Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Minh Khai (1994-2014): Phần 1
lượt xem 3
download
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Minh Khai (1994-2014): Phần 1 cung cấp cho người đọc những kiến thức như: Tình hình và nhiệm vụ cách mạng của nhân dân tiểu khu Minh Khai trước khi thành lập phường (1945 - 1994); đảng bộ phường Minh Khai thành lập, lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng đảng và hoàn thiện hệ thống chính trị (1994 - 2000). Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Minh Khai (1994-2014): Phần 1
- ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐẢNG BỘ PHƯỜNG MINH KHAI LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ PHƯỜNG MINH KHAI (1994 - 2014) XUẤT BẢN NĂM 2015 1
- 2
- LỜI GIỚI THIỆU Phường Minh Khai nằm ở khu vực trung tâm của thành phố, có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Ngày 29/01/1959, chi bộ tiểu khu Minh Khai được thành lập, đã cùng nhân dân trên địa bàn phát huy truyền thống đoàn kết, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược cách mạng trong các chặng đường lịch sử. Năm 1981, phường Trần Phú được thành lập trên cơ sở địa bàn 2 tiểu khu hành chính Yên Biên và Minh Khai; chi bộ Minh Khai trực thuộc Đảng bộ phường Trần Phú. Tháng 9/1994, phường Minh Khai được thành lập trên cơ sở tách ra từ phường Trần Phú; Đảng bộ phường Trần Phú cũng được tách thành 2 Đảng bộ là Đảng bộ phường Minh Khai và Đảng bộ phường Trần Phú. Đảng bộ phường Minh Khai được thành lập trong hoàn cảnh lịch sử có nhiều thuận lợi. Sau gần 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tỉnh Hà Giang đang có bước phát triển nhanh chóng; thị xã Hà Giang - thị xã tỉnh lỵ từng bước được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và phát triển từng ngày. Trên cơ sở đó, Đảng bộ phường đã tiếp quản thành tựu kinh tế - xã hội, phát huy những kết quả đã đạt được, vượt qua khó khăn, thách thức, xây dựng phường Minh Khai phát triển lên tầm cao mới, góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa thị xã Hà Giang trở thành thành phố trực thuộc tỉnh vào năm 2010. 3
- Thực hiện Chỉ thị 15-CT/TW, ngày 28/8/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”, được sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Thành uỷ, Ban Thường vụ Đảng uỷ phường Minh Khai quyết định biên soạn cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ phường Minh Khai (1994-2014)”. Nội dung cuốn sách đã giới thiệu khái quát quá trình hình thành, xây dựng, phát triển và lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và an ninh - quốc phòng, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị qua các giai đoạn 1959-1994, đặc biệt là giai đoạn 1994-2014 tại địa phương, đồng thời cũng chỉ ra một số yếu kém, hạn chế trong công tác lãnh đạo của Đảng bộ phường. Trên cơ sở phản ánh hiện thực khách quan, cuốn sách đã đúc kết lại những kinh nghiệm quý báu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ phường, nhằm phục vụ đắc lực cho việc thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn tiếp theo. Cuốn sách là một tài liệu quý, mang tính tổng hợp cao, thể hiện được tinh thần cách mạng, ý chí tự lực, tự cường của Đảng bộ và nhân dân trong phường. Qua đó, tích cực góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân trên địa bàn phường, đặc biệt là trong việc giáo dục thế hệ trẻ tiếp bước, kế thừa và phát huy những giá trị cũng như thành quả to lớn của các thế hệ cha anh đi trước, quyết tâm xây dựng phường Minh Khai nói 4
- riêng, Thành phố và tỉnh Hà Giang nói chung ngày càng giàu mạnh và văn minh. Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, Ban Thường vụ Đảng uỷ phường Minh Khai xin chân thành cảm ơn Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Thành uỷ Hà Giang; bộ phận lưu trữ của Đảng uỷ, Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân phường Minh Khai đã cung cấp nhiều tư liệu quý phục vụ cho công tác nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn và hoàn thành cuốn sách; Đồng thời, xin được cảm ơn các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của phường qua các thời kỳ cách mạng đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, có nhiều ý kiến quý báu đóng góp để nội dung cuốn sách thêm hoàn thiện. Ban sưu tầm và biên soạn đã có nhiều cố gắng thể hiện toàn bộ hoạt động của Đảng bộ phường đảm bảo tính khách quan, trung thực và khoa học, song do tài liệu không đầy đủ, nhất là thời kỳ trước khi Đảng bộ thành lập; trình độ của cán bộ biên soạn còn hạn chế… nên nội dung cuốn sách không tránh khỏi thiếu sót. Ban Thường vụ Đảng uỷ phường Minh Khai rất mong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong phường cùng bạn đọc đóng góp ý kiến để cho lần tái bản sau của cuốn sách được hoàn thiện hơn. Ban Thường vụ Đảng uỷ phường Minh Khai xin trân trọng giới thiệu cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ phường Minh Khai (1994-2014)” đến toàn thể bạn đọc. T/M BAN THƯỜNG VỤ BÍ THƯ Nguyễn Thành Long 5
- Chương I TÌNH HÌNH VÀ NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN TIỂU KHU MINH KHAI TRƯỚC KHI THÀNH LẬP PHƯỜNG (1945 - 1994) I. SƠ LƯỢC VÙNG ĐẤT MINH KHAI, NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN TIỂU KHU MINH KHAI (1945 - 1954) Phường Minh Khai nằm ở bên tả ngạn sông Lô, phía Nam thị xã Hà Giang (trước tháng 9/1994, phường Minh Khai nằm trong địa phận của phường Trần Phú), phía Bắc giáp phường Trần Phú, phía Nam giáp xã Phú Linh của huyện Vị Xuyên, phía Đông và Đông Nam giáp xã Kim Thạch của huyện Vị Xuyên và núi Mỏ Neo, phía tây giáp sông Lô. Minh Khai là phường trung tâm nội thị của tỉnh Hà Giang có vị trí quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội của thị xã và tỉnh Hà Giang. Từ ngày thị xã Hà Giang được tái lập (1957) đến những năm 60 của thế kỷ XX, vùng đất Minh Khai từ đường Lê Hồng Phong xuôi xuống phía nam, dân cư thưa thớt, chủ yếu là bãi sắn, bãi mía, lác đác có vài hộ dân tộc Hoa, dân tộc Tày sinh sống bằng nghề trồng trọt. Ngày nay, dân số Phường Minh Khai đã phát triển lên gấp nhiều lần. Toàn phường có 3.265 hộ, 11.118 khẩu1, 1 Theo số liệu của cuộc tổng điều tra dân số năm 2010. 6
- được chia thành 22 tổ dân phố với 13 dân tộc anh em chung sống. Phần lớn cư dân phường Minh Khai là cán bộ và công nhân hưu trí, công chức Nhà nước, lực lượng vũ trang. Đặc điểm nổi bật của cư dân Phường Minh Khai là có tới hơn 90% dân cư từ nơi khác đến sinh sống và lập nghiệp từ những năm 60 - 70 của thế kỷ XX. Họ là cán bộ, công nhân, buôn bán nhỏ, làm dịch vụ, làm trang trại... Hiện nay, có nhiều cơ quan, đơn vị của tỉnh đóng trên địa bàn phường, do đó, dân cư của phường càng thêm đông đúc và tấp nập hơn. Hoạt động kinh tế của phường từ khi có đường lối đổi mới của Đảng cho phép được tồn tại và phát triển nhiều thành phần kinh tế thì hoạt động kinh tế của phường Minh Khai cùng các địa phương khác đã và đang phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, trong đó tập trung vào các ngành buôn bán nhỏ, xây dựng, làm dịch vụ, phát triển kinh tế trang trại... Phường Minh Khai cùng với thị xã Hà Giang là vùng đất có lịch sử lâu đời. Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp ký quyết định thành lập tỉnh Hà Giang (20/ 8/1891), vùng đất thuộc thị xã Hà Giang ngày nay chỉ mới có vài trăm hộ dân sinh sống và hình thành hai khu phố là phố Tỉnh và phố Yên Biên. Phố Yên Biên thuộc phường Trần Phú và phường Minh Khai ngày nay. Cư dân chủ yếu là người nghèo, sống bằng nghề buôn bán nhỏ, thợ thủ công, trồng trọt… Theo trong “Danh mục các làng xã Bắc Kỳ” của tác giả Ngô Vi Liễn xuất bản năm 1928 thì vùng đất nội thị thị xã 7
- ngày nay nằm trong châu Vị Xuyên, trong đó có xuất hiện tên của một đơn vị hành chính mới gọi là phường Yên Biên thay thế cho khu phố Yên Biên. Vùng đất thuộc phường Minh Khai ngày nay nằm trong địa phận của thị xã Hà Giang. Vì vậy, mọi biến cố, mọi sự kiện diễn ra trên vùng đất thị xã Hà Giang đều có tác động, ảnh hưởng trực tiếp tới vùng đất thuộc phường Minh Khai ngày nay . Năm 1940, phát xít Nhật tiến vào đánh chiếm nước ta, thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng và quay sang câu kết với phát xít Nhật chống phá cách mạng, áp bức, bóc lột nhân dân ta. Năm 1942, phát xít Nhật tiến vào chiếm đóng thị xã Hà Giang và nhiều vùng khác trong tỉnh. Bọn Pháp - Nhật được sự hà hơi, tiếp sức của bọn phản động địa phương đã tăng cường chống phá cách mạng ở Hà Giang; chúng giết người, cướp của, hãm hiếp phụ nữ; sưu cao, thuế nặng, bắt dân phải đi phu, xây dựng đồn bốt phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược của chúng. Với chính sách cai trị hà khắc của Pháp - Nhật đã khơi dậy lòng yêu nước, căm thù giặc của đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang nói chung và nhân dân khu vực thị xã Hà Giang nói riêng. Vì vậy, khi có cán bộ cách mạng của Đảng, của Mặt trận Việt Minh đến lãnh đạo phong trào cách mạng tại địa phương, thì đồng bào các dân tộc đã nhất tề đứng lên đánh đuổi kẻ thù, giải phóng quê hương. Bước sang năm 1945, trước sự lớn mạnh không ngừng của cách mạng Việt Nam, sự thắng lợi to lớn của phe chống 8
- phát xít trong cuộc chiến tranh thế giới thứ II, đẩy chủ nghĩa phát xít vào nguy cơ thất bại. Để độc chiếm Đông Dương và Việt Nam trước khi quân Đồng minh tiến vào, ngày 9/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Tại thị xã Hà Giang, lính Nhật bắt trói và giết chết nhiều sĩ quan Pháp, chiếm pháo đài và doanh trại của Pháp tại thị xã và nhiều nơi khác trong toàn tỉnh. Phát xít Nhật nhanh chóng củng cố lại chính quyền tay sai ở địa phương, thực hiện chính sách bóc lột hà khắc đối với nhân dân ta. Tháng 8/1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, chiến tranh thế giới thứ II kết thúc. Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Từ đây, đất nước ta hoàn toàn được độc lập, dân tộc ta từ địa vị nô lệ trở thành người tự do, tự làm chủ đất nước của mình. Tại Hà Giang, ngày 29/8/1945, phát xít Nhật rút khỏi thị xã Hà Giang và các địa phương khác trong tỉnh, bọn tay sai Nhật hoang mang, dao động đến cực độ, thời cơ cách mạng giành chính quyền ở Hà Giang (chủ yếu là thị xã Hà Giang) đã chín muồi. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, ta đã không chớp được thời cơ giành chính quyền cách mạng. Ngay sau khi phát xít Nhật rút khỏi Hà 9
- Giang, ngày 30/8/1945, một toán quân Tưởng Giới Thạch theo đường Thanh Thuỷ kéo vào chiếm đóng thị xã Hà Giang2. Bọn Việt Nam Quốc dân đảng do Hoàng Quốc Chính cầm đầu theo gót quân Tưởng Giới Thạch kéo vào thị xã Hà Giang, chúng lập ra “Tỉnh Đảng bộ Việt Nam Quốc dân đảng” do Hoàng Quốc Chính cầm đầu. Chúng tập hợp lực lượng dựng lên chính quyền tay sai gồm những tên phản động tay sai khét tiếng của Pháp - Nhật để chống phá cách mạng. Tại thị xã Hà Giang, chúng lập ra tổ chức phản động “Thanh niên chiến đấu hội”, mở “Quán thanh niên”, bày trò “Hội chợ”, “mít tinh”, “lễ tế cờ”… để cổ động cho cái chúng gọi là “Cương lĩnh cách mạng quốc gia”, “Nhà ái quốc hải ngoại”về để giành độc lập, giải phóng dân tộc…nhằm lôi kéo, lừa bịp nhân dân theo chúng. Ngày 8/12/1945, đội lính khố đỏ do Đại uý Nguyễn Duy Viên3 chỉ huy tiêu diệt quân Việt Nam Quốc dân đảng, giải phóng thị xã Hà Giang. Ngày 25/12/1945, nhân dân thị xã Hà Giang và vùng phụ cận đã tưng bừng họp mít tinh tại sân vận động thị xã chào mừng Ủy ban Hành chính tỉnh lâm thời 2 Theo sự phân công của phe Đồng minh chống phát xít thì quân của Tưởng Giới Thạch có nhiệm vụ vào miền Bắc nước ta giải giáp vũ khí quân Nhật. 3 Đội lính khố đỏ của nguyễn Duy Viên có 4 đại đội, khoảng 400 binh lính. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, lực lượng này chạy sang Trung Quốc lánh nạn. khi nước nhà độc lập, đội quân này kéo về nước qua cửa khẩu Thanh Thuỷ, vào thị xã Hà Giang, ý định đi theo cách mạng nhưng đã bị Hoàng Quốc Chính ngăn cản và mua chuộc theo chúng. Dụ dỗ không được Hoàng Quốc Chính quyết định ám sát ông. Được cán bộ Việt Minh tuyên truyền và giác ngộ, Nguyễn Duy Viên quyết tâm đi theo cách mạng. Ta đã lợi dụng lực lượng này đánh bại quân Hoàng Quốc Chính, giải phóng thị xã Hà Giang. 10
- ra đời do đồng chí Nguyễn Thanh Phong làm Chủ tịch. Cùng ngày đó, Xứ uỷ Bắc Kỳ quyết định thành lập Đảng bộ lâm thời tỉnh Hà Giang do đồng chí Hồng Quân làm Bí thư. Hà Giang được giải phóng, giành được chính quyền không phải từ tay thực dân Pháp, hoặc phát xít Nhật, mà từ tay bọn phản động Việt Nam Quốc dân đảng. Thị xã Hà Giang được giải phóng, cách mạng tỉnh Hà Giang thành công, Đảng bộ và chính quyền cách mạng tỉnh Hà Giang được thành lập là một sự kiện lịch sử quan trọng đối với nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang nói chung, thị xã Hà Giang và vùng đất Minh Khai nói riêng. Chính thức mở ra một giai đoạn cách mạng mới là xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp, giải phóng đất nước, giải phóng quê hương. Sau ngày đất nước được độc lập (2/9/1945), Đảng và Mặt trận Việt Minh đã quyết định tổ chức cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước - Quốc hội khoá I và Hội đồng Nhân dân các cấp. Ngày 6/1/1946, hoà chung với khí thế của cả nước, nhân dân các dân tộc thị xã Hà Giang, trong đó có nhân dân các dân tộc thuộc vùng đất Minh Khai đã hăng hái, nô nức lần đầu tiên được cầm lá phiếu đi bầu những người tiêu biểu đại diện cho mình vào cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của cả nước và các địa phương. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp là biểu thị sự nhất trí cao về chính trị và tinh thần của nhân dân ta, đồng thời là một đòn giáng 11
- mạnh vào âm mưu xâm lược, chia rẽ của kẻ thù, là một vũ khí sắc bén để giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng còn non trẻ. Hoàn thành bầu cử Hội đồng Nhân dân các cấp, chính quyền các địa phương được thành lập làm nhiệm vụ của chuyên chính vô sản và xây dựng chế độ mới. Ngày 2/5/1946, Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Hành chính thị xã Hà Giang được thành lập do ông Nguyễn Văn Trạch làm Chủ tịch. Nhiệm vụ của chính quyền thị xã là xây dựng và tổ chức chính quyền cấp dưới, thành lập các Hội Cứu quốc, các đội tự vệ, vận động nhân dân tham gia học bình dân học vụ, tích cực tăng gia sản xuất để cứu đói và ủng hộ kháng chiến, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của dân tộc. Thực hiện lời kêu gọi diệt “giặc đói, giặc dốt” của Hồ Chủ tịch, dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền của tỉnh cũng như thị xã Hà Giang, nhân dân các dân tộc thị xã Hà Giang nói chung và vùng đất khu Minh Khai nói riêng đã nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch là “ Tăng gia sản xuất ! tăng gia sản xuất ngay ! tăng gia sản xuất nữa ! Đó là khẩu hiệu của chúng ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”, tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, trồng nhiều lúa, ngô, khoai, sắn, trước mắt là cứu đói, sau đó là có lương thực ủng hộ kháng chiến. Với khẩu hiệu “tấc đất, tấc vàng”, từ cán bộ, nhân viên các cơ quan cấp tỉnh và thị đến nhân dân các khu phố đã tích cực tăng gia sản xuất, khai hoang, 12
- phục hoá để sản xuất lương thực, sản xuất hoa màu cứu đói. Vì vậy, trong năm 1946, tình hình đói kém đã bớt căng thẳng hơn, đặc biệt là đã tiết kiệm được lương thực ủng hộ kháng chiến. Đất nước ta nằm dưới ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, ngoài nền kinh tế kiệt quệ, cuộc sống đói kém, thì dân trí phát triển rất thấp. Sau cách mạng Tháng Tám, nước ta có hơn 90% dân số mù chữ. Đối với các tỉnh miền núi, khó khăn như Hà Giang, số dân mù chữ còn cao hơn. Thị xã Hà Giang, mặc dù là trung tâm văn hoá, chính trị của tỉnh nhưng tình hình người dân biết chữ cũng không khá hơn các vùng khác trong tỉnh. Để tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, xây dựng chế độ xã hội mới thành công thì vấn đề phát triển giáo dục, nâng cao dân trí có vị trí quan trọng đặc biệt, như Bác Hồ đã từng nói “ giặc đói, giặc dốt là bạn đồng minh của giặc ngoại xâm”. Trong bài viết “Chống nạn thất học” ngày 4/10/1945 của Bác Hồ có đoạn viết: “Muốn giữ vững độc lập. Muốn làm cho dân giàu, nước mạnh Mọi người Việt Nam phải biết được quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”. Từ đó, Người khẳng định “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, do vậy, Người đề nghị và phát động trong cả nước chiến dịch chống nạn mù chữ. 13
- Hưởng ứng lời kêu gọi “Chống nạn thất học” của Bác Hồ, Uỷ ban Hành chính Kháng chiến tỉnh và thị xã đã phát động phong trào bình dân học vụ sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, tổ chức, vận động nhân dân đến lớp học tập xoá mù chữ. Những người biết chữ tự nguyện dạy cho người chưa biết chữ mà không cần có thù lao. Nhân dân ở các khu phố trong thị xã tự nguyện đóng góp nguyên, vật liệu và ngày công để xây dựng trường, lớp cho con em được học tập. Đồng thời với phong trào bình dân học vụ, phong trào xây dựng nếp sống văn hoá mới từ các gia đình đến từng khu dân cư cũng diễn ra sôi nổi, thu hút được nhiều lực lượng tham gia. Các tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút, mại dâm… đã giảm dần. Các yếu tố của đời sống mới bắt đầu xuất hiện trong các khu dân cư, cũng như từng hộ gia đình trong thị xã Hà Giang. Ngày 22/9/1945, được quân Anh che chở và giúp sức, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta ở Nam Bộ - mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ 2. Đến 20/11/1946, thực dân Pháp tấn công ra miền Bắc, đánh chiếm Hà Nội và một số thành phố, thị xã xung quanh. Trước tình hình đó, ngày 19/12/1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Nội dung lời kêu gọi, Người nói: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! 14
- Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên chống thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.4 Ngày 22/12/1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”, nêu rõ mục đích, tính chất của cuộc kháng chiến và chương trình hành động chung cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Trong đó, Trung ương Đảng khẳng định đây là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng, nhân dân các dân tộc thị xã Hà Giang, trong đó có nhân dân khu vực phường Minh Khai ngày nay với nhân dân trong toàn tỉnh cùng cả nước đoàn kết một lòng, quyết tâm đứng lên cầm vũ khí chống thực dân Pháp, giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương, đất nước. Nhiều thanh niên - con em các dân tộc thị xã Hà Giang, trong đó có khu vực thuộc phường Minh Khai ngày nay đã hăng hái lên 4 Hồ Chí Minh toàn tập - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - 1995 - tập 4 - trang 480. 15
- đường nhập ngũ ra mặt trận đánh giặc. Tại thị xã Hà Giang và các khu dân cư thành lập đội du kích sẵn sàng chiến đấu khi thực dân Pháp tấn công đến, bảo vệ trật tự trị an khu phố. Sau khi đánh chiếm được Hà Nội, Hải phòng và một số địa phương khác, thực dân Pháp mở rộng chiến tranh ra toàn miền Bắc và cả nước. Trước tình hình đó, ngày 16/01/1947, Hồ Chủ tịch kêu gọi đồng bào cả nước “Tiêu thổ kháng chiến”, dỡ nhà cửa, phá cầu, đường… để thực dân Pháp không sử dụng được tấn công cách mạng. Thực hiện lời kêu gọi đó, Đảng bộ tỉnh Hà Giang chỉ đạo các thị trấn, thị xã phải triệt để tản cư, vận động nhân dân đi sơ tán, tránh bị địch đánh phá, tấn công. Ngày 1/12/1947, chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Hà Giang ra Quyết định 173 - QĐ/VP về việc tạm thời giải tán Uỷ ban Kháng chiến Hành chính thị xã để thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến”. Tỉnh ủy, Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh di chuyển vào khu vực núi Rồng5, các cơ quan của tỉnh và huyện Vị Xuyên sơ tán vào các xã Phú Linh, Kim Thạch, Ngọc Đường của huyện Vị Xuyên. Với chính sách “Vườn không nhà trống”, thị xã Hà Giang tự giải tán, nhân dân tháo dỡ nhà cửa, bỏ lại ruộng vườn, sơ tán vào nơi an toàn. Một phần dân cư sơ tán vào xã Phú Linh, một phần di chuyển vào sát chân núi Mỏ Neo và núi Cấm, khẩn trương xây dựng nhà cửa, tích cực tăng gia sản xuất cứu đói, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ giành được thắng lợi. 5 Khu hạnh phúc thuộc tổ 17, phường Trần Phú ngày nay. 16
- Để tổ chức, lãnh đạo và hướng dẫn nhân dân tăng gia sản xuất, hoạt động văn hoá - xã hội, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, theo sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, ngày 5/10/1947, Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Hà Giang quyết định thành lập xã An Cư trên địa bàn thị xã Hà Giang. Cùng ngày đó, Tỉnh uỷ quyết định thành lập Chi bộ Đảng xã An Cư trực thuộc Đảng bộ huyện Vị Xuyên. Chi bộ có 3 đảng viên là Trần Văn Lược, Vũ Văn Yêm và Đỗ Văn Dần. đồng chí Trần Văn Lược được chỉ định làm Bí thư Chi bộ. Sau khi thành lập, Chi bộ Đảng, chính quyền xã An Cư đã tập trung chỉ đạo, lãnh đạo các dân tộc trong xã đẩy mạnh tăng gia sản xuất để đảm bảo cuộc sống, thực hành tiết kiệm ủng hộ kháng chiến. Thành lập đội du kích tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, giữ gìn trật tự an ninh tại địa phương. Trong giai đoạn 3 năm đầu (1947 - 1949) của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân các dân tộc khu vực Minh Khai đã cùng với nhân dân thị xã Hà Giang tích cực ủng hộ và giúp đỡ kháng chiến như đóng đủ thuế nghĩa vụ cho Nhà nước, tham gia vận chuyển lương thực ra tiền tuyến phục vụ bộ đội đánh giặc, ra sức tăng gia sản xuất, học Bình dân học vụ để xoá mù chữ, bảo vệ an ninh xã hội tại hậu phương. Khi cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn tổng phản công (1950 - 1954) nhân dân các dân tộc thị xã Hà Giang, trong đó có khu Minh Khai đã không quản ngại khó khăn, gian khổ và hy sinh tham gia đóng góp sức người, sức của cùng với đồng bào các dân tộc toàn tỉnh và cả nước đánh 17
- thắng thực dân Pháp, tiễu trừ thổ phỉ thành công để xây dựng xã hội mới trên một nửa đất nước. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, ngày 21/7/1954 Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Với tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết, tự lực, tự cường, nhân dân khu phố Minh Khai dưới sự lãnh đạo của chi bộ xã An Cư tiếp tục bước vào giai đoạn lịch sử mới – giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. II. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA NHÂN DÂN TIỂU KHU MINH KHAI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC, THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (1955 - 1975) Cuộc kháng chiến chín năm trường kỳ, gian khổ và hy sinh của cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi. Nhưng thắng lợi này chưa được trọn vẹn, miền Nam vẫn nằm dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai Ngô Đình Diệm6. Từ thực tế đó, Đảng ta đã xác định phải xây dựng miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội để làm hậu thuẫn vững chắc cho cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, thống nhất đất nước. Vì vậy, nhiệm vụ trọng tâm của miền Bắc là 6 Hiệp định Giơnevơ ký kết giữa ta và Pháp ngày 21/7/1954 đặt ra một giới tuyến quân sự tạm thời dọc sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) để hai bên chuyển quân tập kết trước khi quân Pháp rút về nước. Nhưng đế quốc Mỹ đã nhảy vào chiếm đóng miền Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới chia cắt lâu dài đất nước ta. 18
- khôi phục, xây dựng, cải tạo và phát triển kinh tế - văn hoá để cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân, bảo vệ miền Bắc, chi viện cho miền Nam đánh Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ tỉnh và huyện Vị Xuyên, nhiệm vụ của Chi bộ Đảng xã An Cư lúc này là nhanh chóng ổn định chính trị, trật tự an ninh xã hội, ổn định đời sống nhân dân, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội, tiến tới xây dựng thị xã giàu mạnh. Được sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ và Đảng bộ huyện Vị Xuyên, Chi bộ cùng chính quyền xã An Cư đã lãnh đạo nhân dân nâng cao tinh thần đoàn kết, khắc phục khó khăn, phát huy nội lực xây dựng cuộc sống mới. Nhiệm vụ trước mắt của các dân tộc xã An Cư nói chung và khu vực Minh Khai nói riêng là khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp để giải quyết nạn đói. Đối với vùng đất Minh Khai tương đối bằng phẳng, có đủ nước tưới và sinh hoạt nên rất phù hợp cho trồng trọt như lúa, ngô, sắn, mía và nhiều loại hoa màu khác. Thời kỳ này nền kinh tế ở đây vẫn là tự cấp, tự túc, kinh tế hàng hoá phát triển không đáng kể, chủ yếu là sản xuất đường phên bán cho Nhà nước. Ổn định dân cư đi sơ tán trở về, bố trí dân cư hoạt động theo từng khu phố. Trước yêu cầu phát triển của dân số xã An Cư, ngày 22/7/1957, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 317/Ttg về việc giải tán xã An Cư, tái lập thị xã Hà Giang trực thuộc tỉnh Hà Giang. Thực hiện Nghị định 317 của Chính phủ, ngày 18/10/1957, Đảng bộ tỉnh Hà Giang ra Nghị quyết 158/NQ- HG về tái lập thị xã Hà Giang. 19
- Thị xã Hà Giang được tái lập, Chi bộ Đảng xã An Cư chuyển thành Chi bộ thị xã Hà Giang. Chi bộ có 35 đảng viên do đồng chí Hoàng Hữu Dung làm Bí thư. Về cấp hành chính, thị xã Hà Giang được chia thành 4 tiểu khu, đó là Yên Biên, Minh Khai, Đoàn Kết và Việt Trung. Các tiểu khu này trực thuộc Uỷ ban Hành chính thị xã, mỗi tiểu khu có một ban đại diện trực tiếp quản lý. Nhiệm vụ trọng tâm của thị xã đối với các tiểu khu lúc này là tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Mục tiêu 3 năm (1958 - 1960) là xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ áp bức, bóc lột và mọi tàn dư của xã hội cũ, tạo nên sức mạnh tinh thần và vật chất cho chế độ mới; thay thế các hình thức sở hữu cá thể bằng hình thức sở hữu tập thể. Trong lĩnh vực kinh tế nông - lâm nghiệp, trước mắt đưa người lao động vào các tổ đổi công, rồi tiến lên xây dựng hợp tác xã. Đối với một tỉnh miền núi như Hà Giang, vấn đề hợp tác hoá nông nghiệp, phát triển sản xuất cũng chính là tiến hành và hoàn thành cuộc cải cách dân chủ, xoá bỏ chế độ bóc lột của xã hội cũ. Trong phạm vi tiểu khu Minh Khai, người dân sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cho nên giai đoạn 1958 - 1960, chính quyền thị xã tổ chức, vận động nhân dân vào làm ăn tập thể với các hình thức tổ sản xuất, hội nghề nghiệp hoặc hợp tác xã. Để lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực kinh tế - văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng của thị xã, Tỉnh uỷ có chủ trương thành lập Đảng bộ thị xã Hà Giang. Ngày 29/1/1959, Ban cán sự khu Lao - Hà Yên ra Quyết định số 13/QĐ-BCS về 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Túc Duyên (1946-2016): Phần 2
163 p | 6 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Thịnh Đán (1946-2017): Phần 2
140 p | 8 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Yên Thịnh (1981-2000): Phần 2 (Tập 1)
196 p | 4 | 3
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Lương Sơn (1946 - 2016): Phần 2
154 p | 9 | 3
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Duyên Hải (1959-2019): Phần 1
68 p | 5 | 3
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Đồng Tiến (1947-2017): Phần 2
144 p | 7 | 3
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Quan Triều (1947-2014): Phần 1
100 p | 7 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Phú Xá (1981-2015): Phần 1
140 p | 9 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Lương Châu (1985-2015): Phần 2
130 p | 10 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Phú Xá (1981-2015): Phần 2
158 p | 7 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Lương Sơn (1946 - 2016): Phần 1
118 p | 13 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Nam Cường (1945-2020): Phần 2 (Tập 1)
65 p | 4 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Nam Cường (1945-2020): Phần 1 (Tập 1)
36 p | 12 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Yên Thịnh (1981-2000): Phần 1 (Tập 1)
25 p | 4 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Bãi Bông (1976-2018): Phần 2
70 p | 13 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Bách Quang (1946-2019): Phần 2
134 p | 9 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Bách Quang (1946-2019): Phần 1
106 p | 8 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Đồng Tiến (1947-2017): Phần 1
176 p | 6 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn