Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Bạch Đích (1945-2015)
lượt xem 1
download
Cuốn sách "Lịch sử Đảng bộ xã Bạch Đích (1945-2015)" giới thiệu khái quát về sự hình thành, phát triển của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Bạch Đích qua các thời kỳ lịch sử (1945-2015): Nêu bật quá trình lãnh đạo của Đảng bộ trên tất cả các mặt: Chính trị, kinh tế xã hội, Quốc phòng - An ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; những đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc qua các giai đoạn lịch sử.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Bạch Đích (1945-2015)
- BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ BẠCH ĐÍCH LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ BẠCH ĐÍCH 1945 - 2015. ------ Xuất bản năm 2017 1
- 2
- Lời giới thiệu Bạch Đích là xã biên giới vùng III nằm ở phía Bắc huyện Yên Minh, cách trung tâm huyện 30 km. Trải qua các giai đoạn lịch sử (1945-2015), dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ Đảng xã Bạch Đích (1951- 1980); của Đảng bộ xã Bạch Đích (1980-2015); nhân dân các dân tộc luôn nêu cao tinh thần đoàn kết đấu tranh cách mạng, tích cực lao động sản xuất, trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu; đóng góp nhiều sức người, sức của trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và thời kỳ bảo vệ Tổ quốc: Xây dựng xã Bạch Đích trở thành đơn vị Anh hùng lao động; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cán bộ và nhân dân các dân tộc xã Bạch Đích luôn năng động sáng tạo trong lao động sản xuất, học tập công tác, xây dựng xã Bạch Đích vững mạnh về chính trị, có kinh tế, văn hóa phát triển, Quốc phòng - An ninh vững chắc; trở thành trọng điểm, động lực cho sự phát triển vùng biên giới huyện Yên Minh qua các giai đoạn lịch sử. Để tổng kết kinh nghiệm, ôn lại truyền thống lịch sử vẻ vang của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc xã Bạch Đích, nhằm rút ra những bài học lịch sử bổ ích phục vụ công tác nghiên cứu, vận dụng và giáo dục truyền thống lịch sử: Thực hiện Kế hoạch số 20- KH/HU ngày 03/03/2016 của Ban Thường vụ Huyện ủy Yên Minh về nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng bộ cơ sở; Ban Thường vụ Đảng uỷ chỉ đạo nghiên cứu biên soạn cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Bạch Đích 1945-2015”. 3
- Cuốn sách giới thiệu khái quát về sự hình thành, phát triển của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Bạch Đích qua các thời kỳ lịch sử (1945-2015): Nêu bật quá trình lãnh đạo của Đảng bộ trên tất cả các mặt: Chính trị, kinh tế xã hội, Quốc phòng - An ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; những đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc qua các giai đoạn lịch sử. Trên cơ sở đó kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng của các thế hệ cha anh, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn, Ban Chấp hành Đảng bộ luôn nhận được sự chỉ đạo của Thường trực Huyện ủy; sự phối hợp, giúp đỡ của Ban Tuyên giáo Huyện uỷ, cùng với sự đóng góp ý kiến quý báu của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân đã từng tham gia hoạt động, công tác qua các thời kỳ trên địa bàn xã Bạch Đích. Mặc dù Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng, nhưng do nguồn tài liệu thất lạc nhiều, nên không thể tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự tham gia góp ý của các đồng chí và bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện trong lần tái bản sau. Xin trân trọng giới thiệu cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Bạch Đích 1945-2015” đến cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã cùng bạn đọc. T/M Ban Chấp hành Đảng bộ xã Bạch Đích Huyện ủy viên- Bí thư Đảng bộ Phạm Xuân Phương 4
- CHƯƠNG MỘT KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA XÃ HỘI; TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA XÃ BẠCH ĐÍCH. ----- I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI. Xã Bạch Đích nằm ở vị trí địa lý 23 độ 12’, 22’’vĩ Bắc, 105 độ 02’, 44’’ kinh Đông. Phía Bắc giáp huyện Ma Ly Po (Trung Quốc) và xã Phú Lũng với đường biên giới dài 6,981 km qua 3 cột mốc chính, 2 cột mốc phụ, với nhiều đường mòn qua lại hai bên biên giới từ lâu đời để lại. Phía Đông giáp các xã Thắng Mố, Sủng Cháng: Phía Nam giáp các xã Na Khê, Lao Và Chải: Phía Tây giáp xã Na Khê. Diện tích tự nhiên rộng 29,49 km² (2.884,34 ha) với nhiều loại đất như: Đất đỏ bazan, đất nâu, đất pherarit, đất xám bạc màu. Trong đó, đất sản xuất nông nghiệp có 1.072,37 ha; đất phi nông nghiệp có 103,56 ha; đất lâm nghiệp có 1.755,5ha (trong đó, rừng sản xuất có 697,6 ha, rừng phòng hộ có 1.057,9 ha, độ che phủ rừng đạt 65%); đất chưa sử dụng có 214,46 ha. Địa hình xã Bạch Đích khá phức tạp, chia cắt bởi nhiều dải đồi, núi, khe sâu; chiều dài khoảng 10 km, rộng 8 km; là địa bàn phòng thủ chiến lược của huyện Yên Minh thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Nằm trên đường biên giới có 5
- điểm cao 1.250 m (núi Bạc), điểm cao 1.101 m, đồi A. Phía trong nằm trên địa bàn xã Bạch Đích có các điểm cao 1.036m, 1.031m, 958m; kéo dài, ngăn cách thành tuyến là bình độ 900 m, tạo ra địa hình phân tuyến rõ nét từ biên giới vào nhấp nhô hình luống khoai thành 3, 4 lớp. Khu vực núi đá ở thôn Cốc Choóng và Bản Muồng với diện tích không lớn. Nằm xen kẽ các dãy núi là thung lũng hẹp, hình thành nên những cánh đồng tương đối bằng phẳng được nhân dân khai thác sử dụng vào sản xuất nông nghiệp từ nhiều đời nay. Độ cao trung bình khoảng 800 mét so với mực nước biển. Địa hình xã Bạch Đích chia thành 2 tiểu vùng khác nhau: Tiểu vùng 1 gồm các thôn: Cốc Chóong, Lùng Ngấn, Na Coóng, Suối Già Thèn, Phìa Lái. Tiểu vùng 2 gồm khu Tráng Lệ (có các thôn: Nà Sàng 1, Nà Sàng 2, Nà Sàng 3; Chợ Ké, Cốc Pục, Lùng Vái, Na Ca, Đông Sao) và khu Bản Muồng (gồm Bản Muồng 1, Bản Muồng 2, Bản Muồng 3, Bản Muồng 4, Bản Muồng 5) và thôn Đoàn Kết. Xã Bạch Đích nằm trong khu vực khí hậu á nhiệt đới nóng ẩm, chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa. Mùa hè trùng với gió mùa Đông - Nam, kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều, thường gây ra tình trạng lũ quét, sạt lở, xói mòn. Mùa đông trùng với gió mùa Đông - Bắc, kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau; thời tiết lạnh, ít mưa, gây nên tình trạng thiếu nước cho sản xuất, sinh hoạt. Nhiệt độ trung bình từ 20 - 23 độ C; thuận lợi cho sản xuất nông - lâm nghiệp, chăn nuôi. 6
- Bạch Đích có 3 nhánh suối chính, một nhánh chảy từ các khe núi của xã Phú Lũng chảy xuống; một nhánh chảy từ các khe núi của xã Thắng Mố chảy ra; một nhánh chảy từ khe Đông Sao, khu vực biên giới chảy xuống. Cả 3 nhánh suối gặp nhau tại giữa cánh đồng trung tâm xã rồi đổ ra dòng sông Miện. Ngoài ra ở khu Bản Muồng còn có nhánh suối nhỏ chảy từ xã Lao Và Chải chảy qua cánh đồng Bản Muồng xuôi về sông Miện. Ngay trung tâm thôn Bản Muồng có một hang nước ngầm chảy ra. Mùa mưa các suối đều có nước chảy xiết; mùa khô suối cạn, gây khó khăn cho sản xuất, đời sống. Về giao thông, trước năm 1960 đường giao thông ở Bạch Đích chủ yếu là đường mòn đi bộ cho người và ngựa. Ngày nay hệ thống đường giao thông cơ giới liên xã, liên thôn được xây dựng cơ bản. Ngoài trục đường chính từ huyện Yên Minh lên qua Na Khê vào Bản Muồng, vượt giông 900 tới trung tâm xã, đi Phú Lũng; còn có tuyến đường tuần tra biên giới dài 6,981 km phục vụ Quốc phòng - An ninh. 100% thôn, bản đều có đường ô tô đến trung tâm; rất thuận lợi cho tổ chức sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, đảm bảo Quốc phòng - An ninh. Tuy nhiên, trong mùa mưa, tình trạng lũ quét thường xảy ra làm đường xá, đồi núi sạt lở, gây nhiều khó khăn cho đời sống và sản xuất của nhân dân. Vùng đất Bạch Đích ngày nay là vùng đất có từ lâu đời. Theo sử sách chép lại thì trước đây xã Bạch Đích thuộc 7
- tổng Đông Quan, châu Bình Nguyên, phủ Tương Yên, tỉnh Tuyên Quang; sau đó thuộc về châu Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Tên gọi Bạch Đích lần đầu tiên được nói đến "Vào năm Quí Tỵ 1.773, niên hiệu Cảnh Hưng, sửa lại số hộ ở các xứ; chuẩn cho lấy 3, 4 nhân đinh làm một suất. Châu Bảo Lạc có 24 xã, phường, lũng, đến 1.078 suất; 3 xã Hữu Vĩnh, Yên Minh và Bạch Đích (châu Bảo Lạc) núi non chằng chịt, rừng rú rất nhiều; sản vật có bông, gạo, sáp vàng; ruộng phẳng có đến 3 ngàn mẫu; thóc gạo, súc sản rất nhiều" 1. Năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) Triều đình nhà Nguyễn chia châu Bảo Lạc thành 2 huyện: Huyện Để Định (khu vực Bảo Lạc và một phần Đồng Văn, Mèo Vạc ngày nay): Huyện Vĩnh Điện (khu vực Bắc Mê, Yên Minh, Quản Bạ ngày nay) có 2 tổng, 9 xã; xã Bạch Đích thuộc tổng Đông Quan. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858) chúng tách tổng Đông Quan ra khỏi Bảo Lạc để thành lập đại lý Đồng Văn. Ngày 20/8/1891 tỉnh Hà Giang được thành lập trên cơ sở phủ Tương Yên và huyện Vĩnh Tuy (tỉnh Tuyên Quang) 2, xã Bạch Đích thuộc tổng Đông Minh, đại lý Đồng Văn, phủ Tương Yên. Ngày 01/01/1906 đại lý Đồng Văn đổi thành Trung tâm hành chính Đồng Văn, sau đó đổi thành châu 1 Tìm đọc: Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển 1891- 2001; trang 78. 2 Đến năm 1904 tổ chức hành chính tỉnh Hà Giang được xác định tương đối ổn định với 3 châu (Vị Xuyên, Bảo Lạc, Bắc Quang): 6 Đại lý, Bảo Lạc, Đồng Văn, Hoàng Su Phì, Bắc Quang, Thanh Thủy, Quản Bạ): 3 Nha Bang tá, Đồng Văn, Sà Phìn, Hoàng Su Phì: 15 tổng và 82 xã. (Sách đã dẫn: Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển 1891-2001; trang 91 - 93). 8
- Đồng Văn3; sau cách mạng tháng 8/1945 đổi thành huyện Đồng Văn (gồm cả vùng đất Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh và một phần huyện Quản Bạ ngày nay). Sau cách mạng tháng 8/1945 xã Bạch Đích có 3 thôn, 8 xóm: Thôn Nà Sàng có 3 xóm; xóm Na Sàng, xóm Đông Sao, xóm Na Ca: Thôn Bản Muồng có 2 xóm; xóm Bản Muồng, xóm Bản Đả: Thôn Bản Rào có 3 xóm; xóm Bản Rào, xóm Séo Hồ, xóm Cốc Choóng. Ngày 15/12/1962 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 211/CP tách huyện Đồng Văn thành 3 huyện: Đồng Văn, Yên Minh, Mèo Vạc. Từ đây xã Bạch Đích là đơn vị hành chính của huyện Yên Minh. Qua nhiều lần chia tách, sát nhập các thôn, bản, đến năm 2015 xã Bạch Đích có 19 thôn (Thôn Cốc Chóong, Lùng Ngấn, Na Coóng, Suối Già Thèn, Phe Lái, Na Sàng 1, Na Sàng 2, Na Sàng 3; Chợ ké, Cốc Pục, Lùng Vái, Đông Sao, Na Ka, Bản Muồng 1, Bản Muồng 2, Bản Muồng 3, Bản Muồng 4, Bản Muồng 5 và thôn Đoàn Kết), trong đó có 6 thôn giáp biên giới. Dân số xã Bạch Đích năm 2015 có 655 hộ, 3.313 nhân khẩu của 12 dân tộc: Trong đó đông nhất là dân tộc Nùng chiếm 58,84%; dân tộc Dao chiếm 21,24%; dân tộc Tày chiếm 11,59% và các dân tộc ít người như Cờ Lao, Mông, Giấy, Hoa, Bố Y, Pu Péo, Kinh, Mường, Cao Lan. 3 Theo kết quả Hội thảo ngày 13/10/2015 do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phối hợp với Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam tổ chức đã xác định ngày 20/8/1891 là ngày thành lập tỉnh Hà Giang; ngày 01/01/1906 là ngày thành lập châu Đồng Văn. 9
- Theo các sử liệu và truyền ngôn để lại thì số đông dân tộc Nùng ở Bạch Đích di cư từ Trung Quốc sang khoảng thế kỷ thứ XVI, XVII. Dân tộc Tày di cư từ Cao Bằng sang; các dân tộc ít người khác từ các vùng trong tỉnh đến. Dòng họ Nguyễn của người Tày và họ Lục của người Nùng là những dòng họ đầu tiên có công khai khẩn đất hoang lập ấp ở đất Bạch Đích. Trước đây, các dân tộc thường cư trú theo quan hệ huyết thống; ngày nay họ sống xen kẽ với nhau nên văn hóa luôn chịu ảnh hưởng lẫn nhau, có nhiều nét tương đồng. Tín ngưỡng của các dân tộc là ''vạn vật hữu linh'', thờ cúng tổ tiên. Các dân tộc ở đây vốn không theo tôn giáo nào, đặc biệt là đạo Tin Lành. Sự truyền đạo, học và theo đạo của một số người trong các dân tộc thiểu số những năm gần đây là trái với phong tục, tập quán của các dân tộc. Nền kinh tế thuần nông mang nặng tính tự cấp, tự túc. Cây lương thực chính ở Bạch Đích là cây lúa nước, lúa nương và ngô; ngoài ra người dân còn trồng thuốc phiện, khoai, sắn, mía, bông, lanh và chăn nuôi. Dưới chế độ thực dân phong kiến, hầu hết diện tích lúa và ngô đều của Tổng giáp, Địa chủ, Phú nông; người dân phải đi làm thuê, cuốc mướn. Do canh tác lạc hậu, thời tiết khắc nghiệt dẫn đến hoang hóa, lại bị áp bức bóc lột, người dân phải chịu đói, rách triền miên. Sau khi giành được chính quyền cách mạng, người nông dân trở thành người chủ ruộng, nương; họ đã biết sử dụng tối đa diện tích đất để trồng xen canh, gối vụ, đa dạng các loại cây trồng để tăng năng suất, sản lượng. Ngoài trồng trọt, nhân dân còn chú trọng phát triển chăn nuôi trâu bò, ngựa, dê, gia súc, gia cầm, nuôi ong lấy mật. 10
- Ngoài các nghề thủ công truyền thống như rèn, đúc nông cụ sản xuất, nung gạch, ngói máng, dệt vải lanh, thổ cẩm; trong thời kỳ đổi mới đã phát triển thêm một số ngành nghề như đồ mộc dân dụng, chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng. Dưới chế độ phong kiến, cây thuốc phiện được trồng nhiều hơn cây ngô; là loại hàng hóa đặc biệt thu hút nhiều khách hàng trong nước và ngoài nước. Có thời kỳ sản lượng thuốc phiện ở Bạch Đích lên tới hàng trăm kg/vụ. Thuốc phiện là nguyên nhân gây ra nạn nghiện hút "cái chết trắng", làm kiệt quệ giống nòi; làm nảy sinh các tệ nạn xã hội như cướp của, giết người, cờ bạc, tranh chấp trong các dòng tộc, dòng họ… Sau ngày giành được chính quyền, sản phẩm cây thuốc phiện được Nhà nước thu mua quản lý; đến thời kỳ đổi mới, cây thuốc phiện được xóa bỏ, thay vào đó là các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Nhân dân các dân tộc Bạch Đích có đời sống văn hoá tinh thần khá phong phú; dù phải trải qua ngàn năm Bắc thuộc nhưng các dân tộc vẫn giữ được những nét văn hóa truyền thống riêng biệt. Tiếng khèn của người Mông, các làn điệu dân ca người Tày, Nùng, Dao, Giấy; các lễ hội truyền thống như: Lễ hội Lồng Tồng (còn gọi là lễ hội xuống đồng) của dân tộc Nùng: Lễ cấp sắc của người Dao: Lễ hội Gầu Tào của người Mông: Lễ cúng thần rừng của dân tộc Nùng, Pu Péo: Lễ cúng tổ tiên của dân tộc Giấy Về chính trị xã hội, trước cách mạng tháng 8 năm 1945 dưới chế độ thực dân phong kiến, nổi lên hai giai cấp xã hội 11
- đối lập nhau, đó là nông dân lao động và Thổ ty4 phong kiến. Bọn thực dân phong kiến nắm quyền cai trị, chúng có bộ máy hành chính, cơ sở kinh tế và lực lượng quân sự riêng. Nhân dân lao động là những người bị áp bức bóc lột nặng nề. Quá trình Thổ ty phong kiến làm tay sai cho đế quốc, thực dân và xâu xé thanh toán lẫn nhau là quá trình nhân dân lao động bị bóc lột tàn khốc: Máu chảy đầu rơi, đói rét, bệnh tật luôn đổ xuống đầu nhân dân lao động. Chính sách bóc lột dã man của thực dân Pháp và phong kiến, cùng những khó khăn do thiên tai gây ra khiến cho đời sống của nhân dân các dân tộc vô cùng điêu đứng cùng cực; có thời kỳ đói rét, bệnh tật đã dẫn đến tỷ lệ chết nhiều hơn tỷ lệ sinh. Chế độ phong kiến đã khiến xã hội phân chia thành hai giai cấp theo ranh giới huyết tộc rõ rệt. Một bên là dòng họ quí tộc nắm quyền thống trị, một bên là nông dân lao động (còn gọi là Thổ). Thổ ty phong kiến làm chủ ruộng đất, núi non, sông suối; họ luôn nuôi trong nhà hàng chục người ở để cày cấy, hầu hạ. Nông dân lao động dù có công khai phá ruộng nương cũng phải đóng thuế, làm lao dịch, phu phen 2, 3 tháng trong năm cho Thổ ty. Các loại thú vật, tôm cá săn bắt được cũng phải nộp cho Thổ ty một phần. Thổ ty còn có quyền bán, đổi thổ dân cho người khác; có nơi con gái thổ dân trước khi về nhà chồng phải đến ngủ với Thổ ty 3 tối, nếu không phải nộp nhiều trâu, bò. 4 Thổ ty, Quý tộc thế lập cai trị một địa phương thời phong kiến. 12
- Bên cạnh đó có nơi vẫn tồn tại những tàn dư của xã hội chưa có giai cấp. Điều đó thể hiện ở mối quan hệ gắn bó mật thiết trong nội bộ dân tộc, nội bộ dòng họ, trong tâm lý dân chúng; đặc biệt là những người đứng đầu một dòng họ, một tộc người: Thật thà cả tin, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ những người cùng dòng họ, cùng bộ tộc, nhưng cũng dễ hoài nghi những người ngoài dòng họ, ngoài bộ tộc mình. Thực dân Pháp đã lợi dụng đặc điểm này để thực hiện chính sách chia rẽ dân tộc, chính sách ngu dân, nhằm dễ bề khống chế nhân dân, củng cố ách thống trị của chúng. Khi chưa có ánh sáng của cách mạng soi rọi, người dân lao động mặc dù căm thù tầng lớp Thổ ty, Địa chủ phong kiến nhưng vẫn coi chúng là người đại diện cho dân tộc, cho dòng họ mà họ có trách nhiệm phục tùng. Sau khi xâm chiếm Hà Giang năm 1887, thực dân Pháp duy trì chế độ quân sự quản chế, sử dụng tầng lớp Thổ ty phong kiến kiểm soát mọi công việc hành chính ở địa phương. Chúng thi hành chính sách bóc lột hết sức hà khắc với đủ các loại thuế; có những thứ thuế vô nhân đạo như thuế thân, thuế điền thổ, thuế kinh lý, thuế nuôi ngựa, thuế môn bài, thuế rượu, thuế muối. Thực hiện chính sách "chia để trị" thực dân Pháp chia vùng cao nguyên Đồng Văn thành nhiều khu vực, đứng đầu mỗi khu là một dòng họ Thổ ty cai quản: Vùng phía Bắc (huyện Mèo Vạc ngày nay) do Thổ ty Dương Trung Nhân cai quản; vùng giữa cao nguyên Đồng Văn do Thổ ty Nguyễn Chánh Quay cai quản; vùng Phó 13
- Bảng, Sà Phìn do Bang tá5 Vương Chính Đức (sau này là Vương Chí Sình) cai quản; phía Nam Đồng Văn (vùng Yên Minh ngày nay) do Thổ ty Nguyễn Doãn Quí và Nguyễn Chánh Tư cai quản. Đứng đầu châu Đồng Văn là một tên quan ba người Pháp, vừa chỉ huy binh lính các đồn, vừa giải quyết công việc dân sự. Tại Bạch Đích, Pháp cho xây dựng đồn binh (tại thôn Đông Sao ngày nay) rất kiên cố, có phòng giam tù nhân; bố trí một đại đội lính khố xanh do viên quan hai người Pháp chỉ huy, trực tiếp trấn áp các lực lượng đối địch và canh giữ vùng biên giới các xã thuộc khu Đông Minh: Ngoài ra còn có khoảng 2 trung đội lính địa phương quân ở xã và các thôn, bản. Tổ chức chính quyền giúp việc cho thực dân Pháp ở xã Bạch Đích có 1 Phó tổng, 1 Lý trưởng. Dưới xã có 3 thôn (Tráng Lệ, Bản Muồng, Bản Rào) có 3 ông Phó lý, 3 ông Mã phài và một số Địa chủ, Phú nông6; họ là chủ thể của khoảng 80% diện tích canh tác và sức kéo; 20% còn lại là của thành phần trung nông; người dân lao động chỉ là hạng làm thuê, cuốc mướn. Cả xã Bạch Đích hầu như không 5 Do nỗ lực đấu tranh giành quyền tự trị, năm 1913 thực dân Pháp và Chính quyền phong kiến Trung ương phải thừa nhận quyền tự trị của người Mông ở Đồng Văn, phong Vương Chính Đức làm Bang tá, cai quản vùng đất Đồng Văn; sau này Bang tá Vương Chính Đức truyền ngôi cho con trai là Vương Chí Sình. 6 Trước cách mạng 8/1945 xã Bạch Đích có Phó tổng Nguyễn Đình Thư, Lý trưởng Lưu Khái Nguyên, Mã phài Lù Dâu Sùng, Phó lý Hồ Xỉn Cáng và 2 Địa chủ, 3 Phú nông. (Theo Tự thuật của đồng chí Lưu Khái Thành đảng viên đầu tiên của xã Bạch Đích; đồng chí Nguyễn Đình Viện Chủ nhiệm Việt Minh đầu tiên của xã và đồng chí Trần Đức Thanh, nguyên Chủ tịch UBND xã). 14
- có người biết chữ, không có trường học, trạm y tế, các bệnh sốt rét, đậu mùa, dịch bệnh thường xuyên xảy ra. Các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, nghiện hút, rượu chè, cờ bạc, cướp của giết người...luôn đè nặng lên đời sống hàng ngày các dân tộc. Ở các thôn, bản biên giới, nạn cướp bóc, chém giết do bọn thổ phỉ gây nên không lúc nào yên. Ngoài ra người dân còn phải có nghĩa vụ lao dịch, phu phen cho bọn thực dân, phong kiến. Đời sống vật chất lẫn tinh thần của người dân vô cùng cực khổ, lạc hậu; mèn mén không đủ ăn, áo không đủ mặc, không được học hành, ốm đau không có thuốc chữa bệnh. 80% số hộ nông dân xã Bạch Đích không có đất canh tác; tình trạng đói rách diễn ra quanh năm. Có thể nói dưới chế độ thực dân phong kiến, nhân dân các dân tộc trên Cao nguyên đá Đồng Văn7 là một trong những nơi điển hình nhất về sự cực khổ, lạc hậu của xã hội Hà Giang. II- TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG. Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh với địch họa, thiên tai, nhân dân các dân tộc xã Bạch Đích đã phát huy tính đoàn kết cộng đồng dân tộc sâu sắc, hình thành đức tính chung quý báu: Thật thà, bao dung, tự trọng; dũng cảm, kiên 7 Ngày 03/10/2010 Ủy ban UNESCO Quốc tế công nhận Công viên địa chất, Cao nguyên đá Đồng Văn - Hà Giang là thành viên Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu... Vùng núi đá cao trên 1.000 mét, diện tích trên 2.300 km2 của 4 huyện (Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ); dân số trên 25 vạn người, 17 dân tộc; dân tộc Mông chiếm 70%. 15
- cường trong đấu tranh; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt để sinh tồn và phát triển. Những đức tính đó đã tạo nên sức sống mãnh liệt để tồn tại trước thử thách nghiệt ngã của thiên nhiên và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, góp phần tạo nên bức ''Phên dậu'' vững chắc bảo vệ biên cương Tổ quốc. Dù trải qua ngàn năm Bắc thuộc nhưng các dân tộc sống trên mảnh đất này vẫn giữ được sự vẹn toàn của đường biên, mốc giới; bảo tồn tiếng mẹ đẻ; trang phục dân tộc; phong tục tập quán; âm nhạc nghệ thuật; chuyện cổ tích, các lễ hội truyền thống của các dân tộc… luôn cùng tồn tại, phát triển trong nền văn hóa truyền thống các dân tộc cho đến ngày nay. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt đã tạo cho con người Bạch Đích tính cần cù, chịu thương chịu khó, đoàn kết cộng đồng, tối lửa tắt đèn có nhau, cùng nhau góp công, góp sức vượt qua mọi khó khăn, thử thách để chiến thắng mọi thiên tai, địch họa. Biên giới phía Bắc xưa kia luôn là vùng tranh chấp quyết liệt giữa các triều đại phong kiến Việt Nam và Trung Quốc; là địa bàn hoạt động của thổ phỉ, tội phạm, phản động ở các nơi dạt về. Các đội dân binh ở vùng biên giới luôn được Nhà nước phong kiến trao cho sứ mệnh làm người lính gác trên địa đầu đất nước; mỗi khi có giặc phương Bắc tràn sang, những chiến sĩ dân binh ấy là những người lính đầu tiên xung trận giáp mặt với quân thù. Ngày nay trong dân gian vẫn lưu truyền những câu truyện gắn với tên tuổi của hai thủ lĩnh người Tày là Nguyễn Văn Pủ, Nguyễn Văn Quang đã tụ binh khởi nghĩa góp phần 16
- cùng Vua tôi nhà Trần đánh thắng giặc Nguyên - Mông, giữ yên bờ cõi. Những chiến công của nhân dân các dân tộc vùng biên giới Yên Minh để bảo vệ nền độc lập dân tộc như tham gia đánh đuổi quân Tống năm 1075, chống sự xâm lược của quân Nguyên năm 1285, đánh quân Minh ở cửa ải Lê Hoa năm 1427... mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử với bao phen binh lửa, các dân tộc nơi đây vẫn bám trụ kiên cường, giữ gìn vẹn toàn đường biên, mốc giới do cha ông để lại. Không chịu khuất phục trước ách đô hộ của thực dân Pháp, các dân tộc xã Bạch Đích đã liên tục đứng lên cùng với các dân tộc trên khắp cao nguyên Đồng Văn tham gia các cuộc khởi nghĩa do thủ lĩnh Hà Quốc Thượng lãnh đạo những năm 1894-1896; cuộc nổi dậy ở Đồng Quang do thủ lĩnh Sùng Mí Chảng ở xã Đồng Văn lãnh đạo (1903-1905); cuộc khởi nghĩa do Vàng Chỉn Pang ở Đường Thượng lãnh đạo năm 1911-1912. Các cuộc khởi nghĩa này tuy không thành công nhưng nó đã tô thắm thêm truyền thống đoàn kết, tinh thần yêu nước, không cam chịu áp bức bóc lột của các dân tộc. Nhiều thủ lĩnh địa phương bị thực dân Pháp bắt đưa về giam giữ ở căng Bắc Mê và ngục Hỏa Lò (Hà Nội). Sau thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga (1917), chủ nghĩa Mác-Lê-Nin được đồng chí Nguyễn Ái Quốc và các tổ chức cách mạng truyền bá vào trong nước dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. Ngày 19/5/1941 Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là 17
- Việt Minh) với sứ mệnh là tổ chức, tập hợp rộng rãi các lực lượng quần chúng đấu tranh giải phóng dân tộc. Thời kỳ đấu tranh vận động cách mạng giải phóng dân tộc 1930-1945, ngoài ách kìm kẹp của thực dân Pháp và Thổ ty phong kiến, nhân dân các dân tộc xã Bạch Đích còn chịu ách bóc lột của phát xít Nhật, Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch và tay sai của chúng; sự quấy phá của Thổ phỉ ở biên giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, phong trào cách mạng được gây dựng ở Ngọc Long, Du Già, Đường Thượng năm 1944 đã phát triển ra hầu khắp các xã thuộc khu Yên Minh năm 1945. Ngày 20/7/1945 Ủy ban khu Yên Minh được thành lập, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng địa phương bước vào giai đoạn giành chính quyền về tay nhân dân. Tại Bạch Đích, do sự kiểm soát gắt gao của quân Pháp và tay sai ở đồn Bạch Đích nên cán bộ Việt Minh chưa tổ chức xây dựng được cơ sở cách mạng. Tuy nhiên, sự hoạt động của các tổ chức Việt Minh ở các vùng lân cận đã có ảnh hưởng trực tiếp đến quần chúng nhân dân các thôn, bản ở Bạch Đích. Dựa vào các mối quan hệ thân thiết giữa các dân tộc ở Bạch Đích với các vùng, nhân dân Bạch Đích đã dán tiếp, rồi trực tiếp cung cấp tin tức của địch ở đồn Bạch Đích cho Việt Minh; đưa cán bộ Việt Minh bí mật về thôn, bản mình tuyên truyền chủ trương chính sách Đảng và Mặt trận Việt Minh trong quần chúng. Ngày 9/3/1945 phát xít Nhật làm đảo chính hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương; tại đồn Bạch Đích 18
- bọn sĩ quan Pháp chạy sang Trung Quốc; bọn ngụy quân ngụy quyền theo phát xít Nhật chống lại Việt Minh. Tháng 8 năm 1945 chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng Đồng Minh; nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đã nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi trong phạm vi cả nước. Ngày 2/9/1945 Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu tuyên bố nước nhà độc lập. Tại khu Yên Minh, khi phát xít Nhật rút khỏi đất Yên Minh đầu tháng 8/1945 thì ngày 30/8/1945 quân Tưởng Giới Thạch tràn vào miền Bắc nước ta với danh nghĩa Đồng minh vào giải giáp quân Nhật. Bám gót quân Tưởng, một đội quân của “Việt Nam Quốc dân Đảng” vào chiếm đóng thị xã Hà Giang. Chúng tập hợp bọn tay sai phản động của Pháp-Nhật trước đây chiếm đồn bốt ở các châu lỵ, dựng chính quyền tại các địa phương do cường hào Địa chủ, Thổ ty nắm giữ. Tại xã Bạch Đích, quân Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch chiếm đồn Bạch Đích, sau đó bàn giao đồn cho lực lượng “Việt Nam Quốc dân Đảng”. Lực lượng Việt Minh cùng lúc phải đối phó với quân đội Tưởng Giới Thạch, bọn Việt Nam Quốc dân đảng và Thổ ty phong kiến. Lúc này phong trào cách mạng đã lan rộng khắp các xã thuộc khu Yên Minh. Từ khu căn cứ Đường Thượng, cán bộ Việt Minh và các đội vũ trang tuyên truyền đẩy mạnh tuyên truyền vận động cách mạng trong các tầng lớp nhân dân và quan chức cũ: Ta triệu tập tất cả Thổ ty, Chánh tổng, Phó tổng, Lý trưởng, tuyên truyền đường lối chính sách của Việt 19
- Minh và Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, giao nhiệm vụ cho họ phải giữ gìn an ninh trật tự; thực hiện linh hoạt chính sách đại đoàn kết các dân tộc của Đảng. Đối với binh lính Quốc dân đảng ở đồn Bạch Đích ta tích cực tuyên truyền chủ trương đường lối của Mặt trận Việt Minh, tranh thủ lôi kéo sĩ quan, binh lính địch đứng về phía cách mạng; đồng thời tăng cường áp lực quân sự bao vây đồn. Sau khi huyện Bắc Quang và huyện Hoàng Su Phì được giải phóng, hoảng sợ trước thanh thế của cách mạng, ngày 21/11/1945 sĩ quan binh lính ở đồn Bạch Đích đã chủ động giao đồn cho Việt Minh. Lực lượng Việt Minh đã kiểm soát được cả vùng Yên Minh, Quản Bạ. Được tin đồn Bạch Đích, Quản Bạ thất thủ, bọn Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch (Trung Quốc) điều 1 trung đội đặc vụ gồm 42 tên theo đường Tùng Vài tiến vào chiếm lại đồn. Lực lượng du kích tự vệ cứu quốc đã chiến đấu dũng cảm, đánh bật quân địch về bên kia biên giới. Ngày 25/12/1945 Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh và tỉnh Đảng bộ Việt Minh Hà Giang ra mắt trước toàn thể nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Quần chúng nhân dân các dân tộc hết sức phấn khởi, hăng hái tham gia các công việc của cách mạng, thi đua tăng gia sản xuất, học tập công tác, tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Từ đây, dưới chính quyền dân chủ nhân dân, đồng bào các dân tộc xã Bạch Đích trở thành người chủ của quê hương đất nước. Một thời kỳ mới đã mở ra, thời kỳ xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ cuộc sống tự do hạnh phúc của nhân dân. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Cúc Đường (1946-2014): Phần 1
94 p | 5 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Quang Long (1947-2022): Phần 1
131 p | 9 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Đồng Thịnh (1946-2015): Phần 2
184 p | 9 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Phú Tiến (1946-2015): Phần 2
162 p | 6 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Bộc Nhiêu (1946-2015): Phần 2
168 p | 6 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Xuân Phương (1947-2014): Phần 2
164 p | 5 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Đào Xá (1953-2018): Phần 2
130 p | 2 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Thượng Nung (1947-2020): Phần 1
50 p | 3 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Điềm Mặc (1946-2015): Phần 2
183 p | 10 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Liên Minh (1937-2015): Phần 1
116 p | 5 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Lâu Thượng (1939-2014): Phần 2
81 p | 13 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Phương Giao (1946-2014): Phần 2
76 p | 8 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Cây Gáo (1975-2015): Phần 1
97 p | 13 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Bình Long (1946-2014): Phần 1
126 p | 10 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Quang Long (1947-2022): Phần 2
163 p | 3 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Chiềng Bằng (1945-2015): Phần 1
78 p | 9 | 1
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Đào Xá (1953-2018): Phần 1
150 p | 6 | 1
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Vũ Chấn (1947-2014): Phần 2
146 p | 9 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn