch cầu, dẫn đến mệt mỏi, rối loạn nhịp  tim, vỡ mạch máu gây bầm tím và suy giảm hệ than kinh gây tê bàn chân, bàn tay. + Nếu tiếp xúc, ăn uống thực phẩm, nước nhiễm asen trong thời gian dài có  thể gây ra những biến đổi về sắc tố da như sạm da, dày sừng hoặc mụn cóc ở lòng  18
  19. bàn tay, lòng bàn chân và trên người và có thể  dẫn đến ung thư  da. Ngoài ra, ăn  uống nguồn thực phẩm, nước nhiễm asen làm tăng nguy cơ ung thư gan, thận, bàng  quang, tuyến tiền liệt và phổi. 1.5.4. Xử lý ô nhiễm Asen Keo tụ ­ kết tủa: Cộng kết tủa ­ lắng ­ lọc đồng thời với quá trình xử  lý sắt  và mangan có sẵn trong nước ngầm tự  nhiên. Đây là phương pháp xử  lý đơn giản   nhất, bằng cách bơm nước ngầm từ  giếng khoan, sau đó làm thoáng để  oxi sắt,   mangan, tạo Hydroxit sắt, mangan kết tửa. Asen (III) được oxi hóa đồng thời thành   Asen (V), có khả năng hấp thụ lên bề mặt các bông keo tụ Hydroxit sắt hay mangan   tạo thành và lắng xuống đáy bể, hay hấp thụ và bị giữu lại lên bề mặt cát trong bể  lọc. Các nghiên cứu cho thấy công nghệ  hiện đại có tại các nhà máy nước  ở  Hà   Nội, chủ  yếu để  xử  lý sắt và mangan , cho phép loại bỏ  50 – 80% Asen có trong   nước ngầm mạch sau khu vực Hà Nội. Nghiên cứu gần đây của CETASD và Viện   Công nghệ Môi trường Liên bang Thụy Sĩ cho thấy đối với các hộ gia đình sử dụng  giếng khoan  đơn lẻ, nơi có hàm lượng sắt cao trong nước ngầm, mô hình làm  thoáng nước ngầm bằng cách phun mưa trên bề  mặt bể  lọc cát (lọc chậm), phổ  biến  ở  các hộ  gia đình hiện nay, cho phép loại bỏ  tới 80% Asen trong nước ngầm  cùng với việc loại bỏ sắt và mangan. Những nghiên cứu này cũng đã chỉ rằng hàm   lượng Asen trong nước sau khi xử lý bằng phương pháp trên phụ  thuộc nhiều vào   thành phần các hợp chất khác trong nước nguồn và trong đa số  trường hợp, không  cho phép đạt nồng độ Asen thấp dưới tiêu chuẩn, do vậy cần tiếp tục xử lý bằng  các phương pháp khác Keo tụ bằng hóa chất:  ­ Phương pháp keo tụ  đơn giản nhất là sử  dụng vôi sống (CaO) hoặc vôi tôi  (Ca(OH)2) để khử Asen. Hiệu suất đạt khoảng 40 ­ 70 %. Keo tụ bằng vôi đạt hiệu  suất cao với pH trên 10,5 cho phép đạt hiệu suất khử  Asen cao, với nồng độ  Asen   ban đầu khoảng 50 µg/l. Có thể sử dụng để khử Asen kết hợp với làm mềm nước.   Tuy vậy, phương pháp này khó cho phép đạt được nồng độ Asen trong nước sau xử  lý xuống tới 10 mg/l. Một hạn chế  của phương pháp sử  dụng vôi là tạo ra một   lượng cặn lớn sau xử lý ­ Ngoài ra còn có thể dùng phương pháp keo tụ, kết tủa bằng Sunfat nhôm hay   Clorua sắt. 19
  20. ­ Oxi hóa bằng các chất oxi hóa mạnh: Các chát oxi hóa được phép sử  dụng  trong cấp nước như Clo, KmnO4, H2O2, Ozon. ­ Oxi hóa điện hóa: Có thể  xử  lý nước chứa Asen bằng phương pháp dùng   điện   cực   là   hợp   kim   và   áp   dụng   cho   các   hộ   sử   dụng   nước   quy   mô   nhỏ.  Oxy quang hóa: Nhóm các nhà khoa học Ôxtrâylia đã phát minh ra công nghệ loại bỏ  Asenite (As(III)) và cả  các chất hòa tan khác như  Sắt, Phosphorus, Sulfur,... khỏi   nước bằng cách đưa chất oxy hóa và chất hấp phụ  quang hóa: (chiếu tia cực tím  vào nước rồi sau đó lắng). Chất oxy hóa có thể là oxy tinh khiết hoặc sục khí. Chất   hấp phụ quang hóa có thể là Fe(II), Fe(III), Ca(II). Có thể sử dụng ánh sáng mặt trời  làm nguồn tia cực tím. Phản ứng có thể xảy ra ở nhiệt độ  trong phòng và ánh sáng  thấp, không đòi hỏi các thiết bị phức tạp. Do As(III) bị oxy hóa thành As(V) với tốc   độ rất chậm, có thể sử dụng các chất oxy hóa mạnh như Cl2, H2O2 hoặc O3.  Hấp phụ ­ Hấp phụ bằng nhôm hoạt hóa: Nhôm hoạt hóa được sử dụng có hiệu quả để  xử  lý nước có hàm lượng chất rắn hòa tan cao. Tuy nhiên, nếu trong nước có các   hợp chất của Selen, Florua, Clorua, Sunfat với hàm lượng cao, chúng có thể  cạnh   tranh hấp phụ. Nhôm hoạt hóa có tính lựa chọn cao đối với Asen(V), vì vậy mỗi lần  xử lý có thể giảm tới 5 ­ 10 % khả năng hấp phụ. Cần hoàn nguyên và thay thế vật   liệu lọc khi sử  dụng. Cột lọc hấp phụ  với Nhôm hoạt hóa dùng cho giếng khoan  bơm tay được thiết kế bởi các nhà khoa học Ấn Độ. Các chuyên gia đã chọn Nhôm  hoạt hóa làm vật liệu hấp phụ, dựa trên đặc tính lựa chọn và công suất hấp phụ cao   đối với Asen, khả  năng hoàn nguyên, nguồn cung cấp sẵn có và bỏ  qua được yêu  cầu sử dụng hóa chất. Phương pháp này tương đối thuận lợi, nhất là cho các vùng   nông thôn nghèo. Chỉ cần đổ nước giếng cần xử lý qua lớp vật liệu lọc. Thời gian  làm việc của thiết bị phụ thuộc vào chất lượng nước và hàm lượng sắt trong nước   nguồn. Hàm lượng sắt trong nước nguồn càng cao, hiệu suất khử Asen càng cao và   chu kỳ làm việc trước khi hoàn nguyên càng tăng.  ­ Hấp phụ bằng oxit nhôm hoạt hóa: Công ty Project Earth Industries (PEI Inc.)  đã chế  tạo ra một loại vật liệu hấp phụ  rẻ  tiền, có nguồn gốc từ  nhôm, có khả  năng tách Asen  ở  2 dạng tồn tại phổ  biến  ở  trong nước là As (III) và As(V). Vật   liệu hấp phụ này có đặc tính hóa học, diện tích bề mặt và độ rỗng cao, có khả năng  hấp phụ  cao hơn 10 lần so với các vật liệu thông thường khi có mặt các Ion cạnh   tranh. Cường độ hấp phụ nhanh, cho phép đạt hiệu suất cao, lượng Asen sau xử lý  đạt dưới mức giới hạn tìm thấy của thiết bị phân tích trong phòng thí nghiệm. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0