
DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP: TỪ CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐẾN KINH NGHIỆP QUỐC TẾ
VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
Nguyễn Thị Việt Nga*1
TÓM TẮT: Trong thời gian qua, doanh nghiệp khởi nghiệp và chính sách nhằm hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp phát triển được Đảng và nhà nước ta dành nhiều sự quan tâm đặc biệt. “Khởi nghiệp” không chỉ
đơn thuần là “bắt đầu sự nghiệp kinh doanh” như nghĩa gốc của nó. Hiện nay có nhiều khái niệm và cách
hiểu về doanh nghiệp khởi nghiệp, có khái niệm cho rằng doanh nghiệp khởi nghiệp được hiểu là một
doanh nghiệp đang trong giai đoạn đầu hoạt động bằng vốn từ chính người sáng lập, đang nỗ lực để tận
dụng phát triển một hàng hóa hay dịch vụ nào đó mà họ cho rằng thị trường đang có nhu cầu, tuy nhiên
do doanh thu hạn chế hoặc do chi phí cao nên hầu hết các hoạt động quy mô nhỏ này không bền vững và
thường thiếu sự đầu tư vốn từ các nhà đầu tư mạo hiểm. Trong khuôn khổ nghiên cứu nhỏ này, tác giả sẽ
tổng hợp những cơ chế, chính sách của Chính phủ, đến những thuận lợi, khó khăn của Doanh nghiệp khởi
nghiệp, cùng một vài kinh nghiệm từ thế giới từ đó đưa ra những khuyến nghị chính sách cho doanh nghiệp
khởi nghiệp của Việt Nam.
Từ khóa: Doanh nghiệp khởi nghiệp, phát triển bền vững, sáng tạo. công nghệ sáng tạo.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vào những năm 1990, doanh nghiệp khởi nghiệp chủ yếu trong lĩnh vực công nghệ dotcom, và một
trong doanh nghiệp khởi nghiệp thành công là amazon.com và eBay1
2. Gần đây (tháng 2/2016) Bộ Thương
mại và công nghiệp Ấn độ đã đưa ra khái niệm về doanh nghiệp khởi nghiệp nếu hội đủ các điều kiện như
được thành lập, đăng ký hoạt động chưa quá 05 năm; Doanh thu tài chính mỗi năm không vượt quá 250 triệu
Rupi; Hoạt động nhằm hướng tới sự đổi mới, phát triển, triển khai và thương mại hóa các sản phẩm mới,
quy trình hoặc các dịch vụ dựa trên công nghệ hoặc sở hữu trí tuệ2
3. Tựu chung lại, doanh nghiệp khởi nghiệp
thường được hiểu là doanh nghiệp đang trong giai đoạn đầu của quá trình kinh doanh, thường là 5 năm
đầu, có quy mô nhỏ, hoạt động nhằm hướng đến đổi mới, sáng tạo, sử dụng công nghệ để tạo ra sự đột phá,
nhưng chưa chắc chắn về khả năng tạo doanh thu. Ở Việt nam hiện nay chưa thực sự có văn bản pháp luật
nào chuẩn hóa khái niệm về doanh nghiệp khởi nghiệp. Dự thảo luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang
xin ý kiến đã đưa ra khái niệm về khởi nghiệp và start up3
4, trong đó doanh nghiệp khởi nghiệp được hiểu là
doanh nghiệp đang trong quá trình hiện thực ý tưởng kinh doanh, bao gồm quá trình thành lập, vận hành,
* Khoa Kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội, Việt Nam.
1 http://www.investopedia.com/terms/s/startup.asp
2 http://dipp.nic.in/English/Investor/startupindia/Definition_Startup_GazetteNotification.pdf
3 Theo Dự thảo Luật hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Khái niệm “ Khởi nghiệp là quá trình hiện thực ý tưởng kinh doanh, bao
gồm quá trình thành lập và vận hành doanh nghiệp trong vòng 5 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp lần
đầu, chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán”. Khái niệm start up được sử dụng đối với khởi nghiệp sáng tạo, là quá trình
khởi nghiệp dựa trên việc tạo ra hoặc ứng dụng kết quả nghiên cứu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng
cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa và có khả năng tăng trưởng nhanh.