intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Cô Ngân (1930-2020): Phần 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:57

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuốn sách "Lịch sử Đảng bộ xã Cô Ngân (1930-2020)" Phần 1 gồm các nội dung chính như sau: Xã Cô Ngân - vùng đất, con người và truyền thống lịch sử, văn hóa; tiếp thu ánh sáng cách mạng, chuẩn bị lực lượng tiến tới giành chính quyền trong năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954); chi bộ, đảng bộ x cô ngân lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội và góp phần giải phóng miền nam thống nhất đất nước (1954-1975). Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Cô Ngân (1930-2020): Phần 1

  1. LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ CÔ NGÂN (1930 - 2020)
  2. ĐẢNG BỘ HUYỆN HẠ LANG BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ CÔ NGÂN LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ CÔ NGÂN (1930 - 2020) NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG
  3. BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN Đồng chí Phan Văn Tú Huyện ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã - Trưởng ban Đồng chí Nông Thị Cúc Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy - Phó ban Thường trực Đồng chí Sầm Văn Tro Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã - Phó ban Đồng chí Phan Văn Chiến ĐUV, Phó Chủ tịch UBND xã - Thành viên Đồng chí Lý Văn Nghĩa ĐUV, Phó Chủ tịch UBND xã - Thành viên Đồng chí Hoàng Văn Công ĐUV, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã - Thành viên Đồng chí Lý Văn Thùy ĐUV, Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự xã - Thành viên Đồng chí Hoàng Văn Cảnh ĐUV, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã - Thành viên
  4. BAN SƯU TẦM Đồng chí Phan Văn Tú Huyện ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã - Trưởng ban Đồng chí Nông Thị Cúc LỜI NÓI ĐẦU Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy - Phó ban Thường trực Cô Ngân là một xã biên giới của huyện Hạ Lang, tỉnh Đồng chí Sầm Văn Tro Cao Bằng. Trong quá trình phát triển, đồng bào các dân Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã - Phó ban tộc trong xã đã liên tục vươn lên đấu tranh không mệt mỏi, chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên, với giặc Đồng chí Đàm Quốc Thuần ngoại xâm để bảo vệ quê hương, núi rừng, hình thành nên Nguyên Bí thư Đảng ủy xã - Thành viên những tên làng, tên bản, tên núi tồn tại mãi cho đến ngày hôm nay. Đồng chí Hà Minh Cường Ngày 03-02-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Nguyên Bí thư Đảng ủy xã - Thành viên Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân các dân tộc xã Cô Đồng chí Hoàng Văn Thào Ngân cùng nhân dân cả nước tiến hành Cuộc cách mạng Nguyên Phó Bí thư Đảng ủy xã - Thành viên tháng Tám năm 1945 vĩ đại, chấm dứt ách thống trị của chế độ thực dân - phong kiến, giành lại quyền độc lập, tự do cho dân tộc, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng BAN NGHIÊN CỨU - BIÊN SOẠN hòa, nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Thạc sỹ Lịch sử: Nguyễn Thị Lan Trong thực tiễn hoạt động cách mạng, nhiều người Cử nhân Chính trị học: Phạm Đình Dương con ưu tú của xã đã được giác ngộ và vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đây là “Những hạt giống đỏ”, dẫn Cử nhân Chính trị học: Bàn Văn Thiện tới sự ra đời Chi bộ đầu tiên của xã Cô Ngân vào ngày 03- 02-1948. Ngay sau khi thành lập, Chi bộ đã lãnh đạo nhân dân Cô Ngân kiên cường chống lại các hoạt động chống phá của địch, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, xây dựng quê hương ngày càng vững mạnh. 7
  5. Trải qua quá trình rèn luyện trong đấu tranh gian chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục khổ, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Chi bộ xã Cô Ngân lịch sử Đảng, dưới sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện không ngừng trưởng thành về mọi mặt. Trên cơ sở đó, ủy Hạ Lang, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Cô Ngân tổ chức năm 1962, Huyện ủy Hạ Lang (từ năm 1969-1981 thuộc biên soạn cuốn sách Lịch sử Đảng bộ xã Cô Ngân (1930- huyện QuảngHòa) ra quyết định thành lập Đảng bộ xã 2020). Qua đó góp phần giáo dục truyền thống cho cán Cô Ngân. Từ đây, Đảng bộ xã Cô Ngân không ngừng lớn bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc, động viên mọi tầng mạnh cả về chất lượng và số lượng, lãnh đạo nhân dân địa lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ tích cực thi đua lao động, phương thực hiện sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, sản xuất xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh. quốc phòng - an ninh, góp phần cùng nhân dân cả nước Quá trình sưu tầm, biên soạn cuốn sách, Ban Chấp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và hành Đảng bộ xã đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc (năm 1979). Ban Thường vụ Huyện ủy, sự hướng dẫn chỉnh lý của Trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Ban Tuyên giáo Huyện ủy, các cơ quan, ban, ngành trong khởi xướng và lãnh đạo, Đảng bộ xã Cô Ngân đã lãnh đạo huyện; các thế hệ cán bộ đã từng công tác hoạt động ở xã làm tốt công tác động viên các tầng lớp nhân dân tiếp tục cùng đông đảo cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân phát huy truyền thống yêu nước của quê hương, đoàn kết các dân tộc trong xã. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Cô Ngân xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ, đóng góp quý báu đó. khắc phục mọi khó khăn, phấn đấu đạt nhiều thành tích Trong quá trình biên soạn, mặc dù đã có nhiều cố gắng xuất sắc trên các lĩnh vực: Kinh tế - xã hội có bước phát song cuốn sách không thể tránh khỏi những thiếu sót, triển đáng kể, diện mạo thôn bản trong xã dần thay đổi, hạn chế. Ban Chấp hành Đảng bộ xã rất mong nhận được đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào ngày càng những ý kiến đóng góp của quý bạn đọc để trong những được nâng lên; hệ thống chính trị được củng cố và tăng lần tái bản sau, cuốn sách được hoàn thiện hơn. cường; quốc phòng - an ninh được giữ vững. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách. Nhằm ghi lại quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc xã Cô Ngân qua THAY MẶT BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ các thời kỳ; thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 28-8- Bí thư 2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Về tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 18-01- Phan Văn Tú 2018 của Ban Bí thư Về tiếp tục tăng cường, nâng cao 8 9
  6. Chương I XÃ CÔ NGÂN - VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HÓA I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI Cô Ngân là một xã biên giới nằm ở phía Nam của huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng, cách trung tâm huyện lỵ (thị trấn Thanh Nhật) 15 km. Xã có vị trí địa lý phía Đông giáp các xã Thái Đức cũ (nay là xã Thống Nhất) và xã Thị Hoa; phía Tây giáp xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hòa (nay là xã Bế Văn Đàn, huyện Quảng Hòa); phía Nam giáp Trung Quốc; phía Bắc giáp xã Vinh Quý. Tổng diện tích đất tự nhiên toàn xã là 3.033,78 ha. Xã có địa hình núi đá phức tạp xen kẽ giữa núi đất là các dải đồi và những thung lũng tương đối bằng phẳng, có những cánh đồng nhỏ hẹp, hình thành ruộng bậc thang như ở xóm Bản Nhôn, Bản Nha, Bản Rạc, Bản Khúa thích hợp cho việc trồng lúa ngô và các loại cây ăn quả. Ngoài ra, với diện tích đồi núi chiếm hơn 80%, là điều kiện thuận lợi để phát triển ngành lâm nghiệp và kinh tế đồi vườn. Tuy nhiên, tỷ lệ núi đá vôi và đất đồi khá lớn, gây ảnh hưởng không ít cho việc đi lại của nhân dân và khó khăn 10 11
  7. cho công tác xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - Các dòng suối của xã Cô Ngân không lớn. Trên địa xã hội của địa phương. bàn xã chỉ có 5 con suối nhỏ ở Bản Nhôn, Bản Nha, Bản Cô Ngân là xã có diện tích rừng tương đối lớn, đóng Thưn, Bản Khúa, Bản Làng và một số mạch nước ngầm vai trò hết sức quan trọng đối với việc phòng hộ đầu và mỏ tự nhiên. Ngoài ra, trên địa bàn xã còn có các mỏ nguồn và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Theo nước tự nhiên và những mạch nước ngầm tạo nên những số liệu thống kê năm 2019, diện tích rừng trên địa bàn xã con lạch nhỏ. Đây là nguồn nước chính cung cấp chủ yếu Cô Ngân là 2.279,31 ha. Trước năm 1954, xã Cô Ngân cho việc tưới tiêu đồng ruộng và sinh hoạt hàng ngày của có nguồn tài nguyên rừng phong phú và đa dạng, một số nhân dân. Tuy nhiên, về mùa khô thường ít nước nên gây cánh rừng già có nhiều cây gỗ và động vật quý hiếm như: ảnh hưởng đến việc sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã. hươu, nai, gấu, khỉ… cùng nhiều nguồn dược liệu, lâm Cùng với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thì điều kiện thổ sản như măng, mộc nhĩ, nấm… Nhưng do ý thức bảo kinh tế - xã hội là một nhân tố cơ bản quyết định sự tồn vệ rừng của người dân chưa tốt nên hiện nay nguồn tài tại và phát triển bền vững của địa phương. Đối với xã Cô nguyên rừng của xã bị suy giảm nghiêm trọng, các loại gỗ Ngân, những điều kiện về kinh tế - xã hội đã góp phần và chim thú quý hiếm hầu như không còn. Hiện nay nhân quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân đã biết khoanh nuôi bảo vệ và tận dụng diện tích rừng xây dựng quê hương. Trong những năm qua, Đảng bộ, trồng các loại cây cho hiệu quả kinh tế. chính quyền xã đã lãnh đạo, chỉ đạo sử dụng có hiệu quả Xã Cô Ngân thuộc vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió nguồn vốn của Nhà nước, kết hợp với nguồn lực của địa mùa, có mùa đông lạnh giá, mưa ít, mùa hè nóng ẩm, mưa phương để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tập trung đầu nhiều. Nhiệt độ trung bình từ 23 - 240C. Sự thay đổi nhiệt tư có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên xây dựng các công độ giữa các mùa trong năm khá lớn, từ 13 - 300C. Lượng trình phục vụ thiết thực cho sản xuất và đời sống của cán mưa phân bổ theo mùa, trong đó tập trung nhiều từ tháng bộ và nhân dân trên địa bàn xã. 4 đến tháng 10, cung cấp nguồn nước tưới quan trọng cho các loại cây trồng trên địa bàn xã. Nhìn chung, khí Xã Cô Ngân có mạng lưới đường giao thông tương hậu của xã Cô Ngân thuận lợi cho sự phát triển đa dạng đối thuận lợi, trên địa bàn xã có tuyến đường liên huyện phù hợp cho phát triển nhiều loại cây trồng khác nhau. và đường biên giới chạy qua. Đây là một thế mạnh của xã Tuy nhiên, sự chênh lệch nhiệt độ giữa mùa hè và mùa trong việc lưu thông hàng hóa, giao lưu kinh tế, văn hóa đông tương đối lớn, dễ gây ra nhiều dịch bệnh đối với cây với các địa phương khác trong vùng. Cùng với đó, trên trồng, vật nuôi, ảnh hưởng đến năng suất cũng như hiệu địa bàn xã có trục đường liên xã và các tuyến đường liên quả sản xuất nông nghiệp, gây thiệt hại về kinh tế. thôn, xóm. Các đường thôn, liên thôn chủ yếu là đường 12 13
  8. đất, về mùa mưa khá trơn trượt, ít nhiều gây khó khăn cho của các nhà trường còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng sản xuất và đi lại của nhân dân. với sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa Về hiện trạng cấp điện, nguồn điện cung cấp cho xã phương, cùng với sự nỗ lực của các thầy, cô giáo và học Cô Ngân là lưới điện Quốc gia 35kV. Trên địa bàn xã có sinh, chất lượng và hiệu quả dạy học của các nhà trường 3 trạm biến thế với tổng công suất 175kVa, cung cấp điện đang ngày một nâng lên. Đến tháng 7-2020, thực hiện cho 100% số hộ trên địa bàn xã, góp phần hỗ trợ phát triển quyết định của cấp trên, trường tiểu học và trường trung sản xuất và sinh hoạt, từng bước làm thay đổi diện mạo và học cơ sở xã Cô Ngân được sáp nhập thành Trường Tiểu cải thiện đời sống của đồng bào các dân tộc. học Trung học cơ sở Cô Ngân Trạm y tế xã Cô Ngân được xây dựng khang trang với Ngoài hệ thống cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng, đồng diện tích 1.150m2 gồm 10 phòng chức năng, 1 phòng bệnh. bào các dân tộc trong xã cần cù, sáng tạo trong lao động, Hàng năm, trạm y tế đã làm tốt công tác chăm sóc sức sản xuất, chịu thương, chịu khó cũng là một nhân tố quan khỏe ban đầu cho nhân dân. Đồng thời, thực hiện nghiêm trọng thúc đẩy mọi mặt của địa phương phát triển. Theo pháp lệnh dân số, thực hiện có hiệu quả các chương trình, thống kê, dân số của xã năm 2019 là 1.602 nhân khẩu tỷ lệ các mục tiêu y tế quốc gia, y tế học đường, thường xuyên lao động chủ yếu tập trung trong nông nghiệp, lâm nghiệp quan tâm đến sức khỏe của các đối tượng thuộc diện chính (chiếm trên 90%). Bên cạnh đó còn có một số ngành nghề sách. Đội ngũ cán bộ trạm y tế gồm có 5 người, trong đó có khác như thương mại, dịch vụ và xây dựng. Đây là nguồn 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 1 nữ hộ sinh, 1 điều dưỡng đã có nhiều cố nhân lực quan trọng để phát triển kinh tế, xã hội, từng gắng trong việc chăm sóc, đảm bảo sức khỏe cho nhân dân. bước thay đổi bộ mặt quê hương. Về hệ thống trường học: Đối với cấp tiểu học, trên địa Trước đây nền kinh tế chủ yếu của đồng bào là canh bàn xã trước đây có 1 trường chính (xóm Bản Nha), học tác nông nghiệp làm nương rẫy ở vùng cao và làm ruộng tạm tại nhà tổ biên phòng và trạm y tế cũ và 2 phân trường. nước ở vùng thấp. Những thôn vùng thấp, đồng bào từ lâu Đến nay, đã tập trung về trường chính tại Bản Nha. Đối đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp với cấp trung học, trên địa bàn xã có trường Trung học cơ thủy lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy sở Cô Ngân đặt tại trung tâm xã với diện tích 3.849m2. nước tưới ruộng. Ngoài lúa nước, đồng bào còn trồng lúa Trường Mầm non được thành lập năm 2007, gồm 1 điểm cạn, hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày... chính (tại Bản Nha) và 2 điểm phân trường (ở Bản Rạc, Với điều kiện địa hình thuận lợi cho phát triển chăn nuôi, Bản Luông) đến năm 2010, chuyển về học tập trung tại số lượng đàn gia súc, gia cầm của địa phương tương đối địa điểm trường mới ở Bản Nha. Mặc dù cơ sở vật chất lớn như trâu, ngựa, dê. 14 15
  9. Trong những năm gần đây, được Đảng và Nhà nước Trong quá trình tồn tại và phát triển, Cô Ngân đã quan tâm bằng các chủ trương, chính sách, cấp ủy, chính nhiều lần thay đổi địa giới. Đời vua Gia Long (1802- quyền xã đã tập trung chỉ đạo, tận dụng các điều kiện tự 1820), vùng đất Cô Ngân ngày nay thuộc tổng Lệnh Cấm, nhiên, kinh tế - xã hội, đẩy mạnh phát triển sản xuất, tăng châu Hạ Lang, trấn Cao Bằng1. Đến cuối thế kỷ XIX, thực cường tuyên truyền, vận động nhân dân chuyển đổi cơ cấu dân Pháp nhập tổng Lệnh Cấm và tổng Vĩnh Thọ thành cây trồng, vật nuôi, sử dụng cây con giống mới phù hợp tổng Lệnh Cấm, thuộc châu Hạ Lang. Lúc này vùng đất với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và tập quán canh tác. Cô Ngân là 3 xã Bàn Lạc, Bắc Vọng, Văn Khu. Phát triển cân đối giữa trồng trọt, chăn nuôi và nâng cao Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, hiệu quả, thu nhập từ sản phẩm các cây công nghiệp, từng cấp tổng bị bãi bỏ, dưới tổng là các xã. Lúc này, 3 xã Bàn bước chuyển nền sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất Lạc, Văn Khu và Bắc Vọng được sáp nhập thành xã Cô hàng hóa. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân Ngân, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng. Cô Ngân là bí danh được nâng lên; bản sắc văn hóa dân tộc được duy trì và của một nữ cán bộ hoạt động cách mạng tên là Hoàng Thị bảo tồn; an ninh chính trị, trật tự thôn bản được giữ vững. Ngân, quê xã Đề Thám, huyện Hòa An, đã anh dũng hi II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH LÀNG XÃ sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Để ghi nhớ công VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HÓA, lao của nữ cán bộ đó, xã được đặt tên là Cô Ngân. Đến CÁCH MẠNG năm 19602, các xóm Khún Đâư, Khún Noọc nhập vào xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hòa (nay là xã Bế Văn Đàn, huyện 1. Quá trình hình thành làng xã Quảng Hòa). Trong quá trình khai hoang lập bản, làng, nhân dân Đến năm 1969, thực hiện Quyết định số 176/CP ngày Cô Ngân qua các thế hệ đã đoàn kết với nhau vượt qua 15-9-1969 của Hội đồng Chính phủ, xã Cô Ngân cùng mọi khó khăn thử thách, khắc nghiệt của thiên nhiên và một số xã khác được sáp nhập vào huyện Quảng Hòa. quân thù cùng xây dựng làng xóm ngày càng trù phú. Sau này, trải qua quá trình phát triển lâu dài, các tên làng, xã Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội (khóa V) ngày được hình thành và có tên gọi riêng với những ý nghĩa 27/12/1975, hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng sáp nhập khác nhau. Các bản, làng ở xã Cô Ngân thường được đặt tên theo các con suối, ngọn núi, cánh đồng quanh bản, 1. Lịch sử Đảng bộ huyện Hạ Lang (1930-2015), Nxb Chính trị làng. Trong xã có nhiều họ như: Nông, Đàm, Bế, Phan, Quốc Gia, năm 2016, Tr.14. Sầm, Hoàng, Hà, Lê, Lý, Triệu, Phùng, Ma, Tô, Thân, 2. Lịch sử Đảng bộ huyện Hạ Lang (1930-2015), Nxb Chính trị Trương, Leo, Nguyễn. Quốc Gia, năm 2016, Tr.16. 16 17
  10. thành tỉnh mới có tên là tỉnh Cao - Lạng, trụ sở đóng tại xâm và không ngừng cùng nhau phát huy bản sắc văn hóa thị xã Cao Bằng. Xã Cô Ngân cũng như nhiều xã khác của của miền quê giàu truyền thống văn hóa và cách mạng. huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng cũ đã chính thức trở Về trang phục, bộ trang phục cổ truyền của người Tày thành một bộ phận hành chính của tỉnh Cao - Lạng. Ngày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không có 29/12/1978, thực hiện Quyết định của Quốc Hội khóa VI thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc áo dài đến nửa bắp chân trong kỳ họp thứ 4, tỉnh Cao - Lạng được tách trở lại thành tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng, xã Cô Ngân là 1 đơn vị hành và tay áo thon hẹp, hai đuôi thắt lưng dài gần bằng đuôi chính trực thuộc huyện Quảng Hòa. áo. Đàn ông mặc quần kiểu lá tọa, bổ đũng, dài tới mắt cá chân. Đối với dân tộc Nùng, người phụ nữ Nùng thường Đến ngày 01-9-1981, huyện Hạ Lang được tái lập, xã mặc áo năm thân và cài một hàng cúc bằng nút vải phía Cô Ngân lại được tách từ huyện Quảng Hòa vào huyện bên nách phải; nam, nữ mặc quần nhuộm chàm, cạp to, Hạ Lang và các xóm được điều chỉnh, xóm Lũng Khún, ống rộng, dài tới mắt cá chân. Thầy tào mặc áo cà sa dài Khuổi Khuông được tách ra sáp nhập vào xã Triệu Ẩu (huyện Phục Hòa). rộng, trên áo thêu những hình chim, muông thú có nhiều màu sắc sặc sỡ; còn ông bụt cũng mặc áo màu sắc, nhưng Đến ngày 09-9-2019, thực hiện Nghị quyết số 27/ phổ biến nhất là đầu quấn khăn hồng và đội mũ khi hành NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh Cao Bằng về lễ, xếp ba lớp vải khác màu chồng lên nhau, phía trên trán việc sáp nhập, đổi tên xóm, tổ dân phố, theo đó hai xóm có nhiều tua vàng nhỏ, phía sau nối với một tấm vải đủ để Bản Rạc và Nà Thúng được sáp nhập thành xóm Bản Rạc Nà Thúng. Trải qua những sự thay đổi về địa giới hành che lưng. chính, hiện nay xã Cô Ngân gồm có 8 xóm là: Bản Nha, Về nhà ở cũng là một nét đặc sắc trong văn hóa của Bản Nhôn, Bản Nưa, Bản Rạc Nà Thúng, Bản Luông, đồng bào các dân tộc xã Cô Ngân. Theo truyền thống Bản Khúa, Bản Thưn, Bản Làng. Các xóm bản của xã Cô trước đây của đồng bào, việc làm nhà cửa là dịp tương trợ Ngân được hình thành trong một quá trình lịch sử lâu dài, nhau trong làng bản. Tùy theo nhu cầu, mục đích sử dụng đến nay vẫn còn lưu giữ được nhiều nét giá trị văn hóa mà mỗi tộc người lại có kiến trúc nhà ở khác nhau. Ngôi truyền thống đặc sắc của quê hương, dân tộc. nhà truyền thống của đồng bào Tày, Nùng trong vùng là 2. Truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng nhà sàn bằng gỗ, lợp ngói máng hoặc lợp tranh ven xung Trên địa bàn xã Cô Ngân có 2 dân tộc chủ yếu cùng quanh trát vách hoặc ốp nứa, cót. Nhà thường dựng tập nhau sinh sống là Tày, Nùng. Trải qua tiến trình lịch sử, trung theo bản và đa số theo hướng đông nam. Hiện nay, nhân dân các dân tộc xã Cô Ngân đã đoàn kết trong lao do tác động của xu thế mở cửa và phát triển hội nhập, động, sản xuất, kiên cường, dũng cảm chống giặc ngoại đồng bào có điều kiện giao thương, buôn bán nên đời 18 19
  11. sống kinh tế gia đình ngày càng phát triển. Vì vậy ở xã Cô lang thường gặp bên nhà gái đóng cửa, đặt chổi ngang Ngân, đồng bào dần dần chuyển sang xây nhà kiên cố hóa lối vào, trải chiếu mặt trái, những trường hợp này ông giống như nhà ở của người Kinh để thuận tiện cho sinh quan lang phải có những bài then giải đúng thì nhà gái hoạt hàng ngày nên nhìn chung về nhà cửa truyền thống mới dẹp bỏ và ông quan lang mới được ngồi. Đoàn nhà hiện nay đang có xu hướng bị mai một dần. gái khi đi đưa dâu phải có một ông quan lang, một bà dì và sáu hoặc tám cô gái. Cô dâu, chú rể phải trình tổ Về tín ngưỡng, người Tày, Nùng ở Cô Ngân từ xưa tiên, bái lạy tổ tiên, mời trầu, thuốc lá, kẹo, rượu. Chú đến nay vẫn có truyền thống thờ cúng tổ tiên. Bàn thờ của rể mời bên nhà gái, cô dâu mời bên nhà trai. Ngoài ra cô dân tộc Tày phần lớn đặt ở gian giữa, còn người Nùng dâu còn thêm khăn mặt để mời ông, bà, người được mời phần lớn đặt ở gian ngoài. Bên cạnh bàn thờ tổ tiên còn đặt một bàn thờ nhỏ để thờ phúc mẫu (thán va). Ngoài khăn mặt mừng lại cô dâu bằng tiền và bỏ ngay vào chậu ra, đồng bào còn có tập tục thờ cúng thổ công vào những trước mặt. ngày tết Nguyên đán, ngày 2 tháng Giêng (âm lịch), ngày Trong việc tang lễ, người Tày, Nùng thường mời 3/3 (âm lịch), ngày 6/6 và ngày 14/7 hàng năm, nơi thờ thầy tào đến nhập quan và làm lễ báo hiếu. Nhiều gia thổ công là một ngôi miếu nhỏ. Ngoài những ngày lễ, tết đình còn mời cả thầy phường đến tham gia làm lễ báo thì những gia đình có việc đều cúng lễ thổ công. Nhân dân hiếu (người Tày), còn dân tộc Nùng thì mời đến thổi quan niệm thổ công bảo vệ làng, bản, từ con người đến kèn. Con cái đội khăn trắng, mặc áo trắng đến 100 ngày. mùa màng, gia súc, gia cầm. Được 100 ngày làm giỗ nhuộm khăn xanh. Tang người Đối với người Nùng, Tày ở Cô Ngân, phong tục hôn nữ phải để sau 3 năm và tang người nam phải sau hai nhân là vốn truyền thống văn hóa cổ truyền đặc sắc. Đó năm rưỡi mới được làm lễ mãn tang. Trước Cách mạng là lễ so lá số, lễ dạm hỏi, lễ mừng hạp lá số, lễ ăn hỏi Tháng Tám năm 1945, việc tổ chức đám ma thường để lần đầu, lễ ăn hỏi lần hai. Lễ cưới còn có các tập tục như 10 ngày, lợn cúng bái mổ 4-5 con, thì sau năm 1945, vải khô ướt cho mẹ, phong bao tiền bằng giấy đỏ cho thực hiện nếp sống văn hóa mới của Nhà nước, đám ma em, cháu, tục đóng cửa, trải chiếu ngược. Việc đón dâu giảm xuống còn 3-5 ngày, lợn cúng bái cũng đã giảm bớt cũng được tổ chức đơn giản, chỉ có một ông, một bà và còn 1-2 con. 2 cô gái là được. Riêng đối với dân tộc Tày, ông đón Ngày nay, thực hiện nếp sống văn hóa mới, một số dâu được gọi là ông quan lang, thay mặt cho họ nhà trai thủ tục đã được xóa bỏ, nhưng những nét chính về cơ đến làm các thủ tục cần thiết. Khi đi đón dâu ông quan bản vẫn được nhân dân các dân tộc Cô Ngân gìn giữ. 20 21
  12. Các ngày lễ hàng năm đa dạng phong phú (lễ đầy hăng hái lao động để đón chào một năm mới nhiều niềm tháng, lễ mừng thọ, lễ mừng nhà mới…), qua đây thể hiện vui, thắng lợi mới. rõ nét một số đặc trưng về phong tục, tập quán, đời sống Các dân tộc Tày, Nùng ở Cô Ngân cũng có một kho tâm linh của nhân dân các dân tộc Cô Ngân. tàng văn nghệ dân gian phong phú, đủ các thể loại thơ, Lễ đầy tháng: Ở Cô Ngân từ xa xưa tới ngày nay, ca, các truyện cổ tích, múa nhạc... Những truyện kể dân đồng bào không tổ chức mừng ngày sinh nhật, chỉ có gian, những làn điệu hát then, sli, những câu hát lượn và truyền thống tổ chức mừng đầy tháng cho trẻ đầu lòng. trò chơi dân gian được lưu truyền từ đời này qua đời khác Các nghi lễ bao gồm: mời thầy mo, thầy bụt đến nhà để đã phản ánh cuộc sống tinh thần phong phú, đa dạng của cầu khẩn báo tổ tiên phúc đức phù hộ cho cháu bé, đồng đồng bào. Cùng với đó, những tri thức dân gian của đồng thời bên nhà ngoại cháu bé mang đến một cái địu, nôi để bào các dân tộc xã Cô Ngân rất phong phú, bao gồm những hàng ngày ru cháu và lập một bàn thờ mẫu (thán va) để kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp, khai thác rừng, lo việc trông coi bảo vệ linh hồn cháu bé. những bài thuốc dân gian gia truyền vẫn được duy trì và có ý nghĩa nhất định trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Lễ mừng thọ: Ở Cô Ngân không có phong trào mừng thọ, chỉ có ít gia đình có điều kiện mới tổ chức mừng thọ Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, cùng với đời sống văn hóa, tinh thần phong phú, nhân dân các dân tộc xã Cô tuổi 61, 73, 85. Gia đình mời thầy tào đến để tế lễ, cầu Ngân cũng đã tạo nên các truyền thống quý báu trong lao phúc, cầu thọ. Anh, em đến mừng thọ có gánh rượu, con động, sản xuất và đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đó là gà; bạn bè, con cháu đến mừng thọ có bức trướng; con những truyền thống quý báu mà thế hệ ngày hôm nay luôn gái, con rể đến mừng thọ có lợn quay, xôi, bánh. nâng niu, giữ gìn, phát huy, tạo nên sức mạnh tinh thần to Về văn hóa dân gian của địa phương, lễ hội có vai trò lớn để Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Cô Ngân viết quan trọng góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của vùng tiếp những trang sử đẹp của quê hương. đất và con người nơi đây. Hàng năm, nhân dân tổ chức Truyền thống cần cù trong lao động sản xuất hội “Lồng tồng” làm lễ xuống đồng đầu xuân vào tháng Giêng âm lịch như ở Bản Rạc ngày 10, Bản Nhôn ngày Từ bao đời nay, nhân dân xã Cô Ngân vẫn lưu giữ và 11, Bản Nha ngày 12 và Bản Khúa ngày 13. Ngày hội có phát huy truyền thống lao động cần cù, sáng tạo để sản các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao và các trò chơi xuất ra của cải vật chất, sản xuất lương thực phục vụ cho dân gian như: hát giao duyên, tung còn, đánh yến, múa kỳ công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và xây dựng đất lân… thu hút sự tham gia của đông đảo người dân tham nước; thể hiện trong học tập, vận dụng các thành tựu khoa dự, giúp người dân quên đi những mệt mỏi của năm cũ, học - kỹ thuật tiên tiến vào công cuộc xây dựng quê hương. 22 23
  13. Với đức tính cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo, từ Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII ở Cô Ngân cũng như thời xa xưa, đồng bào các dân tộc đã xây dựng nên những các xã biên giới của huyện Hạ Lang thường bị các nhóm công trình thủy lợi để dẫn nước vào đồng ruộng. Đó là hệ thổ phỉ từ Trung Quốc sang cướp bóc, đốt phá... làm cho thống phai đập, mương máng, những chiếc guồng đặt trên đời sống nhân dân hết sức cực khổ, nơm nớp lo sợ. Vượt các khe suối, lạch… Cũng như người Kinh ở miền xuôi, lên trên mọi khó khăn, nhân dân các dân tộc Cô Ngân nói kỹ thuận canh tác và nông cụ của đồng bào các dân tộc riêng và các xã biên giới nói chung đã đoàn kết nhất tề khá hoàn chỉnh. Từ xa xưa, người nông dân các dân tộc đã đứng dậy dùng giáo mác, gậy gộc... đánh đuổi kẻ thù, bảo biết chế tác ra các loại nông cụ như cày, bừa, cuốc, dao… vệ bản, làng, quê hương. cho đến các loại súng, nỏ để săn bắn thú rừng. Ngày 01-9-1858 thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, truyền Nẵng, chính thức xâm lược Việt Nam. Dưới ách đô hộ, thống cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất vẫn tiếp thống trị của thực dân phong kiến, đại đa số người dân Cô Ngân đều ý thức được cuộc sống nghèo đói, khổ cực nên tục được phát huy mạnh mẽ. Đó là giá trị tinh thần to lớn, đã hăng hái đứng lên đấu tranh. Khi thực dân Pháp đánh trở thành sức mạnh và động lực thúc đẩy Đảng bộ và nhân chiếm Cao Bằng (ngày 27-10-1886), dưới sự lãnh đạo của dân xã Cô Ngân đoàn kết, chung sức chung lòng vượt qua Mã Quốc Anh và các quan chức yêu nước địa phương, những khó khăn, cùng nhau xây dựng quê hương ngày nhân dân các dân tộc Hạ Lang, trong đó có nhân dân Cô càng ổn định, phát triển. Ngân đã không cam chịu làm nô lệ, cùng với nhân dân cả Truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm tỉnh đứng lên chiến đấu quyết tâm bảo vệ quê hương. Mặc Để có được cuộc sống bình yên, xây dựng quê hương dù cuộc khởi nghĩa thất bại, nhưng đã gây ra cho thực dân như ngày hôm nay, nhân dân xã Cô Ngân qua các thế Pháp nhiều khó khăn, tổn thất. hệ nối tiếp nhau, cùng nhân dân trong huyện, trong tỉnh Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt và cả nước đứng lên chống giặc ngoại xâm. Tình yêu Nam, truyền thống yêu nước được khơi dậy mạnh mẽ hơn ấy được nuôi dưỡng, phát triển và hun đúc thành truyền bao giờ hết, nhân dân Cô Ngân cùng nhân dân cả nước đã thống quý báu của người dân nơi đây. Nhân dân xã Cô làm nên thắng lợi to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân Ngân ngày nay rất tự hào về tinh thần yêu nước chống tộc, chống ngoại xâm và xây dựng chủ nghĩa xã hội. ngoại xâm rất lâu đời, ngay từ buổi đầu dựng nước và giữ Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống nước của những lớp người khai phá, xây dựng và bảo vệ Mỹ và chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, truyền thống mảnh đất này. bất khuất, kiên cường đó ngày càng được hun đúc, tôi 24 25
  14. luyện. Với lòng yêu nước, căm thù giặc, nhân dân các Như vậy, lịch sử của vùng đất xã Cô Ngân là lịch sử xóm làng ra sức ủng hộ, giúp đỡ các đội nghĩa quân về cả của quá trình đấu tranh gian khổ, anh dũng, lâu dài với tinh thần lẫn vật chất. Người dân xã Cô Ngân đã hết lòng thiên nhiên và với mọi thế lực thù địch để tồn tại và phát nuôi giấu, che chở, bảo vệ an toàn tuyệt đối cho cán bộ triển. Tiến trình ấy đã hun đúc cho đồng bào các dân tộc cách mạng trước sự lùng sục, càn quét khủng bố của quân xã Cô Ngân những truyền thống quý báu như cần cù, sáng địch. Nhờ đó, công tác giao liên, vận chuyển tài liệu được tạo trong lao động; tinh thần đoàn kết, gắn bó giữa các dễ dàng, tạo điều kiện tốt nhất để các đồng chí yên tâm dân tộc anh em; tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc và công tác. Cán bộ và nhân dân xã Cô Ngân đã hoàn thành tinh thần đấu tranh anh dũng bất khuất trước mọi kẻ thù. tốt nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho nhiều đơn vị đến đóng Truyền thống quý báu ấy đã được phát huy và phát triển quân và làm nhiệm vụ. Nhiều thanh niên của xã Cô Ngân từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng. đã đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, tình nguyện Dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng ý chí độc lập, tinh thần lên đường chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong tự cường dân tộc, nhân dân các dân tộc xã Cô Ngân đã cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và chiến tranh và đang gìn giữ, phát huy mạnh mẽ những giá trị văn hóa bảo vệ biên giới Tổ quốc nhiều người con Cô Ngân đã anh đặc sắc, truyền thống đấu tranh anh hùng kiên cường, bất dũng chiến đấu, hy sinh một phần xương máu của mình khuất, góp phần vào sự phát triển chung của huyện Hạ để bảo vệ chủ quyền của đất nước. Lang nói riêng, tỉnh Cao Bằng nói chung. Truyền thống đoàn kết đấu tranh trong sản xuất, đoàn kết chiến đấu chống giặc ngoại xâm lâu đời, sâu sắc, là sức mạnh tinh thần vô giá của nhân dân địa phương. Truyền thống đó được gìn giữ, phát huy theo bề dày của lịch sử xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước. Truyền thống ấy được nâng lên và phát huy cao độ thành truyền thống cách mạng kiên cường khi được ánh sáng cách mạng của Đảng soi đường dẫn dắt. Tinh thần yêu nước, yêu quê hương kết hợp với niềm tin ở chủ nghĩa cộng sản của nhân dân, trở thành sức mạnh to lớn giúp Đảng bộ và nhân dân Cô Ngân giành được những thắng lợi vẻ vang, viết tiếp những trang sử rạng rỡ trong các giai đoạn, các thời kỳ đấu tranh cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. 26 27
  15. Chương II TIẾP THU ÁNH SÁNG CÁCH MẠNG, CHUẨN BỊ LỰC LƯỢNG TIẾN TỚI GIÀNH CHÍNH QUYỀN TRONG NĂM 1945 VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946 - 1954) I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO CÁCH MẠNG THỜI KỲ 1930-1945 1. Nhân dân các dân tộc Cô Ngân dưới chế độ thực dân phong kiến Ngày 01-9-1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), Việt Nam chính thức bị thực dân Pháp xâm lược. Đầu năm 1885, thực dân Pháp bắt đầu đưa quân tiến đánh Lạng Sơn, dùng cường hào người Việt làm tay sai. Đến cuối năm 1885, quân Pháp chiếm được thị xã Lạng Sơn (nay là thành phố Lạng Sơn), Đồng Đăng, Thất Khê và một số vị trí chiến lược quan trọng dọc trên đường số 4 đến tận địa giới tỉnh Cao Bằng. Sau khi đặt ách cai trị lên châu Hạ Lang, thực dân Pháp phân chia hệ thống hành chính từ châu xuống xã gồm tri châu (ở Hạ Lang còn bổ nhiệm 2 bang tá), chánh tổng, phó tổng, lý trưởng, chánh phó lý, chánh phó, thủ 28 29
  16. bạ, chánh hội, khản xạ, kiểm lâm, dân biểu, thư ký. Xã Cô dân Pháp phân chia dân ra nhiều thứ hạng chủ yếu dựa Ngân lúc bấy giờ gồm địa bàn 3 xã Bàn Lạc, Văn Khu, trên nguồn thu nhập của họ để tính thuế. Vì không có tiền Bắc Vọng, mỗi xã đều có lý trưởng, phó lý trưởng có thủ nộp thuế, nhiều người phải bán cả ruộng vườn, trâu bò... bạ theo dõi về thuế thân… Đây là tay chân đắc lực phục Sự bóc lột về vật chất đã làm cho nhân dân xã Cô Ngân vụ cho bộ máy công quyền của thực dân Pháp để cai trị và phải lao đao, khốn đốn. Toàn xã có hơn 1/5 số hộ hầu như bóc lột đồng bào. không có ruộng đất canh tác, cuộc sống hết sức khổ cực. Bên cạnh hệ thống chính trị, thực dân Pháp đặt ra hệ Ruộng đất tập trung vào tay tầng lớp phú nông, địa chủ, thống quân sự gồm có châu đoàn dưới là tổng đoàn, xã nhất là những người có địa vị trong xã hội. đoàn chỉ huy lực lượng lính dõng, tuần phiên. Từ năm Mặt khác, chúng tăng cường bắt phu, bắt lính để phục 1896, thực dân Pháp thành lập chi khu quân sự ở Hạ Lang vụ cho âm mưu cai trị lâu dài. Theo quy định của chính dưới sự chỉ huy của tên quan hai đồn trưởng người Pháp. quyền thực dân, hàng năm, mỗi suất đinh ở châu Hạ Lang Tại Cô Ngân, chúng đặt bốt tại Nà Thúng với 15 lính, trong đó có người dân Bàn Lạc, Bắc Vọng, Văn Khu phải nhằm theo dõi, kiểm soát, đàn áp phong trào yêu nước đi phu 1-2 lần, mỗi lần từ 10-12 ngày làm đường, xây đồn trong khu vực. bốt… Họ không những phải tự túc lương thực, chỗ ở nhận Sau khi đã hoàn chỉnh bộ máy hành chính, thực dân được một mức tiền công rẻ mạt mà còn thường xuyên bị Pháp thi hành các chính sách vô cùng thâm độc nhằm đánh đập. Sống trong cảnh như vậy, phần lớn các gia đình vơ vét tài nguyên, bắt phu, bắt lính, thu thuế. Mặt khác, phải lo ăn từng bữa, hàng năm có đến 7 tháng ăn ngô, còn chúng kích động, gây chia rẽ giữa các dân tộc, dòng họ, lại bữa cơm, bữa cháo hoặc vào rừng đào rau củ nâu, củ địa phương… làm cho các dân tộc khinh thị, chia rẽ, mất mài, đặt bẫy, săn thú rừng để sống qua ngày. đoàn kết lẫn nhau mà quên kẻ thù chính là thực dân Pháp Bên cạnh đó nạn thổ phỉ cướp bóc dọc biên giới và quan lại phong kiến. thường xuyên diễn ra, khiến nhân dân sống trong cảnh Chúng bắt đồng bào phải nộp nhiều loại thuế khóa lo âu, còn thực dân Pháp, phong kiến thì mặc cho thổ phỉ nặng nề, bất công như thuế đinh, thuế ruộng, thuế môn cướp phá, hoành hành. bài, thuế khẩu mạ (thóc chăn ngựa), thuế tiểu thương buôn Phục vụ cho chính sách bóc lột kinh tế, thực dân Pháp bán ở các chợ… Trong đó thứ thuế dã man nhất là thuế thi hành chính sách văn hóa, giáo dục mang tính chất nô đinh (thuế bìa). Trước năm 1897, người dân trong độ tuổi dịch. Ở các xã Cô Ngân (ngày nay) không có trường học, lao động của xã phải nộp mỗi người 0,5 đồng tiền thuế trước năm 1945, chỉ có các lớp do các hộ gia đình (ở Bản đinh. Sau năm 1897 tăng lên 2,5 đồng. Từ năm 1937, thực Rạc, Bản Nha, Bản Khúa) có điều kiện thuê thầy về dạy 30 31
  17. chữ Nho, chữ Quốc ngữ. Còn lại, hơn 95% dân số mù Ngay sau khi thành lập Đảng đã có chủ trương xúc chữ, phần nhiều không biết tiếng Kinh. Cả xã không có tiến gây dựng, phát triển phong trào cách mạng ở các tỉnh cơ sở y tế, nhân dân ốm đau không thuốc men chữa trị mà biên giới Cao - Bắc - Lạng. Ngày 01-4-1930, Chi bộ Đảng trông chờ vào các bài thuốc của các thầy lang, bà mế trong Cộng sản đầu tiên của tỉnh Cao Bằng được thành lập tại bản. Cùng với chính sách ngu dân, thực dân Pháp ra sức Nặm Lìn (xã Quang Trung, huyện Hòa An). Chi bộ Đảng đầu độc đồng bào bằng rượu cồn, thuốc phiện, cờ bạc và ra đời đã tạo điều kiện và nền móng vững chắc cho sự phát khuyến khích các tập tục lạc hậu mê tín dị đoan… làm cho triển của tổ chức Đảng tại các huyện, trong đó có Hạ Lang. đồng bào ngày càng mê muội, cam chịu thân phận nô lệ Đến tháng 6-1940, Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lãnh dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến. tụ Nguyễn Ái Quốc nhận định thời cơ giành độc lập cho Chính sách thống trị hà khắc của thực dân Pháp làm Tổ quốc đã đến và quyết định về nước trực tiếp lãnh đạo cho đời sống của nhân dân thêm lầm than, khổ cực, mâu phong trào cách mạng. Để thực hiện thành công đường thuẫn giữa nhân dân với thực dân xâm lược và bè lũ tay lối cứu nước, Người chủ trương xây dựng củng cố Đảng sai ngày càng sâu sắc. Với truyền thống yêu nước, nhân vững mạnh, thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng dân các dân tộc xã Cô Ngân không chịu khuất phục trước rãi; xây dựng lực lượng vũ trang, đào tạo cán bộ… Người ách áp bức của thực dân phong kiến, luôn khát khao được chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng sống trong độc lập, tự do, đoàn kết, kiên cường đấu tranh minh, gọi tắt là Việt Minh. Sau khi về nước (28-01-1941), chống kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai. Đó chính là tiền đề Người mở nhiều lớp đào tạo cán bộ Việt Minh. Trên cơ sở quan trọng để khi bắt gặp ánh sáng cách mạng của Đảng, đó hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đồng bào sẵn sàng tham gia cách mạng để giải phóng quê họp từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941 (tại Pác Bó, châu Hà hương, dân tộc. Quảng, tỉnh Cao Bằng) đã quyết định thành lập Mặt trận 2. Quá trình hình thành, phát triển phong trào Việt Minh. Việc Mặt trận Việt Minh được thành lập đã cách mạng (1930-1945) và tham gia giành chính quyền có ảnh hưởng lớn tới phong trào cách mạng cả nước nói năm 1945 chung và ở Hạ Lang nói riêng. Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời Vốn là nơi núi rừng hẻo lánh, giao thông đi lại khó đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về giai cấp tiên phong khăn, lại bị bọn thực dân Pháp và bè lũ tay sai ra sức bưng lãnh đạo và đường lối cách mạng; mở đầu thời kỳ cách bít thông tin, nên phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo mạng nước ta có chính Đảng cách mạng của giai cấp vô trong những năm 1930-1940 chưa tác động sâu sắc tới sản lãnh đạo, có đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo. đồng bào các dân tộc xã Bàn Lạc, Văn Khu, Bắc Vọng. 32 33
  18. Đến những năm 1942-1943, thực hiện chủ trương của Đến cuối tháng 3-1945, phong trào Việt Minh phát Tỉnh ủy và sự chỉ đạo của Liên châu miền Đông, phong triển mạnh và công khai ở các xã trong huyện, trong đó có trào Việt Minh từ nhiều hướng phát triển vào châu Hạ 3 xã Bàn Lạc, Văn Khu, Bắc Vọng (trừ xã Việt Chu, Thái Lang. Riêng ở các xã thuộc Cô Ngân (ngày nay), hướng Đức, Thị Hoa bị thổ phỉ chiếm đóng)... Tự vệ các xóm, thứ nhất từ Nà Suối (xã Hồng Đại) phát triển vào xóm bản ở ba xã lần lượt ra đời, phong trào tập tự vệ sôi nổi, Bản Rạc (xã Bắc Vọng), hướng thứ hai phát triển từ xã mỗi đội viên tự vệ sắm lấy một thứ vũ khí tham gia bảo Triệu Ẩu (Phục Hòa) đến Bản Nhôn (xã Hòa Lạc). Dưới vệ bản, làng. Đến tháng 5-1945, trước tình hình thực tiễn ngọn cờ lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, phong trào cách của phong trào cách mạng, Ban Việt Minh ba xã (thuộc xã mạng ở châu Hạ Lang nói chung, xã Cô Ngân nói riêng có Cô Ngân) được thành lập do ông Đàm Đình La1 làm chủ thêm những bước phát triển mới. nhiệm. Dưới sự lãnh đạo của Ban Việt Minh nhân dân các dân tộc trong xã đã góp lương thực, thực phẩm để nuôi Bước sang năm 1945, tình hình thế giới, trong nước cán bộ và các đội tự vệ vũ trang. có nhiều chuyển biến. Bọn phát xít liên tiếp thất bại trên nhiều mặt trận, chiến tranh thế giới thứ hai đi vào giai Sau khi thực dân Pháp rút khỏi Hạ Lang, hệ thống đoạn kết thúc. Đúng như dự đoán của Đảng, đêm ngày chính quyền của thực dân Pháp và phong kiến ở Hạ Lang 09/3/1945, Nhật làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp. Trước rơi vào tay của bọn phỉ Lương Xuân Thành (tức Sắn Sình). Nhưng thực chất bọn phỉ không nắm được chính tình hình đó, ngày 12-3-1945, Hội nghị mở rộng Ban Chấp quyền cách mạng cấp xã, trừ phố Hạ Lang, xã Việt Chu, hành Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) đã xã Thái Đức và xã Thị Hoa. Mặc dù vậy, bọn phỉ đóng ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng quân tại các đồn thường xuyên đi lùng sục, cướp bóc, đốt ta, kêu gọi toàn dân đẩy mạnh phong trào kháng Nhật phá các xã trong huyện, trong đó có Bàn Lạc, Văn Khu, cứu nước, tranh thủ thời cơ, giành chính quyền ở từng địa Bắc Vọng. phương, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Đến giữa năm 1945, tại châu Hạ Lang, lực lượng vũ trang giải phóng phối hợp với các đội du kích xã, dưới Trước tình hình thực tế ở Hạ Lang, thực hiện chủ sự lãnh đạo của Ban Việt Minh châu, liên tục bao vây và trương của Tỉnh ủy, Liên châu miền Đông đã điều động tấn công bọn phỉ đóng quân ở Hạ Lang. Liên châu miền lực lượng vũ trang của Trùng Khánh, Quảng Uyên tăng Đông đã chỉ đạo lực lượng vũ trang ba châu bao vây, đánh cường chi viện cho lực lượng cách mạng Hạ Lang tiêu diệt thổ phỉ và phản động địa phương, củng cố phong trào Việt Minh, các tổ chức vũ trang trong địa phương. 1. Lịch sử Đảng bộ huyện Hạ Lang (1930-2015), năm 2016, Tr.68 34 35
  19. phỉ từ tháng 6 đến tháng 10/1945 trên ba hướng. Riêng ở Đến tháng 11-1945, thực hiện chỉ đạo của cấp trên, 3 hướng 3 xã Bàn Lạc, Văn Khu, Bắc Vọng, lực lượng vũ xã Bàn Lạc, Văn Khu, Bắc Vọng được sáp nhập thành xã trang Phục Hòa đã phối hợp với lực lượng tự vệ của các Cô Ngân. Ngay sau khi thành lập, Ủy ban nhân dân lâm xã ngăn chặn không cho phỉ và bọn phản động Phục Hòa thời xã Cô Ngân cũng được thành lập do ông Đàm Đình vào liên hệ với Sắn Sình, cắt đứt mọi tuyến đường tiếp tế Cát (tức Chiêu Quyền) làm Chủ tịch. Sự ra đời, củng cố từ ngoài vào cho bọn phỉ ở đồn Hạ Lang. Đến ngày 29- và kiện toàn của Ủy ban nhân dân lâm thời xã đã đánh 7-1945, Ban chỉ huy đại đội giải phóng quân quyết định dấu sự thắng lợi toàn diện của phong trào cách mạng ở đánh đồn Hạ Lang. Lực lượng tham gia trận đánh gồm Cô Ngân. đại đội quân giải phóng châu Hạ Lang làm nòng cốt và đại đội du kích tập trung các xã trong đó có Bàn Lạc, Văn Cuộc đấu tranh giành chính quyền ở Cô Ngân nói Khu, Bắc Vọng. Trận đánh được bố trí thành ba cánh quân riêng huyện Hạ Lang nói chung giành thắng lợi có được là bao vây đồn Hạ Lang. Riêng cánh quân thứ ba gồm 4 đại do sự lãnh đạo kịp thời, đúng đắn của Tỉnh ủy Cao Bằng, đội cơ động các xã Bàn Lạc, Văn Khu, Bắc Vọng, Triệu Mặt trận Việt Minh châu Hạ Lang, cùng sự đóng góp Ẩu (Quảng Hòa), Vinh Quý, với sự yểm trợ của trung đội xương máu của nhân dân các dân tộc trong huyện. Bước vũ trang do đồng chí Trung Phát, Tắc Cương chỉ huy từ sang thời kỳ mới, cùng với cả nước, nhân dân Cô Ngân Hồng Đại (Quảng Hòa) sang. Sau khi chiếm đóng Ngườm từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập. Khang, cánh quân đã bao vây phía đông đồn địch. Sau Được sống trong độc lập, tự do, nhân dân rất phấn khởi và hơn 10 ngày chiến đấu ác liệt, mặc dù không chiếm được tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, bắt tay vào xây dựng đồn địch nhưng lực lượng vũ trang của ta đã gây cho địch những thiệt hại nặng nề và hoang mang. Đến đêm ngày chế độ mới, cuộc sống mới mà nhiệm vụ trọng tâm là xây 21-10-1945, quân phỉ do tên Sắn Sình cầm đầu đã rút khỏi dựng, bảo vệ và củng cố chính quyền non trẻ. đồn Hạ Lang chạy sang Trung Quốc. Sáng ngày 22-10, II. THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC lực lượng vũ trang của ta tiến vào chiếm đồn Hạ Lang, DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954) châu Hạ Lang hoàn toàn được giải phóng. 1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng Như vậy, sau nhiều năm vận động và đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc khởi nghĩa của nhân dân các dân tộc Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt xã Cô Ngân (Bàn Lạc, Văn Khu, Bắc Vọng) nói riêng, Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai toàn châu Hạ Lang nói chung đã thành công (trừ 1 số bản, sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là một sự làng ở 3 xã Quang Bí (xã Thị Hoa ngày nay), Việt Chu, kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Lần đầu tiên Thái Đức vẫn bị phỉ chiếm đóng). trong lịch sử, quyền dân tộc gắn với quyền dân sinh, dân 36 37
  20. chủ được thừa nhận. Nhân dân lao động thực sự làm chủ tăng gia sản xuất, nêu cao khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng, quê hương, đất nước thông qua chính quyền Nhà nước không một tấc đất bỏ hoang”, thực hành tiết kiệm; mặt dân chủ nhân dân. khác vận động nhân dân phát huy truyền thống “Lá lành Tuy nhiên, vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ đùm lá rách”, “Nhường cơm sẻ áo” tương trợ cứu đói. Cộng hòa đã bị chủ nghĩa đế quốc liên kết với các thế lực Chính quyền cũng thành lập các ban vận động đến từng phản động bao vây, chống phá quyết liệt. Dưới danh nghĩa nhà kêu gọi quyên góp ủng hộ, thành lập “Hũ gạo cứu quân Đồng minh vào làm nhiệm vụ giải giáp quân đội đói”, thực hiện “Ngày đồng tâm” nhịn ăn, nhường cơm Nhật, các thế lực đế quốc đã dồn dập kéo vào Việt Nam cho người thiếu đói. Vì vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, trong đó có quân đội Anh và quân đội Tưởng Giới Thạch. trên địa bàn xã đã có hàng trăm hũ gạo phục vụ công tác Ở miền Bắc, sau khi tràn qua một số tỉnh biên giới phía cứu đói. Bắc, khoảng 50.000 quân Tưởng đã vào đến Thủ đô Hà Song song với các biện pháp cụ thể để chống đói, Nội. Chúng tiến hành quấy rối làm cho tình hình an ninh, Đảng và Chính phủ còn phát động đẩy mạnh phong trào chính trị, kinh tế của nước Việt Nam non trẻ đã khó khăn tăng gia sản xuất, coi đó là giải pháp cơ bản để chống nay còn khó khăn hơn. đói. Từng nhà, từng người đều tận dụng đất vườn để gieo Ở xã Cô Ngân, do hậu quả chính sách cai trị thời chiến trồng những loại cây ngắn ngày như: ngô, khoai, sắn… tàn bạo, khốc liệt của thực dân Pháp, tại các thôn bản, nạn thực hiện triệt để khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng”. Nhân đói, nạn dốt, dịch bệnh hoành hành nghiêm trọng. Các tệ dân xã Cô Ngân phấn khởi, hăng say lao động, khai hoang nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè, mê tín dị đoan... vẫn phục hóa ruộng đồng, giúp đỡ nhau về vốn và giống sản còn phổ biến, làm ảnh hưởng nặng nề đến đời sống và hạn xuất, nhất là từ khi chính quyền cách mạng tuyên bố xóa chế việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. bỏ các loại thuế vô lý như: thuế thân, thuế chợ… Đồng Trong khi đó, chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, thời, đấu tranh bắt địa chủ nghiêm túc thực hiện giảm tô, cán bộ lãnh đạo còn thiếu kinh nghiệm trong công tác lãnh giảm tức, hoãn nợ cho dân, buộc chúng phải nhượng bộ. đạo, chỉ đạo, chưa kịp thời đáp ứng với những đòi hỏi cấp Nhờ vậy, chỉ sau mấy tháng triển khai, tính đến cuối năm bách của địa phương trong giai đoạn cách mạng mới. 1946, nhân dân cơ bản đã có lương thực để ăn, qua đó Thực hiện Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về từng bước góp phần đẩy lùi nạn đói. ba nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay là: “Diệt giặc đói, Cùng với nhiệm vụ chống giặc đói, hưởng ứng lời giặc dốt, giặc ngoại xâm”. Trong phong trào “Diệt giặc kêu gọi “diệt giặc dốt” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân đói”, chính quyền một mặt vận động nhân dân tích cực dân trong các làng đã tích cực tham gia phong trào bình 38 39
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2