BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
--------------------
Tạ Thu Huyền
GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
ĐỐI VỚI NHÀ ĐẦU TƢ TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
TP.HCM
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
Tiến sĩ Trần Thị Mộng Tuyết
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nào.
TP.HCM, ngày 12 tháng 12 năm 2011
Tác giả
Tạ Thu Huyền
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ
THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG…………………………………………………..1
1.1 Tổng quan về thị trƣờng chứng khoán……………………………………….1
1.1.1 Khái niệm thị trường chứng khoán………………………………………...1
1.1.2 Chức năng của thị trường chứng khoán…………………………………...2
1.1.3 Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán……………………….3
1.1.4 Thành phần tham gia thị trường chứng khoán…………………………….4
1.1.4.1 Nhà phát hành……………………………………………………………4
1.1.4.2 Nhà đầu tư………………………………………………………………..4
1.1.4.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán……………………5
1.1.4.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán……………..........5
1.2 Hệ thống thông tin của thị trƣờng chứng khoán…………………………….5
1.2.1 Chức năng của thông tin trên thị trường chứng khoán…………………...6
1.2.2 Vai trò của thông tin trên thị trường chứng khoán………………………..6
1.2.3 Công bố thông tin trên thị trường chứng khoán………………………….10
1.2.3.1 Thông tin về tổ chức niêm yết…………………………………………...10
1.2.3.2 Thông tin về tổ chức kinh doanh………………………………………..11
1.2.3.3 Thông tin thị trường…………………………………………………….11
1.2.3.4 Thông tin về quản lý…………………………………………………….11
1.3 Tổng quan về thông tin bất cân xứng……………………………………….11
1.3.1 Khái niệm thông tin bất cân xứng………………………………………....11
1.3.2 Các chủ thể góp phần tạo ra thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng
khoán…………………………………………………………………….....13
1.3.3 Các hình thức của thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng
khoán….........................................................................................................14
1.3.4 Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán………………………………………………………………..14
1.3.5 Nguyên nhân của sự bất cân xứng thông tin……………………………..15
1.3.5.1 Nguyên nhân chủ quan………………………………………………….15
1.3.5.2 Nguyên nhân khách quan……………………………………………….17
1.4 Một số kinh nghiệm thực tiễn từ ảnh hƣởng của thông tin bất cân xứng đến
rủi ro của nhà đầu tƣ tại các thị trƣờng chứng khoán trên thế giới………17
1.4.1 Thị trường chứng khoán Đài Loan………………………………………..17
1.4.1.1 Diễn biến………………………………………………………………..17
1.4.1.2 Những lý do chính khiến các doanh nghiệp rời khỏi sàn niêm yết……..17
1.4.1.3 Bài học kinh nghiệm…………………………………………………….18
1.4.2 Thị trường chứng khoán Nhật Bản……………………………………….18
1.4.2.1 Diễn biến………………………………………………………………..18
1.4.2.2 Bài học kinh nghiệm…………………………………………………….19
1.4.3 Những bài học kinh nghiệm rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn ở các thị
trường chứng khoán trên thế giới…………………………………………19
Kết luận chƣơng 1………………………………………………………………...20
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐỐI VỚI NHÀ
ĐẦU TƢ TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TP.HCM.……………...21
2.1 Giới thiệu về thị trƣờng chứng khoán Việt Nam……………………….......21
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển…………………………………………..21
2.1.1.1 Quá trình hình thành…………………………………………………….21
2.1.1.2 Các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam……..…22
2.1.2 Qui định về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam….30
2.1.3 Thực trạng công bố thông tin trên SGDCK TP.HCM………………….....32
2.1.3.1 Thực trạng công bố thông tin của các công ty niêm yết………………...32
2.1.3.2 Thực trạng công bố thông tin các cơ quan quản lý …………………………35
2.1.3.3 Thực trạng công bố thông tin của các công ty chứng khoán....................36
2.1.3.4 Thực trạng công bố thông tin của nhà đầu tư…………………………...37
2.2 Nghiên cứu thực nghiệm về tác động của thông tin bất cân xứng đối với nhà
đầu tƣ trên SGDCK TP.HCM….…………………………………………..38
2.2.1 Mục đích nghiên cứu………………………………………………………38
2.2.2 Đối tượng khảo sát………………………………………………………....38
2.2.3 Phạm vi khảo sát…………………………………………………………...38
2.2.4 Mẫu chọn…………………………………………………………………...38
2.2.5 Phương pháp chọn mẫu…………………………………………………...38
2.2.6 Nội dung khảo sát………………………………………………….............38
2.2.7 Đánh giá chung về thực trạng thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư cá
nhân trên SGDCK TP.HCM dựa vào kết quả khảo sát…..………………...38
2.2.7.1 Thực trạng thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư cá nhân trên
SGDCK TP.HCM thông qua khảo sát……………………………..…………39
2.2.7.2 Đánh giá kết quả khảo sát………………………………………………51
2.3 Đánh giá chung về thực trạng thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tƣ
trên SGDCK TP.HCM trong thời gian qua……………………………….52
2.3.1 Kết quả đạt được……………………………………..…………………….52
2.3.2 Hạn chế……………………………………………………………………..54
2.3.3 Nguyên nhân của tồn tại…………………………………………………...55
Kết luận chƣơng 2………………………………………………………………...56
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
ĐỐI VỚI NHÀ ĐẦU TƢ TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
TP.HCM…………………………………………………………………………...57
3.1 Cơ sở đƣa ra giải pháp………………………………………….……………57
3.2 Các giải pháp giúp giảm thiểu thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tƣ
trên SGDCK TP.HCM…………………...……………………...……………….58
3.2.1 Tăng cường hoạt động quản lý của các cơ quan chức năng……………..58
3.2.1.1 Khung pháp lý phải gấp rút hoàn thiện ……………………...…………58
3.2.1.2 Các cơ quan giám sát tăng cường kiểm tra và thực thi pháp luật, xử phạt
nghiêm minh các giao dịch nội gián và các hành vi khác gây ra thông tin bất cân
xứng………………………………………………………………………………...59
3.2.1.3 Hệ thống kế toán, kiểm toán phải được tăng cường cải thiện hơn ……..60
3.2.2 Phát triển các kênh công bố thông tin……………………………….........61
3.2.2.1 Các công ty niêm yết…………………………………………………….61
3.2.2.2 Các công ty chứng khoán…………………………………………..........63
3.2.2.3 Các tổ chức trung gian chứng khoán……………………………………64
3.2.3 Nâng cao năng lực của giới truyền thông….……………………………..65
3.2.4 Giải pháp về tiếp nhận thông tin……………………………......................65
Kết luận chƣơng 3……………………………………………………………..….67
KẾT LUẬN………………………………………………………………………...68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCTC: báo cáo tài chính
CBTT: công bố thông tin
CP: cổ phiếu
CTCP: công ty cổ phần
DN: doanh nghiệp
DNNN: doanh nghiệp nhà nước
HASTC: Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
HCM: Hồ Chí Minh
HĐQT: Hội đồng quản trị
HNX: Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
HOSE: Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
NHTM: Ngân hàng thương mại
OTC: thị trường phi tập trung
SGDCK: Sở giao dịch chứng khoán
TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
TTBCX: thông tin bất cân xứng
TTCK: thị trường chứng khoán
TTGDCK: trung tâm giao dịch chứng khoán
UBCKNN: Ủy ban chứng khoán Nhà nước
Upcom: thị trường giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Bảng 2.1: Qui mô của TTCK Việt Nam từ năm 2000 đến 2005
Bảng 2.2: Quy mô niêm yết cổ phiếu đến hết 31/12/2006
Bảng 2.3: Quy mô niêm yết cổ phiếu đến hết 31/12/2007
Bảng 2.4: Quy mô niêm yết cổ phiếu cuối năm 2008 và 2009
Bảng 2.5: Quy mô thị trường đến hết ngày 31/10/2010
Bảng 2.6: Quy mô thị trường đến hết ngày 07/06/2011
Bảng 2.7: Giới tính của nhà đầu tư
Bảng 2.8: Độ tuổi của nhà đầu tư
Bảng 2.9: Thời gian các nhà đầu tư tham gia TTCK Việt Nam
Bảng 2.10: Sàn chứng khoán
Bảng 2.11: Tổng số tiền đầu tư
Bảng 2.12: Tương quan giữa độ tuổi và tổng số tiền đầu tư
Bảng 2.13: Loại hình đầu tư
Bảng 2.14: Số mã cổ phiếu của nhà đầu tư
Bảng 2.15: Tần suất cập nhật thông tin của nhà đầu tư
Bảng 2.16: Phương tiện cập nhật thông tin chứng khoán
Bảng 2.17: Thông tin theo dõi nhiều nhất
Bảng 2.18: Hiệu quả đầu tư
Bảng 2.19: Nguyên nhân khiến TTCK biến động
Bảng 2.20: Số lượng DN công bố thông tin minh bạch
Bảng 2.21: Thông tin không kịp thời
Bảng 2.22: Thông tin không chính xác
Bảng 2.23: Thiếu thông tin
Bảng 2.24: TTCK Việt Nam có thông tin bất cân xứng
Bảng 2.25: TTBCX làm ảnh hưởng kết quả đầu tư
Bảng 2.26: Hiệu quả đầu tư tốt hơn nếu không còn TTBCX
Bảng 2.27: Thị trường chưa hiệu quả
Bảng 2.28: Giám sát chưa chặt chẽ
Bảng 2.29: Xử lý chưa nghiêm minh
Hình 2.1: Biểu đồ hiển thị diễn biến của Vnindex trong giai đoạn 2006 – 2007
Hình 2.2: Biểu đồ hiển thị diễn biến của Vnindex từ năm 2010 đến nay
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, thị trường vốn là một bộ phận quan trọng không thể
thiếu đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Một trong những kênh huy động
vốn đóng vai trò chủ chốt hiện nay là thị trường chứng khoán.
Suốt hơn 10 năm qua, thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung, cũng như
SGDCK TP.HCM nói riêng, đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, do
còn quá non trẻ, SGDCK TP.HCM không thể tránh khỏi những hạn chế về mặt luật
pháp, cơ cấu hoạt động cũng như các biện pháp quản lý. Một trong những tồn tại
không thể không nhắc đến là tình trạng thông tin bất cân xứng. Thông tin bất cân
xứng có thể xuất hiện ở rất nhiều lĩnh vực, nhưng đối với thị trường chứng khoán,
tình trạng thông tin bất cân xứng gây ra nhiều thiệt hại nặng nề đối với niềm tin và
tài chính, tạo nên sự bất công xã hội khi một số cá nhân hoặc tổ chức được hưởng
lợi từ sự thua lỗ của những cá nhân hoặc tổ chức khác. Đây được xem là một vấn
nạn gây nhức nhối cho các nhà đầu tư nói riêng cũng như toàn thể xã hội nói chung.
Chính vì thế, mà hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải chuẩn bị một cách kỹ càng
cả về kiến thức cơ bản, thực trạng và các giải pháp cần thiết để hạn chế tình trạng
thông tin bất cân xứng trên SGDCK TP.HCM hiện nay, với mục tiêu đưa thị trường
chứng khoán trở thành một kênh huy động vốn thực sự hiệu quả trong sự nghiệp
phát triển kinh tế đất nước.
Trên cơ sở đó, tôi hy vọng đề tài luận văn “Giải pháp giảm thiểu thông tin bất
cân xứng đối với nhà đầu tư trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM” có thể mang
lại những đóng góp cho sự phát triển của thị trường chứng khoán nước ta.
Mục tiêu nghiên cứu
Tình trạng thông tin bất cân xứng là một hiện tượng phổ biến không chỉ trên
SGDCK TP.HCM mà còn xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác trên toàn thế giới.
Không chỉ mang lại kết quả thua lỗ cho các nhà đầu tư, đôi khi thông tin bất cân
xứng còn gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng cho thị trường chứng khoán
nói riêng cũng như cả nền kinh tế nói chung. Để tập trung giải quyết vấn đề này, bài
viết đề ra ba mục tiêu chính là:
(1) Cung cấp những hiểu biết đúng đắn về thông tin bất cân xứng trên thị
trường chứng khoán.
(2) Tìm hiểu những thực trạng hiện nay của thông tin bất cân xứng trên
SGDCK TP.HCM và những đánh giá của nhà đầu tư cá nhân về vấn đề thông tin bất
cân xứng.
(3) Gợi ý các giải pháp nhằm góp phần giảm thiểu tình trạng thông tin bất
cân xứng đối với nhà đầu tư trên SGDCK TP.HCM.
Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng được tập trung nghiên cứu là thông tin bất cân xứng, cụ thể là
thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư trên SGDCK TP.HCM.
Phạm vi nghiên cứu
Nhằm giới hạn phạm vi nghiên cứu theo như mục tiêu đã đề ra, bài viết tập
trung xem xét, phân tích các yếu tố nằm trong phạm vi sau:
Thị trường chứng khoán được nghiên cứu là thị trường chứng khoán Việt
Nam, cụ thể gồm hai sàn chứng khoán: SGDCK TP. HCM và SGDCK Hà Nội. Tuy
nhiên, để tránh dàn trải, đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu về SGDCK TP.HCM.
Khảo sát thực tế được thực hiện tại TP.HCM, dựa trên kết quả khảo sát của
100 nhà đầu tư cá nhân, trong thời gian từ ngày 30/06/2011 đến ngày 08/08/2011.
Thời gian nghiên cứu được chọn từ khi thị trường chứng khoán nước ta thành
lập cho đến ngày 25/10/2011.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp biện chứng duy vật, phương
pháp tổng hợp, thống kê, phương pháp phân tích, đánh giá, đối chiếu, phương pháp
nghiên cứu định lượng, định tính…
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Vấn đề thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán nước ta đã được
đề cập đến nhiều lần. Tuy nhiên, hiện tượng này vẫn không suy giảm mà ngày càng
mang lại nhiều bất lợi cho nhà đầu tư, khiến thị trường hoạt động không hiệu quả.
Đề tài dựa trên thực tế thị trường chứng khoán hiện nay kết hợp với khảo sát thực
nghiệm nhằm đưa ra các giải pháp khả thi để góp phần giảm thiểu tình trạng thông
tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư trên SGDCK TP.HCM.
Những điểm nổi bật của luận văn
Làm rõ thực trạng thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư trên SGDCK
TP.HCM trong thời gian qua.
Phân tích các nguyên nhân tồn tại của tình trạng thông tin bất cân xứng đối
với nhà đầu tư.
Đề xuất những giải pháp khả thi, thiết thực để giảm thiểu thông tin bất cân
xứng đối với nhà đầu tư trên SGDCK TP.HCM trong thời gian tới.
Kết cấu của luận văn
Nhìn chung, vấn đề thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư trên SGDCK
TP.HCM vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của các nhà chức trách, các
doanh nghiệp và nhà đầu tư trong thời gian qua. Do vậy, để đáp ứng cả nhu cầu về
lý luận và thực tiễn, đề tài của tôi được trình bày gồm 3 phần như sau:
Chương 1: Lý luận chung về thông tin bất cân xứng và thị trường chứng
khoán.
Chương 2: Thực trạng thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư trên sở giao
dịch chứng khoán TP.HCM.
Chương 3: Giải pháp giảm thiểu thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư trên
sở giao dịch chứng khoán TP.HCM.
Hạn chế của đề tài
Mặc dù đã cố gắng đáp ứng các yêu cầu thực tiễn, song do các trở ngại khách
quan và trình độ kiến thức, kinh nghiệm còn giới hạn trước vấn đề mới nên luận văn
khó tránh khỏi những hạn chế. Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp chân
tình của Quý thầy cô và các bạn.
1
CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ
THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
1.1 Tổng quan về thị trƣờng chứng khoán
Trước khi nghiên cứu các rủi ro của thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu
tư khi tham gia thị trường chứng khoán (TTCK), chúng ta hãy cùng tìm hiểu sơ
lược về TTCK nói chung cũng như TTCK Việt Nam nói riêng.
1.1.1 Khái niệm thị trường chứng khoán
Theo Lê Văn Tề và cộng sự (2005, 139), TTCK là nơi giao dịch chứng
khoán. Nghĩa là ở đâu có giao dịch mua bán chứng khoán thì đó là hoạt động của
TTCK. Tuy nhiên, đó có thể là TTCK có tổ chức hoặc không có tổ chức, tập trung
hay không tập trung.
Theo Investopedia, TTCK là nơi các chứng khoán được phát hành và giao
dịch thông qua sàn chứng khoán hoặc thị trường phi tập trung (hay còn gọi là OTC).
TTCK là một trong những khu vực lớn nhất của nền kinh tế thị trường bởi nó giúp
các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn, các nhà đầu tư có được quyền sở hữu
công ty và có khả năng kiếm được lợi nhuận dựa trên họat động tương lai của công
ty.
Đặc điểm chủ yếu của TTCK:
Được đặc trưng bởi hình thức tài chính trực tiếp, người cần vốn và người
cung cấp vốn đều trực tiếp tham gia thị trường, giữa họ không có trung gian tài
chính.
Là thị trường gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Mọi người đều tự do
tham gia vào thị trường. Không có sự áp đặt giá cả trên TTCK, mà giá cả ở đây
được hình thành dựa trên quan hệ cung – cầu.
2
Về cơ bản là một thị trường liên tục, sau khi các chứng khoán được phát
hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường
thứ cấp. TTCK đảm bảo cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của họ
thành tiền mặt bất cứ lúc nào họ muốn.
1.1.2 Chức năng của thị trường chứng khoán
Chức năng đầu tiên của TTCK là huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Vai
trò quan trọng đầu tiên của TTCK là thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân
để hình thành các nguồn vốn khổng lồ có khả năng tài trợ cho các dự án đầu tư dài
hạn phát triển kinh tế cũng như tài trợ tăng vốn mở rộng sản xuất kinh doanh.
TTCK là công cụ huy động vốn hết sức hữu hiệu không những trong nước mà cả
nước ngoài. Đối với nước ta, các nguồn vốn lớn còn tiềm tàng trong nhân dân chưa
được đưa vào sản xuất kinh doanh, thì việc cần có một TTCK song hành với sự ra
đời của các công ty cổ phần là một chiến lược kinh tế trước mắt cũng như lâu dài.
Kế đến là, TTCK cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng. TTCK tạo ra
cơ hội thuận tiện khuyến khích mọi người dân tiết kiệm và biết cách sử dụng tiền
tiết kiệm một cách tích cực mang lại hiệu quả qua việc đầu tư vào các loại chứng
khoán. Khả năng sinh lời của các loại chứng khoán gây ra ý muốn tiết kiệm để đưa
tiền vào đầu tư. Mỗi người trong xã hội chỉ có một số tiền tiết kiệm bé nhỏ, nhưng
tổng số tiền tiết kiệm của cả xã hội sẽ to lớn hơn bất cứ tài sản của cá nhân nào. Mặt
khác, trong xã hội cũng tồn tại các quỹ tiền tệ tập trung: ngân hàng đầu tư, ngân
hàng thương mại, quỹ bảo hiểm…đều có mục đích khuyến khích tiết kiệm, nhưng
các quỹ tiền tệ này cũng chỉ phát huy hết tác dụng của nó khi có một TTCK tồn tại
song hành với nó.
Bên cạnh đó, TTCK vận hành tạo nên tính thanh khoản cho các chứng
khoán. Vai trò của TTCK bảo đảm cho việc nhanh chóng chuyển thành tiền mặt của
các chứng khoán có giá. Đây chính là yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư
3
đến với TTCK, với một TTCK hoạt động càng hữu hiệu thì tính thanh khoản càng
cao.
Ngoài ra, TTCK giúp đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình của nền kinh
tế. Những thông tin doanh nghiệp (DN) cung cấp cho các nhà đầu tư trên TTCK qua
các bảng phân tích đánh giá năng lực sản xuất của DN, triển vọng của DN trên thị
trường, khả năng sinh lợi của hoạt động sản xuất kinh doanh, xu thế phát triển của
DN trong thời kỳ tương lai từ 3 đến 5 năm đã phần nào lượng giá được tích sản của
DN một cách khách quan và khoa học. Mặt khác, với tính chất đặc biệt nhạy bén
của TTCK, sự lên xuống của giá cả chứng khoán trên thị trường cũng nói lên sự
biến động của giá trị DN tại bất kỳ thời điểm nào.
Chức năng cuối cùng của TTCK là tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện
chính sách kinh tế vĩ mô. TTCK còn làm giảm áp lực lạm phát, Ngân hàng Trung
ương với vai trò điều hành hệ thống tiền tệ sẽ tung ra nhiều trái phiếu kho bạc bán
trên TTCK với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền lưu hành, nhờ đó số tiền sẽ giảm
bớt và áp lực lạm phát cũng giảm đi.
1.1.3 Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
TTCK hoạt động theo nguyên tắc công khai. Tất cả các hoạt động trên TTCK
đều phải đảm bảo tính công khai. Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) công bố các
thông tin về giao dịch chứng khoán trên thị truờng. Các tổ chức niêm yết công bố
công khai các thông tin tài chính định kỳ hàng năm của công ty, các sự kiện bất
thuờng xảy ra đối với công ty, nắm giữ cổ phiếu của giám đốc, nguời quản lý, cổ
đông đa số. Các thông tin càng đuợc công bố công khai minh bạch, thì càng thu hút
đuợc nhà đầu tư tham gia vào TTCK.
Bên cạnh đó, TTCK cũng tuân thủ theo nguyên tắc trung gian. Mọi hoạt
động giao dịch, mua bán trên TTCK đều đuợc thực hiện thông qua các trung gian,
hay còn gọi là các nhà môi giới. Các nhà môi giới thực hiện giao dịch theo lệnh của
khách hàng và hưởng hoa hồng. Ngoài ra, nhà môi giới còn có thể cung cấp các
4
dịch vụ khác như cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng trong việc đầu tư.
Theo nguyên tắc trung gian, các nhà đầu tư không thể trực tiếp thoả thuận với nhau
để mua bán chứng khoán. Họ đều phải thông qua các nhà môi giới của mình để đặt
lệnh. Các nhà môi giới sẽ nhập lệnh vào hệ thống để khớp lệnh.
Ngoài ra, TTCK còn vận hành dựa trên nguyên tắc đấu giá. Giá chứng khoán
đuợc xác định thông qua việc đấu giá giữa các lệnh mua và các lệnh bán. Tất cả các
thành viên tham gia thị truờng đều không thể can thiệp vào việc xác định giá này.
Các nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán đuợc hình
thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch.
1.1.4 Thành phần tham gia thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK có thể được chia thành các nhóm
sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
1.1.4.1 Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Nhà
phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của TTCK. Bao gồm: (i)
Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và
trái phiếu địa phương; (ii) Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công
ty; (iii) Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái
phiếu, chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ.
1.1.4.2 Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK.
Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: (i) nhà đầu tư cá nhân là những người có
vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích kiếm lời; (ii) nhà
đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán với số
lượng lớn trên thị trường.
1.1.4.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
5
Các tổ chức kinh doanh trên TTCK bao gồm: (i) Công ty chứng khoán: là
những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc
nhiều trong số các nhiệm vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát
hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh; (ii) Quỹ đầu tư chứng khoán: là nơi
được các nhà đầu tư tin tưởng và đưa các khoản tiền của họ vào nhằm có được yếu
tố đầu tư đa dạng và điều kiện quản lý chuyên nghiệp; (iii) Các trung gian tài chính:
là các tổ chức có hoạt động kinh doanh chủ yếu là cung cấp các sản phẩm, dịch vụ
tài chính cho khách hàng, có chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần vốn,
các trung gian tài chính có thể là các ngân hàng, các hiệp hội cho vay, các liên hiệp
tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính.
1.1.4.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
Bên cạnh đó, còn có sự góp mặt của các tổ chức có liên quan đến TTCK như:
(i) Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN): là cơ quan thuộc Chính phủ thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với TTCK ở Việt Nam; (ii) Sở giao dịch
chứng khoán (SGDCK): là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành
những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên cơ sở phù
hợp với các quy định của luật pháp và Ủy ban Chứng khoán; (iii) Công ty dịch vụ
máy tính chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch chứng khoán; (iv)
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng
lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã
cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể.
1.2 Hệ thống thông tin của thị trƣờng chứng khoán
Hệ thống thông tin của TTCK là những chỉ tiêu, tư liệu phản ánh bức tranh
của TTCK và tình hình kinh tế, chính trị, xã hội liên quan tại những thời điểm hoặc
thời kỳ khác nhau.
1.2.1 Chức năng của thông tin trên thị trường chứng khoán
6
Hệ thống thông tin rất cần thiết cho mọi đối tượng tham gia thị trường. Đối
với nhà đầu tư, thông tin là điều kiện cần để thành công trong đầu tư chứng khoán.
Đối với người kinh doanh, thông tin là cơ sở để xây dựng kế hoạch kinh doanh, kế
hoạch phát triển công ty. Đối với các cơ quan quản lý, thông tin là cơ sở để điều
hành và quản lý, đảm bảo thị trường công bằng, công khai và hiệu quả, và là cơ sở
để hoàn thiện quy trình, quy chế.
1.2.2 Vai trò của thông tin trên thị trường chứng khoán
Một là, nguồn thông tin trên TTCK là cơ sở cho quản lý nhà nước về chứng
khoán và TTCK, nhìn nhận những phản ứng của thị trường với cơ chế, chính sách,
pháp luật hiện hành về chứng khoán và TTCK.
Hai là, nguồn thông tin trên TTCK là căn cứ quan trọng để nhà nước đánh
giá tính hợp pháp hay không hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường, đồng
thời cũng là cơ sở để nhà nước ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về chứng
khoán và TTCK.
Ngoài ra, thông tin là yếu tố quan trọng làm nên một TTCK hiệu quả. Trong
đó, thông tin có vai trò quyết định đến giá chứng khoán trên thị trường. Thị trường
có thông tin minh bạch và đầy đủ sẽ hình thành nên giá chứng khoán hợp lý và tạo
được niềm tin của công chúng vào TTCK.
Sau đây ta sẽ xem xét vai trò của thông tin trong một thị trường vốn hiệu
quả:
Một thị trường vốn hiệu quả là nơi mà giá chứng khoán điều chỉnh nhanh
chóng mỗi khi xuất hiện thông tin mới và do đó, mức giá hiện tại của một chứng
khoán bất kỳ là kết quả phản ánh mọi thông tin liên quan đến nó. Nói một cách
chính xác thì đây chính là thị trường hiệu quả về mặt thông tin.
Các giả thuyết về thị trường vốn hiệu quả:
7
- Giả thuyết tiền đề, và cũng rất quan trọng, của một thị trường hiệu quả rằng
nó đòi hỏi một số lượng lớn các đối thủ cạnh tranh tham gia thị trường với mục tiêu
tối đa hoá lợi nhuận, họ tiến hành phân tích và định giá các loại chứng khoán một
cách hoàn toàn độc lập với nhau.
- Giả thuyết thứ hai là những thông tin mới về chứng khoán được công bố
trên thị trường một cách ngẫu nhiên và tự động, và việc quyết định về thời điểm
công bố thông tin cũng độc lập lẫn nhau.
-Giả thuyết thứ ba, đặc biệt quan trọng, là các nhà đầu tư luôn tìm mọi cách
điều chỉnh giá chứng khoán thật nhanh nhằm phản ánh chính xác ảnh hưởng của
thông tin. Mặc dù sự điều chỉnh của giá có thể là không hoàn hảo, tuy nhiên nó
không hề ưu tiên cho một mặt nào. Có khi sự điều chỉnh là quá mức, cũng có khi là
dưới mức cần thiết, nhưng ta không thể dự đoán được điều gì sẽ xảy ra ở mỗi thời
điểm xác định. Giá chứng khoán được điều chỉnh một cách nhanh chóng là bởi số
lượng lớn các nhà đầu tư với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cạnh tranh với nhau.
Hiệu quả kết hợp từ các giả thuyết này mang ý nghĩa mọi người đều hy vọng
giá sẽ thay đổi một cách ngẫu nhiên và độc lập. Quá trình điều chỉnh này đòi hỏi
một số lượng lớn các nhà đầu tư hướng theo những chuyển dịch của chứng khoán,
phân tích tác động của các thông tin mới đối với giá trị của nó và tiến hành mua vào
hoặc bán ra cho tới khi giá chứng khoán được điều chỉnh sao cho nó phản ánh chính
xác các thông tin. Điều này có ý nghĩa rằng, thị trường thông tin hiệu quả yêu cầu
phải có một số lượng tối thiểu các nhà đầu tư cạnh tranh thực hiện phân tích thông
tin rồi tiến hành giao dịch và một lượng lớn các nhà đầu tư cạnh tranh đặt lệnh mua
bán nhiều hơn có thể tạo ra những biến chuyển nhanh hơn về giá, tạo nên một thị
trường hiệu quả hơn.
Cuối cùng, bởi tất cả các thông tin sẽ điều chỉnh giá chứng khoán, do đó
những mức giá này sẽ phản ánh tất cả các thông tin được công bố công khai tại bất
kỳ thời điểm nào. Vì vậy, giá chứng khoán nào mà bất biến tại mọi thời điểm có thể
8
là do kết quả phản ánh sai thông tin và có thể mang lại rủi ro với người sở hữu
chứng khoán đó. Vì lẽ này, trong một thị trường hiệu quả, thu nhập kỳ vọng ẩn
trong mức giá hiện tại của chứng khoán cũng sẽ phản ánh rủi ro của nó.
Lý thuyết thị trường hiệu quả được trình bày thành ba giả thuyết thành phần
với các dấu hiệu tương ứng.
Giả thuyết thị trƣờng thể yếu:
Giả thuyết thị trường kém hiệu quả giả định rằng giá chứng khoán hiện tại là
sự phản ánh đầy đủ mọi thông tin của TTCK, bao gồm các chuyển dịch liên tục của
giá, tỷ suất thu nhập, khối lượng giao dịch và các thông tin chung khác như: mua
bán lô lẻ, giao dịch lô lớn và các thương vụ của các chuyên gia ngoại hối hay của
các nhóm độc quyền khác. Với giả định rằng mức giá thị trường hiện tại này đã
phản ánh tất cả các thu nhập trong quá khứ và mọi thông tin trên thị trường nên giả
thuyết này có nghĩa là tỷ suất thu nhập trong quá khứ cũng như các thông tin khác
không có mối liên hệ với tỷ suất thu nhập trong tương lai (các tỷ suất thu nhập độc
lập với nhau). Bởi vậy, nhà đầu tư có thể thu được thêm thu nhập khi ra quyết định
mua hoặc bán chứng khoán dựa trên các thông tin về tỷ suất thu nhập hay các thông
tin khác của thị trường trong quá khứ.
Giả thuyết thị trƣờng thể trung bình:
Giả thuyết thị trường bán hiệu quả (hiệu quả trung bình) cho rằng giá chứng
khoán sẽ điều chỉnh nhanh chóng trước bất kỳ thông tin công khai nào, tức là, mức
giá hiện tại phản ánh đầy đủ mọi thông tin công khai. Giả thuyết bán hiệu quả bao
trùm lên giả thuyết kém hiệu quả vì tất cả các thông tin trên thị trường đều phải
được xem xét công khai dựa trên giả thuyết kém hiệu quả như là giá cổ phiếu, tỷ
suất thu nhập, và khối lượng giao dịch. Thông tin công khai cũng bao gồm tất cả
các thông tin phi thị trường như: các thông báo về thu nhập và cổ tức, hệ số giá trên
thu nhập P/E, tỷ lệ cổ tức trên thị giá D/P, tỷ lệ thư giá/ thị giá, chia cổ phần, các
9
thông tin về kinh tế cũng như chính trị. Giả thuyết này có ý nghĩa rằng các nhà đầu
tư khi ra quyết định dựa trên các thông tin mới sau khi nó được công bố sẽ không
thu được lợi nhuận cao hơn mức trung bình bởi mức giá chứng khoán này đã phản
ánh mọi thông tin công khai đó.
Giả thuyết thị trƣờng thể mạnh:
Giả thuyết thị trường hiệu quả thực nói rằng giá chứng khoán là sự phản ánh
tất cả các thông tin từ công khai đến nội bộ. Nghĩa là sẽ không có một nhóm đầu tư
nào độc quyền tiếp cận được các thông tin liên quan đến việc định giá. Do đó, sẽ
không ai thu được lợi nhuận vượt mức. Giả thuyết thị trường hiệu quả thực là sự
tổng hợp của cả giả thuyết kém hiệu quả và giả thuyết bán hiệu quả. Hơn thế, giả
thuyết thị trường hiệu quả đưa ra giả định về thị trường hiệu quả, trong đó giá
chứng khoán lên xuống mạnh theo các thông báo công khai, để nêu lên giả thiết về
thị trường hoàn hảo khi tất cả các thông tin đều miễn phí và sẵn có đối với mọi
người ở cùng một thời điểm.
Như vậy, thông tin là yếu tố quan trọng làm nên một TTCK hiệu quả. Trong
đó, thông tin có vai trò quyết định đến giá chứng khoán trên thị trường. Thị trường
có thông tin minh bạch và đầy đủ sẽ hình thành nên giá chứng khoán hợp lý và tạo
được niềm tin của công chúng vào TTCK.
1.2.3 Công bố thông tin trên thị trường chứng khoán
1.2.3.1 Thông tin về tổ chức niêm yết
Các tổ chức niêm yết cần công bố các thông tin như:
Bản cáo hạch: là tài liệu hoặc dữ liệu điện tử công khai những thông tin
chính xác, trung thực, khách quan liên quan đến việc chào bán hoặc niêm yết chứng
khoán của tổ chức phát hành. Đối với công ty đã phát hành và xin đăng ký niêm yết
sau đó thì cũng phải chuẩn bị tài liệu giới thiệu tóm tắt về công ty, như báo cáo kết
10
quả sản xuất kinh doanh trong hai năm gần nhất; báo cáo tổng kết tài sản; báo cáo
thu nhập và thu chi tiền mặt; ban giám đốc, hội đồng quản trị và có chi tiết từng
người; các cổ đông lớn của công ty…
Thông tin định kỳ: Công ty niêm yết buộc phải công bố công khai các thông
tin định kỳ theo quý, nửa năm và năm bao gồm: bảng tổng kết tài sản; báo cáo thu
nhập; báo cáo lưu chuyển tiền tệ; thuyết minh báo cáo tài chính
Hiện nay báo cáo thu nhập tháng của công ty niêm yết cũng phải công bố
công khai.
Thông tin đột xuất: Mỗi khi xuất hiện thông tin đột xuất và nếu công bố ra sẽ
ảnh hưởng đến giá chứng khoán của công ty đó thì công ty niêm yết phải công bố
ngay lập tức trong vòng 24 tiếng. Ví dụ: ký được hợp đồng lớn, tài sản của công ty
bị phong tỏa…
Thông tin theo yêu cầu: Đây là các thông tin mà các đơn vị quản lý chức
năng có thẩm quyền yêu cầu cung cấp như: UBCKNN, SGDCK, cơ quan thống kê,
cơ quan công an, pháp lý… Thông thường các thông tin này không công bố công
khai.
1.2.3.2 Thông tin về tổ chức kinh doanh
Ngoài các loại thông tin trong bảng quyết toán quý, nửa năm, năm, đơn vị
kinh doanh chứng khoán như công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán cần có
báo cáo về: số tài khoản được mở, số dư chứng khoán và tiền mặt, tình hình giao
dịch của các tài khoản, các giao dịch lô lớn, tình hình mua bán ký quỹ chứng
khoán… Nếu do nhu cầu quản lý thì cơ quan quản lý như SGDCK, UBCKNN có
thể yêu cầu các đơn vị này có báo cáo chi tiết hơn ở một số ngày giao dịch, hoặc
tình hình giao dịch, số dư tài khoản chứng khoán của một số khách hàng.
1.2.3.3 Thông tin thị trường
11
Thông tin thị trường bao gồm thông tin về các loại chứng khoán, thông tin về
giao dịch chứng khoán, về quản lý giao dịch và quy chế, nguyên tắc giao dịch
chứng khoán. Thông tin này thường xuyên thay đổi và cập nhật trên các website
hoặc các tờ thông tin chứng khoán.
1.2.3.4 Thông tin về quản lý
Thông tin về quản lý chủ yếu bao gồm thông tin về cơ quan quản lý, cơ cấu
tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và phối hợp công tác. Ở Việt Nam, chủ yếu giới thiệu
về UBCKNN, SGDCK và các văn bản pháp quy. Các thông tin này được công bố
rộng rãi bằng văn bản hoặc dưới dạng bài viết trên các website, báo chí, phát thanh,
truyền hình…
1.3 Tổng quan về thông tin bất cân xứng
1.3.1 Khái niệm thông tin bất cân xứng
Trong kinh tế học nói chung, tình trạng thông tin bất cân xứng (TTBCX)
phát sinh khi trong một giao dịch, một trong các bên tham gia có nhiều thông tin
hơn hoặc có thông tin tốt hơn các bên còn lại.
Mô hình TTBCX trong kinh tế học giả định rằng có ít nhất một bên tham gia
giao dịch phải có thông tin ở mức độ tốt hơn các bên còn lại. Hoặc cũng có thể là
trường hợp một bên tham gia có khả năng áp đặt, tác động hoặc phản ứng lại một
hay một số điều khoản bị phá vỡ trong thỏa thuận mà các bên còn lại không có năng
lực đó.
TTBCX là nguồn gốc hình thành hai vấn đề "Rủi ro đạo đức" và "Lựa chọn
đối nghịch".
Rủi ro đạo đức, xét trên góc độ kinh tế học, là khái niệm phản ánh khả năng
việc tái phân bổ rủi ro (chẳng hạn như trong hợp đồng bảo hiểm - rủi ro được
12
chuyển từ người được bảo hiểm sang người nhận bảo hiểm - công ty bảo hiểm) sẽ
làm thay đổi hành vi của người tham gia hoặc có liên quan. Chẳng hạn khi một
người sở hữu xe hơi và mua bảo hiểm cho xe của mình khi bị trộm thì bản thân
người đó sẽ giảm đi ý thức khóa xe so với khi họ chưa mua bảo hiểm.
Vấn đề này liên quan đến cơ chế TTBCX ở điểm có một bên không thể hoặc
có rất ít khả năng giám sát, thu nhận những thông tin có tính chất quyết định tới
giao dịch. Ở ví dụ về bảo hiểm, hiện tượng này thể hiện qua khả năng hạn chế trong
việc giám sát và thu nhận thông tin của công ty bảo hiểm về hành vi và hoạt động
của người được bảo hiểm.
Với rủi ro lựa chọn đối nghịch, có một phía thiếu thông tin và kiến thức phục
vụ cho quá trình đàm phán thỏa thuận chung hay hợp đồng giao dịch. Nó khác với
rủi ro đạo đức ở chỗ rủi ro lựa chọn đối nghịch phát sinh khi đàm phán để đạt được
thỏa thuận công bằng, còn rủi ro đạo đức phát sinh khi một bên không đảm bảo thực
hiện thỏa thuận từ trước hoặc có năng lực tác động, điều chỉnh hoặc phản ứng với
một hoặc một số điều khoản bị sai lệch khỏi thỏa thuận ban đầu trong khi các bên
còn lại không thể làm được.
Rủi ro lựa chọn đối nghịch phát sinh khi có tình trạng TTBCX giữa các bên
khi bắt đầu tham gia vào một giao dịch. Lấy ví dụ thị trường điện thoại di động cũ.
Có những điện thoại cũ chất lượng tốt và dĩ nhiên có những điện thoại cũ chất
lượng kém. Vấn đề ở chỗ người mua không thể biết trước khi vào cửa hàng mua
một chiếc điện thoại cũ thì cái nào là tốt và cái nào là không tốt. Điều này làm cho
người mua buộc phải giả định một mức chất lượng trung bình, từ đó tự đưa ra một
mức giá trung bình mà họ chấp nhận mua. Việc này dẫn đến một kết quả khác là
trong quá trình giao dịch, những chiếc điện thoại cũ dù còn rất tốt cũng không thể
được bán với đúng giá cao thích hợp, còn những chiếc rất kém lại có thể được bán
với mức giá cao hơn giá trị thực của nó.
13
1.3.2 Các chủ thể góp phần tạo ra thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng
khoán
Trên TTCK nói chung, các chủ thể góp phần tạo ra TTBCX gồm có: (i)
Công ty niêm yết: các công ty này thuờng che giấu sự thật trong các tài liệu công bố
thông tin ra công chúng, cung cấp thông tin không đầy đủ, kịp thời, đúng định kỳ và
đúng quy định của pháp luật, báo cáo sai sự thật, công bố các thông tin trái ngược
nhau hoặc phủ nhận các thông tin đã được công bố trước đó, sử dụng thông tin nội
bộ để thực hiện các hoạt động trái pháp luật; (ii) Công ty chứng khoán, công ty quản
lý quỹ đầu tư, tổ chức lưu ký chứng khoán cố ý không báo cáo hoặc báo cáo không
kịp thời khi xảy ra các sự kiện bất thường có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
khả năng tài chính và hoạt động kinh doanh của chính họ; (iii) Các cơ quan quản lý
như UBCKNN, SGDCK quản lý còn lỏng lẻo, hình phạt chưa thích đáng.
1.3.3 Các hình thức của thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán
TTBCX là một hiện tượng rất phổ biến trong nền kinh tế nói chung cũng như
TTCK nói riêng. TTBCX có thể diễn ra với nhiều dạng:
Các nguồn của thông tin bất cân xứng: Trong TTCK, các nguồn TTBCX tồn
tại trong hai trường hợp. Thứ nhất, đây là nơi mà những công ty niêm yết luôn có
thông tin tốt hơn các nhà đầu tư về tình hình kinh doanh của DN mình. Thứ hai,
công ty niêm yết là người phát hành ra cổ phiếu của chính họ, và điều này chắc
chắn sẽ ảnh hưởng đến lợi ích kinh doanh và chi phí giao dịch của họ.
Sự bất cân xứng về thời gian nhận thông tin: Nhà đầu tư có được thông tin
sớm hơn có thể đưa ra các quyết định đầu tư chính xác và chủ động hơn, những nhà
đầu tư có được thông tin muộn hơn đương nhiên sẽ rơi vào thế bị động và thường
dẫn đến thua lỗ.
Không đối xứng về số lượng thông tin: những nhà đầu tư có được số lượng
thông tin khác nhau sẽ dẫn đến các quyết định đầu tư khác nhau, lời lỗ cũng khác
14
nhau, đương nhiên người có được lượng thông tin nhiều hơn sẽ chiếm ưu thế trên
thị trường.
Bất cân xứng về chất lượng của thông tin: do tính xác thực của thông tin
khác nhau, nhà đầu tư có những thông tin sai lệch sẽ gặp nhiều bất lợi hơn nhà đầu
tư có những thông tin chính xác.
Thông tin nhầm lẫn: Một giá trị được quan sát bởi hai thông tin hòa trộn với
nhau thường không xác định được thành phần của thông tin một các gián tiếp, tạo
nên sự nhầm lẫn thông tin, gây khó khăn khi đưa ra các quyết định đầu tư. Ví dụ:
thu nhập trên mỗi cổ phiếu là một giá trị có thể quan sát được, nhưng nó có thể là số
liệu thời kỳ hoặc thời điểm.
1.3.4 Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán
Trước hết phải xét đến các tác động mà TTBCX mang đến cho những nhà
đầu tư trên thị trường. Chính các nhà đầu tư là những người sử dụng thông tin để
đưa ra quyết định đầu tư của mình nên khi có một sự bất cân xứng thông tin nào xảy
ra trên thị trường thì họ là người gánh chịu hậu quả nhiều nhất. Thông tin bất cân
xứng là nguyên nhân gốc rễ gây ra sự sai lệch giá cả trên TTCK, trái với nguyên tắc
công khai, minh bạch, làm giảm hiệu quả và dẫn đến thất bại thị trường. Thông tin
được công bố một cách không đầy đủ và kịp thời, sự thiếu minh bạch trong thị
trường tài chính làm cho nhà đầu tư không thể nắm bắt được tình hình kinh doanh,
tình trạng tài chính, cũng như nội bộ điều hành công ty. Và kết quả là dựa trên
lượng thông tin ít ỏi mà họ có được, việc định giá cổ phiếu, tính toán tỷ suất sinh lợi
và rủi ro từ việc đầu tư là không chính xác. Những quyết định đầu tư sai lầm sẽ gây
thiệt hại cho họ.
Bên cạnh đó, hệ thống các quy tắc công bố thông tin còn nhiều sơ hở. Chưa
có sự phân loại thông tin rõ ràng cũng như việc diễn đạt thông tin còn mang tính
mập mờ khó hiểu của các tổ chức phát hành. Bên cạnh những thông tin vi mô của
DN thì những thông tin vĩ mô về ngành, nền kinh tế còn thiếu và chưa chính xác,
15
ảnh hưởng đến quá trình phân tích của nhà đầu tư khi họ không có cơ sở để so sánh
và dự báo mang tính vĩ mô.
Những yếu tố trên đều góp phần làm cho quyết định của nhà đầu tư trở nên
không hợp lý. Bên cạnh sự thua lỗ của nhà đầu tư, tình trạng bất cân xứng về thông
tin sẽ tạo nên thị trường bong bóng và tiềm ẩn nguy cơ sụp đổ thị trường.
1.3.5 Nguyên nhân của sự bất cân xứng thông tin
1.3.5.1 Nguyên nhân chủ quan
Đầu tiên, cần xét đến lợi ích của các công ty niêm yết: Việc phát hành chứng
khoán có những yêu cầu và tiêu chuẩn cao, hệ thống kiểm tra nghiêm ngặt. Một số
công ty đáp ứng được những tiêu chuẩn niêm yết hoặc phát hành chứng khoán,
nhưng chỉ về mặt hình thức. Một số công ty, thường thông đồng với bên bảo lãnh
phát hành chứng khoán, đơn vị kiểm toán và các cơ quan trung gian khác làm sai
lệch báo cáo tài chính, thao tác lợi nhuận nhằm tăng giá trị thực của cổ phiếu. Mục
đích là để lừa gạt nhà đầu tư, che giấu tình hình thực tế của công ty, nhằm đạt được
những lợi ích không đáng có.
Thứ hai là, có sự tồn tại các giao dịch ngầm của công ty niêm yết: hiện tượng
cổ phiếu với những quyền lợi và cổ tức khác nhau thường dẫn đến việc các công ty
con và công ty niêm yết liên kết thương mại, chẳng hạn như gây quỹ cho những dự
án đầu tư, phát hành cổ phiếu mới, tái cơ cấu tài sản, mua sắm, bán hàng và các lĩnh
vực liên quan khác, giống như một hộp đen hoạt động kín mà nhà đầu tư không hề
hay biết. Kết quả chắc chắn dẫn đến TTCK có thông tin bất cân xứng. Ngoài ra, các
công ty niêm yết có thể thông qua các nhóm công ty con để tái cơ cấu lại tài sản,
hợp thành một lợi ích thống nhất. Những số liệu của các công ty niêm yết này tạo ra
thông tin không công bằng và hợp lý, tạo ra những bất lợi cho nhà đầu tư.
Thứ ba là, sự xuất hiện của giao dịch nội gián: do những thiệt hại nặng nề
của giao dịch nội gián đối với TTCK, nhiều quốc gia, đặt biệt là các nước phát triển,
giám sát giao dịch nội gián rất nghiêm ngặt. Tuy nhiên, các giao dịch này thường rất
khó để xác định. Đồng thời, lợi ích từ các giao dịch này thường lớn hơn hình phạt,
16
gây ra sự bất cân xứng nghiêm trọng giữa lợi nhuận và chi phí. Đồng thời, việc cố
tình bóp méo thông tin nội bộ cũng gây ra thông tin bất cân xứng trên TTCK.
Thứ tư là, cơ quan quản lý chưa hoàn thành nghĩa vụ được giao: hoạt động
thanh tra, giám sát và quản lý của UBCKNN và SGDCK chưa chặt chẽ, chưa
nghiêm minh; các quy chế liên quan đến công bố thông tin trên TTCK chưa hoàn
thiện, còn nhiều khe hở, khung hình phạt chưa thỏa đáng cũng góp phần làm xuất
hiện ngày càng nhiều thông tin bất cân xứng trên TTCK.
Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, đó là sự yếu kém của các
công ty chứng khoán: một số nhân viên của công ty chứng khoán có đạo đức và
năng lực kém, cố tình báo cáo sai thông tin vì quyền lợi của bản thân hoặc DN niêm
yết. Kết quả dẫn đến sự xuất hiện và tồn tại của TTBCX trên thị trường.
1.3.5.2 Nguyên nhân khách quan
TTCK thiếu sự giám sát hiệu quả: các quy định và chính sách liên quan đến
TTCK thường được xây dựng bởi các phòng ban khác nhau, các phòng ban này
thường vì lợi ích riêng của ngành mà gây nhiều xung đột và thiếu phối hợp. Chính
những quy định chưa hợp lý và giám sát chưa chặt chẽ đã tạo điều kiện phát sinh
TTBCX.
Bên cạnh đó, các công ty niêm yết bị giảm tín nhiệm: Do tín nhiệm của các
công ty bị giảm sút, nhà đầu tư càng phải thu thập, phân tích thông tin nhiều hơn,
làm mất nhiều thời gian và chi phí. Vì vậy, tình trạng TTBCX dễ xảy ra khi một số
nhà đầu tư, đặt biệt là các nhà đầu tư vừa và nhỏ, không có điều kiện để tiếp cận
thông tin như các nhà đầu tư lớn.
Ngoài ra, cũng phải kể đến nguyên nhân các công ty niêm yết quản trị doanh
nghiệp kém: việc quản trị doanh nghiệp kém thường khiến các công ty niêm yết tiết
lộ thông tin tùy tiện hơn. Rất khó khăn để đảm bảo tính xác thực của các thông tin
này.
17
1.4 Một số kinh nghiệm thực tiễn từ ảnh hƣởng của thông tin bất cân xứng đến
nhà đầu tƣ tại các thị trƣờng chứng khoán trên thế giới
1.4.1 Thị trường chứng khoán Đài Loan
1.4.1.1 Diễn biến:
Theo thống kê của TTCK Đài Loan, từ năm 1982 đến 2010, đã có 259
trong số 1.200 DN tại đây bị gỡ bỏ niêm yết khỏi sàn giao dịch.
1.4.1.2 Những lý do chính khiến các doanh nghiệp rời khỏi sàn niêm yết
Nguyên nhân trước tiên là, chu kỳ kinh tế khiến DN bất lực trong việc tìm
kiến lợi nhuận: Trong quá trình phát triển đi lên của nền kinh tế, những DN thuộc
các ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn phải đối mặt với nguy cơ suy thoái
nếu không có phương án chuyển đổi phù hợp.
Nguyên nhân thứ hai là do lãnh đạo DN giảm lượng nắm giữ cổ phần: Khi
qui mô kinh doanh trở nên lớn hơn thông qua phát hành tăng vốn cổ phần, việc
chia tách quyền sở hữu và quản lý sẽ gây nên các nguy cơ theo đuổi những
phương án kinh doanh nhiều rủi ro.
Nguyên nhân thứ ba là do sự gian lận của lãnh đạo DN: Khi tình hình tài
chính gặp khó khăn thì gian lận có thể xảy ra. Một khi đã gian lận thì họ có thể tạo
ra nhiều điều dối trá khác để che giấu nó. Một số DN có xu hướng đánh bóng
thông tin tài chính để giữ giá cổ phiếu ở mức cao, tạo thuận lợi cho họ trong các
quan hệ tài chính.
Nguyên nhân kế tiếp là do đầu tư vào ngành nghề không cốt lõi: DN không
có ngành nghề nòng cốt, khi nền kinh tế trở nên xấu đi, sẽ rất khó để tồn tại.
Nguyên nhân cuối cùng là do các DN không cẩn trọng khi mở rộng năng
lực sản xuất: Mở rộng năng lực sản xuất mà không tính toán kỹ qui mô thị trường
và khả năng cạnh tranh, vay mượn quá đà nhằm mở rộng hoạt động có thể đặt DN
vào nguy cơ mất khả năng kiểm soát.
1.4.1.3 Bài học kinh nghiệm
18
Thứ nhất, nhà đầu tư cần thu thập thông tin về DN từ nhiều nguồn, đặc biệt
cần có các báo cáo có kiểm toán của các công ty kiểm toán có uy tín.
Thứ hai, cần phân tích kỹ các báo cáo tài chính, phân tích chu kỳ kinh
doanh ngành, phân tích các dự án đầu tư của công ty trước khi đưa ra các quyết
định đầu tư.
1.4.2 Thị trường chứng khoán Nhật Bản
1.4.2.1 Diễn biến
Livedoor là một công ty kinh doanh cổng thông tin trên Internet. Sau khi ra
đời (1997), Livedoor đã nhiều lần chia nhỏ cổ phiếu của mình để thu hút sự ưa
thích của đông đảo các nhà đầu tư nhỏ. Livedoor mua cổ phiếu của chính mình
thông qua các công ty thành viên trước mỗi đợt chia nhỏ cổ phiếu hoặc các thương
vụ thâu tóm và sáp nhập. Sau khi kết thúc thương vụ thâu tóm và sáp nhập hoặc
sau khi công ty có thông báo chia nhỏ cổ phiếu, các cổ phiếu này đã được bán ra
thu về những khoản lợi to lớn.
Khi chủ tịch hội đồng quản trị bị bắt vì các tội danh giao dịch nội gián và
công bố sai thông tin tài chính vào đầu năm 2006, nhiều nhà đầu tư hoảng loạn,
tìm cách bán tháo cổ phiếu Livedoor mà họ đang nắm giữ. Tổng giá trị cổ phiếu
Livedoor trên thị trường đã sụt giảm nghiêm trọng từ 7 tỷ Đôla xuống chỉ còn
dưới 1 tỷ Đôla.
Hàng loạt nhà đầu tư tìm cách bán tống cổ phiếu, không chỉ riêng của
Livedoor mà của cả các công ty khác. Với số lượng khổng lồ cổ phiếu Livedoor,
hệ quả của nhiều lần chia nhỏ, đã làm tê liệt Sàn giao dịch Chứng khoán Tokyo,
buộc sàn này phải tuyên bố ngừng giao dịch.
1.4.2.2 Bài học kinh nghiệm
Trước tiên, cần bảo đảm hiệu lực của hệ thống giám sát các chuẩn mực kế
toán.
Tiếp theo là, hệ thống thiết bị kỹ thuật của sàn giao dịch phải tương thích
với yêu cầu của thị trường.
19
Ngoài ra, cần có những hình phạt thích đáng cho những cá nhân cũng như
DN cố tình vi phạm nguyên tắc thị trường, tạo nên thông tin bất cân xứng gây thiệt
hại cho các nhà đầu tư khác.
1.4.3 Những bài học kinh nghiệm rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn ở các thị
trường chứng khoán trên thế giới
Vai trò của công tác công bố thông tin trên thị trường tài chính nói chung,
cũng như TTCK nói riêng, là vô cùng quan trọng, không thể coi nhẹ trong bất kỳ
hoàn cảnh nào. Việc công bố thông tin không chính xác, không kịp thời hoặc che
giấu thông tin có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, khiến các nhà đầu tư
bị thua lỗ và có khả năng gây ra thiệt hại nặng nề cho cả nền kinh tế.
Các nhà đầu tư cần thu thập thông tin về DN từ nhiều nguồn, đặc biệt là
chú trọng đến các báo cáo đã được kiểm toán bởi công ty kiểm toán có uy tín.
Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng nên quan tâm phân tích các dự án đầu tư của DN,
chu kỳ kinh doanh ngành…
Các công ty cần tăng cường công tác giám sát, kiểm toán nội bộ cũng như
thuê các công ty kiểm toán có uy tín nhằm minh bạch hóa các số liệu, thông tin
của DN mình.
Cần xây dựng mức phạt phù hợp và xử lý kịp thời, nghiêm minh các DN, cá
nhân cố tình vi phạm các nguyên tắc công bố thông tin trên TTCK.
Kết luận chƣơng 1
Nội dung chương 1 đã nêu ra một số khái niệm và kiến thức sơ bộ về
TTCK và thông tin bất cân xứng, cùng với những bài học kiểm soát rủi ro đắt giá
mà các TTCK trên thế giới đã trải qua. Thông tin bất cân xứng là một khái niệm
không quá mới ở nước ta nhưng không phải nhà đầu tư nào cũng hiểu rõ và biết
cách bảo vệ mình trước tình trạng này. Đối với TTCK nói chung và nhà đầu tư nói
riêng, thông tin bất cân xứng là một rủi ro có thể trở nên rất nghiêm trọng nếu
không được kiểm soát đúng mức và có các giải pháp kịp thời. Giảm thiểu được
20
tình trạng này sẽ giúp TTCK phát triển lành mạnh và hiệu quả hơn, tạo ra một sân
chơi bình đẳng và hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
21
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐỐI VỚI NHÀ
ĐẦU TƢ TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TP.HCM
Trước khi đi sâu vào nghiên cứu về thực trạng của thông tin bất cân xứng đối
với nhà đầu tư trên SGDCK TP.HCM, chúng ta hãy cùng điểm lại những cột mốc
lịch sử của quá trình hình thành cũng như các giai đoạn phát triển của TTCK tại
Việt Nam.
2.1 Giới thiệu về thị trƣờng chứng khoán Việt Nam
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
2.1.1.1 Quá trình hình thành
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi, ngày 10/07/1998 Thủ tướng Chính phủ
đã ký ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK cùng với
quyết định thành lập hai Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) tại Hà Nội
và TP. Hồ Chí Minh, chính thức khai sinh cho TTCK Việt Nam ra đời. Trước đó, sự
ra đời của UBCKNN bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996 chính là sự chuẩn bị
mở đường cho TTCK Việt Nam.
Được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 của
Thủ tướng Chính phủ, ngày 20/07/2000, TTGDCK TP .HCM đã chính thức khai
trương đi vào vận hành . Qua 7 năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập
với TTCK thế giới , TTGDCK TP .HCM đã chính thức được Chính phủ ký Quyết
đi ̣nh số 599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 chuyển đổi thành Sở giao dịch chứng khoán
TP.HCM. Ngày 08/08/2007, SGDCK TP.HCM đã chính thức được khai trương.
TTGDCK Hà Nội, được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg
ngày 11/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động từ ngày
8/3/2005 với các hoạt động chính là tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán niêm
yết, đấu giá cổ phần và đấu thầu trái phiếu. Sau 4 năm hoạt động với những bước
trưởng thành nhanh và mạnh, TTGDCK Hà Nội được chuyển đổi thành SGDCK Hà
Nội theo Quyết định số 01/2009/QĐ-Ttg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
22
SGDCK Hà Nội chính thức ra mắt vào ngày 24/6/2009, kế thừa mọi quyền và nghĩa
vụ của TTGDCK Hà Nội và thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Luật Chứng
khoán, Luật Doanh nghiệp, Điều lệ tổ chức và hoạt động của SGDCK Hà Nội và
các quy định pháp luật khác có liên quan. SGDCK Hà Nội có mức vốn điều lệ 1.000
tỷ đồng.
2.1.1.2 Các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Giai đoạn 2000-2005
Đây được xem là giai đoạn khai sinh của TTCK Việt Nam. Sự ra đời của
TTCK nước ta được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành TTGDCK TP.HCM
ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời
điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 DN niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn
270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
Số lượng chứng khoán niêm yết đã tăng dần qua các năm. Tuy nhiên, trong
suốt giai đoạn này, thị trường luôn ở trạng thái ảm đạm. Trong 5 năm, chỉ số VN-
Index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống đến 130 điểm. Lý do
chính là ít hàng hoá, các DN niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không hấp dẫn
nhà đầu tư trong nước.
Ngày 8/3/2005 TTGDCK Hà Nội chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn
khởi sắc dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài
được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng).
Nhìn chung, giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn hoạt động khá trầm của TTCK
Việt Nam, giá trị vốn hóa TTCK trong giai đoạn này chỉ đạt trên dưới 1% GDP.
Bảng 2.1: Qui mô của TTCK Việt Nam từ năm 2000 đến 2005
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
23
5 Số công ty niêm yết 5 20 22 26 44
Mức vốn hóa TTCK (%GDP) 0.28 0.34 0.48 0.39 0.64 1.21
3 Số lượng công ty chứng khoán 8 9 11 13 14
Số tài khoản khách hàng 2.908 8.774 13.520 15.735 21.616 31.316
Nguồn: www.ssc.gov.vn [1]
Giai đoạn 2006 - 2007
Trong giai đoạn này, TTCK Việt Nam phát triển nhanh chóng, tạo ra nhiều
kỷ lục và gây nhiều bất ngờ cho giới đầu tư trong cũng như ngoài nước.
Kể từ đầu năm 2006, TTCK nước ta mang một diện mạo hoàn toàn mới với
hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 sàn: TTGDCK TP.HCM, TTGDCK Hà Nội và
thị trường OTC. Cuối năm 2006, chỉ số VN-Index tại sàn giao dịch TP. HCM
(Hostc) tăng 144% và tại sàn giao dịch Hà Nội (Hastc) tăng 152,4% so với năm
2005. Trong vòng một năm, chỉ số VN-Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm
cuối 2005 lên 800 điểm cuối 2006. Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 44 công
ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty. Mức vốn hoá cổ phiếu cuối năm 2006 đã lên tới
220 nghìn tỷ đồng, tương đương với 13,8 tỷ USD (chiếm 22,7% GDP).
Bảng 2.2: Quy mô niêm yết cổ phiếu đến hết 31/12/2006
Số lượng công Vốn hoá thị trường Tỷ trọng
ty niêm yết (tỷ VND) (triệu USD) % GDP
193 221.156 13.822,2 ~ 22,7
Nguồn: www.vcbs.com.vn [6]
Tiếp theo đó, Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 có hiệu lực từ ngày
01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội
nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức
niêm yết được tăng cường. Đây là giai đoạn TTCK nước ta thực sự bùng nổ. Trong
24
giai đoạn này, giá các cổ phiếu tăng trưởng với tốc độ phi mã, đồng loạt các cổ
phiếu từ blue-chip, penny stock, các cổ phiếu mới niêm yết trên sàn… Sau 3 tháng
đầu năm 2007, tất cả các cổ phiếu đều đạt mức tăng trưởng trên 50% giá trị so với
mức giá giao dịch đầu năm 2007, trong đó có những cổ phiếu đạt mức tăng trưởng
trên 100% như: STB (113,57%), REE (122,66%), ACB (197%),….
Tuy nhiên, do thị trường phát triển quá nóng, các cơ quan quản lý nhà nước
cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện pháp kiểm
soát thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm chế sự tăng trưởng quá
nóng của thị trường như chỉ thị 03, luật thuế thu nhập cá nhân,…. Phản ứng trước
điều này, TTCK đã có những đợt điều chỉnh rõ rệt. Giai đoạn điều chỉnh này ghi
nhận sự trầm lắng của cả 2 sàn HOSE và HASTC, tất cả các yếu tố của thị trường
đều giảm sút nghiêm trọng. Thị trường xác lập mức đáy 883,9 điểm của VN-index
vào ngày 6/8/2007 và 247,37 điểm của Hastc-Index vào ngày 23/08/2007.
Vào những tháng cuối năm 2007, thị trường cũng có những thời điểm phục
hồi mạnh mẽ. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm 2007, VN-index đạt 927,02 điểm,
tăng 23.3%; Hastc-Index dừng ở mức 323,55 điểm, tăng 33.2% so với cuối năm
2006.
Bảng 2.3: Quy mô niêm yết cổ phiếu đến hết 31/12/2007
Số lượng công ty Vốn hoá thị trường Tỷ trọng
niêm yết (tỷ VND) (triệu USD) %GDP
249 491.000 30.000 ~ 43
Nguồn: www.vcbs.com.vn [6]
Nếu như vào thời điểm cuối 2006, tổng giá trị vốn hóa TTCK Việt Nam đạt
hơn 22% GDP, thì đến cuối năm 2007, đã đạt hơn 40% GDP, vượt mục tiêu 25-
30% GDP mà Thủ tướng đặt ra trong chiến lược phát triển của TTCK đến năm
2010.
25
Những thời kỳ tăng giảm, rớt điểm rồi lại phục hồi của VN-index trong giai
đoạn 2006-2007 được thể hiện rõ nét hơn trong biểu đồ sau:
Hình 2.1: Biểu đồ hiển thị diễn biến của VN-index trong giai đoạn 2006 - 2007
Nguồn: www.cafef.vn [2]
Giai đoạn 2008-2009
Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế thế giới, TTCK Việt Nam sụt giảm
mạnh vào năm 2008, nhiều mã cổ phiếu rơi xuống dưới mệnh giá. Chỉ trong vòng
nửa đầu năm 2008, VN-index đã mất đi gần 60% giá trị và trở thành một trong
những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới.
Các thông tin tác động xấu tới tâm lý nhà đầu tư trong giai đoạn này chủ yếu
xuất phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát, chính sách
thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, sự leo thang của giá xăng dầu và sức ép
giải chấp từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào TTCK. Ngoài ra, trong
năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy
mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, chưa kể hàng loạt ngân hàng, công ty
chứng khoán, doanh nghiệp... phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn
đến tình trạng cung vượt cầu.
26
Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trường, ngày 04/03/2008,
Chính phủ đã đưa ra nhóm 19 giải pháp ứng cứu thị trường. Trong đó có những giải
pháp chính như thu hẹp biên độ giao dịch, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn
Nhà nước (SCIC) mua vào cổ phiếu, vận động các NHTM ngừng giải chấp, khuyến
khích các tổ chức niêm yết mua vào cổ phiếu làm cổ phiếu quỹ. Tuy nhiên, phần
lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn hạn, và thị trường tiếp tục
sụt giảm. Đáy mới thiết lập trong giai đoạn này của VN-index là 286,85 điểm vào
ngày 10/12/2008. Kết thúc năm 2008, VN-index giảm mất 239,52 điểm, tương
đương 43,15%, còn 312,49 điểm.
Mặc dù trong những tháng cuối năm 2009, TTCK đã có điều chỉnh giảm do
tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ nhưng nhìn chung thì cả năm
2009 TTCK Việt Nam có một năm tăng trưởng ấn tượng. Đến cuối năm 2009, VN-
Index đã tăng thêm 171,96 điểm so với cuối năm 2008, từ 312,49 điểm lên đến
494,77 điểm tương đương với mức tăng là 58%, với giá trị giao dịch đạt 423.299 tỉ
đồng.
Ngày 24/06/2009, sàn Upcom (thị trường giao dịch chứng khoán chưa niêm
yết) chính thức đi vào hoạt động nhưng suy giảm mạnh và ít được quan tâm. Do còn
một số hạn chế trong phương thức khớp lệnh nên sàn giao dịch này chưa thu hút
được sự quan tâm của nhà đầu tư. Vì vậy, các công ty đại chúng không còn mặn mà
khi niêm yết ở sàn giao dịch này. Upcom-Index giảm từ 100 điểm khi thành lập
xuống 53,88 điểm (46,18%), khối lượng giao dịch chỉ trong khoảng 2-3 tỉ
đồng/ngày.
Kết thúc giai đoạn 2008-2009, mức vốn hóa trên toàn thị trường là 620 nghìn
tỷ đồng, tương đương gần 38% GDP năm 2009.
Bảng 2.4: Quy mô niêm yết cổ phiếu cuối năm 2008 và 2009
Năm Số lượng công ty Vốn hoá thị trường Tỷ trọng
niêm yết (tỷ VND) (%GDP)
27
2008 325 225.000 ~ 19
2009 453 620.000 ~38
Nguồn: www.cafef.vn [5]
Giai đoạn 2010 đến nay
Từ đầu năm 2010 đến nay, TTCK Việt Nam rơi vào tình trạng ảm đạm kéo
dài, các chỉ số Index chính đều suy giảm. Nguyên nhân chính được đánh giá là do
kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước không thuận lợi, trong đó lạm phát được xem là
yếu tố nhạy cảm nhất. Với mục tiêu kiềm chế lạm phát, lãi suất trở thành công cụ
phản ánh chỉ số CPI. Do lạm phát tăng cao, lãi suất cho vay trong giai đoạn này liên
tục ở mức trung bình 14% - 20%, có khi trên 20%, gây khó khăn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Mặc dù các cổ phiếu có biến động rất lớn về giá, nhưng cả hai chỉ số HNX-
Index và VN-index không có những đợt tăng đáng kể nào. Gần nửa đầu năm 2010
là chu kỳ tăng của chỉ số VN-index, phần lớn thời gian còn lại của năm 2010, VN-
index ở mức 450-500 điểm.
Một số vấn đề về biến động tiền tệ như: đồng đô la Mỹ mất giá liên tục so với
nhiều đồng tiền khác nhưng tăng giá mạnh so với Việt Nam đồng; lạm phát cao và
lãi suất cao cũng khiến TTCK Việt Nam điều chỉnh mạnh vào quý III năm 2010.
Nguồn cung cổ phiếu tăng nhanh cũng đã tạo áp lực quá lớn khi mà lực cầu có hạn.
Rủi ro kinh tế vĩ mô khiến dòng tiền mới từ các thị trường khác không tìm đến
TTCK nhiều như trước, hầu như không có quỹ đầu tư mới nào có tên tuổi xuất hiện
hay có khoản tiền mới đáng kể nào được huy động đầu tư vào TTCK. Ngoài ra,
thông tư 13 của NHNN cũng làm giảm nguồn vốn từ các ngân hàng cũng như nhà
đầu tư cá nhân vào TTCK.
Kết thúc năm 2010, mức vốn hóa thị trường trên cả 2 sàn đạt 726 nghìn tỷ
đồng, tăng 17.1% so với năm 2009 , tương đương khoảng 39% GDP năm 2010.
Bảng 2.5: Quy mô thị trƣờng đến hết ngày 31/12/2010
28
Số lượng công ty Vốn hoá thị trường Tỷ trọng
niêm yết (tỷ VND) (%GDP)
640 726.000 ~ 39
Nguồn: www.vcbs.com.vn [6]
Với bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái vì vấn đề nợ công của các nước châu
Âu và Mỹ, cùng với tình hình lạm phát cao trong nước buộc NHNN phải áp dụng
chính sách tiền tệ thắt chặt, TTCK Việt Nam từ đầu năm 2011 đến nay vẫn tiếp tục
sụt giảm.
Theo số liệu của UBCKNN, tính đến đầu tháng 6, tổng giá trị vốn hóa trên cả
2 sàn Hose và HNX là 643.395 tỷ đồng, giảm 6,39% (hay 44.000 tỷ) so với 3 tháng
trước đó. Nếu so với GDP năm 2010 tính theo giá thực tế được tổng cục thống kê
công bố là 1,98 triệu tỷ đồng thì tổng giá trị vốn hóa thị trường chỉ chiếm 32,495%.
Bảng 2.6: Quy mô thị trƣờng đến hết ngày 07/06/2011
Số lượng công ty Vốn hoá thị trường Tỷ trọng
niêm yết (tỷ VND) (%GDP năm 2010)
673 643.395 ~ 32
Nguồn: www.ssc.gov.vn [1]
Tính đến ngày 7/6/2011, số lượng mã chứng khoán niêm yết trên HOSE là
284 cổ phiếu và 5 chứng chỉ quỹ, trên HNX là 384 cổ phiếu. Vào thời gian này, khá
nhiều thông tin tích cực về kinh tế vĩ mô và TTCK đã xuất hiện. Lạm phát đã có
dấu hiệu được kềm chế, lãi suất huy động và cả lãi suất cho vay bắt đầu có xu
hướng hạ dần, mở ra hy vọng cho dòng tiền vào kênh chứng khoán. Thuế thu nhập
cá nhân của nhà đầu tư chứng khoán cũng được bộ tài chính đề xuất trình lên Quốc
hội cho miễn từ tháng 8/2011 đến hết năm 2012. Tuy nhiên, hầu hết thông tin tích
cực đã không cứu vớt được thị trường. Lực cầu vẫn chưa nhiều và thị trường vẫn
tiếp tục ảm đạm.
29
Hình vẽ dưới đây thể hiện rõ sự sụt giảm của TTCK nước ta từ đầu năm 2010
đến nay:
Hình 2.3: Biểu đồ hiển thị diễn biến của VN-index từ năm 2010 đến nay
Nguồn: www.cafef.vn [2]
Mặc dù TTCK Việt Nam hiện nay gặp nhiều thách thức, nhưng trong khó
khăn vẫn có những cơ hội. Những nhà đầu tư dài hạn có thể cân nhắc mua cổ phần
lúc này. Các DN không còn khả năng duy trì nữa cũng có thể bán bớt cổ phần hoặc
liên doanh, liên kết để có thêm lực chống đỡ qua thời kỳ khó khăn.
2.1.2 Quy định về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Ngày 15/01/2010 Bộ tài chính ban hành Thông tư số 09/2010/TT-BTC quy
định về công bố thông tin trên TTCK, có hiệu lực kể từ ngày 01/03/2010. Theo đó:
Đối tượng công bố thông tin bao gồm: công ty đại chúng, tổ chức phát hành
thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng, tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch,
công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán, SGDCK và
những người có liên quan.
30
Việc công bố thông tin phải do người đại diện theo pháp luật của công ty
hoặc người được uỷ quyền công bố thông tin thực hiện. Người đại diện theo pháp
luật của công ty phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin do người được uỷ
quyền công bố thông tin công bố. Trường hợp có bất kỳ thông tin nào làm ảnh
hưởng đến giá chứng khoán thì người đại diện theo pháp luật của công ty hoặc
người được uỷ quyền công bố thông tin phải xác nhận hoặc đính chính thông tin đó
trong thời hạn hai mươi bốn (24) giờ, kể từ khi nhận được thông tin đó hoặc theo
yêu cầu của cơ quan quản lý.
Việc công bố thông tin được thực hiện qua các phương tiện công bố thông
tin sau: báo cáo thường niên, trang thông tin điện tử (website) và các ấn phẩm khác
của tổ chức thuộc đối tượng công bố thông tin; các phương tiện công bố thông tin
của UBCKNN bao gồm trang thông tin điện tử, bản tin và các ấn phẩm khác của
UBCKNN; các phương tiện công bố thông tin của SGDCK bao gồm bản tin TTCK,
trang thông tin điện tử của SGDCK, bảng hiển thị điện tử tại SGDCK và các
phương tiện thông tin đại chúng khác theo quy định của pháp luật. Các đối tượng
công bố thông tin nêu trên (trừ cá nhân) phải lập trang thông tin điện tử của mình;
trang thông tin điện tử phải có các chuyên mục về quan hệ cổ đông, trong đó phải
có điều lệ công ty, quy chế quản trị nội bộ, báo cáo thường niên, báo cáo tài chính
định kỳ phải công bố theo quy định và các vấn đề liên quan đến kỳ họp đại hội đồng
cổ đông; ngoài ra, trang thông tin điện tử phải thường xuyên cập nhật các thông tin
phải công bố theo quy định tại Thông tư này. Các đối tượng công bố thông tin phải
thông báo với UBCKNN, SGDCK và công khai về địa chỉ trang thông tin điện tử và
mọi thay đổi liên quan đến địa chỉ này.
Tiếp theo thông tư 09, ngày 01/03/2010 UBCKNN đã có công văn số
548/UBCK-TT gửi các công ty niêm yết yêu cầu Hội đồng quản trị và Ban Giám
đốc của các công ty niêm yết cần nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp
luật về chứng khoán và TTCK, trong đó có quy định nghĩa vụ công bố thông tin về
giao dịch của các cổ đông nội bộ, bao gồm các thành viên Hội đồng quản trị, Ban
Kiểm soát, Ban Giám đốc, Kế toán trưởng và các tổ chức, cá nhân có liên quan để
31
đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật tại khoản 4 mục IV Thông tư
09/2010/TT-BTC, cụ thể như sau:
Cổ đông nội bộ là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám
đốc/Giám đốc, Phó Tổng giám đốc/Phó Giám đốc và Kế toán trưởng. Cổ đông lớn
của công ty; người được ủy quyền công bố thông tin của tổ chức niêm yết và người
có liên quan của các đối tượng này khi dự kiến giao dịch cổ phiếu của tổ chức niêm
yết hoặc cổ phiếu của tổ chức giao dịch trên thị trường đại chúng chưa niêm yết, kể
cả trường hợp chuyển nhượng không thông qua hệ thống giao dịch tại SGDCK
(cho, tặng, thừa kế, chuyển nhượng hoặc nhận chuyển nhượng quyền mua cổ phiếu
phát hành thêm … ngoại trừ giao dịch cổ phiếu lẻ theo yêu cầu của nhà đầu tư) phải
báo cáo UBCKNN, SGDCK trước ngày thực hiện giao dịch tối thiểu là ba (03) ngày
làm việc. Thời hạn dự kiến giao dịch không quá hai (02) tháng, kể từ ngày đăng ký
thực hiện giao dịch và chỉ được bắt đầu tiến hành phiên giao dịch đầu tiên sau hai
mươi bốn (24) giờ kể từ khi có công bố thông tin từ SGDCK.
Trong vòng ba (03) ngày làm việc, kể từ ngày hoàn tất giao dịch, người thực
hiện giao dịch phải báo cáo cho UBCKNN, SGDCK và tổ chức niêm yết về kết quả
thực hiện giao dịch.
Trường hợp không thực hiện được giao dịch, trong thời hạn ba (03) ngày, kể
từ ngày kết thúc thời hạn dự kiến giao dịch, các đối tượng quy định trên phải báo
cáo UBCKNN, SGDCK về lý do không thực hiện được giao dịch.
2.1.3 Thực trạng công bố thông tin trên SGDCK TP.HCM
2.1.3.1 Thực trạng công bố thông tin của các công ty niêm yết
Một số công ty niêm yết vẫn chưa cập nhật website thường xuyên
Thông tin là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với nhà đầu tư chứng khoán và để
có thông tin nhà đầu tư có thể thu thập từ kênh công bố thông tin của các công ty
niêm yết. Bí quyết đầu tư là “Lấy thông tin trước chứ không phải sau khi đầu tư. Sẽ
32
tốn thời gian khi tự tìm kiếm thông tin, nhưng sẽ tốn tiền khi không nắm được thông
tin. Thông tin không rõ ràng làm nên rủi ro cho một chứng khoán.”
Việc công bố thông tin của các công ty niêm yết là nghĩa vụ và thường được
thực hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên website của công ty. Tuy
nhiên, một thực trạng là phần nhiều các công ty niêm yết đã không coi việc công bố
thông tin cho cổ đông, cho công chúng là nghĩa vụ của mình. Một số công ty niêm
yết trên sàn chứng khoán chỉ công bố những thông tin cũ trên website; có công ty
vài tháng mới cập nhật thông tin trên website một lần như công ty cổ phần cơ điện
lạnh (với mã chứng khoán là REE), công ty cổ phần vật tư kỹ thuật nông nghiệp
Cần Thơ (với mã chứng khoán là TSC), công ty cổ phần vật tư tổng hợp và phân
bón hóa sinh (với mã chứng khán là HSI), công ty cổ phần bê tông Châu Thới 620
(với mã chứng khoán là BT6), … ; có công ty trên Website không có bất cứ thông
tin gì về bản cáo bạch, báo cáo tài chính, điều lệ công ty. Tuy nhiên, cũng có những
công ty đã xây dựng được cho mình quy trình công bố thông tin và cập nhật thông
tin trên website khá tốt như công ty cổ phần tập đoàn Hòa Phát (với mã chứng
khoán là HPG) đã thực hiện việc công bố thông tin hàng ngày trên website của
mình về tình hình sản xuất kinh doanh, các hợp đồng ký kết, tình hình hoạt động
công đoàn, các hoạt động triển lãm, tham quan học tập nâng cao tầm hiểu biết, …
đây là một trong số ít các công ty cung cấp thông tin về tình hình sản xuất kinh
doanh hàng tháng.
Các doanh nghiệp niêm yết chậm công bố báo cáo tài chính
Mặc dù đã có thông tư quy định cũng như nhắc nhở về thời hạn công bố
BCTC, hàng trăm DN vẫn chậm nộp báo cáo. Chẳng hạn như, ngày 25/01/2011 là
hạn cuối cùng nộp BCTC quý IV năm 2010. Tuy vậy, tính đến chiều ngày
25/01/2011, chỉ có một vài DN công bố BCTC đúng thời gian qui định, các DN còn
lại đều xin gia hạn nộp báo cáo.
Không chỉ chậm trễ trong việc công bố báo cáo quý, nhiều DN cũng chậm
công bố BCTC năm đã kiểm toán mà hạn cuối cùng theo quy định là ngày 10/4
33
hàng năm. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ trong việc công bố BCTC
của các DN như việc tập hợp đầy đủ số liệu từ các công ty con để lập BCTC hợp
nhất mất rất nhiều thời gian. Bên cạnh đó, số lượng công ty kiểm toán hiện nay
cũng không đủ để đáp ứng nhu cầu kiểm toán của các công ty trên cả nước. Trong
khoảng hơn 1.200 công ty đại chúng, có hơn 600 công ty niêm yết. Thế nhưng,
trong hơn 150 đơn vị kiểm toán hiện đang hoạt động tại Việt Nam, chỉ có gần 50
công ty kiểm toán được kiểm toán các DN niêm yết, trong khi kỳ kiểm toán lại chưa
được áp dụng linh hoạt. Chính điều này đã góp phần dẫn đến tình trạng quá tải trong
việc kiểm toán BCTC của các DN ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, ngoài các nguyên
nhân khách quan, cũng có một số DN cố tình chậm công bố thông tin do chưa muốn
công khai kết quả kinh doanh không được khả quan, bởi nếu công bố sớm, các
thông tin này sẽ tác động ngay đến giá cổ phiếu của DN.
Mong muốn thông tin từ các công ty niêm yết được công bố đúng thời hạn là
một nhu cầu chính đáng và cấp thiết của nhà đầu tư để họ có thể ra quyết định mua -
bán cổ phiếu một cách hợp lý. Trên thực tế, SGDCK TP.HCM đã có kế hoạch xây
dựng một quy trình công bố thông tin trực tuyến cho phép các thông tin của DN
được đẩy thẳng lên trang web của các SGDCK, song điều này vẫn chưa làm được vì
hệ thống kiểm soát tại SGDCK TP.HCM hiện nay chưa cho phép.
Thông tin công bố còn hạn chế
Một thực trạng cũng đang được nhiều người quan tâm hiện nay là thông tin
đưa ra từ các công ty còn hạn chế, nghèo nàn và thiếu tính chuyên nghiệp. Trong
khi đây lại là yếu tố quan trọng rất cần thiết đối với nhà đầu tư để giúp họ nắm được
tình hình hoạt động, cũng như chiến lược phát triển của DN, nơi nhà đầu tư muốn
gửi vốn.
Không những thế, một số thông tin quan trọng còn được các công ty niêm yết
cố tình không thông báo. Một số DN vi phạm như: Công ty cổ phần nhà Việt Nam
(mã NVN): Bà Phạm Linh Phương là cổ đông lớn của công ty đã mua 124.520 cổ
phiếu NVN từ ngày 18/11/2010 đến ngày 29/11/2010 nhưng không công bố thông
34
tin trước khi giao dịch; Công ty Cổ phần Đông Hải Bến Tre (mã DHC): Ông Đoàn
Văn Đạo - Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc của công ty đã báo cáo
kết quả giao dịch cổ phiếu DHC chậm trễ so với quy định sau khi đăng ký giao dịch
ngày 17/11/2010. (Nguồn: www.cafef.vn [4])
Để đạt được những kết quả tốt, hơn bao giờ hết, sự minh bạch hóa của các
công ty niêm yết qua báo cáo thường niên là rất cần thiết, trở thành cầu nối quan
trọng giữa nhà đầu tư và công ty. Chỉ đến bao giờ các công ty niêm yết công bố
thông tin một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ và tự giác thì SGDCK TP.HCM mới
có số lượng nhà đầu tư tham gia ngày càng tăng, việc đầu tư mới thực sự bình đẳng,
TTCK thực sự phát triển bền vững.
2.1.3.2 Thực trạng công bố thông tin của các cơ quan quản lý
Ngoài việc công bố thông tin qua báo chí, đài phát thanh, các cơ quan quản
lý TTCK như UBCKNN, SGDCK TP.HCM đều có website riêng nhằm dễ dàng
công bố thông tin liên quan đến hoạt động chứng khoán một cách chính thức. Tuy
nhiên, dữ liệu trên các trang web này cũng không được cập nhật kịp thời và đầy đủ,
đặc biệt là dữ liệu lịch sử rất khó tìm, nhiều số liệu không được lưu giữ, công cụ tìm
kiếm không hiệu quả. Bản thân tác giả cũng gặp phải những khó khăn nhất định
trong quá trình thu thập dữ liệu chứng khoán trên các trang này.
UBCKNN và SGDCK là các cơ quan quản lý chung TTCK, có nhiệm vụ đôn
đốc, nhắc nhở các thành viên tham gia thị trường phải tuân thủ luật chơi, có trách
nhiệm và quyền được xử phạt những thành viên nào vi phạm. Mặc dù có sứ mệnh
đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy TTCK hoạt đông hiệu quả, các cơ quan
quản lý ở nước ta vẫn chưa hoàn thành nghĩa vụ của mình, góp phần làm cho tình
trạng TTBCX ngày càng lan rộng. Khi các DN chậm công bố thông tin (thường là
kết quả kinh doanh hay báo cáo kiểm toán), SGDCK gửi văn bản nhắc nhở, DN giải
trình rồi SGDCK lại cho qua. Đối với những trường hợp chậm báo cáo quý, các bên
chỉ công văn đi công văn lại cho đúng quy định, còn chậm vẫn hoàn chậm. Trường
hợp của CTCP dược phẩm Viễn Đông (mã CP: DVD) không thể phủ nhận sự kém
35
sâu sát của cơ quan quản lý niêm yết, mà cụ thể là SGDCK TP.HCM. Cổ phiếu
DVD đã bị hủy niêm yết trên HOSE từ 5/9/2011 vì liên tục vi phạm công bố thông
tin định kỳ theo quy định. Những văn bản nhắc nhở được SGDCK TP.HCM gửi đi
đều đặn nhưng tất cả đều không được phản hồi, thậm chí không liên lạc được với
người đại diện. Vậy mà DVD vẫn có khoảng thời gian nhiều tháng để giao dịch, bất
chấp nhà đầu tư không nắm được thông tin thực tế của DN. Trong trường hợp này,
SGDCK TP.HCM đã làm đúng các quy định nhưng chưa đủ khi DN này liên tục
thay đổi ban lãnh đạo, tình trạng hoạt động có nhiều nghi vấn. Sau vụ việc DVD,
nhà đầu tư trở nên dè chừng với tất cả các DN niêm yết có kết quả kinh doanh lỗ mà
trì hoãn việc công bố thông tin, nhất là liên quan đến BCTC định kỳ, BCTC kiểm
toán.
2.1.3.3 Thực trạng công bố thông tin của các công ty chứng khoán
Nhằm tăng tính cạnh tranh và nâng cao doanh số giao dịch chứng khoán, các
công ty chứng khoán hiện nay thực hiện khá tốt việc công bố thông tin về TTCK
đối với các nhà đầu tư. Đặc biệt, trên những trang web của các công ty chứng
khoán, thông tin thị trường, các văn bản luật liên quan được cập nhật liên tục, nhanh
chóng và khá chính xác. Ngoài ra, đa số công ty chứng khoán hiện nay còn tăng
cường thêm bộ phận chuyên phân tích và tổng hợp thông tin chứng khoán từng
ngày, giúp nhà đầu tư dễ dàng nắm bắt và theo dõi tình hình biến động của TTCK.
Tuy nhiên, theo UBCKNN, qua giám sát hoạt động giao dịch và kiểm tra
một số công ty chứng khoán, Ủy ban đã phát hiện một số hành vi vi phạm về hoạt
động giao dịch chứng khoán gây ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư cũng như
không đảm bảo nguyên tắc công bằng và khách quan trong việc cung cấp dịch vụ
cho giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư. Ngày 15/4/2010, Công ty chứng khoán
Đại Nam đã cho một số khách hàng bán chứng khoán khi chứng khoán chưa được
Trung tâm lưu ký Chứng khoán hạch toán vào tài khoản chứng khoán giao dịch.
Trước đó, vào đầu tháng 4/2011, UBCKNN cũng ban hành Quyết định số 09/QĐ-
TT xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty cổ phần chứng khoán Artex số tiền
36
50 triệu đồng. Sai phạm của đơn vị này là trong năm 2010, công ty chứng khoán
Artex đã 3 lần liên tiếp vi phạm không thực hiện công bố thông tin kịp thời. Ngoài
ra, một số công ty nhập lệnh của khách hàng, của nhân viên công ty và lệnh tự
doanh vào hệ thống giao dịch của SGDCK không theo đúng thứ tự và thời gian
nhận lệnh. Một số nhân viên công ty chứng khoán còn chèn lệnh của khách hàng và
có các hành vi vi phạm quy định ký quỹ giao dịch. Bên cạnh đó, một số công ty
chứng khoán đã có sự ưu đãi quá mức với nhà đầu tư lớn, tạo ra sự bất bình đẳng
giữa các nhà đầu tư, và phần thua thiệt bao giờ cũng thuộc về nhà đầu tư cá nhân
nhỏ lẻ.
2.1.3.4 Thực trạng công bố thông tin của nhà đầu tư
Trong thời đại ngày nay, hệ thống công nghệ thông tin phát triển giúp cho
các nhà đầu tư ngày càng dễ dàng tiếp cận được với các thông tin chứng khoán, đặc
biệt là các thông tin được đăng tải trên các báo mạng, các diễn đàn chứng khoán.
Tuy nhiên, đây cũng chính là con dao hai lưỡi, một khi nhà đầu tư có quá nhiều
thông tin thì họ cũng khó phân biệt được thông tin nào đúng, thông tin nào sai.
Cùng với thông tin chính thống do các công ty niêm yết và cơ quan quản lý nhà
nước công bố, còn có sự xuất hiện của các tin hành lang, tin đồn, tin nội gián. Ngay
cả các cổ phiếu blue-chip dẫn dắt thị trường cũng chịu tác động lớn của các thông
tin không chính thống này. Giá cổ phiếu rất nhạy với các thông tin lan truyền trên
thị trường. Thông tin gắn liền với lợi ích nên có những nhóm nhà đầu tư chủ động
tạo ra và sử dụng thông tin có lợi cho mình, gây lũng đoạn thị trường và thiệt hại
nặng nề cho các nhà đầu tư khác.
Ngoài ra, các cổ đông lớn, cổ đông nội bộ cũng thường xuyên vi phạm các
qui định về CBTT. Gần đây, trong bối cảnh giá chứng khoán có chiều hướng giảm,
số cổ đông vi phạm lại nhiều hơn, bình quân 4-5 trường hợp/tháng. Cụ thể, vào
ngày 13/10/2011 vừa qua, HOSE đã công bố danh sách các cổ đông nội bộ thực
hiện báo cáo kết quả giao dịch cổ phiếu chậm trễ so với quy định gồm: bà Nguyễn
Thị Như Loan, Chủ tịch hội đồng quản trị (HĐQT) của công ty cổ phần (CTCP)
37
Quốc Cường Gia Lai (mã CP: QCG) và ông Lê Thành Trung, thành viên HĐQT của
CTCP Công nghệ mạng và truyền thông (mã CP: CMT). Bên cạnh đó, các cá nhân
gồm bà Nguyễn Thị Thanh Tâm, Phó tổng giám đốc của CTCP Tấm lợp Vật liệu
Xây dựng Đồng Nai (mã CP: DCT), ông Nguyễn Khải Hoàn, Thành viên Ban Kiểm
soát của CTCP FPT (mã CP: FPT) và bà Đào Thị Hồng Vân, con ông Đào Hữu
Khanh, Thành viên HĐQT kiêm Phó tổng giám đốc CTCP Tập đoàn Hà Đô (mã
CP: HDG) đã thực hiện mua và bán cổ phiếu nhưng không công bố thông tin. Tình
trạng các cổ đông lớn, cổ đông nội bộ vi phạm CBTT ngày càng diễn ra phổ biến,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nhà đầu tư khác, các cổ đông nhỏ lẻ. Dù
UBCKNN đã xử phạt nghiêm minh những cá nhân này, nhưng mức phạt theo quy
định hiện hành vẫn chưa đủ để răn đe họ. (Nguồn: www.tbck.vn [20])
2.2 Nghiên cứu thực nghiệm về tác động của thông tin bất cân xứng đối với nhà
đầu tƣ trên SGDCK TP.HCM
2.2.1 Mục đích nghiên cứu: Với nghiên cứu thực nghiệm này, tôi muốn tìm hiểu
những rủi ro mà nhà đầu tư cá nhân trên SGDCK TP.HCM thường gặp phải liên
quan đến vấn đề thông tin bất cân xứng. Qua đó, đề xuất những giải pháp phù hợp
nhằm giảm thiểu thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư trên SGDCK này.
2.2.2 Đối tượng khảo sát: nhà đầu tư cá nhân đã hoặc đang tham gia TTCK Việt
Nam.
2.2.3 Phạm vi khảo sát: những nhà đầu tư cá nhân trên địa bàn TPHCM.
2.2.4 Mẫu chọn: do kinh phí hạn hẹp và điều kiện không cho phép, tôi chỉ có thể
tiến hành khảo sát đối với 100 nhà đầu tư cá nhân.
2.2.5 Phương pháp chọn mẫu: việc chọn mẫu được thực hiện theo phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên (đến một số công ty chứng khoán khảo sát các nhà đầu tư có
mặt tại đó).
2.2.6 Nội dung khảo sát:
38
Nội dung khảo sát phù hợp với mục đích nghiên cứu được thể hiện thông qua
bảng câu hỏi khảo sát (xem phụ lục)
2.2.7 Đánh giá chung về thực trạng thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư cá
nhân trên SGDCK TP.HCM dựa vào kết quả khảo sát
2.2.7.1 Thực trạng thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư cá nhân trên SGDCK
TP.HCM thông qua khảo sát
Sau khi sử dụng chương trình SPSS để thống kê các dữ liệu thu thập được từ
các phiếu khảo sát, ta có được kết quả như sau:
Giới tính:
Bảng 2.7: Giới tính của nhà đầu tƣ
Giới tính Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Nam 67 67.0 67.0 67.0
Nữ 33 33.0 33.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Dựa vào bảng trên ta thấy trong 100 người được khảo sát, có 67 nam và 33
nữ, số nam nhiều gấp hai lần số nữ. Điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên vì
nhìn chung nam giới thường thích tham gia vào các hoạt động có tính rủi ro cao
nhiều hơn nữ giới.
Độ tuổi:
Trong 100 nhà đầu tư được khảo sát, chỉ có 8 người dưới 25 tuổi, 71 người
trong độ tuổi từ 25 đến 35, 21 người từ 36 đến 50 tuổi, và không có người nào trên
50 tuổi. Những người dưới 25 tuổi thường là những sinh viên mới ra trường, chưa
có điều kiện về vốn đầu tư nên lượng người ở độ tuổi này tham gia TTCK không
nhiều. Độ tuổi 36-50 thường là những người thành đạt, họ có nhiều mối quan tâm
trong cuộc sống nhiều hơn là chứng khoán. Tương tự, những người trên 50 tuổi
39
thích các kênh đầu tư an toàn như gửi tiết kiệm hơn là kênh nhiều rủi ro như chứng
khoán. Ngược lại, trong giai đoạn từ 25 đến 35 tuổi, nhà đầu tư đã tích lũy được
một số vốn nhất định, năng động và thích được thử thách, họ thích đầu tư vào
những lĩnh vực rủi ro cao mang lại lợi nhuận cao như chứng khoán. Cụ thể trong
bảng sau:
Bảng 2.8: Độ tuổi của nhà đầu tƣ
Độ tuổi Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
8 Dưới 25 tuổi 8.0 8.0 8.0
71 25-35 tuổi 71.0 71.0 79.0
21 36-50 tuổi 21.0 21.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Thời gian tham gia thị trƣờng chứng khoán:
Bảng 2.9: Thời gian các nhà đầu tƣ tham gia TTCK Việt Nam
Thời gian Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
28 Dưới 1 năm 28.0 28.0 28.0
67 1-5 năm 67.0 67.0 95.0
5 5-10 năm 5.0 5.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Do TTCK Việt Nam còn non trẻ, nên trong số 100 người tham gia khảo sát,
không có ai tham gia thị trường trên 10 năm, còn số người tham gia từ 5 đến 10 năm
chỉ chiếm 5%, dưới 1 năm chiếm 28%, và số người tham gia TTCK từ 1 đến 5 năm
là nhiều nhất, chiếm 67%.
40
Sàn chứng khoán: Trong 100 người được khảo sát, số người tham gia sàn
Hose chiếm đa số (97%), Hastc chiếm 81% trong khi số người tham gia sàn Upcom
chỉ có 2%, một con số khá khiêm tốn.
Bảng 2.10: Sàn chứng khoán
Sàn chứng khoán Responses
Percent Percent of Cases N
Hose 97 53.9% 97.0%
Hastc 81 45.0% 81.0%
Upcom 2 1.1% 2.0%
Total 180 100.0% 180.0%
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Thực tế cho thấy số người tham gia sàn Upcom còn rất ít. Do ra đời sau 2 sàn
Hose và Hastc, sàn Upcom vẫn còn nhiều hạn chế như thiếu các cổ phiếu bluechip,
thanh khoản kém và thói quen kinh doanh trên 2 sàn chính thức khiến các nhà đầu
tư ngại sự thay đổi. Trong thời gian tới, cần ưu tiên phát triển và hoàn thiện sàn
Upcom để các nhà đầu tư nhanh chóng gia nhập vào sân chơi mới này nhằm đa
dạng hóa danh mục đầu tư của họ.
Số tiền đầu tƣ:
Bảng 2.11: Tổng số tiền đầu tƣ
Tổng số tiền Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Dưới 200tr vnd 29 29.0 29.0 29.0
200-500tr vnd 28.0 28.0 57.0 28
500tr-1tỉ vnd 27.0 27.0 84.0 27
1-5tỉ vnd 16.0 16.0 100.0 16
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
41
Do đối tượng được khảo sát là các nhà đầu tư cá nhân nên lượng tiền đầu tư
vào chứng khoán của họ không nhiều, đầu tư từ 1 tỉ đến 5 tỉ chỉ chiếm có 16% và
trên 5tỉ thì không có nhà đầu tư nào. Đầu tư dưới 200tr có 29%, từ 200 đến 500tr
chiếm 28% và từ 500tr đến 1 tỷ là 27%.
Ngoài ra, qua khảo sát này ta thấy quy mô số tiền đầu tư còn phụ thuộc vào
độ tuổi. Do độ tuổi từ 36 đến 50 thường là những người đã thành đạt, có khả năng
đầu tư nhiều hơn vào chứng khoán, nên có đến 10 trong số 21 người trong độ tuổi
này đầu tư từ 1 đến 5 tỷ. Trong khi đó, những người từ 25-35 tuổi đa số đầu tư dưới
1 tỷ (65 trong tổng số 71 người), còn độ tuổi dưới 25 thường là những người mới đi
làm nên chưa có nhiều vốn, họ chủ yếu đầu tư dưới 500tr (7 trong số 8 người). Ta
có thể xem chi tiết ở bảng sau:
Bảng 2.12: Tƣơng quan giữa độ tuổi và tổng số tiền đầu tƣ
Tổng số tiền đầu tư Tuổi của nhà đầu tư Dưới 200tr 200-500tr 500tr-1tỉ 1-5 tỉ Total
Dưới 25 tuổi 3 4 1 0 8
25-35 tuổi 23 21 21 6 71
36-50 tuổi 3 3 5 10 21
Total 29 28 27 16 100
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Loại hình đầu tƣ:
Là nhà đầu tư cá nhân nên những người được khảo sát đa số đầu tư chứng
khoán trong ngắn hạn hoặc lướt sóng, chiếm 88%, trong khi đầu tư trung dài hạn chỉ
chiếm 57%, cụ thể như sau:
Bảng 2.13: Loại hình đầu tƣ
Loại hình đầu tư Responses Percent of
42
N Percent Cases
88 60.7% 88.0% Lướt sóng, ngắn hạn
57 39.3% 57.0% Trung dài hạn
Total 145 100.0% 145.0%
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Số lƣợng mã cổ phiếu:
Bảng 2.14: Số mã cổ phiếu của nhà đầu tƣ
Số mã CP Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
1 mã CP 7 7.0 7.0 7.0
2-5 mã CP 71 71.0 71.0 78.0
Trên 5 mã CP 22 22.0 22.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Áp dụng nguyên tắc phân chia rủi ro khi đầu tư, những người được khảo sát
thường đa dạng hóa danh mục đầu tư của họ bằng 2-5 cổ phiếu khác nhau (chiếm
71%). Số người đầu tư trên 5 mã chiếm 22% trong khi những nhà đầu tư chỉ nắm
giữ 1 mã cố phiếu chiếm con số khiêm tốn 7%.
Cập nhật thông tin chứng khoán:
Đa số những nhà đầu tư được khảo sát theo dõi thông tin về chứng khoán
mỗi ngày (79%), số người cập nhật thông tin từ 1 đến 2 tuần/lần chiếm 15%, trên 1
tháng/ lần chiếm 5%, còn không theo dõi chỉ có 1%.
Bảng 2.15: Tần suất cập nhật thông tin của nhà đầu tƣ
Số lần Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Không theo dõi 1 1.0 1.0 1.0
Mỗi ngày 79 79.0 79.0 80.0
43
1-2 tuần 15 15.0 15.0 95.0
Trên 1 tháng 5 5.0 5.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Phƣơng tiện cập nhật thông tin:
Bảng 2.16: Phƣơng tiện cập nhật thông tin chứng khoán
Phương tiện cập nhật Responses
N Percent Percent of Cases
30 Báo chí 15.2% 30.0%
Internet 97 49.2% 97.0%
Phát thanh truyền hình 25 12.7% 25.0%
Người thân, bạn bè, đồng nghiệp 45 22.8% 45.0%
Total 197 100.0% 197.0%
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Trong thời đại kỹ thuật số như ngày nay, chúng ta có thể dễ dàng tìm kiếm
thông tin trên mạng internet. Do đặc điểm thuận lợi và tiện dụng của phương tiện
này, đến 97% những người được hỏi dùng internet để cập nhật thông tin liên quan
đến chứng khoán nhằm phục vụ cho mục đích đầu tư của họ.
Bên cạnh đó, sự phát triển của internet đã làm giảm đáng kể số người theo
dõi tin tức bằng phương tiện phát thanh truyền hình hoặc báo chí như trước kia. Cụ
thể trong 100 người khảo sát, chỉ có 25% cập nhật thông tin chứng khoán qua phát
thanh truyền hình và 30% cập nhật qua báo chí.
Không chỉ tự mình theo dõi tin tức trên các kênh xã hội, những nhà đầu tư cá
nhân thường tham khảo ý kiến của những người xung quanh như người thân, bạn
bè, đồng nghiệp. Số người cập nhật thông tin qua kênh này chiếm một lượng không
nhỏ là 45%.
44
Thông tin theo dõi nhiều nhất:
Thông qua các phương tiện trên, nhà đầu tư cập nhật được những thông tin
bổ ích và hỗ trợ cho những quyết định đầu tư của họ. Trong các loại thông tin được
hỏi, nhà đầu tư thích theo dõi ý kiến của các chuyên gia chứng khoán (62%), sau đó
đến thông báo của các cơ quan quản lý chứng khoán (28%) và báo cáo tài chính
(10%).
Bảng 2.17: Thông tin theo dõi nhiều nhất
Thông tin Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Báo cáo tài chính 10.0 10.0 10 10.0
Thông báo của CQ 28 28.0 28.0 38.0 quản lý CK
Ý kiến của chuyên gia 62 62.0 62.0 100.0 CK
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Kết quả đầu tƣ: Mặc dù đã đa dạng hóa danh mục đầu tư và thường xuyên
theo dõi thông tin liên quan đến chứng khoán, nhưng do nhiều lý do khách quan,
các nhà đầu tư bị thua lỗ vẫn chiếm đa số (70%), những người đầu tư có được lợi
nhuận chỉ có 13%, và huề vốn chiếm 17%.
Bảng 2.18: Hiệu quả đầu tƣ
Kết quả Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Lời 13 13.0 13.0 13.0
Lỗ 70 70.0 70.0 83.0
Huề vốn 17 17.0 17.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
45
Nguyên nhân làm tăng giảm trên sàn HOSE:
Bảng 2.19: Nguyên nhân khiến SGDCK TP.HCM biến động
Lí do SGDCK TP.HCM biến Responses
động Percent Percent of Cases N
45 Làm giá CK 17.2% 45.0%
48 Kinh tế thế giới 18.4% 48.0%
78 Kinh tế trong nước 29.9% 78.0%
39 Tình hình KD của DN 14.9% 39.0%
51 Thông tin thiếu minh bạch 19.5% 51.0%
Total 261 100.0% 261.0%
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Trong những nguyên nhân được hỏi, các nhà đầu tư cho rằng những biến
động trong thời gian qua của SGDCK TP.HCM chủ yếu là do tình hình kinh tế vĩ
mô trong nước (78%), ảnh hưởng bởi kinh tế thế giới chiếm 48%, 39% những người
được hỏi cho rằng SGDCK TP.HCM tăng giảm phụ thuộc vào tình hình kinh doanh
của DN. Ngoài ra, 45% cho rằng có sự xuất hiện của hiện tượng làm giá cổ phiếu và
51% cho rằng thông tin trên SGDCK này thiếu minh bạch.
Thông tin trên SGDCK TP.HCM
Liên quan đến việc công bố thông tin của các DN, trong 100 người được
khảo sát, có 20 người cho rằng số lượng DN công bố thông tin minh bạch trên
SGDCK TP.HCM chiếm đến trên 70%, 29 người cho rằng con số này chiếm 50-
70%, 25 người chọn 30-50%, và dưới 30% thì có 26 người.
Bảng 2.20: Số lƣợng DN công bố thông tin minh bạch
DN công bố thông tin
minh bạch Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Dưới 30% 26 26.0 26.0 26.0
46
30-50% 25 25.0 25.0 51.0
50-70% 29 29.0 29.0 80.0
Trên 70% 20 20.0 20.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
58% số người được hỏi cho rằng thông tin của các công ty niêm yết được
công bố không kịp thời, 55% cho rằng các thông tin này không được công bố chính
xác và 65% tin rằng có sự thiếu thông tin trên SGDCK TP.HCM.
Bảng 2.21: Thông tin không kịp thời
Ý kiến Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Đồng ý 58 58.0 58.0 58.0
Không ý kiến 35 35.0 35.0 93.0
Không đồng ý 7 7.0 7.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Bảng 2.22: Thông tin không chính xác
Ý kiến Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Đồng ý 55 55.0 55.0 55.0
Không ý kiến 36 36.0 36.0 91.0
Không đồng ý 9 9.0 9.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Bảng 2.23: Thiếu thông tin
Ý kiến Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
47
Đồng ý 65 65.0 65.0 65.0
Không ý kiến 29 29.0 29.0 94.0
Không đồng ý 6 6.0 6.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Liên quan đến thông tin bất cân xứng, 67 trong số 100 người được khảo sát
đồng ý rằng có tồn tại thông tin bất cân xứng trên SGDCK TP.HCM, 53 người cho
rằng thông tin bất cân xứng làm ảnh hưởng đến kết quả đầu tư của họ và 64 người
tin rằng họ sẽ có được hiệu quả đầu tư tốt hơn nếu không còn tình trạng thông tin
bất cân xứng. Cụ thể như các bảng sau:
Bảng 2.24: SGDCK TP.HCM có thông tin bất cân xứng
Ý kiến Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Đồng ý 67 67.0 67.0 67.0
Không ý kiến 32 32.0 32.0 99.0
Không đồng ý 1 1.0 1.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Bảng 2.25: TTBCX làm ảnh hƣởng kết quả đầu tƣ
Ý kiến Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Đồng ý 53 53.0 53.0 53.0
Không ý kiến 46 46.0 46.0 99.0
48
Không đồng ý 1 1.0 1.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Bảng 2.26: Hiệu quả đầu tƣ tốt hơn nếu không còn TTBCX
Ý kiến Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Đồng ý 64 64.0 64.0 64.0
Không ý kiến 34 34.0 34.0 98.0
Không đồng ý 2 2.0 2.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Sự vận hành của SGDCK TP.HCM:
Khi được hỏi về SGDCK TP.HCM, 74 người cho rằng thị trường chưa thực
sự hiệu quả, giá của các cổ phiếu hiện nay chưa phản ánh đúng giá trị thực của công
ty niêm yết. Bên cạnh đó, 67 người đồng ý rằng việc giám sát thị trường của các cơ
quan chức năng trong thời gian qua chưa chặt chẽ và 64 người tin rằng việc xử lý
các trường hợp vi phạm trên SGDCK TP.HCM trong thời gian qua chưa nghiêm
minh.
Bảng 2.27: Thị trƣờng chƣa hiệu quả
Ý kiến Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Đồng ý 74 74.0 74.0 74.0
Không ý kiến 17 17.0 17.0 91.0
Không đồng ý 9 9.0 9.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
49
Bảng 2.28: Giám sát chƣa chặt chẽ
Ý kiến Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Đồng ý 67 67.0 67.0 67.0
Không ý kiến 29 29.0 29.0 96.0
Không đồng ý 4 4.0 4.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
Bảng 2.29: Xử lý chƣa nghiêm minh
Ý kiến Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Đồng ý 64 64.0 64.0 64.0
Không ý kiến 32 32.0 32.0 96.0
Không đồng ý 4 4.0 4.0 100.0
Total 100 100.0 100.0
Nguồn: từ kết quả khảo sát của tác giả
2.2.7.2 Đánh giá kết quả khảo sát
Qua khảo sát trên, ta rút ra được một số kết luận như sau:
Do công nghệ thông tin ngày càng phát triển và dễ càng tiếp cận, các nhà đầu
tư hiện nay hầu hết có thói quen thu thập thông tin qua internet. Vì vậy, các công ty
niêm yết, công ty đại chúng, công ty chứng khoán cũng như cơ quản quản lý (cụ thể
là UBCKNN, SGDCK TP.HCM) nên thường xuyên cập nhật website nhằm cung
cấp thông tin cho các nhà đầu tư một cách tiện lợi, nhanh chóng, kịp thời nhất.
Phần lớn các nhà đầu tư đồng ý rằng SGDCK TP.HCM hiện đang rất thiếu
thông tin, nếu có thì các thông tin cũng không được minh bạch hoặc công bố chậm
50
trễ. Nhiều nhà đầu tư còn cho rằng chính tình trạng TTBCX đã làm ảnh hưởng đến
kết quả đầu tư của họ. Các cơ quan chức năng cần tiến hành các giải pháp thiết thực
hơn nhằm giảm thiểu tình trạng TTBCX và giúp cho thị trường hoạt động hiệu quả.
Nhiều nhà đầu tư cũng cho rằng SGDCK TP.HCM hiện nay thiếu sự giám
sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý, khiến nhiều DN vi phạm công bố thông tin
nhưng suốt một thời gian dài không bị phát hiện. Bên cạnh đó, khi phát hiện ra vi
phạm thì các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa xử lý thật nghiêm minh, hình thức xử
phạt chưa thỏa đáng, không răn đe được các đối tượng vi phạm. Trong thời gian tới,
cần hoàn thiện luật pháp sao cho hình phạt tương xứng với mức độ vi phạm, đồng
thời tăng cường hợp tác với bộ công an nhằm xử phạt hình sự, mang tính răn đe
nhiều hơn.
2.3 Đánh giá chung về thực trạng thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tƣ
trên SGDCK TP.HCM trong thời gian qua
2.3.1 Kết quả đạt được
Qua hơn 10 năm hình thành và đi vào hoạt động, SGDCK TP.HCM đã đạt
được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên, cũng như những TTCK khác, sự xuất
hiện của tình trạng TTBCX là không thể tránh khỏi. Trong quá trình đấu tranh nhằm
hạn chế và dần loại bỏ tình trạng này, SGDCK TP.HCM đã gặt hái được những
thành công nhất định như sau:
Luật pháp cũng như những căn cứ pháp lý qui định về thông tin bất cân xứng
ngày càng được hoàn thiện hơn. Thông tư số 09/2010/TT-BTC do Bộ tài chính ban
hành ngày 15/01/2010 đã tạo được bước đột phá trong việc quản lý hoạt động công
bố thông tin của các tổ chức liên quan trên TTCK như các công ty niêm yết, công ty
đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ… Một trong những nội dung
thay đổi được giới đầu tư đánh giá cao tại Thông tư 09/2010/TT-BTC là các quy
định về công bố thông tin của công ty đại chúng và tổ chức niêm yết nhằm tăng
cường tính minh bạch của thị trường, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của nhà đầu tư. Cụ
thể, Thông tư 09/2010/TT-BTC yêu cầu báo cáo tài chính năm của công ty đại
51
chúng phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập đủ điều kiện hành nghề
theo quy định của Bộ Tài chính, đồng thời hướng dẫn chi tiết các yêu cầu đối với
thuyết minh báo cáo tài chính. Bước đột phá nữa được thị trường đánh giá cao đối
với Thông tư 09/2010/TT-BTC là đối với tổ chức niêm yết, yêu cầu báo cáo tài
chính bán niên (6 tháng đầu năm) phải được soát xét bởi tổ chức kiểm toán được
chấp thuận theo quy định của Chuẩn mực kiểm toán số 910 (trước đây, không yêu
cầu kiểm toán). Báo cáo tài chính quý cũng phải được lưu trữ ít nhất 10 năm để nhà
đầu tư tham khảo (trước đây, chỉ yêu cầu 12 tháng).
Cùng với các văn bản pháp luật mới ban hành, qui định về mức xử phạt tối
đa cũng được điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển của TTCK. Theo Nghị định
số 85/2010/NĐ-CP, kể từ ngày 20/9/2010, những vi phạm trong lĩnh vực chứng
khoán và TTCK sẽ bị xử phạt ở mức tối đa là 500 triệu đồng. Cụ thể là cá nhân
tham gia vào các hoạt động gian lận, tạo dựng thông tin sai sự thật hoặc bỏ sót các
thông tin cần thiết gây hiểu nhầm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến hoạt động phát
hành, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán và các dịch vụ chứng
khoán; tham gia vào việc công bố thông tin sai lệch nhằm lôi kéo, xúi giục việc
mua, bán chứng khoán hoặc không công bố kịp thời, đầy đủ thông tin về các sự kiện
xảy ra có ảnh hưởng đến giá chứng khoán trên thị trường sẽ bị phạt tiền đến 500
triệu đồng. Đây được xem là một bước tiến đáng kể trong lĩnh vực chứng khoán bởi
Nghị định số 36/2007/NĐ-CP năm 2007 quy định tối đa xử phạt trong lĩnh vực
chứng khoán là 70 triệu đồng đã lỗi thời và không còn phù hợp, chưa đảm bảo được
tính răn đe và phòng ngừa vi phạm. Ngoài ra, cá nhân, tổ chức vi phạm còn có thể
bị áp dụng biện pháp xử phạt bổ sung là tịch thu toàn bộ khoản thu trái pháp luật từ
việc thực hiện hành vi vi phạm.
Trước đây, khái niệm thông tin bất cân xứng vốn rất xa lạ đối với các nhà
đầu tư Việt Nam. Ngày nay, trình độ cũng như nhận thức của các công ty niêm yết,
công ty đại chúng, công ty chứng khoán, và cả các nhà đầu tư Việt Nam trên
SGDCK TP.HCM đã được cải thiện đáng kể. Các công ty ngày càng tuân thủ qui
định về công bố thông tin hơn, mỗi công ty đều có website riêng đăng tải các thông
52
tin về hoạt động và báo cáo tài chính cũng dễ dàng được tìm thấy trên các trang web
này. Số lượng công ty chứng khoán tăng khá nhanh trong thời gian qua khiến các
công ty này phải tăng cường dịch vụ, cung cấp thông tin kịp thời và chính xác cho
các khách hàng của mình nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh. Ngoài ra, các nhà
đầu tư hiện nay cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của thông tin, biết chọn lọc
những thông tin đáng tin cậy cho hoạt động đầu tư của mình. Đồng thời, các cổ
đông lớn, cổ đông nội bộ cũng thường xuyên báo cáo các giao dịch của họ theo
đúng qui định của pháp luật.
2.3.2 Hạn chế
Do SGDCK TP.HCM nói riêng, cũng như TTCK nước ta nói chung vẫn còn
rất non trẻ; vì vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn tồn tại nhiều mặt
hạn chế chưa thể khắc phục:
Thông tư 09/2010/TT-BTC dù gặt hái được những thành công nhất định, vẫn
chưa đủ để khỏa lấp những khoảng trống pháp lý. Trong thời gian qua, trên SGDCK
TP.HCM vẫn tồn tại những hiện tượng chưa minh bạch, như gian lận BCTC, làm
đẹp BCTC từ một số ban quản lý DN, bán cổ phần theo giá ảo cho cổ đông nội bộ
để làm giá cổ phiếu... Ngoài ra, Thông tư 09/2010/TT-BTC cũng có những nội dung
chưa cụ thể. Chẳng hạn, quy định yêu cầu DN niêm yết công bố thông tin bất
thường khi có các sự kiện ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất - kinh doanh, hoặc
tình hình quản trị của tổ chức niêm yết. Tuy nhiên, khái niệm thế nào là “ảnh hưởng
lớn” lại rất khó xác định, khiến việc áp dụng trong thực tế còn mang nặng cảm tính.
Với sự phát triển của thị trường hiện tại, cần thiết phải có thông tư thay thế Thông
tư 09/2010/TT-BTC. Với mỗi giai đoạn của thị trường, việc sửa đổi, bổ sung và
khoả lấp kẽ hở trong khuôn khổ pháp lý là việc làm thường xuyên. Do đó, những
động thái của cơ quan quản lý trong việc nghiên cứu sửa đổi Thông tư 09/2010/TT-
BTC được nhà đầu tư đặt nhiều kỳ vọng sẽ tạo sự minh bạch cao hơn cho thị trường
trong thời gian tới.
53
Mặc dù các qui định cụ thể về việc công bố thông tin đã được ban hành, các
thành viên tham gia trên SGDCK TP.HCM vẫn thường xuyên vi phạm. Một số công
ty vẫn không tuân thủ thời hạn nộp báo cáo do nhiều lý do khác nhau. Các công ty
chứng khoán cũng vi phạm pháp luật vì công bố thông tin không kịp thời, một số
công ty chứng khoán còn có sự ưu đãi quá mức với nhà đầu tư lớn, tạo ra sự bất
bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, các cổ đông lớn, cổ đông nội bộ của
các công ty vẫn thường xuyên không thông báo các giao dịch của họ theo đúng qui
định của pháp luật. Mức phạt mới dường như vẫn chưa đủ để răn đe các nhà đầu tư
này. Ngoài ra, các nhà đầu tư cá nhân ở nước ta hiện nay vẫn chưa có nhiều kinh
nghiệm về chứng khoán, chưa biết cách bảo vệ mình trước những thông tin sai lệch,
vẫn còn tình trạng đầu tư theo bầy đàn và tung những tin đồn thất thiệt nhằm trục
lợi cho bản thân, gây lũng đoạn TTCK.
Các cơ quan quản lý chưa thật sự nghiêm minh. Thực tế cho thấy trong thời
gian qua, các cơ quan quản lý như UBCKNN, SGDCK TP.HCM chưa xử lý kịp
thời khi có vi phạm. UBCKNN phạt không thỏa đáng, bỏ sót, hoặc vì lí do gì đó
không phạt, khiến cho công ty niêm yết khinh nhờn và tiếp tục vi phạm
2.3.3 Nguyên nhân của tồn tại
SGDCK TP.HCM hiện nay vẫn còn nhiều vi phạm về công tác CBTT. Ngoài
nguyên nhân khách quan như TTCK Việt Nam còn non trẻ, kinh nghiệm về chứng
khoán chưa nhiều, tình trạng TTBCX còn do những nguyên nhân sau:
Các thành viên tham gia trên SGDCK TP.HCM vẫn chưa hoàn toàn tuân thủ
theo qui định về công bố thông tin của pháp luật.
Các cơ quan chức năng chưa hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, công tác
giám sát thực trạng công bố thông tin trên thị trường hiện nay chưa chặt chẽ, chưa
phát hiện được các vi phạm một cách nhanh chóng, kịp thời.
Đồng thời, công tác xử lý vi phạm của các cơ quan quản lý cũng chưa
nghiêm minh, hình phạt chưa thích đáng, chưa mang tính răn đe cao, hoặc vì lý do
54
gì đó không phạt nên ngày càng có nhiều DN cũng như cá nhân không tuân thủ việc
công bố thông tin theo đúng quy định của pháp luật.
Kết luận chƣơng 2
Qua hơn 11 năm hoạt động, TTCK Việt Nam nói chung cũng như tình hình
công bố thông tin trên SGDCK TP.HCM nói riêng đang gặp phải rất nhiều khó
khăn, thử thách. Do thị trường này vẫn còn khá non trẻ ở nước ta, nhà đầu tư trong
nước cũng chưa có nhiều kinh nghiệm, cùng với hệ thống luật pháp còn nhiều khe
hở, sự tồn tại của thông tin bất cân xứng cũng là điều tất yếu. Để đảm bảo quyền lợi
cho các nhà đầu tư trên SGDCK TP.HCM, mang lại hiệu quả kinh tế cho đất nước,
cần khẩn trương triển khai các biện pháp thích hợp để đẩy lùi thông tin bất cân
xứng, giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư tham gia thị trường.
55
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
ĐỐI VỚI NHÀ ĐẦU TƢ TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TP.HCM
Tình trạng thông tin bất cân xứng làm cho SGDCK TP.HCM không hoạt
động hiêu quả, thường gây thiệt hại cho các nhà đầu tư. Những giải pháp nhằm
giảm thiểu tình trạng này được đưa ra dựa trên cơ sở định hướng phát triển của
TTCK Việt Nam trong thời gian tới.
3.1 Cơ sở đƣa ra giải pháp
Giai đoạn 2000-2010 là giai đoạn TTCK phát triển về lượng, trải theo bề
rộng của thị trường. Nhiều công ty chứng khoán được thành lập, nhiều mã cổ phiếu
được niêm yết hơn, số lượng nhà đầu tư tham gia cũng như vốn đầu tư của họ vào
TTCK cũng gia tăng theo từng năm. Tuy nhiên, TTCK nước ta nói chung cũng như
SGDCK TP.HCM nói riêng trong thời gian qua mới chỉ phát triển về mặt số lượng;
vì vậy trong giai đoạn tới, chúng ta vừa phải kế thừa những nội dung tốt nhằm duy
trì sự phát triển này, mặt khác, phải thúc đẩy thị trường phát triển về mặt chất
lượng, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, đáp ứng nhu cầu thị trường và nhu cầu của
cả nền kinh tế. Đó cũng chính là mục tiêu hướng đến của đề án phát triển TTCK
Việt Nam trong năm 2011-2020 đã được Ủy ban chứng khoán xây dựng.
Chiến lược phát triển TTCK giai đoạn sắp tới sẽ hướng tới mục tiêu: tăng
quy mô, củng cố tính thanh khoản cho TTCK, phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hóa thị
trường cổ phiếu đạt từ 70% đến 100% GDP vào năm 2020, tăng tính hiệu quả cho
thị trường trên cơ sở tái cấu trúc TTCK, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, chuyên nghiệp
hóa việc tổ chức và vận hành hạ tầng công nghệ thông tin, nâng cao sức cạnh tranh
của các định chế trung gian thị trường, các tổ chức phụ trợ TTCK, tăng cường năng
lực quản lý, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm, củng cố lòng tin của nhà đầu tư...
Cùng với đó, chiến lược cũng tập trung vào việc phát triển nhà đầu tư tổ chức
(quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm), coi việc phát triển nhà đầu tư tổ chức là
giải pháp mang tính đột phá nhằm hướng tới sự phát triển bền vững của TTCK.
Đồng thời, tiếp tục khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư cá nhân, khai thác cơ
56
sở nhà đầu tư nước ngoài, theo hướng tập trung khuyến khích tổ chức đầu tư nước
ngoài có mục tiêu đầu tư dài hạn.
Ngoài ra, chiến lược cũng đề cao một số hướng phát triển thị trường như:
nâng cao năng lực và sức cạnh tranh cho hệ thống các tổ chức trung gian thị trường,
đặc biệt chú trọng tới việc nâng cấp và chuẩn hóa hệ thống quản trị rủi ro tại các tổ
chức này theo thông lệ quốc tế, củng cố lòng tin thị trường, đa dạng hóa và đồng bộ
hóa cấu trúc thị trường, tập trung phát triển thị trường trái phiếu chính phủ, từng
bước phát triển thị trường trái phiếu công ty và thị trường phái sinh, kết hợp với
việc tái cấu trúc tổ chức thị trường, hướng tới một hệ thống thị trường hoàn thiện và
hiện đại hóa.
Để tăng tính hiệu quả cho SGDCK TP.HCM, cần có những biện pháp thiết
thực nhằm giảm thiểu thông tin bất cân xứng trên thị trường.
3.2 Các giải pháp giúp giảm thiểu thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tƣ
trên SGDCK TP.HCM
3.2.1 Tăng cường hoạt động quản lý của các cơ quan chức năng
3.2.1.1 Khung pháp lý phải gấp rút hoàn thiện
Cải thiện pháp luật về chứng khoán, tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp
luật hướng dẫn thi hành luật chứng khoán và các văn bản pháp luật có liên quan:
Thứ nhất, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán, số
62/2010/QH12 đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2011. Tuy nhiên, mới chỉ có
Thông tư số 74/2011/TT-BTC hướng dẫn về giao dịch chứng khoán đã được ban
hành vào ngày 1/6/2011 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/8/2011. Còn một số văn
bản khác, đặc biệt là Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi vẫn còn đang trong giai đoạn hoàn tất dự
thảo. Bộ tài chính cùng UBCKNN và các cơ quan liên quan cần đẩy nhanh tiến độ
hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn này để góp phần cải thiện chất lượng điều hành
thị trường của cơ quan quản lý, đồng thời tác động trực tiếp đến các thành viên
57
tham gia thị trường theo hướng phải tuân thủ các luật chơi rõ ràng, công bằng, minh
bạch hơn.
Thứ hai, cải cách hệ thống pháp luật về thuế, khắc phục tình trạng doanh
nghiệp sử dụng nhiều hệ thống sổ sách kế toán nhằm trốn thuế. Các quy định pháp
luật về thuế, các chế tài xử lý vi phạm phải được quy định chặt chẽ, nghiêm minh và
hệ thống cơ quan thuế phải được cải tổ theo cơ chế quản lý và kiểm soát chặt chẽ để
đề phòng những tiêu cực có thể xảy ra.
Thứ ba, cải thiện mạnh mẽ hơn nữa các hệ thống luật doanh nghiệp, luật phá
sản… các biện pháp thực thi nhằm thẳng tay loại trừ các DN kinh doanh thua lỗ
triền miên đang là gánh nặng cho nền kinh tế nói chung và các tổ chức tín dụng nói
riêng.
3.2.1.2 Các cơ quan giám sát tăng cường kiểm tra và thực thi pháp luật, xử phạt
nghiêm minh các giao dịch nội gián và các hành vi khác gây ra thông tin bất cân
xứng
Giám sát, kiểm tra các báo cáo tài chính, diễn biến hoạt động đầu tư trên
TTCK; thiết lập cơ chế kiểm tra, thẩm định thông tin trước khi công bố. Đồng thời
có sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động giám sát CBTT giữa các cơ quan, đơn vị có
chức năng giám sát ở từng lĩnh vực.
Hệ thống tòa án phải nghiêm minh, xét xử đúng người đúng tội và công
bằng. Cần nâng cao công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp, nâng cao ý thức chí
công vô tư của đội ngũ những người cầm cân nảy mực. Xóa bỏ tình trạng tiêu cực
quan liêu, chậm chạp làm mất nhiều thời gian và tiền bạc của các cơ quan thi hành
án để khôi phục lòng tin của các DN vào pháp luật của nhà nước.
Xử lý nhanh chóng các vi phạm về CBTT trên TTCK. Thực tế vừa qua cho
thấy khi phát hiện những sai phạm về CBTT của một công ty nào đó thì sự phản
ứng của các cơ quan có thẩm quyền chưa nhanh nhạy hay xử lý kịp thời làm ảnh
hưởng đến uy tín của các đơn vị khác và làm giảm niềm tin của nhà đầu tư.
58
Tăng cường mối liên kết với các cơ quan công an nhằm điều tra tội phạm và
kết hợp xử lý bằng các biện pháp hình sự. Bộ Tài chính - Bộ Công an có trách
nhiệm phối hợp chặt chẽ với nhau trong công tác phòng ngừa, phát hiện, làm rõ, xử
lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán cũng như TTCK. Cần xác định rõ
tính chất vụ việc vi phạm là dân sự, kinh tế, hành chính hay hình sự để xác định
đúng thẩm quyền, áp dụng đúng quy định pháp luật, tránh gây phiền hà, thiệt hại
cho tổ chức, cá nhân tham gia SGDCK TP.HCM.
Quy định cụ thể và rõ ràng hơn chức năng và nhiệm vụ của từng cơ quan,
đơn vị có nhiệm vụ giám sát CBTT trên SGDCK TP.HCM.
Ngoài chức năng kiểm tra, các cơ quan giám sát phải đứng ở góc độ nhà đầu
tư khi tìm hiểu thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng để xem xét liệu
các công ty niêm yết và các công ty chứng khoán có làm đúng quy định chưa? Đã
chấp hành các quy chế về CBTT chưa? Nhà đầu tư đã nhận được đầy đủ những
thông tin theo quy định chưa?
Trên cơ sở giám sát và kiểm tra, sẽ tổng kết để đánh giá tình hình CBTT của
từng công ty niêm yết, công ty chứng khoán và các thông tin thị trường khác. Trong
bảng đánh giá cần nêu thật cụ thể những vi phạm của từng công ty để công chúng
được biết, tất nhiên là những đánh giá này là khách quan và công bằng để đảm bảo
quyền lợi của các công ty niêm yết.
3.2.1.3 Hệ thống kế toán, kiểm toán phải được tăng cường cải thiện hơn
Cải cách hệ thống chuẩn mực kế toán và kiểm toán, tạo tính minh bạch và
chính xác trong các báo cáo tài chính của DN. Nên áp dụng chính sách kiểm toán
báo cáo tài chính như chính sách của Mỹ hoặc một số nước có TTCK đã phát triển
áp dụng: các báo cáo tài chính không được phép công bố cho đến khi chúng đã
được các công ty kiểm toán độc lập kiểm chứng.
SGDCK TP.HCM hoạt động trong điều kiện việc công khai thông tin của
hầu hết DN trong nền kinh tế không bắt buộc phải thực hiện và chưa có tiền lệ về
59
thực hiện các chuẩn mực quản trị DN. Do vậy việc hoàn thiện hệ thống công bố
thông tin là vấn đề quan trọng để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư được tiếp cận với
các thông tin nhanh chóng, chính xác và công bằng. Để bảo đảm các thông tin có
độ tin cậy cao, trước hết UBCKNN cần đẩy mạnh và nâng cao chất lượng kiểm toán
đối với các công ty niêm yết, cụ thể như: (i) xử lý nghiêm các kiểm toán viên vi
phạm; (ii) nâng cao trình độ của các doanh nghiệp kiểm toán, nhất là các doanh
nghiệp kiểm toán nhà nước; (iii) tăng cường hệ thống kiểm soát rủi ro, nâng cao
trình độ và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên góp phần hạn chế vi phạm quy
tắt kế toán, hành động gian lận trong công tác kiểm toán.
3.2.2 Phát triển các kênh công bố thông tin
3.2.2.1 Các công ty niêm yết
Nhận thức đúng đắn việc cung cấp thông tin cho thị trường: Vì công bố
thông tin là điều kiện thuận lợi cho công ty, khi công bố thông tin tốt, công ty đạt
được hai mục đích: công bố thông tin theo mục đích và là hình thức quảng cáo
không tốn chi phí. Tên tuổi các công ty niêm yết được công chúng và các nhà đầu tư
biết đến nhiều hơn, nổi tiếng hơn, hình ảnh của công ty đẹp hơn mà không cần phải
quảng cáo và họ luôn theo dõi từng bước đi của công ty, từ đó ban lãnh đạo của
công ty phải dốc sức nhiều hơn, phải hoạch định chiến lược phát triển của công ty
cụ thể, rõ ràng để không phụ lòng tin của nhà đầu tư và cổ đông. Còn khi có thông
tin xấu thì vẫn không làm giảm hình ảnh của công ty vì sự thành thật và quyết tâm
khắc phục của lãnh đạo công ty.
Nghiêm chỉnh chấp hành các qui định về CBTT theo đúng luật pháp quy
định. Cụ thể là, các công ty niêm yết cần sử dụng các phương tiện có tính phổ biến
rộng rãi như báo chí, website chính thức của công ty khi CBTT, tránh tình trạng sử
dụng các phương tiện truyền thông ít người theo dõi như các báo ít tên tuổi hoặc các
website không chính thức khiến người đọc nghi ngờ về độ tin cậy của thông tin.
Ngoài ra, thời gian CBTT cũng rất quan trọng, các công ty niêm yết cần đăng tin
một cách kịp thời, đúng hạn quy định, tránh tình trạng công bố vào các thời điểm
60
gấp rút, không đủ số ngày theo quy định khiến các nhà đầu tư không có đủ thời gian
tìm hiểu cặn kẽ trước khi ra quyết định đầu tư. Mặc khác, nội dung của thông tin
công bố cũng cần được các công ty niêm yết quan tâm. Cần phải công bố một cách
chi tiết, đầy đủ thông tin; các chỉ tiêu, số liệu tính toán phải có thuyết minh, giải
trình; tránh tình trạng giấu các số liệu nhạy cảm, chỉ đưa ra các thông tin sơ sài,
không đầy đủ, không rõ ràng, không thể kiểm tra.
Đảm bảo cung cấp đầy đủ các thông tin định kỳ, tức thời và theo yêu cầu:
Việc công bố các thông tin định kỳ và thường xuyên sẽ tránh được ảnh hưởng của
các thông tin sai lệch về các công ty, do việc người đầu tư thường xuyên được tiếp
nhận thông tin chính thức nên có cơ sở để nhận định được đúng, sai khi thị trường
xuất hiện những thông tin không chính thức mang tính bất lợi cho công ty. Các
công ty niêm yết cần có kế hoạch phân bổ thời gian hàng quý, hàng năm và nộp
trước thời hạn quy định để cán bộ quản lý hồ sơ cũng như doanh nghiệp có thời
gian kiểm tra, đối chiếu trước khi công bố thông tin cho các nhà đầu tư đồng thời
đáp ứng được thời hạn quy định. Hơn nữa khi thông tin ra thị trường về các báo cáo
tài chính, các phương án kinh doanh của mình, các công ty cần phải hết sức thận
trọng, cần tính tới mọi khả năng phát sinh, để khi thông tin được công bố thì đó là
thông tin chính thức và không thể có sự giải thích nào khác. Ngoài ra, các BCTC
định kỳ nên thực hiện theo đúng quy định của bộ tài chính về thời gian, tránh chậm
trễ, gây nên tình trạng mất tin tưởng và hoang mang của các nhà đầu tư. Những
trường hợp chậm trễ của các công ty niêm yết phải công bố lý do cụ thể trên các
phương tiện thông tin đại chúng qua SGDCK TP.HCM nhằm hạn chế những thông
tin không chính thức gây bất lợi cho công ty.
Cải thiện cơ cấu quản trị doanh nghiệp của các công ty niêm yết: phát huy
vai trò của hội đồng quản trị, hội đồng giám sát và cổ đông đóng vai trò quan trọng
trong Đại hội đồng. Ban giám đốc của công ty niêm yết và kiểm soát nội bộ nên độc
lập với nhau, tạo thuận lợi cho việc cải cách hệ thống quản lý và kiểm soát lẫn nhau,
giảm thiểu các sai sót kế toán. Việc cải thiện cơ cấu quản trị của các công ty niêm
yết giúp ngăn ngừa TTBCX ngay từ đầu.
61
Chú trọng công tác kiểm soát nội bộ: Những thông tin được công bố từ các
công ty niêm yết, đặc biệt là các công ty về tài chính rất nhạy cảm và quan trọng đối
với các cổ đông và các nhà đầu tư trên thị trường, vì đây là thông tin cơ sở để các
nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu tư. Do đó, để nâng cao tính minh bạch của
thông tin công bố thì cần quan tâm thích đáng đến công tác kiểm soát nội bộ.
Hiện các công ty niêm yết đều có website riêng theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, các thông tin công bố trên những website này vẫn chưa được cập nhật
đầy đủ và kịp thời. Vì vậy, trong thời gian tới, các công ty cần chú trọng đầu tư
nhiều hơn nữa vào công tác cập nhật thông tin trên website, tăng cường tổ chức bộ
phận chuyên trách về công bố thông tin có trình độ chuyên môn cao và đạo đức
nghề nghiệp tốt, để đảm bảo các thông tin được truyền tải thường xuyên, kịp thời và
rộng rãi ra công chúng, giúp các đầu tư dễ dàng, nhanh chóng nắm bắt những thông
tin liên quan đến công ty và có quyết định đúng đắn trong hoạt động đầu tư kinh
doanh chứng khoán.
3.2.2.2 Các công ty chứng khoán
Quán triệt đầy đủ các nguyên tắc về thông tin chứng khoán, phản ánh trung
thực các thông tin về chứng khoán, công ty niêm yết, khi công bố thông tin phải
trung thực , kịp thời…
Bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ nhân viên, khuyến khích nhân viên có tinh
thần trách nhiệm. Đội ngũ nhân viên tư vấn là những người trực tiếp gặp gỡ, tiếp
xúc nhà đầu tư, lời tư vấn của họ là một trong những các yếu tố giúp đưa ra các
quyết định đối với nhà đầu tư. Do đó để thực hiện tốt nghiệp vụ tư vấn và đảm bảo
cung cấp thông tin cho khách hàng thì đòi hỏi phải có một đội ngũ tư vấn viên lành
nghề, có trình độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp và tạo lòng tin với nhà
đầu tư. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán cần thường xuyên tổ chức các lớp
nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên, ứng dụng các tiến bộ công nghệ thông tin.
Đa dạng hóa kênh cung cấp thông tin cho khách hàng: Ngoài các kênh CBTT
thông thường như website, báo chí, internet…; các công ty chứng khoán cần duy trì
62
những buổi gặp gỡ giữa những công ty do công ty chứng khoán tư vấn niêm yết và
các nhà đầu tư để tăng thêm thông tin cho khách hàng. Giúp đỡ khách hàng có thêm
thông tin từ các công ty niêm yết bằng cách tập hợp những nhà đầu tư nắm giữ cổ
phiếu của công ty đó và làm văn bản yêu cầu cung cấp thông tin gửi đến công ty.
Phát triển nghiệp vụ tư vấn đầu tư: Đây là nghiệp vụ mà công ty chứng
khoán đưa ra lời tư vấn, phân tích chi tiết về công ty niêm yết cho các nhà đầu tư có
yêu cầu, việc này không chỉ làm tăng thêm các hình thức dịch vụ cho các công ty
chứng khoán mà còn tăng thêm một kênh cung cấp thông tin cho khách hàng rất
hiệu quả và mang lại lợi nhuận cho công ty (do có thu phí dịch vụ).
3.2.2.3 Các tổ chức trung gian chứng khoán
Tăng cường sự giám sát của các tổ chức trung gian chứng khoán. Các tổ
chức trung gian chứng khoán cần được tiêu chuẩn hóa và cải thiện. Thông qua hoạt
động được tiêu chuẩn hóa của các trung gian chứng khoán, thông tin của các công
ty niêm yết sẽ đảm bảo được tính xác thực và toàn vẹn. Tăng cường sàng lọc để làm
trong sạch các họat động của trung gian chứng khoán, giảm thiểu thông tin bất cân
xứng và giúp giảm thiểu rủi ro đối với nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, các tổ chức này cần chú trọng hơn vào công tác kiểm toán, cần
kiểm tra và xác nhận độ tin cậy của báo cáo do các công ty niêm yết phát hành, làm
cơ sở giúp nhà đầu tư tiếp cận được với những thông tin chính xác và có quyết định
đầu tư đúng đắn hơn.
3.2.3 Nâng cao năng lực của giới truyền thông
Cung cấp cho các nhà báo, nhân viên làm các chuyên mục trên các phương
tiện truyền thông về chứng khoán những nghiệp vụ sâu hơn để phân tích chứng
khoán. Để thực hiện điều này, thì các cơ quan quản lý cần phải mở lớp đào tạo
chứng khoán cho nhóm đối tượng trên, và thực hiện giảng dạy thật nghiêm túc
nhằm cung cấp cho họ kiến thức chuyên môn, các nhận định, đánh giá về TTCK
một cách chính xác, hợp lý. Từ đó, chất lượng các bài viết, các chuyên mục chứng
63
khoán trên các phương tiện truyền thông sẽ đầy đủ, chính xác hơn và mang tính
định hướng lâu dài. Các nhà đầu tư sẽ có được đầy đủ thông tin cần thiết và có cách
tiếp nhận phù hợp để đưa ra quyết định đầu tư hợp lý.
Các nhà báo cần chọn lọc thông tin một cách khách quan, cần phải phân biệt
thông tin này đúng hay sai để đăng tải, nhằm tăng độ chính xác của các thông tin
cung cấp, tránh việc công bố một cách bừa bãi, vô trách nhiệm, khiến nhà đầu tư có
những nhận thức sai lầm về các công ty niêm yết trên SGDCK TP.HCM.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý, cụ thể là SGDCK TP.HCM cũng cần có biện
pháp quản lý đối với các diễn đàn điện tử về chứng khoán đang rất phát triển như
hiện nay. Các diễn đàn này cung cấp thông tin một cách rất lộn xộn và thiếu sự quản
lý nên dễ nảy sinh tiêu cực. Đây cũng là kênh mà những kẻ tung tin đồn thất thiệt sử
dụng để lan truyền một cách nhanh chóng. Vì vậy cần phải có cơ chế phù hợp để
quản lý những diễn đàn như thế này.
3.2.4 Giải pháp về tiếp nhận thông tin
Trình độ và tính chuyên nghiệp của nhà đầu tư cũng như các tổ chức trung
gian thị trường đã được cải thiện đáng kể qua hơn 10 năm tham gia thị trường.
Đồng thời với sự tham gia mạnh mẽ của các nhà đầu tư có tổ chức đã khiến cho
diện mạo của thị trường thay đổi. Nếu như trước đây giá cổ phiếu thường lên xuống
theo trào lưu, thì gần đây, chuyển động của giá cổ phiếu đã có sự không đồng biến
và phản ánh thực hơn kết quả sản xuất kinh doanh của DN. Theo đó, các quyết định
đầu tư được đưa ra sát thực tế hơn với khả năng phát triển của DN và định hướng
đầu tư cũng dần thay đổi từ hình thức ngắn hạn sang trung và dài hạn. Mọi thông tin
từ các công ty niêm yết lúc này đều là cơ sở để nhà đầu tư quyết định giao dịch của
mình. Vì thế mà việc công bố thông tin của công ty niêm yết, công ty chứng khoán,
SGDCK TP.HCM đối với nhà đầu tư là hết sức quan trọng.
Tuy nhiên không phải nhà đầu tư nào tiếp nhận cùng một thông tin cũng có
cách hành xử hoàn toàn giống nhau, hay không phải nhà đầu tư nào cũng có thể tiếp
cận được những thông tin giống nhau. Để trở thành một nhà đầu tư thành công hơn,
64
có chỗ đứng trên bước đường hội nhập trước hết nhà đầu tư phải phân biệt rằng
thông tin chỉ là một công cụ hỗ trợ để ra quyết định chứ không phải là căn cứ duy
nhất cho việc ra quyết định, bên cạnh đó đồng thời đòi hỏi các nhà đầu tư những kỹ
năng cần thiết để thu thập thông tin một cách nhanh chóng, chính xác và kịp thời hỗ
trợ cho quyết định của mình:
Một là, nhà đầu tư phải chủ động tìm kiếm thông tin, đồng thời nâng cao khả
năng quan sát và tìm kiếm thông tin: hiện nay thông tin về chứng khoán có khá
nhiều trên mạng Internet, các báo cáo, tạp chí chuyên ngành…Không những phải
chủ động tìm kiếm thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng này, nhà đầu
tư cũng cần thành thạo trong việc chọn lọc các thộng tin hữu ích ảnh hưởng thật sự
đến quyết định của mình.
Hai là, nhà đầu tư cần nâng cao khả năng xử lý các nguồn thông tin có được:
nhà đầu tư phải tích cực, chủ động tham gia các khóa học về chứng khoán, tìm hiểu
những kiến thức nền tảng về kế toán, cũng như các kiến thức bổ trợ liên quan đến
chứng khoán (hiểu biết căn bản về đồ họa,…).
Bên cạnh đó, bản thân các nhà đầu tư, đặc biệt là cổ đông lớn, cổ đông nội
bộ của công ty cũng phải chấp hành nghiêm túc việc CBTT theo đúng qui định.
Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng cần tự bảo vệ mình, tránh đầu tư theo phong
trào, khi tiếp nhận thông tin cần kiểm tra, xem xét đối tượng cung cấp thông tin là
ai, có đáng tin cậy không; phải biết chọn lọc những thông tin chính xác cho quyết
định đầu tư của mình; tránh việc lan truyền những thông tin không đúng sự thật, cố
tình tiếp tay cho những tin đồn thất thiệt, gây sai lệch và náo loạn thị trường.
Kết luận chƣơng 3
Cũng như nhiều TTCK khác trên thế giới, SGDCK TP.HCM đang phải đối
mặt với vấn đề thông tin bất cân xứng, gây thiệt hại nặng nề cho các nhà đầu tư, đặc
biệt là nhà đầu tư nhỏ lẻ. Các giải pháp trên đây sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng
thông tin bất cân xứng, giúp thị trường hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên, để thực
65
hiện được điều này, cần có sự nổ lực và kết hợp hành động của các bên tham gia thị
trường. Một khi các thành viên đều tuân thủ theo quy định của pháp luật dựa trên
nguyên tắc công bố thông tin minh bạch, công khai; SGDCK TPHCM cũng như
TTCK nước ta sẽ phát triển bền vững và mang lại cơ hội đầu tư công bằng cho tất
cả các nhà đầu tư.
66
KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu đề tài, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Thứ nhất, thông tin bất cân xứng là một hiện tượng phổ biến, nhưng lại có
ảnh hưởng nghiêm trọng, làm móp méo thông tin chính thống và khiến cho TTCK
phát triển không hiệu quả, gây ra nhiều thiệt hại cho nhà đầu tư.
Thứ hai, các vi phạm về công bố thông tin trên SGDCK TP.HCM hiện nay
ngày càng nhiều, chủ yếu do hệ thống luật pháp lỏng lẻo, chưa sát với thực tế, mức
phạt chưa đủ để răn đe các thành viên tham gia. Mặc khác, công tác quản lý của các
cơ quan chức năng liên quan như UBCKNN, SGDCK TP.HCM còn nhiều hạn chế,
xử lý chậm chạp, thiếu trách nhiệm, gián tiếp tạo ra thêm thiệt hại cho nhà đầu tư và
làm mất niềm tin vào TTCK.
Thứ ba, qua khảo sát thực tế 100 nhà đầu tư cá nhân ngẫu nhiên tại TP.HCM,
hầu hết các nhà đầu tư được hỏi đều nhận thức sự tồn tại của thông tin bất cân xứng
trên SGDCK TP.HCM, số đông còn khẳng định tình trạng này gây ảnh hưởng xấu
đến kết quả đầu tư của họ và cho rằng nếu thị trường không còn thông tin bất cân
xứng thì họ sẽ đầu tư hiệu quả hơn.
Cuối cùng, để giảm thiểu thông tin bất cân xứng trên SGDCK TP.HCM, điều
cần làm trước tiên là hoàn thiện hệ thống luật pháp. Đồng thời, bản thân mỗi nhà
đầu tư cũng cần phải tự bảo vệ mình, sáng suốt chọn lọc thông tin và nghiêm túc
thực hiện công bố thông tin theo qui định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ tài chính Ủy ban chứng khoán Nhà nước, “Bản tin Ủy ban chứng khoán”,
www.ssc.gov.vn.
2. Cafef (2011), “Biểu đồ chứng khoán”, http://cafef.vn/Thi-truong-niem-
yet/Bieu-do-ky-thuat/EPS-VNINDEX-2.chn, truy cập ngày 21/10/2011.
3. Cafef (2011), “Giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán đến tháng 6/2011”,
http://cafef.vn/20110617104213848CA31/den-thang-62011-gia-tri-von-hoa-
ttck-chi-chiem-gan-325-gdp.chn, truy cập ngày 15/9/2011.
51999/nvn-vi-pham-cbtt-cua-co-dong-lon.chn, truy cập ngày 02/11/2011.
4. Cafef (2011), “NVN: Vi phạm CBTT của cổ đông lớn”, http://cafef.vn/NVN-
5. Cafef (2010), “Năm 2010 có thể tiến hành giao dịch buổi chiều tại Hose”,
http://cafef.vn/20100122081259302CA31/nam-2010-co-the-tien-hanh-giao-
dich-buoi-chieu-tai-hose.chn, truy cập ngày 12/9/2011.
6. Công ty chứng khoán Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Phân tích kinh tế
vĩ mô, http://www.vcbs.com.vn/Research/Report.aspx?report_type=3.
7. Công ty cổ phần chứng khoán Âu Việt, “Báo cáo tổng kết thị trường chứng
khoán 2009 và dự báo 2010”,
http://www.avsc.com.vn/avscfiles/others/7c1905a
0-2731-4b55-8d53-dd376f7a32f3.pdf, truy cập ngày 15/8/2011.
8. Công ty cổ phần chứng khoán Âu Việt, “Báo cáo tổng kết thị trường chứng
khóan 2010 và dự báo 2011”,
http://www.avsc.com.vn/portal/news/detail.do?cat
egory=WR&id=100018, truy cập ngày 15/8/2011.
9. Công văn số 548/UBCK-TT ngày 01 tháng 03 năm 2010 của Bộ tài chính-
Ủy ban chứng khoán Nhà nước về việc “công bố thông tin của cổ đông nội
bộ khi thực hiện giao dịch cổ phiếu của công ty niêm yết”.
10. Lê An Khang (2008), “Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đối với nhà
đầu tư trên thị trường chứng khoán TP.HCM”. Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
kinh tế, Đại học kinh tế TP. HCM, khoa sau Đại học.
11. ThS. Bùi Thị Lệ (2010), Những bài học kinh nghiệm kiểm soát rủi ro từ một
số thị trường chứng khoán quốc tế, Bản tin khoa hoc, cao đẳng thương mại –
số 12 ( Quý IV/2010)
12. Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006, hiệu lực thi
hành ngày 01 tháng 01 năm 2007.
13. Luật số 62/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm 2010, sửa đổi, bổ sung một số
điều của luật chứng khoán, hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 07 năm 2011.
14. ThS Hoàng Ngọc Nhậm (2009), Giáo trình kinh tế lượng, NXB Lao động –
Xã hội, Hà Nội.
15. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, www.hnx.vn.
16. Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM, www.hsx.vn.
17. Tạp chí kinh tế và dự báo, chuyên san “Tổng quan kinh tế - xã hội Việt
Nam”, số 2 tháng 6/2010.
18. Lê Văn Tề, Trần Đắc Sinh, và Nguyễn Văn Hà (2005), Thị trường chứng
khoán tại Việt Nam, NXB Thống Kê, Hà Nội.
19. Thông tư số 09/2010/TT-BTC ngày 15 tháng 01 năm 2010 của Bộ tài chính,
hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.
http://tbck.vn/News/Thi-truong-chung-khoan/Tin-
20. Thời báo chứng khoán Việt Nam (2011), “Hàng loạt vi phạm công bố thông
HOSE/9481/Hang-loat-vi-pham-cong-bo-thong-tin-tren-HOSE.html,
tin trên HOSE”,
truy cập
ngày 03/11/2011.
21. PGS.TS Bùi Kim Yến, TS. Nguyễn Minh Kiều (2009), Thị trường tài chính,
NXB Thống Kê, Hà Nội.
Tiếng Anh
22. Barry Grey (2008), The Wall street crisis and the failure of American
capitalism.
23. George Akerlof, Michael Spence, Joseph Stiglitz (2001), Asymmetric
Information.
24. Investopedia “stock market”,
http://www.investopedia.com/terms/s/stockmarket.asp#axzz1biEcQZC8, truy
cập ngày 22/09/2011.
25. Lawrence G. McDonald, Patrick Robinson (2009), A Colossal Failure of
Common Sense.
26. Stephen Fay (1996), The Collapse Of Barings, Richard Cohen Books.
27. Yang Jing (2008), Causes and Solutions of Information asymmetry in stock
market, School of Kexin Hebei University of Engineering, P.R.China.
PHỤ LỤC
Phiếu khảo sát:
ẢNH HƢỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐỐI VỚI CÁC NHÀ
ĐẦU TƢ TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TP.HCM
Kính chào quý anh/chị. Hiện tôi là thành viên của lớp cao học K17D2 tại
trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh và đang viết khóa luận về đề tài
“Giải pháp giảm thiểu thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư trên sở giao dịch
chứng khoán TP.HCM”. Nghiên cứu của tôi liên quan đến những rủi ro mà nhà đầu
tư chứng khoán có thể gặp phải do thông tin bất cân xứng gây ra, nguyên nhân và
cách khắc phục nó.
Trong kinh tế học nói chung, tình trạng thông tin bất cân xứng phát sinh khi
trong một giao dịch, một trong các bên tham gia có nhiều thông tin hơn hoặc có
thông tin tốt hơn các bên còn lại. Ví dụ: rò rỉ thông tin nội bộ, cổ đông nội bộ mua
bán không công bố thông tin….
Câu hỏi điều tra bao gồm 17 câu hỏi và chỉ mất khoảng 10-15 phút để hoàn
thành. Những câu trả lời của quý anh/chị sẽ cực kỳ giúp ích trong việc đóng góp
đến việc nghiên cứu của tôi. Tất cả những câu trả lời sẽ được bảo mật. Xin chân
thành cảm ơn sự giúp đỡ của quý anh/chị.
1. Giới tính
□ Nam
□ Nữ
2. Độ tuổi của anh/chị:
□ Dưới 25 tuổi □ 36-50 tuổi
□ 25-35 tuổi □ Trên 50 tuổi
3. Anh/chị đang công tác trong ngành nghề nào?……………………….
4. Anh/chị đã tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam trong bao lâu?
□ Dưới 1 năm □ Từ 1 đến 5 năm
□Từ 5 đến 10 năm □ Trên 10 năm
5. Anh/chị đang tham gia sàn chứng khoán nào? (có thể chọn nhiều câu trả lời)
□ HOSE
□ HASTC
□ UpCom
6. Anh/chị đang đầu tư bao nhiêu tiền vào thị trường chứng khoán?
□ Dưới 200 triệu đồng □ 200 triệu-500 triệu đồng
□ 500 triệu – 1 tỷ đồng □ 1 tỷ - 5 tỷ đồng
□ Trên 5 tỷ
7. Anh/chị là nhà đầu tư:
□ Lướt sóng, ngắn hạn (< 1năm)
□ Trung dài hạn (≥ 1 năm)
□ Cả hai
8. Danh mục đầu tư cổ phiếu của các anh chị gồm bao nhiêu mã cổ phiếu
□ Chỉ 01 mã cổ phiếu □ 02 – 05 cổ phiếu
□ Trên 05 cổ phiếu
9. Từ khi tham gia thị trường chứng khoán đến giờ, hiệu quả đầu tư của anh/chị
thế nào?
□ Lời
□ Lỗ
□ Huề vốn
10. Bao lâu anh/chị cập nhật thông tin chứng khoán 1 lần?
□ Không theo dõi □ Mỗi ngày
□ 1 -2 tuần □ 3-4 tuần
□ Trên 1 tháng □ Khác……………….
11. Anh/ chị cập nhật thông tin chứng khoán bằng phương tiện nào? (có thể chọn
nhiều câu trả lời)
□ Báo chí □ Phát thanh truyền hình
□ Internet □ Trao đổi với người thân, bạn bè, đồng nghiệp
12. Từ các phương tiện thông tin trên, các thông tin nào anh/chị theo dõi nhiều
nhất?
□ Báo cáo tài chính của công ty niêm yết
□ Thông báo của các cơ quan quản lý trong lĩnh vực chứng khoán (Ủy ban
chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán)
□ Ý kiến bình luận của các chuyên gia, công ty chứng khoán
□ Khác …………………
13. Theo anh/chị, có khoảng bao nhiêu doanh nghiệp công bố thông tin trên
SGDCK TP.HCM đầy đủ và minh bạch làm hài lòng nhà đầu tư :
□ Dưới 30% □ 30 – 50%
□ 50 – 70 % □ Trên 70%
14. Theo anh/chị, sự tăng giảm trên sàn HOSE thời gian qua là do: (có thể chọn
nhiều câu trả lời)
□ Việc làm giá hàng loạt cổ phiếu
□ Ảnh hưởng của kinh tế thế giới
□ Tình hình kinh tế vĩ mô trong nước
□ Tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp
□ Sự thiếu minh bạch thông tin trên SGDCK TP.HCM
15. Anh/chị vui lòng đánh giá các phát biểu qua những mức độ nêu dưới đây:
STT Phát biểu Rất Không Không Đồng Rất
không đồng ý có ý kiến ý đồng
đồng ý ý
15.1 Giá cổ phiếu trên SGDCK
TP.HCM hiện nay chưa phản ánh
đúng giá trị của công ty niêm yết
(Thị trường chưa thực sự hiệu
quả)
15.2 Thông tin của các công ty niêm
yết được công bố không kịp thời
15.3 Thông tin của các công ty niêm
yết được công bố không chính
xác
15.4 Có sự thiếu thông tin trên
SGDCK TP.HCM
15.5 Có sự tồn tại của thông tin bất
cân xứng trên SGDCK TP.HCM
15.6 Thông tin bất cân xứng làm ảnh
hưởng đến kết quả đầu tư của
anh/chị
15.7 Anh/chị sẽ đầu tư hiệu quả hơn
nếu SGDCK TP.HCM không còn
tình trạng thông tin bất cân xứng
15.8 Việc giám sát các trường hợp vi
phạm trên SGDCK TP.HCM thời
gian qua của cơ quan chức năng
chưa chặt chẽ.
15.9 Việc xử lý các trường hợp vi
phạm trên SGDCK TP.HCM thời
gian qua của cơ quan chức năng
chưa nghiêm minh.
16. Theo anh/chị, để tăng tính minh bạch trên SGDCK TP.HCM, hạn chế tối đa
thông tin bất cân xứng, anh/chị có đề xuất những yêu cầu gì?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác và hỗ trợ của quý anh (chị)!