DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP: TỪ CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐẾN KINH NGHIỆP QUỐC TẾ
GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
Nguyễn Thị Việt Nga*1
TÓM TT: Trong thời gian qua, doanh nghiệp khởi nghiệp và chính sách nhằm hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp phát triển được Đảng và nhà nước ta dành nhiều sự quan tâm đặc biệt. “Khởi nghiệp” không chỉ
đơn thuần là “bắt đầu sự nghiệp kinh doanh” như nghĩa gốc của nó. Hiện nay có nhiều khái niệm và cách
hiểu về doanh nghiệp khởi nghiệp, có khái niệm cho rằng doanh nghiệp khởi nghiệp được hiểu là một
doanh nghiệp đang trong giai đoạn đầu hoạt động bằng vốn từ chính người sáng lập, đang nỗ lực để tận
dụng phát triển một hàng hóa hay dịch vụ nào đó mà họ cho rằng thị trường đang có nhu cầu, tuy nhiên
do doanh thu hạn chế hoặc do chi phí cao nên hầu hết các hoạt động quy mô nhỏ này không bền vững và
thường thiếu sự đầu tư vốn từ các nhà đầu tư mạo hiểm. Trong khuôn khổ nghiên cứu nhỏ này, tác giả sẽ
tổng hợp những cơ chế, chính sách của Chính phủ, đến những thuận lợi, khó khăn của Doanh nghiệp khởi
nghiệp, cùng một vài kinh nghiệm từ thế giới từ đó đưa ra những khuyến nghị chính sách cho doanh nghiệp
khởi nghiệp của Việt Nam.
Từ khóa: Doanh nghiệp khởi nghiệp, phát triển bền vững, sáng tạo. công nghệ sáng tạo.
1. ĐẶT VẤN Đ
Vào những năm 1990, doanh nghiệp khởi nghiệp chủ yếu trong lĩnh vực công nghệ dotcom, một
trong doanh nghiệp khởi nghiệp thành công là amazon.com và eBay1
2. Gần đây (tháng 2/2016) Bộ Thương
mại và công nghiệp Ấn độ đã đưa ra khái niệm về doanh nghiệp khởi nghiệp nếu hội đủ các điều kiện như
được thành lập, đăng hoạt động chưa quá 05 năm; Doanh thu tài chính mỗi năm không vượt quá 250 triệu
Rupi; Hoạt động nhằm hướng tới sự đổi mới, phát triển, triển khai và thương mại hóa các sản phẩm mới,
quy trình hoặc các dịch vụ dựa trên công nghệ hoặc sở hữu trí tuệ2
3. Tựu chung lại, doanh nghiệp khởi nghiệp
thường được hiểu doanh nghiệp đang trong giai đoạn đầu của quá trình kinh doanh, thường 5 năm
đầu, có quy mô nhỏ, hoạt động nhằm hướng đến đổi mới, sáng tạo, sử dụng công nghệ để tạo ra sự đột phá,
nhưng chưa chắc chắn về khả năng tạo doanh thu. Ở Việt nam hiện nay chưa thực sự có văn bản pháp luật
nào chuẩn hóa khái niệm về doanh nghiệp khởi nghiệp. Dự thảo luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang
xin ý kiến đã đưa ra khái niệm về khởi nghiệp và start up3
4, trong đó doanh nghiệp khởi nghiệp được hiểu là
doanh nghiệp đang trong quá trình hiện thực ý tưởng kinh doanh, bao gồm quá trình thành lập, vận hành,
* Khoa Kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội, Việt Nam.
1 http://www.investopedia.com/terms/s/startup.asp
2 http://dipp.nic.in/English/Investor/startupindia/Definition_Startup_GazetteNotification.pdf
3 Theo Dự thảo Luật hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Khái niệm “ Khởi nghiệp là quá trình hiện thực ý tưởng kinh doanh, bao
gồm quá trình thành lập và vận hành doanh nghiệp trong vòng 5 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp lần
đầu, chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán”. Khái niệm start up được sử dụng đối với khởi nghiệp sáng tạo, quá trình
khởi nghiệp dựa trên việc tạo ra hoặc ứng dụng kết quả nghiên cứu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản để nâng
cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa và có khả năng tăng trưởng nhanh.
1093
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
với thời gian 5 năm kể từ ngày được cấp giấy phép kinh doanh, chưa được niêm yết trên thị trường chứng
khoán; còn doanh nghiệp startup được hiểu các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Trong phạm vi bài
viết, doanh nghiệp khởi nghiệp được dùng để chỉ các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (start up).
2. MỘT SỐ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP
Từ Đại hội VII đến nay, Đảng ta đã nhiều chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân, trong
đó lực lượng chủ yếu các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Nối tiếp chủ trương trên, ngày 18/3/2002,
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết 14-NQ/TW về tiếp
tục đổi mới chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế nhân; Ngày 9/2/2010 ban
hành Kết luận số 64- KL/TW về kết quả kiểm tra tình hình thực hiện Nghị quyết 14-NQ/TW...
Nội dung các văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng đã chỉ rõ: Hoàn thiện chế, chính sách khuyến
khích, để hỗ trợ cho phát triển mạnh kinh tế nhân hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, tạo động lực
quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể là: Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV, DN khởi nghiệp; Tạo mọi điều kiện thuận
lợi phát triển mạnh DN nhân để tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; Hoàn thiện
pháp luật, chế, chính sách để DN nhân tiếp cận bình đẳng mọi cơ hội, các nguồn lực, nhất là về vốn,
đất đai, tài nguyên; Tăng cường trợ giúp để phát triển mạnh DNNVV, kinh tế hộ gia đình; Hỗ trợ DN khởi
nghiệp. Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách cải thiện môi trường kinh
doanh, tạo điều kiện thuận lợi phát triển DNNVV như: Luật Đầu tư sửa đổi, Luật DN sửa đổi, Luật Thuế giá
trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập DN, Luật Khoa học Công nghệ, Luật Phá sản (sửa đổi), Luật Hải quan
(sửa đổi), Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi), Luật Đầu tư công....
Triển khai các chủ trương của Đảng và Nhà nước, Chính phủ đã ban hành một số văn bản hỗ trợ như:
- Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV, quy định chính sách hỗ trợ DNNVV ở từ
Trung ương tới địa phương;
- Ngày 23/10/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 236/2006/QĐ-TTg phê duyệt Kế
hoạch phát triển DNNVV 05 năm giai đoạn 2006 - 2010, đề ra các giải pháp nhằm tạo lập môi trường đầu
tư, kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNNVV trên cơ sở huy động các nguồn lực
trong và ngoài nước;
- Ngày 30/6/2009, Chính phủ ban hành Nghị định 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV
(thay thế Nghị định 90/2001/NĐ-CP) quy định 8 nhóm hỗ trợ phát triển DNNVV (Hỗ trợ tài chính, mặt
bằng sản xuất; đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật; xúc tiến mở rộng thị trường; tham
gia mua sắm, cung ứng dịch vụ công; thông tin vấn; trợ giúp phát triển nguồn nhân lực; vườn ươm
DN). Trên sở đó, các bộ, ngành, địa phương cũng đã tập trung xây dựng triển khai những chương
trình hỗ trợ DNNVV.
- Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định 1231/QĐ-TTg, đề ra một số giải pháp, chương trình hỗ
trợ DNNVV trọng tâm sau:
(i) Hoàn thiện khung pháp lý về gia nhập, hoạt động và rút lui khỏi thị trường của DN;
(ii) Hỗ trợ tiếp cận tài chính, tín dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn;
(iii) Hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ mới;
(iv) Phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV, tập trung vào nâng cao năng lực quản trị;
(v) Đẩy mạnh hình thành các cụm liên kết, cụm ngành công nghiệp, tăng cường tiếp cận đất đai;
(vi) Cung cấp thông tin hỗ trợ DNNVV và xúc tiến mở rộng thị trường;
1094 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA
(vii) Xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp phát triển;
(viii) Quản thực hiện kế hoạch phát triển. Trong đó, nhấn mạnh vào những giải pháp về thành lập
Quỹ hỗ trợ, tổ chức thực hiện các Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020, Chương trình
quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020, Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020;
thí điểm xây dựng vườn ươm DN; thí điểm xây dựng hình hỗ trợ toàn diện cho DNNVV trong một số
lĩnh vực; thúc đẩy các liên kết kinh tế, cụm liên kết ngành.
Trong Nghị quyết 35/NQ-CP về hỗ trợ phát triển DN đến 2020, Chính phủ nhấn mạnh: Nhà
nước sẽ có những chính sách đặc thù để hỗ trợ DNNVV, DN khởi nghiệp, DN đổi mới sáng tạo và có tiềm
năng tăng trưởng cao phát triển. Hiện Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển khai xây dựng
Luật Hỗ trợ DNNVV. Công tác đào tạo nâng cao năng lực quản trị cho các DNNVV hiện nay cũng đã được
đưa vào kế hoạch hàng năm của các bộ, ngành và địa phương; Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia
đã thu hút được sự tham gia tích cực của các địa phương, tổ chức hiệp hội DN ngành nghề, đã hỗ trợ cho
hàng nghìn DNNVV; Chợ Techmart và những chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ đã giúp DN kết nối
cung - cầu, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm sức cạnh tranh… Nhờ các chương trình
trợ giúp trên, DNNVV cũng như các DN khởi nghiệp đã phần nào tiếp cận được nguồn tài chính, tín dụng;
tự tin trong kinh doanh xây dựng chiến lược kinh doanh... phát triển ổn định, đóng góp vào phát triển
kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động... Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư cho thấy, giai đoạn 2009-2014, DNNVV đóng góp khoảng 48 - 49% GDP. Vốn đầu chiếm 50% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội của khu vực DN.
3. NHỮNG KẾT QUẢ ĐT ĐƯỢC
Xem xét trên tiêu chí số lượng doanh nghiệp (DN) số vốn đăng thành lập mới trong suốt giai
đoạn 1991-2016 thể nhận thấy, DN khởi nghiệp không ngừng phát triển, đặc biệt trong 6 năm trở lại đây
(2011-2016). Ngay trong thời điểm kinh tế thế giới suy thoái, kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn (2011-
2013) nhưng cả nước vẫn có thêm 224.200 DN thành lập mới, bằng 41% tổng số DN được thành lập trong
suốt 20 năm trước đó (1991 - 2010).
Giai đoạn 2014-2016, nền kinh tế thoát khỏi đáy suy thoái, cùng với khung chính sách ngày càng hoàn
thiện (Luật DN 2015, Luật Đầu tư 2015…) tạo điều kiện thuận lợi cho DN khởi sự hoạt động kinh doanh,
số lượng DN đăng ký thành lập mới tiếp tục tăng lên. Theo đó, năm 2014 thêm 74.800 DN đăng ký thành
lập mới và năm 2015 có số DN thành lập mới đạt 94.750, tăng 26,6% so với năm 2014. Sáu tháng đầu năm
2016, cả nước có 54.501 DN đăng ký thành lập mới, tăng 20% về số DN so với cùng kỳ năm 2015 (so với
cùng kỳ năm trước, số DN thành lập mới 6 tháng đầu năm 2015 tăng 21,7%).
Bên cạnh số lượng DN thành lập mới ngày càng tăng lên, số vốn của DN cũng dần phục hồi và theo
xu hướng tăng. Năm 2014, số vốn đăng thành lập mới DN tăng 8,4% so với năm 2013 và năm 2015 tăng
39,1% so với năm 2014. Sáu tháng đầu năm 2016, tổng vốn đăng ký thành lập mới là 427,8 nghìn tỷ đồng,
tăng 51,5% so với cùng kỳ năm 2015. Xét về quy mô vốn/DN cũng có sự cải thiện đáng kể từ 5,13 tỷ đồng
năm 2013 lên 6,3 tỷ đồng vào năm 2015. Với làn sóng khởi nghiệp đang tăng tốc ngày càng mạnh mẽ,
số lượng DN thành lập mới sẽ ngày càng tăng, kỳ vọng đạt 1 triệu DN vào năm 2020.
3. MỘT SỐ KHÓ KHĂN THÁCH THỨC
Mặc dù được sự hỗ trợ bằng nhiều cơ chế chính sách từ chính phủ, tuy nhiên, môi trường khởi nghiệp
Việt Nam cũng đang gặp không ít những hạn chế, thách thức, cụ thể:
1095
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
Thứ nhất, các chỉ số về khởi nghiệp không nhiều thay đổi trong 3 năm 2013-2015 cả về mức độ
và thứ tự xếp hạng của các chỉ số. Theo Báo cáo khởi sự Việt Nam 2014, ba chỉ số: Cơ sở hạ tầng, sự năng
động của thị trường nội địa, văn hóa chuẩn mực hội có điểm số cao nhất trong số 12 nhân tố nhưng
cũng chỉ đạt mức trung bình với giá trị lần lượt 3,75; 3,71 3,13 điểm theo thang điểm 1- 5,9, chỉ số
còn lại được đánh giá dưới mức trung bình và chỉ số về Giáo dục về kinh doanh ở bậc phổ thông đạt điểm
thấp nhất ở mức 1,83.
Thứ hai, tâm lo ngại về thất bại trong kinh doanh dẫn đến tỷ lệ khởi nghiệp thấp. Theo Báo cáo
Khởi nghiệp Việt Nam 2014 (VCCI), tỷ lệ khởi sự kinh doanh ở Việt Nam năm 2014, chỉ đạt 2%, giảm so
với mức 4% của năm 2013 và thấp hơn nhiều so với mức bình quân 12,4% ở các nước phát triển dựa trên
nguồn lực.
Cũng theo báo cáo này, mặc tỷ lệ người trưởng thành Việt Nam lo sợ thất bại trong kinh doanh đã
giảm từ 56,7% năm 2013 xuống còn 50,1% năm 2014, song vẫn còn rất cao so với mức 31,4% ở các nước
phát triển dựa trên nguồn lực và 31,6% ở các nước dựa trên hiệu quả. Chỉ có 18,2% người trưởng thành ở
Việt Nam có ý định khởi sự kinh doanh trong vòng 3 năm tới, thấp hơn mức trung bình 40,2% ở các nước
phát triển dựa trên nguồn lực.
Thứ ba, năng lực của các DN khởi nghiệp còn hạn chế. Nhiều nhà sáng lập DN khởi nghiệp chưa thể
thuyết trình mạch lạc dự án kinh doanh của mình, họ vẫn còn quá đề cao ý tưởng của mình chưa hiểu
về việc phát triển một mô hình kinh doanh hiệu quả.
Thứ , năng lực sáng tạo của các DN Việt Nam còn rất hạn chế. Theo Lương Minh Hà, Đỗ Thu Hằng,
Vương Thu Trang (2015), chỉ chưa tới 7% trong tổng số bằng sáng chế được cấp tại Việt Nam trong giai
đoạn 1995-2014 của người Việt, cấp cho các nhân và DN nước ngoài. Bên cạnh đó, các tác giả cũng
dẫn chứng kết quả từ khảo sát trong nghiên cứu của Napier, Vu và Vuong (2012) cho thấy, có tới 42,3% các
dự án khởi nghiệp tự nhận thấy không có – hoặc không cần đến – năng lực sáng tạo nào và chỉ có 14,1% tự
đánh giá rằng, hàm lượng ý tưởng đổi mới sáng tạo trong kế hoạch khởi nghiệp là đáng kể.
Thứ năm, huy động vốn cho khởi nghiệp gặp nhiều khó khăn. Với bản chất rủi ro lớn, thiếu tài sản đảm
bảo của các DN khởi nghiệp thì dường như kênh phù hợp hiệu quả nhất các kênh đầu mạo hiểm.
Tuy nhiên, số lượng các quỹ đầu trong và ngoài nước cho khởi nghiệp ở Việt Nam không nhiều. Trung
bình mỗi năm chỉ có khoảng 10-20 DN khởi nghiệp Việt Nam nhận được đầu tư từ những quỹ đầu tư này.
Trong khi đó, việc hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm cũng đang gặp không ít khó khăn cả về khía cạnh
quy định pháp luật cũng như trên thực tế triển khai.
Thứ sáu, nhiều quốc gia khác (Singapore, Hồng Kông…) có chính sách thu hút DN khởi nghiệp, đặc
biệt là khởi nghiệp sáng tạo với nhiều ưu đãi hơn rất nhiều so với Việt Nam, dẫn đến tình trạng một số DN
khởi nghiệp sáng tạo chỉ sau một thời gian ngắn đã chuyển sang đăng ký hoạt động tại các quốc gia này.
4.CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO Ở CÁC NƯỚC
Ở các quốc gia trên thế giới, doanh nghiệp khởi nghiệp cũng nhận được nhiều sự quan tâm hỗ trợ phát
triển từ chính phủ bao gồm các chính sách ưu đãi trực tiếp như ưu đãi về thuếđối với doanh nghiệp khởi
nghiệp (Thái Lan, Singapo, Ấn độ, Nhật bản, Úc…); trợ cấp tiền mặt, hoặc Chính phủ hậu thuẫn tài trợ vốn
chủ sở hữu cho chủ doanh nghiệp khởi nghiệp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp dễ dàng được
tiếp cận nguồn vốn như ở Singapo…; hoặc ưu đãi gián tiếp thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm như ở Thái
Lan; hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp (Ấn Độ, Malaysia) hoặc vườn ươm công nghệ (Nga, Thái Lan)…; ưu
đãi đối với các nhà đầu tư thiên thần, các nhà đầu tư mạo hiểm (Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản…)
1096 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA
4.1.Ưu đãi trực tiếp
Các nước hầu hết sử dụng hình thức ưu đãi trực tiếp để thúc đầy sự phát triển của doanh nghiệp start
up, vì đây là những chính sách ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của doanh nghiệp.
Thứ nhất, ưu đãi trực tiếp thông qua chính sách thuế
Miễn giảm thuế đối với doanh nghiệp khởi nghiệp theo lĩnh vực đầu tư
Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp khởi nghiệp theo lĩnh vực đầu bao
gồm các lĩnh vực liên quan đến phát triển đổi mới như ở Thái Lan, Ấn Độ.
Tháng 4/2016, Chính phủ Thái lan đã ban hành nghị định số 603, theo đó cho phép miễn giảm TNDN
đối với các doanh nghiệp vừa nhỏ lấy mục tiêu sử dụng công nghệ đổi mới cộng nghệ mục tiêu
kinh doanh nếu thỏa mãn các điều kiện như thành lập từ 1/10-2015 đến 31/12/2016; có vốn đăng kí không
vượt quá 5 triệu bạt; thu nhập từ bán hàng hóa và dịch vụ không vượt quá 30 triệu bạt và không ít hơn 80%
thu nhập nhận được từ bán hàng hóa và dịch vụ là từ doanh nghiệp động cơ mới của sự tăng trưởng“ New
Engine of Growth”.1
Ấn Độ2, doanh nghiệp startup được thành lập trước 1/4/2019, liên quan đến phát triển đổi mới, triển
khai hoặc thương mại hóa các sản phẩm mới, tài sản trí tuệ thì được giảm trừ 100% lợi nhuận từ kinh doanh
trong năm tính thuế.
Ở Trung Quốc, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo thu nhập hàng năm không vượt quá 200.000 nhân
dân tệ thì được áp dụng thuế suất TNDN 20%, thấp hơn mức thuế suất TNDN thông thường (25%).
Malaysia3: Nhằm khuyến khích các doanh nghiệp mới đầu vào công nghệ cao4, Malaysia đưa ra ưu
đãi: Miễn thuế 100% thuế TNDN trong thời gian 5 năm hoặc khấu trừ thuế 60% tổng chi phí vốn đạt tiêu
chuẩn sẽ được thực hiện trong vòng 5 năm kể từ khi chi phí vốn được thực hiện.
Miễn giảm thuế theo đối tượng
Một số nước đưa ra chính sách cắt giảm thuế theo đối tượng thành lập doanh lập start up. Như đối
với doanh nghiệp khởi nghiệp do sinh viên làm chủ, Trung Quốc cắt giảm thuế và lệ phí hành chính để hỗ
trợ sự phát triển doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ nhằm thúc đẩy kinh doanh và đổi mới5. Hoặc ở Singapore,các
doanh nghiệp khởi nghiệp Singapo đáp ứng đủ các điều kiện nhất định6 thì được miễn thuế thu nhập trong
3 năm đầu tiên hoạt động.
1 Doanh nghiệp động mới của sự tăng trưởng một doanh nghiệp công nghiệp sử hữu công nghệ dựa trên sản
xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ mà nhưng doanh nghiệp này được chứng nhận bởi Cục phát triển khoa học và
công nghệ quốc gia, trong các lĩnh vực Thực phẩm nông nghiệp, Tiết kiệm năng lượng, sản xuất năng lượng thay
thế; cơ sở công nghệ sinh học; Y tế và sức khở cộng đồng; Du lịch dịch vụ và kinh tế sáng tạo; Vật liệu nâng cao;
Dệt may và trang trí; Ô phụ tùng; Điện tử, máy tính, phần mềm và dịch vụ thông tin; nghiên cứu, phát triển
đổi mới hoặc công nghệ mới (https://www.juslaws.com/Legal-Update/Tax-Incentive-for-New-Startup-Businesses-
(Newsletter-July-2016-Part-1).html)
2 http://economictimes.indiatimes.com/small-biz/startups/budget-2016-spells-out-tax-incentives-for-startups/
articlesh
3 http://www.mida.gov.my/env3/uploads/IncentivesCompilation/MIDA/2013/AppIBHighTech.pdf
4 Bao gồm: Sản xuất, phát triển và sản xuất các thiết bị điện tử tiên tiến và máy tính; các thiết bị, bộ phận đo lường,
y tế, khoa học; công nghệ sinh học; vật liệu tiên tiến; công nghệ năng lượng thay thế
5 http://www.investopedia.com/terms/s/startup.asp
6 Đáp ứng đủ các điều kiện: Được thành lập tại Singapo, là dân thường trú tại Singapo, có không quá 20 cổ đông,
trong đó có ít nhất một cổ đông cá nhân nắm giữ 10% cổ phần).