
Đông dược trị ung thư: khoa học
hay phóng đại?
Gần đây, một số báo mạng có lưu truyền bài
thuốc đông y chữa được mọi thứ bệnh ung thư,
khiến một số bệnh nhân đang điều trị tại bệnh
viện Ung bướu cả tin bỏ dở việc điều trị để
chuyển qua uống thuốc này. Có thực là thuốc
đông y điều trị được ung thư?
Ung thư theo quan niệm đông y
Theo các tài liệu kinh điển đông y, từ “ung thư” dùng
để chỉ một loại nhọt (ung: nhọt sưng gồ lên mặt da
mỏng nhẵn bóng; thư: loại bệnh trên mặt da có màu
xám sậm, cứng, khô, nhăn nhúm như da trâu). Như
vậy ung thư ở đây có thể chỉ là áp-xe hoặc tình trạng
hoại thư.

Thuốc đông y có tác dụng điều trị ung thư là có cơ sở khoa học nhưng
không nên phóng đại tác dụng của chúng như một loại "thần dược". Ảnh:
Getty images.
Trong các tư liệu cũng nêu một số bệnh lý như nhũ
nham: khối u có dạng như hột đậu, hột quýt, cứng
như đá nằm trong vú; thất vinh: khối u dạng cục
cứng, nằm dưới hàm, sau tai; trưng tích: dạng u ở
bụng, cố định một chỗ; thủng lựu, anh lựu: dạng
bướu ở vùng cổ; yểu thư: dạng mụn ung phát ra ở cổ,
to, màu đỏ, đen sậm, nếu không chữa trị kịp thời sẽ
chạy xuống hố nách, tác hại đến kinh mạch tạng phủ

và chết rất nhanh… Như thế, đông y cũng có nêu một
số bệnh lý có biểu hiện lâm sàng gần giống biểu hiện
của bệnh ung thư theo tây y, nhưng chưa có công
trình nghiên cứu bệnh học nào xác định các dạng
bệnh lý nêu trên là ung thư. Do đó, khi nói đến điều trị
ung thư trong đông y, là muốn nói đến điều trị các
dạng bệnh lý này.
Lược qua phần điều trị các bệnh lý trên, có thể bắt
gặp những điều thú vị. Trong hơn 100 bài thuốc cổ
phương và kinh nghiệm sử dụng, có 60 bài thuốc
được các nhà khoa học Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật
Bản nghiên cứu điều trị các bệnh ung thư (cancer)
như ung thư cổ tử cung, ruột kết, phổi, gan, hạch,
xương, vú… Những bài thuốc được nghiên cứu nhiều
thường tập trung vào loại thuốc có tác dụng thanh
nhiệt giải độc (chống viêm giải độc), hoạt huyết hoá ứ
(phá ứ tụ, làm mềm khối cứng), nhuyễn kiên tán kết
(làm mềm khối cứng, tiêu kết tụ), dĩ độc trị độc (dùng
độc để loại bỏ bệnh tật), phù chính khu tà (nâng sức
kháng bệnh của cơ thể để đối phó với bệnh).

Trong tổng số 126 dược liệu cấu tạo nên công thức
60 bài thuốc ấy, có 12 dược liệu lặp đi lặp lại ở nhiều
bài thuốc khác nhau: nhân sâm, hoàng liên, bạch
thược, bạch hoa xà, bán chi liên, đan sâm, bạch linh,
tri mẫu, tạo giác thích, khổ sâm, hoàng cầm, ngũ linh
chi. Đây cũng chính là những vị thuốc được các nhà y
học hiện đại nghiên cứu khá nhiều trên thực nghiệm,
trên nhiều dòng tế bào ung thư khác nhau.
Một số bằng chứng khoa học
Đã có nhiều nghiên cứu khoa học của thế giới về các
bài thuốc, vị thuốc chữa ung thư nổi tiếng. Có thể dẫn
ra một số kết quả sau:
Nghiên cứu ứng dụng các bài thuốc trên lâm sàng:
loại nghiên cứu này (trên bệnh nhân) nhiều nhất ở
Trung Quốc, kế đến là Ấn Độ và một số nước trong
đó có Việt Nam. Tuy nhiên đa số những nghiên cứu
này có số lượng người bệnh không nhiều, thử

nghiệm lâm sàng không đối chứng, kết quả chỉ mang
tính thăm dò.
Nghiên cứu chiết xuất các hợp chất tự nhiên trong
dược liệu: đây là xu thế của các nhà khoa học không
chỉ đông y mà cả tây y, nhiều nhất phải kể đến Hoa
Kỳ, Nhật, Pháp, Trung Quốc và cả Việt Nam. Ở Hoa
Kỳ, từ năm 1957 đến năm 1991, viện NCI nghiên cứu
35.000 loại dược liệu, chiết ra được 120.000 dịch
chiết và phân lập được bốn hợp chất có tác dụng điều
trị ung thư là Vincablastin và Vincristin từ cây dừa
cạn, cả hai hợp chất này được điều chế thành dạng
thuốc tiêm, điều trị ung thư máu; Paclitaxel (TAXOL®)
từ cây thông đỏ và Majonosid R2 từ nhân sâm. Viện
CNRS ở Pháp chiết được Alkaloide Acetogenine từ
cây bình bát (lấy từ đồng bằng sông Cửu Long) điều
trị ung thư vú. Một số nhà khoa học Nhật Bản nghiên
cứu tác dụng ức chế sự phát triển tế bào ung thư của
củ tam thất, ghi nhận tác dụng chống ung thư có chọn
lọc (chỉ trên mô ung thư). Còn các nhà khoa học
Trung Quốc, sau nhiều năm nghiên cứu, kết luận trên

