1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
*******
LÊ BẢO THU
GIẢI PHÁP HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
TRONG VIỆC TIẾP CẬN CÁC NGUỒN VỐN ĐỂ PHÁT
TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
*******
LÊ BẢO THU
GIẢI PHÁP HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
TRONG VIỆC TIẾP CẬN CÁC NGUỒN VỐN ĐỂ PHÁT
TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NGỌC HÙNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2010
3
MỤC LỤC
TRANG
Trang bìa phụ lục.
Mục lục.
Danh mục các cụm từ viết tắt.
Danh mục các bảng số liệu.
LỜI MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài.
2. Mục đích của đề tài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn.
Chương 1: Tổng quan về DNNVV và các nguồn tài trợ cho DNNVV.
1.1 Khái niệm, phân loại và đặc điểm DNNVV…………………………………….. 11
1.1.1 Khái niệm……………………………………………………………………... 11
1.1.2 Phân loại DNNVV……………………………………………………………. 13
1.1.3 Đặc điểm DNNVV…………………………………………………………….. 15
1.2 Vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế………………………………………... 18
1.2.1 DNNVV đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế………………... 19
1.2.2 DNNVV góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế………………………………... 20
1.2.3 DNNVV làm tăng năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế………………………. 20
1.2.4 DNNVV đóng góp vào ngân sách nhà nước………………………………….. 21
1.2.5 Góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, các vấn đề xã hội……….. 21
1.3 Nguồn vốn kinh doanh và các hình thức huy động vốn của DNNVV trong nền kinh tế
thị trường…………………………………………………………………….. 22
1.3.1 Nguồn vốn kinh doanh………………………………………………………… 22
1.3.2 Các hình thức huy động vốn của DNNVV trong nền kinh tế thị trường……… 23
4
1.4 Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới về việc hỗ trợ DNNVV tiếp cận các nguồn
vốn để phát triển sản xuất kinh doanh………………………………………... 28
1.4.1 Malaysia………………………………………………………………………. 28
1.4.2 Đài Loan………………………………………………………………………. 30
1.4.3 Thái Lan……………………………………………………………………….. 33
1.4.4 Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam……………………………………...36
Kết luận chương 1…………………………………………………………………… 37
Chương 2: Thực trạng về khả năng tiếp cận các nguồn vốn để phát triền sản xuất
kinh doanh của DNNVV ở Việt Nam.
2.1 Khái quát thực trạng về hoạt động kinh doanh của DNNVV ở Việt Nam hiện
nay…………………………………………………………………………………… 38
2.2 Thực trạng về khả năng tiếp cận các nguồn vốn để phát triển sản xuất kinh doanh của
DNNVV ở Việt Nam hiện nay………………………………………… 42
2.2.1 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng thương mại…………………….. 42
2.2.2 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ cho thuê tài chính…………………………. 46
2.2.3 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ bảo lãnh tín dụng…………………….. 47
2.2.4 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ tín dụng xanh dành cho DNNVV…….. 50
2.2.5 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ đầu tư mạo hiểm……………………... 51
2.2.6 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ thị trường chứng khoán……………………. 54
Kết luận chương 2…………………………………………………………………… 59
Chương 3: Một số giải pháp hỗ trợ DNNVV tiếp cận các nguồn vốn để phát triển sản
xuất kinh doanh.
3.1 Kiên nghị đôi với DNNVV……………………………………………………… 60
3.1.1 Nâng cao chât lượng báo cáo kê toán………………………………………….. 60
3.1.2 Thay đổi tư duy trong quản trị doanh nghiệp ở các DNNVV………………… 62
3.1.3 Tham gia các hiệp hội ngành nghê…………………………………………….. 63
3.2 Kiến nghị các trung gian tài chính………………………………………………..64
3.2.1 Kiên nghị đôi với các công ty cho thuê tài chính……………………………… 64
3.2.2 Quỹ đâu tư mạo hiêm…………………………………………………………. 65
5
3.2.3 Kiến nghị phát triển thị trường chứng khoán………………………………….. 66
3.2.4 Kiên nghị đôi với ngân hàng thương mại……………………………………… 68
3.3 Kiên nghị đôi với quy bao lanh tin dung………………………………………… 74
3.3.1 Kiên nghị đôi với quy bao lanh tin dung DNNVV……………………………. 74
3.3.2 Kiên nghị đôi với quy bao lanh tin dung DNNVV do VDB làm đâu môi…….. 76
3.4 Kiến nghị đối với chính phủ…………………………………………………….. 80
Kết luận chương 3…………………………………………………………………… 85
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
6
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
GNP Tổng thu nhập quốc dân (Gross National Product)
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for economic co-
operation and Development)
CIEM Viện Nghiên Cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng nhà nước
VCCI Phòng thương mại công nghiệp Việt nam
HSBC Ngân hàng Hồng Kong Thượng Hải
ACB Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
CTTC Cho thuê tài chính
ĐTMH Đầu tư mạo hiểm
DN Doanh nghiệp
TTCK Thị trường chứng khoán
DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa
SGDCK Sở giao dịch chứng khoán
SCIC Tổng công ty đầu tư kinh doanh và vốn nhà nước
NH Ngân hàng
FCI Hiệp hội bao thanh toán thế giới (Factors Chain International)
VDB ngân hàng phát triển Việt nam
TTTD thông tin tín dụng
7
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Trang
Bảng 1.1. Tiêu chí phân loại DNNVV ở Việt nam ………………………………….. 12
Bảng 1.2. Tiêu chí phân loại DNNVV ở một số quốc gia…………………………… 15
Bảng 1.3. Đóng góp của khu vực DNNVV vào lao động và GDP ở các nước……… 19
Bảng 2.1. Thống kê về số lượng DNNVV giai đoạn 2000-2008……………………. 38
Bảng 2.2. Cơ cấu nguồn vốn của DNNVV………………………………………….. 42
Bảng 2.3. Những khó khăn khi tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng…………………… 43
Bảng 2.4. Tỷ lệ vốn vay đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp…………………… 43
8
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Quy mô vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt nam từ 1991-2006……………. 53
Biểu đồ 3.1: Doanh thu bao thanh toán tại Việt nam…………………………………70
9
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Sự thành công của các DNNVV là động lực chính cho phát triển kinh tế, tăng
thu nhập và xoá đói giảm nghèo ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Với đặc điểm
của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay DNNVV đóng một vai trò rất
quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế.
Chính vì lý do đó mà nhiệm vụ phát triển khu vực DNNVV là một nhiệm
vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc ban hành hàng loạt các Nghị định, Thông tư, chỉ
thị về các chính sách hỗ trợ cho sự phát triển của các DNNVV đã làm cho DNNVV
có bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua. Việc phát triển DNNVV góp phần
đa dạng hoá các thành phần kinh tế, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng GDP của
đất nước, đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế, góp phần giải quyết công ăn
việc làm và ổn định đời sống xã hội cho hàng triệu lao động.
Tuy nhiên, trên thực tế các DNNVV còn gặp nhiều khó khăn như: nguồn vốn
hoạt động còn hạn chế, khả năng tiếp cận với các nguồn vốn chính thức khó khăn,
khoa học công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kinh doanh còn yếu kém,… Chính
điều này đã kềm hãm sự phát triển của DNNVV làm cho DNNVV không thể hiện
hết tiềm năng của nó.
Trong các nguyên nhân gây cản trở sự phát triển của DNNVV thì vấn đề nguồn
vốn hoạt động của các DNNVV là vấn đề được đánh giá là quan trọng và cấp thiết
nhất. Do đó, việc lựa chọn đề tài “giải pháp hỗ trợ DNNVV trong việc tiếp cận
các nguồn vốn để phát triển sản xuất kinh doanh” nhằm góp phần mở ra nhiều
cơ hội cho các DNNVV tiếp cận với các nguồn vốn chính thức để các doanh nghiệp
mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và ngày càng phát triển mạnh mẽ
hơn góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.
2. Mục đích của đề tài:
10
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về DNNVV (khái niệm, đặc điểm, vai
trò, các nguồn tài trợ cho sự phát triển của DNNVV).
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới (Malaysia, Đài Loan,
Thái Lan) về việc hỗ trợ DNNVV tiếp cận các nguồn vốn để phát triển sản xuất
kinh doanh để rút ra những bài học kinh nghiệm ứng dụng vào điều kiện Việt Nam.
- Đánh giá đúng thực trạng về khả năng tiếp cận các nguồn vốn để phát triển sản
xuất kinh doanh của DNNVV ở VN trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp hỗ trợ DNNVV ở VN tiếp cận các nguồn vốn để phát
triển sản xuất kinh doanh trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Các nguồn tài trợ và vai trò của chúng đối với sự phát triển của DNNVV trong
nền kinh tế.
+ Thực trạng tiếp cận các nguồn tài trợ của các DNNVV.
+ Các giải pháp giúp cho các DNNVV tiếp cận các nguồn tài trợ.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận văn này thì người viết chỉ tập trung
xem xét kỹ về khả năng tiếp cận các nguồn vốn và những giải pháp nhằm nâng cao
khả năng tiếp cận của các DNNVV đối với từng nguồn vốn vay cụ thể.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu sử dụng được vận dụng tổng hợp từ các phương pháp
phân tích, tổng hợp, suy luận logic.
- Nguồn thông tin dữ liệu từ nhiều nguồn như từ các khảo sát, nghiên cứu khoa học
về DNNVV của các nhà nghiên cứu, các dữ liệu từ Tổng cục thống kê,Sở Kế Hoạch
và Đầu Tư, Niên giám thống kê, các kết quả khảo sát về DNNVV của các tổ chức
kinh tế trong và ngoài nước, các bài báo, tạp chí, báo điện tử, nhận định của các
chuyên gia về các vấn đề của DNNVV,…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu:
11
- Việc nhìn nhận, đánh giá một cách đúng đắn vai trò của các DNNVV trong nền
kinh tế sẽ giúp các doanh nghiệp này phát triển mạnh mẽ hơn và đóng góp nhiều
hơn vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam.
- Để phát huy vai trò của DNNVV trong sự phát triển chung của nền kinh tế cần
phải có giải pháp hỗ trợ từ nhiều phía, nhiều cơ quan hữu quan, trong đó giải pháp
hỗ trợ các DNNVV tiếp vận các nguồn vốn vay để phát triển SXKD đóng vai trò
hết sức quan trọng, đang trở thành vấn đề bức xúc hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận Luận văn được kết cấu thành ba chương:
- Chương 1: Tổng quan về DNNVV và các nguồn tài trợ cho DNNVV.
- Chương 2: Thực trạng về khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay để phát triển sản
xuất kinh doanh của DNNVV ở Việt Nam.
- Chương 3: Một số giải pháp hỗ trợ DNNVV tiếp cận các nguồn vốn vay để phát
triển sản xuất kinh doanh.
12
CHƯƠNG 1: TÔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀ CÁC
NGUỒN TÀI TRỢ CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA.
1.1 Khái niệm, phân loại và đặc điểm DNNVV.
1.1.1 Khái niệm DNNVV.
DNNVV chính là đối tượng của đề tài nghiên cứu này nên việc đưa ra một khái
niệm chính xác về DNNVV có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó sẽ giúp cho việc
phân loại, xác định tính chất, đặc điểm, vai trò cũng như hướng hỗ trợ đối với đối
tượng này ở các phần sau. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay trên thế giới không có
khái niệm chuẩn mực về doanh nghiệp vừa và nhỏ chung cho tất các nước. Việc xác
lập khái niệm về DNNVV được dựa trên một số tiêu chí, nhưng việc lựa chọn tiêu
chí nào và thước đo của các tiêu chí đó lại có sự khác biệt tùy theo trình độ phát
triển kinh tế-xã hội, của từng thời kỳ, ngành nghề, vùng lãnh thổ.v.v.. Sự khác biệt
này có thể xảy ra giữa các quốc gia, khu vực kinh tế với nhau và cũng có thể xảy ra
trong chính bản thân một quốc gia nào đó.
Các tiêu chí được sử dụng trong việc xây dựng khái niệm về DNNVV chủ yếu
tập trung vào hai nhóm tiêu chí lớn: tiêu chí mang tính định tính và tiêu chí mang
tính định lượng. Nhóm tiêu chí định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ như: mức độ chuyên môn hóa, mức độ phức tạp của quản
lý, số đầu mối quản lý..v.v.. Các tiêu chí này về mặt định tính được cho là phản ánh
đúng bản chất vấn đề nhưng lại khó xác định trên thực tế vì việc thực hiện những đo
lường nói trên là rất khó khăn. Cũng chính bởi lý do này mà nhóm tiêu chí định tính
chỉ được sử dụng mang tính chất tham khảo. Nhóm tiêu chí thứ hai là tiêu chí định
lượng, thường sử dụng những tiêu chí như số lượng lao động, vốn (hoặc giá trị tài
sản), doanh thu, lợi nhuận. Cụ thể hơn:
- Số lượng lao động có thể là số lao động trung bình trong danh sách, số lao động
thường xuyên, số lao động thực tế.
- Vốn (hoặc giá trị tài sản) có thể là tổng vốn (hoặc giá trị tài sản), vốn (hoặc
giá trị tài sản) cố định.
13
- Doanh thu có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm (hiện nay tiêu
chí này có xu hướng được sử dụng nhiều).
Theo Liên minh Châu Âu, DNNVV là doanh nghiệp có số lượng công nhân
không vượt quá 250. Ở Mỹ và Canada các doanh nghiệp có ít hơn 500 lao động
được xem là DNNVV. Ở Nhật Bản thì tùy ngành nghề, với các ngành sản xuất
thì tối đa 300 người và nguồn vốn tối đa là 300 triệu Yên, các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực buôn bán (wholesale) thì qui mô là 100 người và 100 triệu Yên,
còn ngành bán lẻ, dịch vụ thì số lao động nằm ở mức 50-100 người, nguồn vốn là
50 triệu Yên. Tại Ôxtraylia DNNVV là doanh nghiệp có số lượng công nhân tối đa
không vượt quá 300.
Hiện nay, ở nước ta cơ sở pháp lý để xác định DNNVV hiện nay là Nghị định
số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển với doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Theo quy định tại Điều 3 của Nghị định thì “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ
sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật, được chia thành 3 cấp: siêu
nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài
sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động
bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên) cụ thể như sau:
Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại DNNVV ở Việt nam
Quy Doanh Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
nghiệp siêu mô
nhỏ
Tổng Tổng nguồn
Số lao động nguồn vốn Số lao động vốn Số lao động
Khu vực I.Nông, lâm 10 người 20 tỷ đồng từ trên 10 từ trên 20 tỷ từ trên 200
nghiệp trở xuống trở xuống người đến đồng đến 100 người đến
và thuỷ sản II. Công nghiệp 10 người 20 tỷ đồng 200 người từ trên 10 tỷ đồng từ trên 20 tỷ 300 người từ trên 200
và xây dựng trở xuống trở xuống người đến đồng đến 100 người đến
200 người tỷ đồng 300 người
III. Thương mại 10 người 20 tỷ đồng từ trên 10 từ trên 20 tỷ từ trên 50
14
và dịch vụ trở xuống trở xuống người đến 50 đồng đến 50 tỷ người đến
người đồng 100 người
Nghị định này so với nghị định số số 90/2001/NĐ-CP của chính phủ về trợ giúp
phát triển với doanh nghiệp vừa và nhỏ có một số điểm thay đổi. Nếu
như Nghị định số 90/2001/NĐ-CP quy định doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản
xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn
đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá
300 người thì nghị định mới phân chia các doanh nghiệp nhỏ và vừa thành ba mức
là: doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa theo từng khu
vực ngành nghề khác nhau như: Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, Công nghiệp và xây
dựng, Thương mại và dịch vụ. Cách phân chia theo quy định mới sẽ chính xác hơn
vì đã chú ý đến tính chất, đặc điểm của từng ngành nghề. Và việc phân loại
DNNVV ra thành ba cấp giúp cho việc trợ giúp cho từng đối tượng được thuận lợi
hơn.
1.1.2 Phân loại DNNVV
Việc lựa chọn các tiêu chí để xây dựng khái niệm về DNNVV thực chất chính
là việc phân loại doanh nghiệp dựa trên các tiêu chí được xác định đó (nhóm tiêu
chí về quy mô). (Việc phân loại doanh nghiệp còn có thể dựa vào những tiêu chí
khác ví dụ như ngành nghề hoạt động, hình thức tổ chức v.v…) Đầu tiên, hãy bắt
đầu bằng việc xem xét các yếu tố tác động đến phân loại DNNVV.
- Trình độ phát triển kinh tế: sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế ở đây được
hiểu là giữa các quốc gia với nhau, và trong chính một quốc gia qua những thời kỳ
khác nhau. Một điều dễ nhận thấy là trình độ phát triển kinh tế khác nhau thì thì trị
số của các tiêu chí xếp loại cũng khác nhau. Trong thực tế có rất nhiều trường hợp
những trị số dùng để xác định doanh nghiệp nhỏ ở nước này lại tương đương với trị
số để xác định doanh nghiệp vừa ở nước khác. Hoặc trong một quốc gia ở các thời
kỳ phát triển kinh tế khác nhau cũng có sự khác nhau trong tiêu chí để xếp loại ví dụ
15
như ở Việt nam giai đoạn trước đây, trị số về số lao động ở DNNVV là 200 gần đây
đã nâng lên 300.
- Tính chất ngành nghề: do tính chất ngành nghề khác nhau mà dẫn đến hệ quả sự
thâm dụng vốn và lao động cũng khác nhau. Có ngành sẽ sử dụng nhiều lao động
(như giày da, dệt may), cũng có ngành sử dụng ít lao động nhưng nhiều vốn (như
hóa chất, điện). Vì vậy cần có tính chất này để có sự so sánh trong việc phân loại
giữa các DNNVV với nhau. Trên thực tế, việc phân loại theo tính chất ngành nghề
thường được chia thành 2 nhóm: nhóm sản xuất, nhóm dịch vụ; hoặc cũng có một
cách phân chia khác như là nhóm sản xuất và dịch vụ, nhóm buôn bán sỉ, nhóm
buôn bán lẻ. vv.. Ngoài ra trong tính toán kỹ thuật cũng có thể sử dụng hệ số ngành
để so sánh, đối chứng giữa các ngành với nhau.
- Vùng lãnh thổ: Vùng lãnh thổ được hiểu là giữa các khu vực kinh tế với nhau,
giữa các vùng trong một quốc gia. Lý do vùng lãnh thổ ảnh hưởng đến sự phân loại
doanh nghiệp là do điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, trình độ phát triển giữa các
vùng không đồng đều. Một doanh nghiệp được coi là nhỏ ở khu vực thành thị
nhưng cũng cùng qui mô đó lại là doanh nghiệp vừa ở vùng nông thôn. Trong tính
toán kỹ thuật, hệ số vùng cũng thường được sử dụng.
- Mục đích phân loại: đây là một yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến việc xác định
DNNVV, khái niệm về DNNVV sẽ khác nhau khi mục đích phân loại khác nhau.
Chẳng hạn, khái niệm DNNVV với mục đích phân loại là để hỗ trợ các doanh
nghiệp yếu, mới thành lập, sẽ khác với khái niệm DNNVV với mục đích giảm thuế
cho các doanh nghiệp có công nghệ sạch, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường.
Trong thực tế, mục đích, quan điểm của người phân loại DNNVV là hết sức quan
trọng, lấy ví dụ như trường hợp ở Việt Nam, việc xác định DNNVV trong nghị định
56/2009/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV cũng được dựa trên
một trong hai tiêu chí, số vốn đăng ký hoặc số lao động trung bình hằng năm.
Nhìn chung, ở hầu hết các quốc gia thực hiện sự phân loại DNNVV đều tiếp tục
áp dụng các tiêu chí về số lượng lao động, nguồn vốn, ở một số quốc gia có sự phân
loại cụ thể hơn, những tiêu chí này được áp dụng trong một khoảng thời gian xác
16
định, được áp dụng tùy theo nhóm ngành nghề, (tuy nhiên, sự khác biệt về vùng
lãnh thổ trong phạm vi một quốc gia thường ít được xem xét đến).
Rõ ràng, việc phân loại các DNNVV là hết sức khó khăn, tuy nhiên lại là việc
cần được thực hiện vì việc phân loại sẽ được lấy làm cơ sở cho việc hoạch định
chính sách, hay áp dụng các ưu tiên, hỗ trợ v.v.. Tùy theo mục đích phân loại mà ta
sẽ có các tiêu chí và cách thức xác định khác nhau, việc tiến hành cần phải hết sức
linh hoạt và khách quan.
1.1.3 Đặc điểm các DNNVV.
Phân tích đặc điểm của DNNVV rất quan trọng giúp chúng ta hiểu rõ bản chất
của DNNVV vì nó có ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách đối với các doanh
nghiệp này. Dưới đây là một số đặc điểm của DNNVV:
+ Qui mô vốn và lao động nhỏ: đây là đặc trưng chủ yếu của DNNVV, đặc trưng
này có ở hầu hết các DNNVV ở các quốc gia trên thế giới cho dù đó là DNNVV ở
một nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ hay DNNVV ở một nền kinh tế
đang phát triển như ở Việt Nam. Sau đây là tiêu chí về vốn và số lao động của
DNNVV ở các quốc gia trong khu vực và trên thế giới tại điểm vào năm 2002
Bảng 1.2: Tiêu chí phân loại DNNVV ở một số quốc gia 2002.
STT Nước Phân loại Số lao Số vốn Doanh thu
động I. Các nước phát triển
1 Mỹ Tất cả các ngành 0 - 500 Không quan Không quan trọng
2 Nhật Bản
Chế tác Bán buôn 1 - 300 1 - 100 trọng 300 triệu Yên 0 – 100 triệu
3 EU Bán lẻ Dịch vụ DN cực nhỏ 1 – 50 1 - 100 < 10 Yên 0 – 50 1 – 100 Không quan
trọng
DN nhỏ DN vừa < 50 < 250 7 triệu Ecu 27 triệu Ecu
17
4 Australia Chế tác nhỏ < 100 Không quan Không quan trọng
trọng
5 Hàn Quốc
Chế tác vừa Dịch vụ nhỏ Dịch vụ vừa Chế tác K mỏ & vận tải 100 – 199 < 20 20 - 199 0 - 300 0 - 300 20 - 80 tỷ Won Không quan Không quan trọng
trọng
Xây dựng TM & DV
0 - 200 0 - 20 II. Các nước đang phát triển
1 Thái Lan Sản xuất nhỏ Không quan 0 – 50 tr Baht
trọng
Không quan trọng
Sản xuất vừa Bán buôn nhỏ Bán buôn vừa Bán lẻ nhỏ Bán lẻ vừa DN nhỏ 51 - 200 0 - 50 51 - 100 0 – 30 31 - 60 0 – 20.000$ 2 Indônêxia 0 – 100.000$ Không quan
trọng
DN vừa 20.000 100.000 – 500.000
– 100.000$ 1,5 – 15 tr 3 Philippine DN nhỏ 10 – 99
Pêxo 10 – 60 tr Không quan 4 Malaysia DN vừa Chế tác 100 - 199 0 - 150 0 – 25 RM
trọng Không quan 5 Mêxico DN cực nhỏ 0 - 15 Không quan trọng
trọng
DN nhỏ DN vừa
1 Nga Không quan trọng 16 – 100 101 - 250 III. Các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Không quan 1 – 249 DN nhỏ
trọng
DN vừa 250 – 999
18
2 Trung
DN nhỏ DN vừa 50 – 100 101 - 500
Quốc Hungary 3
4 Ba Lan
DN cực nhỏ DN nhỏ DN vừa DN nhỏ DN vừa DN nhỏ DN nhỏ Rumani Bungary 20 tr BGL 5 6
1 – 10 10 - 50 50 - 250 < 50 51 - 200 1 – 20 < 50 Nguồn: Hồ sơ các DNNVV của APEC, 2003; Tổng quan các DNNVV của OECD,
2002
+ Trình độ công nghệ thấp, năng suất lao động kém: Đây cũng là một đặc điểm
chung các DNNVV. Do đa số DNNVV được thành lập với số vốn ban đầu rất hạn
chế nên trang bị máy móc thiết bị lạc hậu. Hơn nữa chi phí đầu tư công nghệ mới và
kỹ thuật hiện đại cao nên thường vượt quá khả năng của các DNNVV. Chính vì ít
đầu tư máy móc thiết bị hoặc không có đủ vốn để đầu tư vào máy móc hiện đại đã
làm cho năng suất lao của DNNVV thấp. Cũng bắt nguồn từ qui mô nhỏ, nguồn vốn
ít nên không có khả năng để đầu tư trang thiết bị hiện đại, dẫn đến khả năng cạnh
tranh kém từ đó dẫn đến không có khả năng vay vốn để nâng cấp, mua mới các
trang thiết bị hiện đại. Điều này làm cho DNNVV rơi vào vòng luẩn quẩn gây trở
ngại lớn cho sự phát triển của các DNNVV.
+ Về chất lượng nguồn nhân lực: Phần lớn các DNNVV sử dụng nhiều lao động
giản đơn, trình độ tay nghề chưa cao. Đội ngũ quản lý còn thiếu trình độ, kỹ năng
quản lý, sử dụng kinh nghiệm là chủ yếu. Khả năng quản lý của chủ DNNVV được
đánh giá chung là yếu và còn hạn chế.
+ Về năng lực tiếp cận thị trường: DNNVV thiếu thông tin tiếp cận thị trường,
đặc biệt là thị trường quốc tế. Điều này một phần bắt nguồn từ trình độ của chính
doanh nghiệp. Đa phần các DNNVV thiếu chiến lược dài hạn, thiếu tầm nhìn. Rất
nhiều doanh nghiệp chưa có ý định vươn xa ra các thị trường khác trong nước, vươn
ra thị trường quốc tế.
19
+ Về sự linh hoạt với sự thay đổi của thị trường: các DNNVV được xem là rất
linh hoạt để thích ứng với những thay đổi trong môi trường kinh doanh, điều này
chính là do và cấu trúc tổ chức gọn nhẹ của các doanh nghiệp này. Người chủ doanh
nghiệp hầu như làm tất cả mọi việc và người lao động được thuê mướn để đảm
đương nhiều công việc khác nhau do đó không có tính chuyên môn hóa. Nhưng nếu
nhìn nhận từ một khía cạnh mang tính dài hạn hơn, các DNNVV từ chỗ linh hoạt
cũng rất dễ chuyển thành dễ bị tổn thương khi phát triển trong một môi trường kinh
doanh nhiều biến động lớn, đặc biệt là bất kỳ thay đổi nào về công nghệ hay chính
sách của chính phủ, hoặc thay đổi các yếu tố vĩ mô khác như lạm phát tăng cao
cũng có thể có một tác động mạnh lên hoạt động của các doanh nghiệp này bởi vì
những thay đổi tức thì, trực tiếp thường yêu cầu sự gia tăng về vốn và nguồn lực.
Điều này có thể trở thành một hạn chế lớn đối với các doanh nghiệp này trong cạnh
tranh và đảm bảo sự phát triển bền vững của chính mình.
1.2 Vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế.
Tại các nước phát triển nhất như Hoa Kỳ, Nhật Bản..., Chính phủ các nước này
cũng xác định vai trò quan trọng, lâu dài của các DNNVV là bộ phận cấu thành
không thể thiếu được của nền kinh tế, có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời
nhau với các tập đoàn kinh tế, đặc biệt trong công nghiệp bổ trợ (supporting
industries) và mạng lưới phân phối sản phẩm.
Ở nước ta, thành phần kinh tế dân doanh, trong đó chủ yếu là các DNNVV ngày
càng giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Chiếm trên 96% số doanh nghiệp đăng
ký hoạt động, các DNNVV đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế và giải
quyết các vấn đề xã hội.
1.2.1 DNNVV đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế: DNNVV là
khu vực thu hút tích cực và có khả năng huy động các nguồn vốn, nguồn lực của xã
hội cho đầu tư phát triển. Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực DNNVV đã khơi dậy
một sức sản xuất rất lớn. Năng lực sản xuất hàng hóa của thành phần này tăng
mạnh, đóng góp đáng kể vào GDP.
20
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, các xí nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) đang
chiếm khoảng 60% GDP và 70% lực lượng lao động tại những nước có tổng thu
nhập quốc dân (GNP) từ 100-500 USD/năm/người, đóng góp 50% GDP và chiếm
65% lực lượng lao động tại các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD). Hãy xem xét biểu đồ sau về đóng góp của các DNNVV vào GDP ở các
nhóm quốc gia trên thế giới (năm 2003).
Bang 1.3 Đong gop cua khu vưc DNNVV vao lao đông va GDP ơ cac nươc
Trên biểu đồ cột màu đen biểu thị cho tỉ lệ đóng góp của các DNNVV vào GDP
của các quốc gia, tức là các DNNVV đóng góp 15.6% vào GDP ở các quốc gia có
thu nhập thấp, 39,5% GDP ở các quốc gia có mức thu nhập trung bình và khoảng
51,5% ở các nước có thu nhập cao. Nhìn chung vào những năm gần đây, sự đóng
góp của các DNNVV vào GDP của các nước nằm ở khoảng 40-50%. Riêng ở Việt
Nam, theo số liệu mới nhất của Bộ Tài chính (năm 2008), các DNNVV đã đóng góp
hơn 40% vào GDP.
1.2.2 DNNVV góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Các DNNVV hầu hết
hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp, hầu hết là các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh. Với số lượng vào khoảng 90% tổng số lượng doanh nghiệp thì
các doanh nghiệp này cũng có những đóng góp hết sức quan trọng vào chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo ngành, theo thành phần kinh tế ở các nước đang phát triển nói
chung cũng như ở Việt nam nói riêng. Theo thống kê của bộ Kế hoạch và Đầu tư,
vào năm 2008 các DNNVV đóng góp khoảng 78% mức bán lẻ, 33% giá trị sản
21
lượng công nghiệp. Bên cạnh đó, số lượng các DNNVV ở các vùng nông thôn,
miền núi ngày càng tăng cũng là một yếu tố quan trọng giúp cho sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo lãnh thổ diễn ra theo hướng tích cực.
1.2.3 DNNVV làm tăng năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế: Vai trò này
xuất phát từ việc số lượng các DNNVV rất lớn, do đó làm tăng tính cạnh tranh, hạn
chế sự độc quyền đồng thời cũng làm phong phú thêm số lượng, chủng loại hàng
hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Ngoài ra, do chính cấu trúc tinh gọn, kích thước nhỏ,
các doanh nghiệp này cũng tỏ ra hết sức năng động trong việc đối phó với thay đổi
trong hoạt động kinh doanh, ví như chuyển hướng kinh doanh, thay đổi mặt hàng,
công nghệ…sự năng động này đã làm tăng cường tính linh hoạt, năng động trong
nền kinh tế. Một vai trò rất lớn nữa mà không thể bỏ qua đó chính là các DNNVV
đóng vai trò như cầu nối trong nền kinh tế, nhờ có các DNNVV mà các doanh
nghiệp lớn hoạt động có hiệu quả hơn, các DNNVV làm đại lý, vệ tinh, gia công
cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hóa, cung cấp nguyên liệu đầu vào cho
doanh nghiệp lớn. Nhìn nhận từ góc độ này, nhiều nhà nghiên cứu tán thành với ý
kiến rằng các DNNVV giúp cho hoạt động của nền kinh tế tốt hơn, thậm chí có
nhiều đánh giá cho rằng đây mới thực sự là vai trò quan trọng nhất của các doanh
nghiệp này.
1.2.4 DNNVV đóng góp vào ngân sách nhà nước: Vai trò này hoàn toàn có
thể nhận thấy được khi nhìn vào số lượng của các DNNVV trong nền kinh tế. Các
DNNVV chiếm khoảng 90% số lượng doanh nghiệp trên toàn thế giới, con số này ở
Việt Nam là 95% (theo hiệp hội các DNNVV, cuối năm 2008 ở Việt Nam có
khoảng 350.000 doanh nghiệp, chiếm 95% số doanh nghiệp trong cả nước). Với
một lực lượng doanh nghiệp hùng hậu hoạt động sản xuất kinh doanh, giá trị mà nó
mang lại cho nền kinh tế là rất lớn, ngoài ra DNNVV là nguồn thu cho Ngân sách
Nhà nước thông qua việc nộp thuế.
Trong thời gian qua, ở Việt Nam, khu vực DNNVV đóng góp Ngân sách nhà
nước tăng đều đặn qua các năm. Ví dụ như năm 2001 tỉ lệ đóng góp vào ngân sách
nhà nước của các DNNVV là 6,4%, năm 2002 là 7,2%. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu
22
tư, tính đến khoảng giữa năm 2008, tỉ lệ đóng góp này là khoảng 17,6%. (cụ thể
trong bảy tháng đầu năm 2008, các DNNVV nộp ngân sách 5.721 tỷ đồng, tính bình
quân số nộp ngân sách là 48 triệu đồng/doanh nghiệp). Chúng ta có thể tham khảo
sự đóng góp vào ngân sách của các DNNVV ở một khía cạnh khác, theo thông tin
từ Tổng cục thuế, nếu giảm 30% thuế thu nhập cho các DNNVV vào năm 2009 thì
ngân sách nhà nước sẽ thất thu 20.000 tỷ đồng, một con số rất đáng kể.
1.2.5 Góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, các vấn đề xã hội:
Ngoài việc đóng góp cho sự phát triển kinh tế vai trò của các DNNVV có ý nghĩa
then chốt nữa là nó tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo thu nhập ổn định
cải thiện cuộc sống của người lao động. DNNVV tạo ra nhiều việc làm mới, giảm
áp lực về việc làm và thất nghiệp cho xã hội. Tại Hoa Kỳ những doanh nghiệp nhỏ
thành công có vai trò thiết yếu đối với việc duy trì sự năng động trong nền kinh tế
Hoa Kỳ. Những con số nêu ra dưới đây tự nó đã nói lên tất cả: 99% doanh nghiệp
Hoa Kỳ có quy mô nhỏ; Các doanh nghiệp nhỏ tạo ra khoảng 75% công ăn việc làm
mới trong nền kinh tế Hoa Kỳ mỗi năm; Các doanh nghiệp nhỏ chiếm 99,7% lực
lượng sử dụng lao động; Các doanh nghiệp nhỏ chiếm 50,1% lực lượng lao động tư
nhân. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các DNNVV ở các thành phố, địa phương, các
vùng nông thôn góp phần giải quyết vấn đề lao động dôi dư, nhàn rỗi trong xã hội
và ổn định kinh tế - xã hội. Theo thống kê, có tới 90% việc làm mới được tạo ra từ
khu vực này, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển đồng đều giữa các vùng, khu
vực trong cả nước. Còn tại Việt Nam DNNVV hoạt động trong nhiều ngành nghề,
phân bố khắp các địa phương trong toàn quốc, yều cầu về trình độ của người lao
động ở mức trung bình do đó có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giải quyết
vấn đề việc làm. Xét trên bình diện chung của các quốc gia, các DNNVV sử dụng
khoảng 50-60% lực lượng lao động, riêng ở Việt Nam các DNNVV cung cấp việc
làm cho hơn 50% số lao động làm việc trong doanh nghiệp và mỗi năm tăng thêm
nửa triệu lao động. Đây cũng chính là cơ sở cho sự đa dạng hóa, tăng thu nhập và
nâng cao mức sống của dân cư.
23
Nhìn chung, từ một số vai trò nên trên có thể kết luận rằng các DNNVV có một
vai trò rất lớn trong nền kinh tế, giúp nền kinh tế vận hành hiệu quả linh hoạt hơn,
cũng như giúp giảm áp lực về thất nghiệp và giúp tăng nguồn thu cho ngân sách
nhà nước. Tuy nhiên, hiện tại DNNVV chưa phát triển đúng với tiềm năng vốn có
của nó, vai trò của các doanh nghiệp này vẫn chưa được phát huy một cách tối đa.
Nguyên nhân của tình trạng này là do những khó khăn mà các doanh nghiệp này
gặp phải trong quá trình kinh doanh, đặc biệt là khó khăn về nguồn vốn đề mở rộng
sản xuất, đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường v.v… Phần nghiên cứu trong bài
này chủ yếu tập trung vào việc phân tích và đưa ra những những giải pháp để giúp
các DNNVV tiếp cận nguồn vốn chính thức dễ dàng hơn từ đó giúp doanh nghiệp
hoạt động hiệu quả hơn, qua đó phát huy tối đa vai trò của mình trong nền kinh
tế.
1.3 Nguồn vốn kinh doanh và các hình thức huy động vốn của các DNNVV
trong nền kinh tế thị trường.
1.3.1 Nguồn vốn kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn sau:
- Vốn chủ sở hữu
- Vốn vay
- Lợi nhuận chưa phân phối.
Vốn kinh doanh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp
nói chung, cũng như riêng đối với các DNNVV, có thể nói vốn chính là máu trong
cơ thể doanh nghiệp.
1.3.2 Các hình thức huy động vốn của DNNVV trong nền kinh tế thị
trường.
Như đã trình bày ở trên về các nguồn của vốn kinh doanh, trong đó hai nguồn
quan trọng chính hình thành nên nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp là vốn
chủ sở hữu và vốn vay. Tương ứng với hai nguồn này, có một số hình thức huy
động như sau:
24
1.3.2.1. Đối với vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp có thể sử dụng những hình
thức huy động như sau:
+ Huy động vốn góp ban đầu của các chủ sở hữu: đây là nguồn vốn ban đầu do
chủ sở hữu doanh nghiệp trực tiếp đầu tư khi thành lập doanh nghiệp. Tùy theo hình
thức sở hữu của doanh nghiệp mà nguồn vốn này được hình thành theo các hình
thức khác nhau. Nếu doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước thì nguồn vốn này sẽ do
nhà nước cấp, nếu doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân thì nguồn vốn do chính tổ
chức, cá nhân này đóng góp, còn trường hợp doanh nghiệp thuộc hình thức sở hữu
tập thể thì sẽ do các thành viên cổ đông đóng góp. Ở nước ta hiện nay từ khi luật
doanh nghiệp 2005 được ban hành thì có nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và
tương ứng với mỗi loại hình doanh nghiệp sẽ có cách thức huy động vốn tương ứng
phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp, nhưng nhìn chung đa số các doanh nghiệp
được thành lập với số vốn hình thành dựa trên sự đóng góp của các bạn bè, người
thân trong gia đình…
+ Huy động vốn từ lợi nhuận sau thuế: đây cũng là một hình thức huy động khá
phổ biến ở các doanh nghiệp. Hình thức này chính là lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh sẽ được giữ lại một phần, sau đó sẽ tái đầu tư, qua đó làm tăng nguồn vốn
chủ sở hữu. Hoặc, bên cạnh việc giữ lại một phần lợi nhuận, doanh nghiệp có thể
tiến hành việc phân chia lợi nhuận cho các cổ đông dưới dạng cổ phiếu, phương
pháp này cũng làm tăng vốn chủ sở hữu cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế hiện
nay, đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, đây là một kênh huy động cực kỳ
quan trọng, nhưng với DNNVV thường tỉ suất lợi nhuận không cao, lại bị hạn chế
bởi quy mô nên hình thức huy động này vẫn chưa thực sự mang lại hiệu quả
cao.
+ Huy động nguồn vốn bổ sung bằng cách kết nạp thêm thành viên mới: Về
bản chất hình thức này cũng giống như vốn đóng góp ban đầu của các chủ sở hữu.
Nghĩa là khi cần thêm nguồn vốn để hoạt động kinh doanh hoặc để tăng qui mô
doanh nghiệp thì các doanh nghiệp có thể tiến hành việc huy động vốn thông qua
hình thức kêu gọi thêm nhà đầu tư mới. Ở các DNNVV tại Việt Nam hiện nay, hình
25
thức này cũng vẫn chưa được phát huy mạnh mẽ, nghĩa là chưa có sức hút với các
nhà đầu tư. Các thành viên mới thường vẫn là những người có quan hệ quen biết từ
trước, bạn bè hay người thân. Về phía doanh nghiệp, lí do có thể được lí giải là hình
thức huy động này có thể dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư cũ phải phân chia quyền
kiểm soát doanh nghiệp và lợi ích kinh tế cho nhà đầu tư mới. Về phía các nhà đầu
tư, lí do vì sao các DNNVV kém sức hút được lí giải là các doanh nghiệp này chưa
có sự minh bạch về tài chính, chưa có kế hoạch, phương án kinh doanh cụ thể …
chúng ta sẽ đề cập đến những giải pháp thiết thực tình trạng này ở phần sau.
+ Huy động vốn bằng cách hợp nhất, sát nhập doanh nghiệp lại với nhau: Về
cơ bản, hình thức này thường được diễn ra giữa các doanh nghiệp có sự gẫn gũi về
địa lý, lĩnh vực kinh doanh, hoặc là giữa các doanh nghiệp giữ vai trò là những mắt
xích liền nhau trong chuỗi hình thành giá trị chung của nền kinh tế. Việc sát nhập
ngoài việc làm tăng nguồn vốn sở hữu cho mỗi doanh nghiệp, còn giúp gia tăng sức
mạnh cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn hơn, các đối thủ nước ngoài v..v..tuy
nhiên ở Việt Nam hiện nay hoạt động hợp nhất, sát nhập giữa các doanh nghiệp vẫn
chưa phát triển mạnh. Nguyên nhân của vấn đề này là do: hoạt động mua bán sát
nhập doanh nghiệp là hoạt động bình thưòng đối với các nước trên thế giới song đối
với Việt Nam điều này cón khá mới nên tâm lý của những người trong cuộc chưa
sẵn sàng.
+ Nguồn vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm: Đối tượng tiếp cận vốn mạo hiểm hầu
hết đều là các công ty đang trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát
triển, thị phần nhỏ, thương hiệu chưa có. Các doanh nghiệp mới thành lập hoặc các
doanh nghiệp có qui mô nhỏ rất khó khăn khi tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của
ngân hàng và các tổ chức tín dụng, bởi vì mức rủi ro không thu hồi vốn rất cao. Bỏ
vốn ra, các nhà đầu tư mạo hiểm đồng thời thực hiện việc hỗ trợ điều hành các công
ty này.
Các nhà đầu tư mạo hiểm có khuynh hướng đầu tư vào các ngành kinh doanh
đặc thù, hoặc nhắm vào những công ty mới thành lập, còn thiếu vốn và kinh nghiệm
quản lý hoặc dùng quỹ mạo hiểm để vực dậy các công ty đang đứng trước nguy
26
cơ phá sản. Theo đúng như tên gọi, mục tiêu của các quỹ này thường hướng vào
những dự án có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm những khoảng lợi nhuận cao hơn mức
thông thường. Nếu nhìn vào đối tượng của loại quỹ này thì có thể thấy rằng các
DNNVV hoàn toàn có đủ tiêu chuẩn để lọt vào danh sách được nhận đầu tư. Nhưng
trong thực tế, các quỹ đầu tư có thể vẫn là một khái niệm còn khá mới ở Việt Nam
và các quỹ này khi đầu tư vào Việt Nam thường thích đầu tư vào các công ty tương
đối thành công, đã qua giai đoạn khởi nghiệp cần các nguồn vốn đầu tư dài hạn để
mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh. Các DNNVV thường
ít quan tâm đến nguồn đầu tư này hoặc giả nếu có quan tâm thì họ cũng không biết
được cách thức marketing cho chính mình để có thể nhận được các khoản đầu tư.
- 1.3.2.2. Đối với nguồn vốn vay: đặc điểm đáng lưu ý đối với nguồn huy động
vốn này là doanh nghiệp phải cam kết thanh toán nợ (thường kèm với lãi suất) cho
chủ sở hữu trong một khoảng thời gian nhất định. Nguồn vốn này có thể được huy
động bằng những hình thức như sau:
+ Huy động từ nguồn tín dụng của ngân hàng: Vốn vay ngân hàng là một trong
những nguồn vốn mang ý nghĩa sống còn với nhiều doanh nghiệp. Trong quá trình
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là với các DNNVV thường
xảy ra tình trạng thiếu hụt vốn. Để bù đắp khoảng thiếu hụt này doanh nghiệp cần
có sự bổ sung nguồn vốn từ bên ngoài, vay ngân hàng là một cách giải pháp mà
doanh nghiệp thường sử dụng nhất. Với vai trò là một người cho vay trong nền kinh
tế, ngân hàng sẵn sàng cấp cho doanh nghiệp các khoản tín dụng cần thiết nếu các
doanh nghiệp đáp ứng được các điều kiện, yêu cầu được đưa ra từ phía ngân hàng.
+ Huy động từ nguồn tín dụng thương mại: Nguồn vốn này hình thành trong
quan hệ mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với nhau. Đây là một hình thức tín
dụng ngắn hạn, thường được thực hiện giữa các doanh nghiệp khi có sự tín nhiệm
và thiết lập được quan hệ đối tác lâu dài trong kinh doanh. Hoạt động tín dụng
thương mại này có nhiều ý nghĩa trong nền kinh tế, nhất là đối với các DNNVV sự
chiếm dụng vốn sẽ giúp cho chu kỳ kinh doanh và luân chuyển vốn của các doanh
nghiệp không bị chững lại. Ở các nước có nền tài chính phát triển mạnh thì các công
27
cụ như thương phiếu, hối phiếu được mua bán trên thị trường tài chính một cách
khá dể dàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh thu hồi vốn đưa vốn vào phục vụ
sản xuất kinh doanh quay nhanh vòng vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên đối với
Việt Nam mặc dù luật về thương phiếu, hối phiếu đã có nhưng do thị trường tài
chính phát triển còn non kém nên các doanh nhgiệp chưa thể sử dụng công cụ này
để có thể đáp ứng nhu cầu trong hoạt động kinh doanh..
+ Huy động từ hoạt động cho thuê tài chính: Theo quy định của pháp luật Việt
Nam thì một giao dịch được gọi là thuê tài chính phải thoả mãn một trong những
điều kiện:
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu
tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên.
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua
tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm
mua lại;
- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để
khấu hao tài sản thuê;
- Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất
phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng
Do đó cho thuê tài chính thực ra là một hình thức cấp tín dụng trung dài hạn. Khi
một hợp đồng thuê tài chính được ký kết, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp được
cấp một khoản vốn. Khoản vốn này có được do doanh nghiệp không phải bỏ tiền
hoàn toàn ra mua tài sản mà vẫn có tài sản sử dụng lâu dài cho hoạt động sản xuất
kinh doanh. Vì đáng lẽ ra, có thể doanh nghiệp đã phải đi vay một số vốn tương
đương giá trị tài sản trong hợp đồng thuê trả cho công ty cho thuê tài chính bao gồm
cả vốn gốc và lãi.
Trong nhiều trường hợp, cho thuê tài chính có thể là một lựa chọn tối ưu cho
các DNNVV khi có nhu cầu cấp thiết về vốn, nhưng ở Việt Nam hiện nay, hình
thức này vẫn chưa thực sự phát triển mạnh, nhất là ở khu vực các DNNVV. Thực
tế cho thấy việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị ở các doanh nghiệp sản xuất
28
là một đòi hỏi bức thiết trong bối cảnh hội nhập để nâng cao chất lượng sản phẩm
cũng như năng suất lao động, giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Phần lớn các trang thiết bị của nhiều doanh nghiệp đã lạc hậu so với các nước tiên
tiến. Hiện nay lượng vốn dài hạn đầu tư cho các dự án này ở các doanh nghiệp Việt
nam là hết sức khiêm tốn. Kênh tài trợ quen thuộc vẫn là đi vay ở các ngân hàng
thương mại. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới
ra đời không có đủ tài sản đảm bảo cũng như uy tín thì việc tiếp cận nguồn vốn vay
ngân hàng rất là khó khăn. Trong những trường hợp như vậy, đi thuê tài chính có
thể là một giải pháp tối ưu.
- Huy động từ nguồn vốn ưu đãi của nhà nước: các nguồn vốn ưu đãi của nhà
nước hiện nay được cung cấp cho các doanh nghiệp thông qua các Quỹ hỗ trợ phát
triển, quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Các quỹ này là các tổ chức tài chính của Nhà nước,
được thành lập với mục đích cung cấp tín dụng ưu đãi cho các dự án vay vốn đầu tư
nếu đáp ứng một số điều kiện nhất định. Dĩ nhiên đây cũng là một nguồn cung vốn
quan trọng đối với các DNNVV tuy nhiên các quỹ này chỉ ra đời và hoạt động
trong một khoảng thời gian nhất định, thường chỉ cấp tín dụng cho những dự án vay
vốn nằm trong danh mục ưu tiên, cộng thêm một số điều kiện bắt buộc mà không
phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được do đó tiếp cận được với nguồn vốn này
thật sự không phải là điều dễ dàng.
- Huy động từ nguổn chiếm dụng hợp pháp: doanh nghiệp có thể tạm thời chiếm
dụng trong một thời gian ngắn các quỹ như: tiền lương, bảo hiểm xã hội, tiền thuế
chưa nộp, các khoản thanh toán khác… để làm nguồn vốn đáp ứng nhu cầu kinh
doanh. Tuy nhiên, việc chiếm dụng này nhất thiết phải diễn ra trong thời gian ngắn,
phải lưu ý đến khả năng thanh toán kịp thời các khoản bị chiếm dụng khi đến hạn,
các quy định của pháp luật mà doanh nghiệp phải tuân thủ như thời hạn nộp thuế,
xử phạt.v.v… Nguồn cung vốn này có thể giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn
trước mắt nhưng nhất quyết không được lạm dụng hình thức chiếm dụng vốn này.
Doanh nghiệp có thể sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro nếu không hoàn trả kịp thời
các quỹ này, ví dụ như sự phản đối từ phía nhân viên, qui định xử phạt của pháp
29
luật. Hơn nữa, điều đáng nói là ở các DNNVV, các quỹ này thường rất nhỏ, có
nhiều doanh nghiệp chỉ thành lập các quỹ mang tính hình thức, mang tính đối phó.
Tóm lại, ta có thể thấy rằng DNNVV có nhiều nguồn để huy động vốn
nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh, tuy nhiên trên thực tế hiện nay thì
DNNVV lại đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn đó
đặc biệt là các nguồn vốn chính thức từ các tổ chức tín dụng. Nguyên nhân thì có
nhiều như: từ phía ngân hàng, từ phía doanh nghiệp…..
1.4 Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới về việc hỗ trợ DNNVV tiếp
cận các nguồn vốn vay để phát triển sản xuất kinh doanh.
1.4.1 Malaysia:
Ngân hàng Negara Malaysia thiết lập Chương trình hỗ trợ bão lãnh tín dụng giá
trị 2 tỉ ringit cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Malaysia. Theo chương trình này
mỗi doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ được cấp một khoảng tín dụng trị giá 500.000
ringit trong thời hạn 5 năm. Tổ chức bão lãnh tín dụng Berhad (CGC) sẽ bảo lãnh
80% giá trị của khoản vay này. Các doanh nghiệp hoàn toàn không phải chịu một
mức phí bảo lãnh nào cả, tất cả sẽ được ngân hàng Negara gánh chịu. Khoản tín
dụng được cấp lần này là tín dụng mới mà phải được sử dụng cho những mục đích
kinh doanh, ví dụ như bổ sung vốn lưu động, đầu tư cho các dự án.
Các doanh nghiệp có thể tiếp xúc trực tiếp với chương trình hỗ trợ này tại bất
kỳ ngân hàng thương mại Hồi giáo nào, E bank, Agrobank, Bank Rakyat,
Eximbank, và Bank Simpanan Nasioanal.
Chương trình này được bắt đầu từ ngày 3 tháng Hai năm 2009 và kéo dài đến 31
tháng Mười Hai năm 2009 hoặc cho đến khi hạn mức 2 tỉ ringit được tận dụng
hết.
Một số chi tiết cơ bản của chương trình:
- Mức bảo lãnh được cung cấp bởi CGC: 80%, 20% rủi ro còn lại sẽ được các
tổ chức tài chính tham gia cấp tín dụng tự gánh chịu
- Mức phí bảo lãnh: các doanh nghiệp hoàn toàn không phải chịu một mức phí bảo
lãnh nào.
30
- Lãi suất: được quyết định bởi các tổ chức tài chính tham gia
- Nguồn cấp tín dụng: từ các tổ chức tài chính tham gia.
- Mục đích sử dụng: vốn lưu động, đầu tư dự án, không được sử dụng để bù đắp
những khoản tín dụng đang tồn tại
- Tiêu chuẩn được cấp tín dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa:
+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa có vốn chủ sở hữu thấp hơn 3 triệu ringit (định nghĩa
về doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Malaysia như sau, đối với doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ liên quan đến sản xuất), doanh thu hằng năm
không quá 25 triệu ringit, không quá 150 lao động toàn thời gian. Đối với doanh
nghiệp hoạt động trong nông nghiệp hoặc dịch vụ liên quan đến nông nghiệp, có
doanh thu hằng năm không quá 5 triệu ringit, và số lao động không nhiều hơn 50
lao động toàn thời gian.)
+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa do người Malaysia sở hữu, ít nhất là 51% cổ phần, đang
hoạt động tại Malaysia
+ Những doanh nghiệp nhỏ và vừa bị tác động tiêu cực bởi suy thoái kinh tế hiện
nay.
- Thời hạn cấp tín dụng tối đa: 5 năm
- Hạn mức tín dụng: 500.000 ringit trên một doanh nghiệp, không có mức tổi thiểu.
Hạn mức này được hiểu là hạn mức được mà một doanh nghiệp nhận được và được
bảo lãnh, nghĩa là các doanh nghiệp có thể xin cấp tín dụng ở nhiều tổ chức khác
nhau, miễn là nằm tổng tín dụng được cấp không được vượt quá 500.000 ringit.
- Thời hạn xin cấp tín dụng: về thời gian sẽ kéo dài từ 3/2/2009 – 31/12/2009 hoặc
sớm hơn nếu mức 2 tỉ ringit được cấp hết cho các doanh nghiệp, việc tiếp tục của
chương trình này sau đó sẽ được xem xét.
- Những tổ chức tài chính tham gia:
+ Tất cả các ngân hàng thương mại
+ Tất cả các ngân hàng Islamic ( Hồi Giáo)
+ Agrobank
+ Bank Rakyat
31
+ SME Bank
+ Exim Bank
+ Bank Simpanan Nasional
Nếu bị từ chối ở một tổ chức tài chính nào đó, các doanh nghiệp có thể xin cấp
tín dụng từ một tổ chức khác, bởi vì các tổ chức tín dụng tham gia chương trình này
được tùy ý đưa ra lãi suất và tiêu chí xét duyệt hồ sơ khác nhau.
1.4.2 Đài Loan:
Những chính sách nhằm hỗ trợ các DNNVV ở Đài Loan được chia ra làm năm
nhóm chính sách chính:
1. Tạo một môi trường tốt nhất cho sự phát triển của các DNNVV.
2. Khuyến khích sự đổi mới, cải tiến và sự khởi đầu những hoạt động kinh doanh
mới. Tăng những nguồn đầu tư tài chính khả dụng cho sự cải tiến cũng như để nâng
cao cơ hội thành công cho những doanh nghiệp mới khởi động hoạt động kinh
doanh.
3. Cung cấp những hướng dẫn về mặt quản trị cho các DNNVV.
4. Tăng cường tính cạnh tranh về mặt công nghệ hiện đại của các DNNVV của Đài
Loan.
5. Tăng cường sức mạnh của những cơ chế hỗ trợ vốn.
Chính sách về tăng cường sức mạnh của những cơ chế hỗ trợ vốn cho các DNNVV
ở Đài Loan được thực hiện như sau:
- Tăng cường sức mạnh cho những hệ thống tài chính và kế toán để nâng cao
khả năng của các DNNVV trong việc tìm kiếm tài trợ. Chính phủ Đài Loan nhận
thức một cách rõ ràng khó khăn trong việc tìm kiếm, đảm bảo sự hỗ trợ vốn (chủ
yếu là do sự giới hạn của những kênh hỗ trợ vốn khả dụng) là một trong những khó
khăn chủ yếu mà các DNNVV phải đối mặt trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Rất nhiều DNNVV ở Đài Loan không có một hệ thống tài chính và kế toán hợp lý.
Và chính từ thất bại này đã dẫn đến việc nhận thức được tầm quan trọng của những
hệ thống tài chính và kế toán hợp lý, đúng đắn. Trong khi tiếp tục nâng cao chất
lượng các chức năng của hệ thống hướng dẫn về mặt tài chính cho các DNNVV và
32
theo dõi tình trạng hiện thời của những sự cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp
này và các vấn đề kèm theo, chính phủ cũng sẽ cần phải thực hiện việc tích hợp,
phối hợp những nguồn lực thuộc về những tổ chức khác nhau có liên quan trong
việc cung cấp những chỉ dẫn cho khu vực này, để đảm bảo rằng các DNNVV có thể
nhận được các chỉ dẫn cả trước và sau khi tìm kiếm hỗ trợ tài chính và do đó cũng
góp phần tạo ra một mối quan hệ cộng tác lâu dài giữa các ngân hàng và các
DNNVV. Một sự lựa chọn cũng sẽ được tiến hành (giống như ví dụ về Hiệp hội kế
toán châu Âu), chính là việc phát triển những tiêu chuẩn kế toán phù hợp với sự sử
dụng của các DNNVV điều này sẽ giúp các DNNVV thiết lập những hệ thống tài
chính và kế toán hợp lý, giúp các doanh nghiệp này tiến hành việc tìm kiếm hỗ trợ
vốn thông qua nhiều kênh khác nhau một cách dễ dàng hơn.
- Mở rộng khả năng của quỹ bảo đảm tín dụng cho các DNNVV để tạo ra những
kênh hỗ trợ tài chính rộng rãi hơn, khả dụng hơn đối với các DNNVV. Mức độ rủi
ro cao mà các tổ chức tài chính phải gánh chịu khi cấp vốn cho các DNNVV đã dẫn
đến việc các tổ chức này đưa ra những điều khoản nghiêm ngặt hơn với các doanh
nghiệp này (so với những công ty, tập đoàn lớn). Do đó, mà chi phí cho việc tìm
kiếm cũng như đảm bảo sự chắc chắn của những nguồn hỗ trợ vốn đối với các
DNNVV cũng cao hơn. Do đó, mà có một nhu cầu cấp thiết đối với chính phủ về
việc cung cấp nhiều hướng dẫn hơn ở khu vực này, để có thể giúp các DNNVV tìm
được những sự đảm bảo về mặt tín dụng mà họ cần khi đi vay vốn. Thông qua việc
tích hợp cơ sở dữ liệu về tín dụng, sẽ giúp cho việc xây dựng một mô hình đánh giá,
xếp loại bảo lãnh tín dụng mà có thể được sử dụng để tăng cường tính hiệu quả của
những sự cung cấp dịch vụ về tín dụng. Chính phủ cũng xem xét việc cung cấp
những sự bảo đảm tín dụng trực tiếp để giúp các DNNVV hoạt động trong những
ngành công nghiệp mới nổi, những ngành công nghiệp trình độ cao để họ có thể tìm
được sự tài trợ vốn cần thiết. Cùng lúc đó, sự cộng tác ở khu vực Công nghiệp-các
trường Đại học và những mô hình cụm công nghiệp có thể được sử dụng làm đòn
bẩy để phối hợp sự hướng dẫn, bảo đảm tín dụng và cung cấp tài chính vào một thể
thống nhất.
33
- Phân bổ 10 tỉ đô la Đài Loan từ Ngân sách phát triển quốc gia để đầu tư vào những
DNNVV với những tiềm năng phát triển cao. Chính phủ cũng có thể xem xét việc
sử dụng quỹ Đầu tư Phát triển quốc gia để cung cấp hỗ trợ tài chính cho những
doanh nghiệp có tiềm năng phát triển ấn tượng và cho những doanh nghiệp tiến
hành đầu tư ở những quốc gia có quan hệ mật thiết với Đài Loan. Giả định rằng một
khoảng đầu tư 10 tỉ đô la Đài loan trên doanh nghiệp, nó sẽ có thể cung cấp hỗ trợ
cho 1.000 doanh nghiệp DNNVV.
- Thiết lập cơ chế hướng dẫn tái cấu trúc để giúp các DNNVV có tiềm năng để các
doanh nghiệp này có thể tự quay trở lại thị trường “bằng chính đôi chân của mình”.
Thực tế, nhiều DNNVV mà đã từng trải qua những khó khăn về tài chính chính là
những doanh nghiệp có nhiều tiềm năng phát triển to lớn. Nếu sự trợ giúp không
được cung cấp cho những doanh nghiệp thuộc kiểu này, trong dài hạn sẽ có tác
động vô cùng tiêu cực lên chuỗi giá trị trong ngành công nghiệp lên sự tạo việc làm
và sự phát triển của thị trường vốn cũng như toàn bộ nền kinh tế. Sự cung cấp
những chỉ dẫn tài chính liên tục, mang tính thời điểm cao có thể giúp những doanh
nghiệp tiếp tục tăng trưởng lợi nhuận và tạo việc làm.
1.4.3 Thái Lan:
Trong khu vực Đông Nam Á, Thái Lan là quôc gia được xem là có nhiều chính
sách hỗ trợ phát triên cho các DNNVV hiệu qua nhât. Hiện nay ở Thái Lan có
khoang 1,99 triệu DNNVV, chiêm khoang 99% sô doanh nghiệp ở Thái Lan, vì vậy
việc hô trợ nhóm doanh nghiệp này được xem là ưu tiên hàng đâu. Chinh phủ Thái
lan đưa ra các biện pháp hỗ trợ cho DNNVV bao gồm 6 nhóm chính:
+ Hô trợ về mặt tài chính.
+ Nguồn nhân lực.
+ Hệ thông shindan.
+ Khuyên khich sự phát triên của các DNNVV ở các địa phương.
+ Phân loại công nghiệp.
+ Cải thiện môi trường hoạt động kinh doanh.
34
Một chinh sách rât đáng học tập ở Thái Lan đó chính là việc thành lập riêng một
ngân hàng dành cho các DNNVV, “Ngân hàng phát triên DNNVV Thái Lan” (SME
development bank of thailand). Theo một báo cáo được thực hiện bởi ông Pongsak
Chewcharat, chủ tịch của ngân hàng phát triên DNNVV Thái Lan, ta có thê tham
khao một sô thông tin vê ngân hàng này như sau:
- Ngân hàng phát triên DNNVV Thái Lan được thành lập vào năm 2002, chịu
sự giám sát của bộ tài chính và bộ công nghiệp Thái Lan. Trong đó bộ tài chinh năm
quyên sở hữu là 97%. Tông giá trị tài san tinh đên 31/12/2006 là khoang 1,7 tỉ
USD, tông dư nợ là 1,26 tỉ USD, đa có khoang 15.195 doanh nghiệp vay vôn tại
ngân hàng, với khoản vay trung bình là 100.000 USD, ngân hàng có 19 văn phòng ở
các vùng trong nước và 90 trung tâm dịch vụ.
- Vai trò của ngân hàng này được xác định rõ là nhằm đê:
+ Xây dựng một nên kinh tê cơ sở (dựa vào nguôn lực trong nước, nhât
là nguồn lực từ các DNNVV).
+ Nâng cao tính cạnh tranh và tạo điều kiện cho một sự phát triên bên vững.
+ Thực hiện những chương trình hô trợ tài chính dựa trên cơ sở là các chính
sách của chính phủ.
- Một sô chương trình hoạt động là:
+ Chương trình cho vay OTOP (one town, one product).
+ Những chương trình vôn hoá tài san. Chương trình OTOP nhằm hô
trợ và khuyên khich các nhóm cá nhân ở các địa phương phát triên hoạt động kinh
doanh, tông nguôn vôn phân bô cho dự án này vào khoang 142,8 triệu USD, mức
cho vay tôi đa tinh trên một người là 28,571 USD, chương trình này cũng nhận
được sự hô trợ từ phia chinh phủ với muc đich khuyên khich và giới thiệu san phâm
ở thị trường nội địa, cũng như quôc tê. Những chương trình vôn hoá tài san là nhằm
xem xét lại tài san của những người có thu nhập thâp, xác định những tài san hữu
hình, vô hình có thê như vật thê châp nêu các câu trúc vay vôn được thiêt lập,
những cơ sở hạ tâng kinh tê được thiêt kê đê có thê cho phép việc thê châp được
thực hiện, cung câp những khoan vay đê băt đâu công việc kinh doanh hoặc câp vôn
35
kinh doanh. Những thành tô chinh bao gôm: nguôn chủ yêu là những tài san được
đăng ký, nghĩa là quyên cho thuê nơi bán thực phâm, hoặc địa điêm cho những cửa
hàng bán lẻ. Những dự án “thê châp hóa” máy móc, máy móc được sử dung như tài
san thê châp, những đăng ký máy móc chủ yêu được thiêt lập bởi bộ công nghiệp,
những dự án “thê châp hóa” tài san tri tuệ, như khuôn mâu, thương hiệu, ban quyên
được sử dung như tài san thê châp.
Hệ thông shindan, đây là hệ thông nhằm đánh giá doanh nghiệp băt nguôn
từ Nhật Bản từ năm 1960, đôi tượng chủ yêu là các DNNVV, muc đich nhằm giúp
đỡ các doanh nghiệp này có những đánh giá chinh xác vê “sức khoẻ tài chinh” của
mình, các kêt qua chân đoán này cũng được lây làm cơ sở đê các ngân hàng, tô chức
tài chính, hoặc các chương trình tài trợ của chính phủ thực hiện các chương trình
cho vay, hô trợ tài chinh. “shindan” theo tiêng Nhật nghĩa là “chân đoán”, những
chuyên gia đánh giá ở hệ thông shindan được gọi là shindanshi, đây là đội ngũ
chuyên gia đa được chuân hóa. Hệ thông shindan ở Thái Lan cũng hoạt động tương
tự với những chức năng trên:
- Xác định hệ thông tiêu chuân tài chinh.
- Thê hiện những tiêu chuân sức khoẻ tài chinh cho các tô chức ngân hàng.
- Cung câp những chỉ dân hữu ich, thiêt thực cho các doanh nghiệp. (Việc tiên hành
điêu tra, xác định tình hình tài chinh ở các doanh nghiệp được thực hiện miên
phí.).
Một chương trình hoạt động gần đây nhất, mang tính thực tế nhằm giúp đỡ các
DNNVV trong cuộc suy thoái kinh thế toàn cầu, đó chính là chương trình “EXIM 4
SMEs” (đây là một bộ phận chuyên trách của ngân hàng xuất nhập khẩu Thái Lan-
EXIM THAILAND) được thành lập nhằm gia tăng tính cạnh tranh của những
DNNVV hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu với giá trị xuất khẩu hàng năm đạt đến
100 triệu bạt đồng thời giảm những lo lắng của các doanh nghiệp này về việc chi trả
chậm hoặc không chi trả của những đối tác nước ngoài. EXIM 4 SMEs là một
sự hỗ trợ mới thêm vào nhóm những sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu (EXIM
surance) với mục đích nâng cao sự tự tin của những DNNVV của Thái Lan trong
36
việc bắt đầu hay mở rộng hoạt động kinh doanh xuất khẩu trong những thị trường
truyền thống hoặc thị trường mới bất chấp những rủi ro tăng cao về sự không chi trả
từ những đối tác nước ngoài được gây ra bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu. Với
sự ra đời của bộ phận mới này, ngân hàng xuất nhập khẩu Thái Lan sẽ giúp kiểm tra
thông tin tín dụng của những đối tác nước ngoài và bảo đảm khả năng chi trả của
họ. Ngân hàng cũng sẽ đề xuất những thời hạn chi trả mang tính cạnh tranh cho
những nhà xuất khẩu và sẽ tiến hành đền bù trong trường hợp không có sự chi trả
sau khi hàng hóa đã được vận chuyển. Hơn nữa, chính sách EXIM 4 SMEs có thể
được sử dụng như là một công cụ thế chấp cho một khoản vay từ những tổ chức tài
chính như một quyền được đòi thanh toán có thể chuyển giao đến ngân hàng cho
vay. “EXIM 4 SMEs là một sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu mang lại nhiều
lợi ích cho các DNNVV ở Thái lan với một phí suất bảo hiểm thấp hơn 35% so với
những chính sách thông thường khác. Các doanh nghiệp có thể rất dễ dàng tiếp cận
với sản phẩm này trong khoảng thời gian một tuần. Phạm vi bảo hiểm lên đến 90%
tổn thất và bắt đầu từ ngày ký kết hơp đồng. Trong khi tung ra sản phẩm mới này,
EXIM Thái Lan cũng tổ chức một hội thảo chuyên ngành mang tên:
“EXIMSurance: Thai Exporters’ Way to Survive” để trang bị cho các nhà xuất khẩu
Thái Lan, đặc biệt là các DNNVV kiến thức và sự hiểu biết về những rủi ro trong
thương mại quốc tế và quản trị rủi ro. Trong bối cảnh nhiều biến đổi hiện nay, các
nhà xuất khẩu Thái Lan cần phải có sự điều chỉnh về sản xuất và những chiến lược
marketing của mình, đồng thời áp dụng EXIMSurance như một công cụ quản lý rủi
ro.
1.4.4 Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đánh gia cao vai trò quan trọng của
DNNVV cho dù đó là cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật hay các
quốc gia NIC (Đài loan…), hay các nước đang phát triển (Thái lan, Malaysia..).
Mỗi quốc gia có cách làm riêng tùy thuộc vào hoàn cảnh và đặc điểm riêng của từng
nước để hỗ trợ cho khu vực này phát triển. Với tư cách là nước chậm phát triển và
37
đi sau các quốc gia kể trên Việt nam có thể rút ra các bài học kinh nghiệm của các
nước trong việc đề ra các chính sách giúp các DNNVV phát triển.
Nhìn chung các chính sách của các nước tập trung vào một số giải pháp chính
sau:
- Bảo lãnh tín dụng (Malaysia, Đài loan, Nhật, Mỹ…).
- Cải cách hành chính (hầu hết các nước đều thực hiện giải pháp này).
- Thậm chí có quốc gia còn thành lập ngân hàng dành riêng cho DNNVV (Thái lan).
- Thành lập các trung tâm hỗ trợ cho DNNVV (Đài loan).
Việc tham khảo bài học kinh nghiệm từ các nước là cần thiết, tuy nhiên trong
quá trình thực thi các chính sách để hỗ trợ cho DNNVV chính phủ Việt Nam cần
phải nghiên cứu tình hình thực tiễn nền kinh tế của đất nước cũng như là tập quán
kinh doanh của DNNVV của Việt Nam mà đề ra những chính sách hợp lý mang
tính thực tiễn cao từ đó giúp các DNNVV Việt Nam phát triển đóng góp chung cho
sự phát triển của nền kinh tế.
Kết luận chương 1
Chương 1 của luận văn trình bày những vấn đề lý luận cơ bản liện quan trực tiếp
đến đề tài làm nền tảng để phát triển những nội dung tiếp theo của luận văn.
Chương này đã làm bật rõ các vấn đề sau:
- Khái niệm, phân loại và đặc điểm DNNVV.
- Vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế.
- Nguồn vốn kinh doanh và các hình thức huy động vốn của DNNVV trong nền
kinh tế thị trường.
- Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới về việc hỗ trợ DNNVV tiếp cận các
nguồn vốn để phát triển sản xuất kinh doanh.
38
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ KHẢ NĂNG TIẾP CẬN CÁC NGUỒN
VỐN ĐỂ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DNNVV ở VIỆT
NAM.
2.1 Khái quát thực trạng về hoạt động kinh doanh của DNNVV ở VN hiện
nay.
Nhìn chung số lượng các DNNVV gia tăng đáng kể qua các năm, tuy nhiên về
chất lượng thì còn nhiều hạn chế và yếu kém. Đặc điểm chung của các DNNVV
Việt Nam là vốn ít, máy móc công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin, trình độ quản lý
thấp, chủ yếu hoạt động trong các ngành nghề thâm dụng lao động, chi phí cao,
năng suất và hiệu quả thấp, tỷ suất lợi nhuận bình quân không cao…
Hầu hết các DNNVV có quy mô nhỏ, năng lực đảm nhận các đơn hàng lớn còn
hạn chế do đó chưa thể trở thành đối tác của các tập đoàn lớn.
- Về số lượng doanh nghiệp: Đề cập đến hoạt động của các DNNVV, điều đễ nhận
thấy rằng số lượng DNNVV đang có những bước phát triển khá nhanh, hiện tại loại
39
hình doanh nghiệp này chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp hiện có trên toàn
quốc. Bảng sau thể hiện rõ sự sự tăng trưởng vượt bậc về mặt số lượng.
Bang 2.1 Thống kê về số lượng các DNNVV giai đoạn 2000-2009.
Năm Số lượng DNNVV trên toàn quốc 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 14,200 19,800 20,800 26,023 45,126 113,352 192,000 285,000 350,000 446,000
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư.
Dự tính đến hết năm 2010, số lượng DNNVV ở nước ta sẽ đạt đến mức 500,000
doanh nghiệp.
- Về qui mô vốn: Tuy nhiên, ta thấy rằng tuy có sự tăng trưởng cao về mặt số lượng
doanh nghiệp, mức đóng góp vào GDP (Trung bình 40% mỗi năm), số lao động sử
dụng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động, nhưng về mặt chất phải nói rằng nhóm
doanh nghiệp này vẫn chưa có những bước tiến rõ nét. Theo quy định, DNNVV vốn
không quá 100 tỷ đồng, nhưng xem ra các DNNVV đang hoạt động hiện nay có quy
mô vốn khá thấp, có rất ít doanh nghiệp chạm đến ngưỡng tối đa của quy định này.
Theo một cuộc điều tra quy mô được Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ
Kế hoạch và Đầu tư) tiến hành vào năm 2005 với sự tham gia của hơn 63,000 doanh
nghiệp tại 30 tỉnh thành phía Bắc đã cho thấy, quy mô vốn của các doanh nghiệp
còn nhỏ, gần 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng; gần 75% số doanh
nghiệp có mức vốn dưới 2 tỷ đồng và 90% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ
đồng. Thống kê năm 2006 của Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới cho thấy,
trên cả nước số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ chiếm 41,8%, từ 1 – 5 tỷ chiếm
37,03%, 5 – 10 tỷ chiếm 8,18%. Còn theo kết quả điều tra được công bố tại một hội
thảo do VCCI tổ chức, nếu năm 2000, Về tài sản, năm 2000 DN tư nhân chỉ chiếm
40
9,6%, DNNN là 68,4%, thì tới hết năm 2008, DN tư nhân đã chiếm 38,9%, tỷ lệ tài
sản của các DNNN giảm xuống còn 20,32%, phần còn lại thuộc về khối các DN có
vốn FDI. Năm 2008, DN tư nhân chiếm tới 95,2% về số lượng DN, nhưng chỉ
chiếm có 34% về vốn chủ sở hữu, DNNN chỉ còn chiếm 1,8% về số DN, nhưng
nắm giữ 43% vốn chủ sở hữu. Một điều tra của VCCI cho thấy, có đến 80% DN tư
nhân VN chỉ có quy mô nhỏ. Có 80% số DN vốn kinh doanh dưới mức 5 tỷ VND,
ngoài ra, có 87% số DN tư nhân chỉ sử dụng dưới 50 lao động. Còn theo tính toán
của một nhóm nghiên cứu độc lập do Tổng cục Thống kê thành lập, trong giai đoạn
2001-2009, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của khu vực DN tư nhân tăng từ
4,4% lên 7,1%, DNNN tăng từ 7,9% lên 12,4%. Nhưng tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài
sản của khu vực DN tư nhân lại chỉ từ 1,63% vào năm 2000 lên 1,76% năm 2008.
Trong khi tỷ lệ này của khối DNNN tuy tăng chậm, nhưng cũng từ mức 2,35%
(2000) lên 3,38% (2008)…
- Về số lao động: Về quy mô lao động ở mỗi doanh nghiệp vẫn rất thấp, số doanh
nghiệp dưới 10 lao động chiếm 51,3%, từ 10 - 200 lao động chiếm 44,07%, từ 200 -
300 lao động chỉ chiếm 1,43%. Còn theo điều tra của VCCI thì năm 2000 DN tư
nhân mới sử dụng 9,6% tổng số lao động tại các DN, thì tới năm 2008, tỷ lệ này đã
là 66,06%. Điều này chứng tỏ mặc dù các DNNVV sở hữu ít lao động trong mỗi
doanh nghiệp nhưng xét về tổng số thì loại hình doanh nghiệp dang thu hút một số
lượng lớn lao động của cả nước.
- Về chất lượng nguồn nhân lực: Khả năng quản lý ở các DNNVV còn hạn
chế. Đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý còn nhiều hạn
chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám
đốc DNNVV chưa được đào tạo bài bản về kiến thức quản lý kinh doanh. Các chủ
doanh nghiệp quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức về công nghệ thông tin, phát
triển thương hiệu, chiến lược cạnh tranh.
Cuộc điều tra 63.000 DN của Cục phát triển DNNVV cũng đã cho thấy một kết
quả phản ánh thực trạng nêu trên của loại hình DNNVV là 55,63% số chủ doanh
41
nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh
nghiệp có trình độ học vấn phổ thông các cấp. Trong số các cán bộ quản lý có trình
độ cao đẳng và đại học trở lên, thì cũng ít người được đào tạo có hệ thống kiến thức
kinh tế và quản trị kinh doanh. Cũng có tới 63% doanh nghiệp đang vướng phải
chuyện không tuyển dụng được người tài, 55% khó khăn trong việc giữ chân người
giỏi.
- Về trình độ sử dụng công nghệ: Năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất,
kinh doanh và quản lý ở các DNNVV còn yếu, trang bị máy móc thiết bị, công nghệ
hiện đại rất hạn chế, mức độ đầu tư vào tài sản cố định thấp. Chỉ có khoảng 8% số
doanh nghiệp đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Doanh nghiệp trong nước đang sử dụng công nghệ cũ,
lạc hậu và khả năng cạnh tranh về công nghệ của các doanh nghiệp là rất thấp. Số
doanh nghiệp có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55% doanh
nghiệp có sử dụng mạng nội bộ, số doanh nghiệp có Website là rất thấp chỉ
2,16%.
- Về tình hình phát triển: Không chỉ phát triển nhanh về số lượng, các DNNVV
có nhịp độ tăng trưởng doanh thu cao nhất. Doanh thu của các doanh nghiệp này gia
tăng liên tục qua các năm, tỷ lệ tăng trên 30%/năm. Nếu chỉ tính riêng trong giai
đoạn 2001-2005 thì các DNNVV là nhóm doanh nghiệp có nhịp độ tăng trưởng cao
nhất. Nếu năm 2000, loại hình DN này chiếm 24.6% trong giá trị sản xuất theo giá
trị thực tế của toàn ngành công nghiệp, năm 2003 là 27.5%, năm 2004 tăng lên
28.5% thì đến năm 2005 vọt lên tới 37%.
Nguồn: (Bài viết “Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Lớn nhưng chưa mạnh!” của Thúy
Hải, đăng trên website báo Sài Gòn Giải Phóng, www.sggp.org.vn, ngày
17/06/2008)
Đánh giá mức độ hiệu quả của các DNNVV trên phương diện trả nợ đúng hạn
của các DNNVV có quan hệ tín dụng với các NHTM cho thấy: 23% số doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả; 73,2% DNNVV hoạt động trung bình và
3,8% doanh nghiệp gặp khó khăn, trong đó có 1,42% doanh nghiệp có khả năng mất
42
vốn. Một số con số thống kê nêu trên, phần nào đã bộc lộ được thực trạng
về hoạt động của các DNNVV ở nước ta.
- Quá trình hoạt động có những thuận lợi như:
+ Có sự quan tâm, ủng hộ của nhà nước. Nhà nước, đã có nhiều chủ trương, chính
sách và hoạt động cụ thể nhằm giúp đỡ và khuyến khích DNNVV phát triển
+ Về phía Ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, các DNNVV từ vị trí khách
hàng tiềm năng ngày càng tiến gần hơn đến vị trí khách hàng trọng tâm
+ DNNVV có khả năng thích nghi cao, linh hoạt biến đổi theo những biến đổi của
thị trường và môi trường kinh tế chung
- Bên cạnh đó DNNVV còn gặp khó khăn trong quá trình hoạt động như:
+ Tiềm lực tài chính, năng lực quản lý, trình độ công nghệ, kinh nghiệm thương
trường, khả năng tiếp cận các nguồn lực của các DNNVV còn hạn chế.
+ DNNVV gặp nhiều khó khăn về đất đai, vốn trong đó khó khăn lớn nhất
là khó khăn về nguồn vốn. Trong báo cáo “đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt
Nam, kết quả điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2005” do CIEM (Viện nghiên
cứu quản lý kinh tế trung ương) kết hợp với nhóm nghiên cứu kinh tế học phát triển,
khoa kinh tế đại học Tổng hợp Copenhagen, đã miêu tả năm khó khăn lớn nhất mà
các DNNVV tại Việt Nam gặp phải như sau: khó khăn về việc thiếu vốn vẫn luôn là
khó khăn lớn nhất tồn tại trong nhiều năm qua. Nguồn vốn sở hữu thấp, các
DNNVV hầu như không đáp ứng được điều kiện để có mặt trên thị trường chứng
khoán. Các doanh nghiệp phải huy động vốn từ nhiều nguồn như: ngân hàng, bản
thân chủ doanh nghiệp, người thân, bạn bè, thậm chí vay nặng lãi.
Xem xét một cách tổng quan về đặc điểm cũng như tình hình hoạt động
cả về thuận lợi và cả khó khăn của DNNVV trong thời gian, có thể đưa kết luận
rằng các doanh nghiệp có sự phát triển đáng kể về mặt số lượng, tuy nhiên về chất
lượng của sự tăng trưởng đó vẫn còn thấp, những điểm yếu, khó khăn gặp phải
trong quá trình hoạt động, đặc biệt là khó khăn về vốn vẫn chưa được khắc phục
một cách rõ nét và hiệu quả.
43
2.2 Thực trạng về khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho hoạt động kinh
doanh của DNNVV ở Việt Nam hiện nay.
2.2.1 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ NHTM.
Một đặc trưng của các DNNVV ở nước ta là khi doanh nghiệp hình thành nguồn
vốn tự có rất ít, vốn để sản xuất kinh doanh chủ yếu là đi vay.
Bang 2.2 Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Nguồn vốn
- Vốn tự có - Vốn vay ngân hàng - Vốn khác Tỷ lệ % 36,25 45,31 18,44
Nguồn: Báo cáo TD NHNN, 2008.
Trong cơ cấu vốn của DNNVV thì tỷ trọng vốn vay ngân hàng lên đến trên 45%,
điều này cho thấy vốn tín dụng ngân hàng giữ một vai trò quan trọng đối với
DNNVV. Ngoài ra DNNVV gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận với vốn tín dụng
ngân hàng. một số khó khăn được tổng hợp như sau:
Bang 2.3 Những kho khăn khi tiếp cận vốn tín dụng NH.
Khó khăn
- Lãi suất vay cao - Thiếu tài sản thế chấp - Vướng mắc về thủ tục hành chính - Khó khăn về lập phương án kinh doanh Tỷ lệ % 73,8 29,6 23,7 19,1
Nguồn: VCCI, 2008
Theo kết quả điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp VN (VCCI) vừa
tiến hành đối với các DNNVV năm 2008 thì có tới 74% số DNNVV cho rằng đang
gặp rất nhiều khó khăn về vốn; tuy nhiên mức độ được đáp ứng đủ nhu cầu về vốn
đê giai quyêt khó khăn lại rât thâp. Thông kê trên cũng tỏ ra khá phù hợp với kêt
quả điều tra của Cục phát triển DNNVV (Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư) tiến hành năm
2008 với sự tham gia của 63.000 DNNVV ở 30 tỉnh phía Bắc. Theo cuộc điều tra
này, 66.95% doanh nghiệp cho biết thường gặp khó khăn về tài chính, hiện có đến
80% lượng vốn cung ứng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là từ kênh ngân hàng. Tuy
44
nhiên, chỉ có 32,38% những doanh nghiệp này có khả năng tiếp cận được nguồn
vốn của các ngân hàng; 35,24% khó tiếp cận và 32,38% không tiếp cận được.
Bang 2.4 Tỷ lệ vốn vay đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
Mức độ đáp ứng nhu cầu vốn của DN
- Đúng nhu cầu - Thỏa mãn 75% nhu cầu - Đáp ứng 50% nhu cầu - Chỉ vay được 25% nhu cầu Tỷ lệ % 10,5 26,1 33,5 29,8
Nguồn : VCCI, 2008
Nhu cầu về vốn của DNNVV chủ yếu là vốn vay ngân hàng nhưng mức độ đáp
ứng vốn theo đúng nhu cầu của doanh nghiệp của ngân hàng chỉ vào khoảng 10%.
Khi tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng thì không phải doanh nghiệp nào
cũng có đủ điều kiện để vay. Với nguồn vốn tự có hạn chế, không có tài sản đảm
bảo, công nghệ sản xuất còn thấp kém, khả năng lập dự án còn yếu, trình độ quản lý
chưa cao,…làm cho các ngân hàng không mạnh dạn cho DNNVV vay vốn vì chưa
tin tưởng vào khả năng phát triển của doanh nghiệp dẫn đến khả năng tiếp cận với
nguồn vốn vay của ngân hàng là rất khó khăn đối với các DNNVV. Về phía ngân
hàng thì khi cho các doanh nghiệp lớn vay có lợi hơn khi cho DNNVV vay vì rủi ro
về tín dụng giảm, chi phí quản lý khoản vay thấp ngoài ra còn bán được nhiều sản
phẩm dịch vụ cho nên doanh nghiệp lớn luôn là ưu tiên hàng đầu còn đối với
DNNVV khi cho vay ngân hàng đối mặt một số khó khăn cụ thể như:
- Hầu hết các các DNNVV có tài sản đảm bảo không đủ giá trị thế chấp đảm bảo
nhu cầu vốn vay.
- Rủi ro cho ngân hàng cao hơn so với doanh nghiệp lớn khi cấp tín dụng cho các
DNNVV. Yếu tố rủi ro này lại xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Nguồn vốn kinh
doanh của doanh nghiệp quá ít, dẫn đến vốn tự có tham gia vào dự án thấp, do đó
ngân hàng gánh rủi ro cao nếu thực hiện cho vay, cách tổ chức quản lý và điều hành
doanh nghiệp chưa chuyên nghiệp thiếu bài bản (cả về kế hoạch kinh doanh cũng
như công tác tổ chức bộ máy kế toán).
45
Nhưng hiện tại các ngân hàng thương mại đã ít nhiều có cái nhìn khác đối
DNNVV khi hiện có nhiều ngân hàng có chương trình hỗ trợ vốn cho họ. Cố gắng
đi tìm tiếng nói chung, các ngân hàng ngày càng tạo nhiều thuận lợi cho DN. Ngân
hàng An Bình (ABBANK) dành ra hạn mức tín dụng 1.500 tỉ đồng để cho DNNVV
vay. ABBANK cũng khởi xướng áp dụng lãi suất cho vay tối đa chỉ bằng 95% lãi
suất cho vay cùng kỳ hạn bình quân của các ngân hàng TMCP khác. ABBANK cho
vay 80% giá trị tài sản thế chấp nếu DN vừa và nhỏ thế chấp bằng bất động sản;
65% giá trị tài sản đảm bảo khi thế chấp bằng động sản. Ngoài ra ngân hàng còn đa
dạng các tài sản đảm bảo để phù hợp với các loại hình hoạt động của DNNVV. Đặc
biệt, ngân hàng thanh giản tối đa những thủ tục xét duyệt, thẩm định, giải ngân...
nhằm giảm thời gian giải quyết hồ sơ xuống 3 ngày kể từ ngày nhận đầy đủ hồ sơ.
Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) vừa phối hợp với Ban Thư ký Nhà nước về các
vấn đề kinh tế của Thụy Sĩ (SECO) triển khai chương trình bảo lãnh tín dụng cho
các DN vừa và nhỏ từ Quỹ Tín dụng xanh (SMESC). Chương trình nhằm hỗ trợ DN
vừa và nhỏ muốn đầu tư nâng cấp và mở rộng hoạt động sản xuất nhưng thiếu tài
sản đảm bảo, đồng thời khuyến khích DN đầu tư vào công nghệ giảm thiểu ô nhiễm
môi trường. Các DN sẽ được hỗ trợ vay vốn từ 25.000 - 1.000.000 USD hoặc tiền
đồng với giá trị tương đương. Sau khi đầu tư, DN sẽ được hoàn lại 25% giá trị
khoản vay nếu mức độ cải thiện môi trường từ 50% trở lên; 15% giá trị khoản vay
cho mức độ cải thiện môi trường từ 30% đến dưới 50%.
Những kết qủa trên là hết sức đáng khích lệ, qua các năm tỷ trọng cho vay của
các ngân hàng đôi với nhóm khách hàng là các DNNVV ngày càng tăng, điêu này
cũng đông nghĩa với việc có nhiêu doanh nghiệp được tiêp cận với nguôn vôn ngân
hàng hơn và lượng vôn được đáp ứng cũng nhiêu hơn. Tuy nhiên, những kêt qua
trên vân chưa thực sự đưa các DNNVV từ vị tri khách hàng tiêm năng lên vị tri
khách hàng muc tiêu của các ngân hàng được. Vân chưa có sự tương xứng với tiêm
năng ở khu vực doanh nghiệp này. Điêu này cũng gián tiêp nói lên rằng, những khó
khăn, rào can trong quá trình tiêp cận nguôn vôn từ hai phia vân chưa được tháo dỡ
hoàn toàn.
46
Trong bối cảnh suy thoái kinh tế từ đầu năm 2009, Chính phủ đã quyết định thực
hiện Quyết định 131/QĐ-TTg ngày 23/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ
trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất – kinh doanh,
nhằm giảm giá thành sản phẩm hàng hóa, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc
làm, trong điều kiện nền kinh tế bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế thế giới.
Theo Báo cáo của NHNN cho thấy kết quả sau 1 năm triển khai, cùng với các
chính sách linh hoạt khác của Chính phủ được ban hành trong năm khó khăn của
nền kinh tế Việt Nam, tính đến cuối năm 2009 tổng số dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất
đạt gần 420.000 tỉ đồng (tính đến ngày 19-11-2009 là 416.737 tỉ đồng).
Chính sách hỗ trợ lãi suất trên đã phát huy tác dụng tích cực giúp Việt Nam
không những kiềm chế được khủng hoảng, suy thoái mà còn giữ ổn định kinh tế vĩ
mô, duy trì tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng.
Nhiều DNVVN nhờ vậy mà thoát khỏi phá sản nhưng bên cạnh những thành
công do chính sách hỗ trợ lãi suất mang lại thì một số bất cập do chính sách này
mang lại cho nền kinh tế như: chỉ khoảng trên 20% trong tổng số doanh nghiệp, tức
khoảng 78.000 trong tổng số khoảng 390.000 doanh nghiệp tiếp cận được vốn hỗ
trợ. Ngoài ra việc khó kiểm soát hiệu quả thực chất của các khoản tín dụng. Dùng
vốn vay để đảo nợ, đầu tư vào chứng khoán hoặc đầu tư vào bất động sản. Hiện
tượng doanh nghiệp vay vốn hỗ trợ lãi suất thấp tại ngân hàng này gửi sang ngân
hàng khác để hưởng chênh lệch, có vốn gửi vào ngân hàng thương mại để hưởng lãi
suất cao nhưng vẫn vay vốn VND để hưởng hỗ trợ lãi suất….
Hiện tại chương trình hỗ trợ lãi suất đã chấm dứt về mặt nào đó nó đã hoàn
thành vai trò của nó trong một thời điểm khó khăn nhất định của nền kinh tế.
Chương trình hỗ trợ lãi suất đã phần nào giải quyết khó khăn về vấn đề chi phí sử
dụng vốn cho DN Việt nam nói chung và DNNVV nói riêng trong thời điểm khó
khăn. Đây cũng là một cố gắng của chính phủ trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tuy
nhiên chương trình hỗ trợ lãi suất này cũng không được coi là biện pháp lâu dài
trong việc giúp đỡ các DNNVV tăng cơ hội tiếp cận các nguồn vay chính thức.
47
2.2.2 Thưc trạng tiếp cận nguồn vốn từ các công ty thuê mua tài chính.
Nghiệp vụ tín dụng thuê mua hay còn gọi là thuê tài chính là loại hình cấp tín
dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên thế giới (Hiện nay ở Mỹ, ngành thuê mua
thiết bị chiếm khoảng 25 - 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết
bị hàng năm). Tuy nhiên tại Việt nam hoạt động CTTC hiện nay còn quá khiêm tốn
so với hoạt động của các ngân hàng thương mại. Dư nợ CTTC chỉ chiếm tỷ trọng
rất nhỏ trong tổng dư nợ tín dụng. Dư nợ trung, dài hạn, chiếm khoảng 1,2% tổng
dư nợ tín dụng của nền kinh tế (Nguồn: NHNN) trong khi ở các nước đang phát
triển, tỷ trọng của thị trường CTTC so với thị trường tín dụng vào khoảng từ 15 đến
20% Hiện nay, trên thị trường cho thuê tài chính Việt Nam đã có 13 công ty CTTC
được thành lập và cấp giấy phép hoạt động. Bao gồm: 3 công ty 100% vốn nước
ngoài, 1 công ty liên doanh giữa NHTM Việt Nam với các đối tác nước ngoài, 8
công ty 100% vốn trong nước trực thuộc các ngân hàng, 1 công ty 100% vốn trong
nước thuộc Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy VINASHIN. Nhưng trên thực tế hoạt
động CTTC tại Việt Nam cũng chưa có sự tiến triển mạnh mẽ nào, một số nguyên
nhân được biết đến như:
+ Qui mô về vốn của các công ty CTTC chưa thực sự lớn (vốn điều lệ trung bình
của một công ty CTTC là 150 tỷ) nên cũng chỉ có khả năng đáp ứng một phần nhu
cầu của nền kinh tế. So với ngân hàng, hoạt động của các công ty CTTC còn non
kém, chưa đủ lực cạnh tranh về vốn, nhân lực, công nghệ. Các tổ chức, người dân
cũng chỉ nghĩ đến ngân hàng khi có nhu cầu về vay vốn hay gửi tiền. Điều này là
bất lợi lớn đối với các công ty CTTC trong huy động vốn, mở rộng tín dụng và phát
triển các dịch vụ tài chính khác.
+ Hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ của các công ty CTTC đến các DNNVV
còn hạn chế. Các công ty CTTC chưa quan tâm đúng mức đến việc quảng bá, giới
thiệu và chưa tích cực tìm đến các đối tác trong kinh doanh.
+ Mạng lưới hoạt động của các công ty cho thuê tài chính mới chỉ có mặt tại một
vài trung tâm kinh tế lớn, chưa trãi rộng trong cả nước
48
+ Chi phí thuê cao, nếu tính theo lãi suất ngân hàng thì lãi suất thuê tài chính cao
hơn vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành,
bảo hiểm,…của bên cho thuê phải bỏ ra.
+ Doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ CTTC còn hạn chế.
+ Để tiếp cận được với nguồn vốn từ cho thuê tài chính, DNNVV phải có dự án
thuê tài chính khả thi, tình hình tài chính lành mạnh và có khả năng tài chính để
tham gia vào dự án điều kiện mà không phải DNNVV nào cũng đáp ứng được.
2.2.3 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ bảo lãnh tín dụng.
Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho các
DNNVV được ban hành vào ngày 20/12/2001 theo quyết định số 193/2001/QĐ-
TTg của thủ tướng chinh phủ. Tinh đên thời điểm hiện nay số tỉnh thành có thành
lập quỹ bảo lãnh tín dụng rất ít và hầu như các quỹ bảo lãnh tín dụng đã được thành
lập hoạt động không thật sự hiệu qua, một sô nguyên nhân được ghi nhận và phân
tích như sau:
- Tâm lý e ngại về tính hiệu quả của quỹ: Như đã trình bày ở các phân trước, các
DNNVV luôn ở trong tình trạng thiếu vốn và nguyên nhân dẫn đến tình trạng này
thì có nhiều nhưng nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp không có tài sản
bảo đảm để tiếp cận với các nguồn vốn vay, đặc biệt là từ ngân hàng. Vì vậy, nhu
cầu về sự có mặt của một bên thứ ba là quỹ bảo lãnh tín dụng là vô cùng cấp thiết
nhằm hỗ trợ cho hoạt động của các DNNVV. Nguồn vốn của quỹ này được hình
thành từ hai nguồn chính là ngân sách của địa phương và nguồn đóng góp tự
nguyện của các tổ tín dụng, doanh nghiệp và các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức
đại diện và hỗ trợ cho các DNNVV, vốn tài trợ hợp pháp từ các tổ chức và cá nhân,
vốn bổ sung từ kết quả hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng, trong đó các ngân hàng
thương mại là nòng cốt. Phía ngân hàng vẫn chưa đánh giá cao hiệu quả hoạt động
của quỹ. Phía các DNNVV lại có một mối băn khoăn khác, đó là mối lo lắng về thủ
tục để được nhận bảo lãnh, nhiều doanh nghiệp lo lắng các “chi phí” liên quan đến
các thủ tục, cộng với lãi suất vay ngân hàng thì làm cho chi phí sử dụng vốn của
doanh nghiệp bị đội lên cao. Tinh đên 4 tháng đâu năm 2009, trên địa bàn thành phô
49
HCM mới có gân 100 DNNVV nộp đơn xin được bao lanh vay vôn, mặc dù sô
lượng DNNVV trên địa bàn là 60.000 doanh nghiệp và rất nhiều doanh nghiệp
trong sô đó đang rât cân vôn và gặp khó khăn khi tiêp cận trực tiêp với ngân hàng.
(Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 22/04/200).
- Khó huy động được các nguồn vốn cho quỹ: Những thành phố có nguồn thu lớn
như Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh, việc chi ngân sách cho quỹ bảo lãnh tín
dụng không phải là vấn đề lớn, tuy nhiên ở một số địa phương khác, mặc dù có nhu
câu thành lập quy nhưng đê huy động đóng góp đủ 30 tỷ đông vôn điêu lệ theo quy
định thì quả là một thách thức vô cùng lớn. Vấn đề còn bộc lộ ở một khía cạnh
khác, điển hình như ở thành phố Hồ Chí Minh, quyết định thành lập Quỹ bảo lãnh
tín dụng với tổng vốn 50 tỷ đồng, ngân sách của thành phố đã chi 25 tỷ đồng, tuy
nhiên đóng góp của các ngân hàng chỉ dừng ở mức 6 tỷ đồng. Lý do từ phía các tổ
chức tín dụng đưa ra là: quỹ bảo lãnh tín dụng là một tổ chức không vì mục tiêu lợi
nhuận, chỉ bao toàn vôn và bù đăp chi phi, vì vậy không khuyên khich được các tô
chức tín dụng dùng vốn điều lệ và và quỹ dự trữ (theo hướng dẫn của công văn
1070/NHNN-TD) để đóng góp vào.
- Vê mặt pháp lý quy chế thành lập quỹ cũng chưa xác định rõ quyền lợi và trách
nhiệm của các tổ chức góp vốn... Mặt khác, vẫn chưa có quy chế cụ thể về việc rút
vốn, chuyển nhượng vốn góp của các tổ chức, cá nhân sau khi tham gia góp vốn
vào quỹ bảo lãnh.
- Một lý do nữa được phía các ngân hàng thương mại đưa ra là với số vốn hoạt động
của quỹ và bội số bảo lãnh tín dụng trong ba năm đầu không vượt quá 5 lần so với
vốn hoạt động thì số doanh nghiệp được cấp tín dụng chỉ là một tỉ lệ cực kỳ nhỏ so
với sô doanh nghiệp có nhu câu, đây cũng là một điêm phi hiệu qua. Đơn cử vê hoạt
động của quy bao lanh tin dung trên địa bàn thành phô HCM, theo thông kê, tinh
đên khoang 4 tháng đâu năm 2009, trên địa bàn thành phô có khoang 60.000
DNNVV, phần lớn các doanh nghiệp đang rất cần vốn nhưng không có tài sản thế
châp nên nhu câu được bao lanh đê vay vôn là rât câp bách. Tuy nhiên, tinh đên thời
điêm đó, quy bao lanh tin dung mới bao lanh được cho 15 doanh nghiệp vay vôn
50
với sô tiên bao lanh khoang 105 tỷ đông. (Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn,
22/04/200).
- Vướng mắc về tổ chức điều hành quỹ. Việc thành lập một tổ chức độc lập để điều
hành quỹ hay là ủy quyền cho một định chế tài chính có sẵn ở các tỉnh, thành
phố quản lý cũng là một vấn đề chưa có được sự đồng thuận cao. Tuy nhiên, xu
hướng chung vẫn là giao cho các định chế tài chính sẵn có quản lý, như Quỹ bảo
lãnh tín dụng ở thành phố Hồ Chí Minh được ủy quyền cho quỹ Đầu tư phát triển
đô thị thành phố quản lý, ở Hà Nội là do Quỹ đầu tư phát triển Hà Nội quản lý. Đây
cũng là một lý do làm các tổ chức tín dụng, ngân hàng e ngại việc góp vốn vì họ
không trực tiếp tham gia quản lý nguồn vốn góp của mình.
- Thực hiện những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì
tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP
ngày 11/12/2008 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 ban hành Quy chế Bảo lãnh cho doanh nghiệp
vay vốn của ngân hàng thương mại, Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg sửa đổi bổ
sung một số điều QĐ số 14 và giao cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPT
VN) thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tại các
ngân hàng thương mại (NHTM) để thực hiện dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh
doanh. Trong quá trình thực hiện vừa qua đã giải quyết phần nào khó khăn về việc
tiếp cận vốn cho DNNVV nhưng trong quá trình hoạt động đã sớm bộc lộ những
nhược điểm. Cho đến nay, chương trình bảo lãnh vay vốn của Chính phủ do ngân
hàng Phát Triển thực hiện đã chấp thuận bảo lãnh cho 1.900 DN và HTX vay vốn ở
các ngân hàng thương mại để thực hiện 270 dự án và 1.000 phương án kinh doanh,
tổng số vốn là khoảng 20.400 tỷ đồng.
Nhờ việc thực hiện bảo lãnh này, các DN và HTX không có đủ điều kiện vẫn
tiếp cận được nguồn vốn thương mại để phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần
phục hồi kinh tế, vượt qua khủng hoảng.
Dự kiến năm 2010 sẽ bảo lãnh cho DN vay vốn khoảng 15.000 tỷ đồng.
51
2.2.4 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ tín dụng xanh dành cho các
DNNVV.
Ngày 10-10-2007, Quỹ Tín dụng Xanh (GCTF) - một quỹ do Chính phủ Thụy
Sĩ tài trợ với sô vôn 5 triệu USD nhằm cung câp tài chinh cho các DNNVV áp dung
công nghệ sản xuất sạch đã ra mắt tại Hà Nội. GCTF sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp
cận các nguồn vốn khi không đủ khả năng thế chấp. Quỹ này sẽ bảo lãnh tín dụng
50% cho các doanh nghiệp (tối đa 500.000 đô la Mỹ) tại Ngân hàng TMCP Quốc tế
(VIBank). Ngoài VIBank, tham gia vào Quỹ còn có Trung tâm Sản xuất sạch Việt
Nam, ngân hàng TMCP Á châu (ACB) và Kỹ thương (Techcombank). Các doanh
nghiệp đăng ký tham gia chương trình sẽ được tư vấn, đánh giá miễn phí về mức độ
tiêu thụ năng lượng, chất thải, môi trường... và khi dự án đầu tư kết thúc, tuỳ theo
mức độ cải thiện môi trường, doanh nghiệp sẽ được GCTF hỗ trợ không hoàn lại
25% nếu cải thiện môi trường được trên 50% hoặc được hoàn lại 15% nếu cải thiện
môi trường trên 30%.
Với quy mô của quỹ 5 triệu USD đây thực sự là con số không lớn so với nhu cầu
của DNNVV ở Việt nam hiện nay nhưng dù sao đây cũng là một nguồn hỗ trợ tài
chinh có ý nghĩa đôi với các DNNVV. Tuy nhiên, không phai DNNVV đêu có thê
tiêp cận với nguôn tài chinh này vì muc đich của quy là hướng đên những doanh
nghiệp tìm kiếm nguồn vốn cho đầu tư công nghệ thân thiện với môi trường trong
hoạt động sản xuất, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường và vì sức khỏe của cộng đồng. Việc sử dụng công nghệ thân thiện với môi
trường, cũng như những biện pháp ky thuật khác đê bao vệ môi trường vân còn là
một thách thức quá lớn với nhiều DNNVV Việt Nam, bởi các doanh nghiệp này đa
phân sử dung công nghệ lạc hậu, thường gây ô nhiêm môi trường. Thêm vào đó ý
thức bao vệ môi trường ở các DNNVV rât kém.
2.2.5 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ Qũy đâu tư mạo hiêm.
Trong giai đoạn khởi đầu doanh nghiệp hay khi quy mô doanh nghiệp chưa lớn
Khi tìm nguồn tài trợ vê vôn đáp ứng nhu câu hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp
cần cân nhắc và tìm kiếm các nguồn vốn sao cho phù hợp với nhu cầu của chính
52
doanh nghiệp. Như vậy rõ ràng, trong giai đoạn này một cấu trúc sử dụng nợ cao sẽ
tiềm ẩn nhiều rủi ro cho doanh nghiệp vì trong giai đoạn mới khởi sự qui mô doanh
nghiệp còn nhỏ, kinh nghiệm cũng như thị trường của doanh nghiệp còn hạn chế.
Hơn nữa trong giai đoạn này để tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng doanh nghiệp
cũng khó tiếp cận được vì doanh nghiệp chưa có đủ tài sản để thế chấp và uy tín của
doanh nghiệp chưa đủ để đáp ứng nhu cầu vay vốn từ ngân hàng.
Xem xét từ khía cạnh này thì vốn đầu tư mạo hiểm được xem là đáp án tối ưu
cho bài toán vê vôn của các DNNVV. Một điêu đáng nói đên nữa là ngoài hô trợ tài
chinh từ các quy đâu tư mạo hiêm các doanh nghiệp còn nhận được những hô trợ
phi tài chính khác như là: quản lý, chính sách nhân sự, marketing, phát triển sản
phẩm,..Những hỗ trợ phi tài chính này có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển của
DNNVV. Vậy vốn đầu tư mạo hiểm là gì?
Vốn đầu tư mạo hiểm là những khoản đầu tư cổ phần vào giai đoạn đầu của
những doanh nghiệp mới khởi sự, các doanh nghiệp này đang cần vốn để tài trợ
cho việc phát triển sản phẩm mới hoặc có ý tưởng về khoa học công nghệ, do vậy
đây là những khoản đầu tư hứa hẹn một tiềm năng tăng trưởng rất lớn để bù đắp cho
mức độ rủi ro cao hơn. Các chuyên gia quản lý vốn đầu tư mạo hiểm sẽ tìm kiếm
các khoản thu nhập vốn tiềm năng cao hơn. Nếu hiểu theo nghĩa rộng hơn thì vốn
đầu tư mạo hiểm là nguồn tài chính đầu tư cho các doanh nghiệp dưới hình thức vốn
cổ phần và các khoản đầu tư gần giống vốn cổ phần, có thời hạn trung bình (3-5
năm). Mục tiêu là tìm kiếm được khoản thu nhập vốn cao hơn mức trung bình. Bên
cạnh việc cung cấp vốn, các chuyên gia quản lý quỹ vốn đầu tư mạo hiểm còn cung
cấp cho các doanh nghiệp những hỗ trơ về mặt phi tài chính như: chiến lược kinh
doanh, marketing, khách hàng, đối tác tiềm năng,…tạo điều kiện cho doanh nghiệp
bước sang một giai đoạn tăng trưởng tiếp theo và chuẩn bị sẵn sàng để doanh
nghiệp được chuyển giao cho các cổ đông khác.
Do đó đối tượng mà quỹ đâu tư mạo hiêm hướng đên là các doanh nghiệp mới
khởi sự, không có tài san đam bao vay vôn, có ý tưởng mới, có kha năng tăng
53
trưởng cao (nhưng rủi ro đi kèm cũng rât lớn) nên có thê nói các DNNVV chinh là
khách hàng mục tiêu của các quỹ này.
Quá trình phát triển của vốn ĐTMH ở thị trường Việt Nam:
- Giai đoạn từ 1991 đến 2002: đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của một số quỹ
ĐTMH vào thị trường Việt Nam, nhưng sau đó hầu hết các quỹ này đã rút khỏi Việt
Nam do hoạt động không hiệu quả.
- Giai đoạn từ 2002 đến 2006: có những dấu hiệu tích cực từ nền kinh tế, thị trường
chứng khoán từng bước phát triển, cơ hội đầu tư ở Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn và
đã có sự xuất hiện trở lại của các quỹ ĐTMH với qui mô vốn lớn hơn đầu tư vào thị
trường Việt Nam.
- Giai đoạn 2007 đến nay: nhiều quỹ đầu tư nước ngoài xuất hiện tại Việt Nam, các
quỹ này tập trung đầu tư theo những lĩnh vực khác nhau. Với sự xuất hiện của khá
nhiều quỹ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, từ Hàn Quốc có các quỹ: Korea WW
CHN Viet MC EQ, MA Maps Oppo Viet & CHN, Tongyang Vietnam, KITM WW
Vietnam Real Est; từ Singapore: DBS Indochina Fund, Lion Capital Vietnam Fund
và Fullerton Vietnam Fund; từ Malaysia có quỹ: Hwang/DBS Indochina Fund; từ
Anh có quỹ: Indochina Capital Vietnam, và từ Liechtenstein có quỹ T.I.M Vietnam
Tiger Fund. Hiện tại số quỹ đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam khá nhiều khoảng
56 quỹ.
Biêu đồ 2.1: Qui mô vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam từ 1991 đến 2006.
(Đơn vi triệu USD) Nguồn: Asia venture capital journal
54
Việt Nam được đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng cho hoạt động đầu
tư vốn mạo hiểm, tuy nhiên thị trường vốn mạo hiểm tại Việt nam thời gian qua đã
không đạt được những kêt qua như người ta từng mong đợi. Mặc dù, chưa có sô liệu
chinh thức vê hoạt động đâu tư của các quy đâu tư mạo hiêm cho các DNNVV,
nhưng nhìn chung còn rât hạn chê vê sô lượng doanh nghiệp được nhận đâu tư cũng
như sô vôn đâu tư. Có các nguyên do sau:
- Theo đúng đặc điểm của vốn mạo hiểm thì thời điểm doanh nghiệp tiến hành IPO
cũng là thời điểm mà doanh nghiệp sẽ tiến hành việc thoát vốn của các quỹ, trong
khi ở Việt Nam đây là giai đoạn để các quỹ tiến hành đầu tư vào các doanh nghiệp
vì đầu tư vào các doanh nghiệp vừa được lên sàn chứng khoán sẽ giảm thiểu được
rủi ro cho quỹ, do đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam rất khó tiếp cận
được nguồn vốn tài trợ này. Hơn nữa, hoạt động của thị trường chứng khoán còn
nhiêu bât cập và không ôn định, anh hưởng đên kha năng thoát vôn của các quy đâu
tư này.
- Số lượng DNNVV gia tăng mạnh mẽ trong thời gian qua đã mở ra rất nhiều cơ hội
cho các quỹ đầu tư lựa chọn. Tuy nhiên, những dự án có tiềm năng tốt thực sự hấp
dẫn và đáp ứng yêu cầu của các quỹ đầu tư lại không được nhiều.
- Cũng giông như ngân hàng các quỹ đầu tư mạo hiêm chưa có niềm tin nơi các
DNNVV, vì các doanh nghiệp này không minh bạch vê tài chinh, che giâu kêt qua
hoạt động kinh doanh. Các ông chủ DNNVV không thích có sự tham gia quản lý
của người ngoài, chưa có mô hình quản trị doanh nghiệp phù hợp, vì vậy nên khi có
nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh thì có xu hướng đi vay hơn là kết
nạp các thành viên mới là các quỹ đầu tư mạo hiểm, đây là một trở ngại lớn cho sự
tiếp cận của các quỹ đầu mạo hiểm.
- Mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm tuy đã phổ biến ở nhiều quốc gia phát triển nhưng
đối với Việt nam thì khái niệm này chưa thật sự phổ biến khi có không ít các
55
DNNVV chưa có khái niệm về quỹ đầu tư mạo hiểm. Điều này một phần xuất phát
từ thiếu hoạt động quãng bá của các quỹ dẫn tới các DNNVV không biết đến các
quỹ.
2.2.6 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đi vào hoạt động từ tháng 7/2000
đến nay đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy còn non trẻ nhưng TTCK Việt
Nam bước đầu đã góp phần hình thành một thị trường vốn tương đối toàn diện, tạo
lập và vận hành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Nhưng sự phát
triển đó vẫn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Yếu tố “bong bóng” trên TTCK được thể hiện
rất rõ. Vì vậy, mặc dù có những bước phát triển ấn tượng, TTCK Việt Nam vẫn
chưa thể coi là “hàn thử biểu của nền kinh tế và cũng chưa là kênh huy động vốn
trung và dài hạn quan trọng của các DN Việt Nam”. Đại diện Bộ Tài chính cũng có
chung quan điểm khi nhận xét: Từ năm 2006, điểm yếu về quy mô của TTCK mặc
dù đã được khắc phục cơ bản nhưng TTCK vẫn chưa thực hiện đúng chức năng của
nó vì biến động của TTCK không hoặc ít nhất là chưa thật sự phản ánh đúng trạng
thái của nền kinh tế Việt Nam.
Có thê nói, thị trường chứng khoán là kênh huy động vôn cực kỳ hiệu qủa cho các
doanh nghiệp. Tuy nhiên đôi với các DNNVV, việc huy động vôn từ thị trường
chứng khoán là điều vô cùng khó khăn. Về phía doanh nghiệp là những do tâm lý e
ngại do niêm yết là phải minh bạch tình hình hoạt động của doanh nghiệp, khó khăn
vê mặt nhận thức vê việc huy động vôn từ kênh này (mặc dù trong thực tê không it
DNNVV đủ điều kiện để niêm yết) và khó khăn nữa là những quy định khác
nghiêm ngặt vê điêu kiện niêm yêt:
- Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính:
+ Luật Chứng khoán số 70/QH11 ngày 29/6/2006; có hiệu lực ngày 01/01/2007.
+ Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Chứng khoán; có hiệu lực ngày 08/02/2007.
+ Quyết định 13/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính Ban
hành mẫu Bản cáo bạch trong Hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng
56
và Hồ sơ đăng ký niêm yết chứng khoán tại Sở GDCK, Trung tâm GDCK; có hiệu
lực ngày 12/8/2007.
+ Thông tư 38/2007/TT-BTC ngày 18/4/2007 hướng dẫn về việc công bố thông tin
trên thị trường chứng khoán; hiệu lực ngày 13/8/2007.
+ Quyết định số 168/QĐ-SGDHCM ngày 7/12/2007 của Tổng Giám đốc Sở giao
dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quy chế niêm yết chứng
khoán tại Sở GDCK Tp HCM; hiệu lực ngày 07/12/2007.
+ Quyết định số 420 /QĐ-TTGDHN ngày 31 tháng 12 năm 2007 của Giám đốc
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội Về việc ban hành Quy chế niêm yết
chứng khoán tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội; hiệu lực ngày
31/12/2007.
Niêm yết cổ phiếu tại Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh.
- Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ
đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán.
- Hoạt động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi
và không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký niêm yết.
- Không có các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng theo quy định của pháp luật;
công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm
soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc, Kế
toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan.
- Tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông
nắm giữ.
- Cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng
Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc và Kế toán trưởng của công ty
phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể
từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không
tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ.
- Có hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu hợp lệ.
Niêm yết trái phiếu tại Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh.
57
- Là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhà nước
có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ đồng Việt Nam
trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
- Hoạt động kinh doanh của hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi,
không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm và hoàn thành các nghĩa vụ
tài chính với Nhà nước;
- Có ít nhất 100 người sở hữu trái phiếu cùng một đợt phát hành;
- Có hồ sơ đăng ký niêm yết trái phiếu hợp lệ.
Niêm yết chứng chỉ quỹ đại chúng hoặc cổ phiếu của công ty đầu tư chứng
khoán đại chúng tại Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh:
- Là quỹ đóng có tổng giá trị chứng chỉ quỹ (theo mệnh giá) phát hành từ 50 tỷ đồng
Việt Nam trở lên hoặc công ty đầu tư chứng khoán có vốn điều lệ đã góp tại thời
điểm đăng ký niêm yết từ 50 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ
kế toán;
- Sáng lập viên và thành viên Ban đại diện quỹ đầu tư chứng khoán hoặc thành viên
Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc
hoặc Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng của công ty đầu tư chứng khoán phải cam
kết nắm giữ 100% số chứng chỉ quỹ hoặc cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6
tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số chứng chỉ quỹ hoặc cổ phiếu này trong thời
gian 6 tháng tiếp theo;
- Có ít nhất 100 người sở hữu chứng chỉ quỹ của quỹ đại chúng hoặc ít nhất 100 cổ
đông nắm giữ cổ phiếu của công ty đầu tư chứng khoán đại chúng;
- Có hồ sơ đăng ký niêm yết chứng chỉ quỹ đại chúng hoặc cổ phiếu của công ty
đầu tư chứng khoán đại chúng hợp lệ.
Niêm yết cổ phiếu tại Sở GDCK Hà Nội:
- Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 10 tỷ
đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
58
- Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi,
không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm và hoàn thành các nghĩa vụ
tài chính với Nhà nước;
- Cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông nắm giữ;
- Cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc và Kế toán trưởng của công ty
phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể
từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không
tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ;
- Có hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu hợp lệ.
Niêm yết trái phiếu tại Sở GDCK Hà Nội:
- Là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhà nước có vốn
điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính
theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
- Các trái phiếu của một đợt phát hành có cùng ngày đáo hạn;
- Có hồ sơ đăng ký niêm yết trái phiếu hợp lệ.
Với những điều kiện như trên thì dễ nhận ra rằng rất ít DNNVV đủ điều kiện để
có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán vì quy mô vốn không đủ yêu cầu là vốn
điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính
theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Như phân tích ở phần đầu chương II, hiện tại xét về
quy mô vốn có đến 90% số DNNVV có mức vốn dưới 5 tỷ đồng do đó số lượng
DNNVV đủ điều kiện nêm yết trên thị trường chứng khoán chiếm một tỷ lệ rất thấp,
vì vậy nên hâu như các DNNVV vân chưa thê huy động được vôn từ thị trường
chứng khoán được.
59
Kết luận chương 2
Sau khi phân tích thực trạng về tình hình hoạt động và khả năng tiếp cận nguồn
vốn của các DNNVV nhận thấy rằng mỗi hình thức huy động vốn đều có những đặc
điểm riêng, có ưu nhược khác nhau, do đó các doanh nghiệp phải căn cứ vào điều
kiện, nhu cầu vốn của bản thân mà quyết định nên tiếp cận với nguồn vốn nào là
phù hợp, sao cho quá trình huy động vốn được khả thi và quá trình sử dụng cũng
mang lại hiệu quả cao nhất có thể được.
Do đó để các DNNVV ngày càng phát triển mạnh hơn đóng góp vào sự phát
triển chung của nền kinh tế thì ở phần tiếp theo người viết sẽ nêu ra một số kiến
nghị nhằm giúp loại hình doanh nghiệp này tiếp cận nguồn vốn từ các nguồn như:
tín dụng ngân hàng, cho thuê tài chính, quỹ đầu tư, thị trường chứng khoán
60
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỖ TRỢ DNNVV TIẾP CẬN NGUỒN
VỐN CHÍNH THỨC ĐỂ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH
Với vai trò và những đóng góp như đã nêu trên của DNNVV đối với nền kinh
tế để giúp DNNVV thoát khỏi vòng luẩn quẩn thiếu nguồn tài chính dẫn đến
khó khăn trong sản xuất kinh doanh (công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh kém,
thiếu thông tin và khả năng tiếp cận thông tin….) khó khăn trong sản xuất kinh
doanh lại gây khó khăn trong việc tìm nguồn vốn thì đòi hỏi phải có một cú hích từ
bên ngoài mà cụ thể là cơ chế và chính sách của chính phủ, sự thay đổi trong quan
điểm và cả trong cách làm của các ngân hàng thương mại đối với DNNVV và sự nổ
lực vươn lên của chính các DNNVV.
Xuất phát từ quan điểm như vậy nên tôi đề xuất ra một số gợi ý cho các bên liên
quan trong việc giúp DNNVV tiếp cận nguồn vốn chính thức nhằm phát triển sản
xuất kinh doanh.
3.1 Kiến nghi đối vơi DNNVV.
Nhìn chung DNNVV phải tự chủ động xây dựng kế hoạch, chiến lược sản xuất
kinh doanh, nghiên cứu áp dụng công nghệ, đổi mới trang thiết bị, tăng năng suất
lao động và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Chấp hành đúng
pháp luật, đề cao văn hoá trong kinh doanh. Có kế hoạch đào tạo và nâng cao chất
61
lượng nguồn nhân lực quản lý doanh nghiệp, nâng cao nhận thức về xu thế hội nhập
và cạnh tranh quốc tế; chủ động liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp trong và
ngoài nước để mở rộng sản xuất, kinh doanh, năng lực cạnh tranh.
3.1.1 Nâng cao chât lượng bao cao kế toán.
Hâu hêt các DNNVV ở nước ta hiện nay đều không nhận thấy tầm quan trọng
của việc thực hiện hoạt động kế toán một cách trung thực và minh bạch. Hiện nay,
các DNNVV chủ yêu thực hiện hoạt động kê toán nhằm muc đich đôi phó với các
cơ quan chức năng và các tô chức câp tin dung. Trong doanh nghiệp có khi tôn tại
nhiêu hệ thông sô sách kê toán. Hệ thông thứ nhât là hệ thông kê toán mà chỉ có chủ
doanh nghiệp được biết. Đó là hệ thống ghi chép không theo bất kỳ quy định nào
của pháp luật, tuy nhiên lại phản ánh đúng về tình trạng hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Hệ thống thứ hai là hệ thống kế toán dùng để báo cáo cho cơ quan
thuế. Hệ thống này về hình thức, theo đúng quy định của pháp luật nhưng thông tin,
số liệu trong đó hoàn toàn không phản ánh đúng thực tiễn hoạt động kinh doanh,
được lập ra nhằm muc đich đôi phó, che đậy kêt qua thực tê, lừa dôi cơ quan thuê,
nguyên nhân của việc này là DNNVV muốn trốn thuế. Ngoài ra khi đi vay ngân
hàng thì thậm chí có DNNVV còn có thể trưng ra một bản báo cáo khác với số liệu
đẹp để có thể dễ dàng được ngân hàng cho vay. Bên cạnh đó, DNNVV thường bán
hàng không có hợp đồng kinh tế, không tuân thủ chế độ phát hành hóa đơn bán
hàng, nên ngân hàng không đủ cơ sở để đánh giá và quyết định việc cho vay. Công
tác kế toán trong doanh nghiệp thường không được coi trọng thậm chí có nhiều
doanh nghiệp còn thực hiện thuê dịch vu kê toán theo mùa vu. Vì vậy, đội ngũ kê
toán trong các doanh nghiệp không ổn định, gây khó khăn lớn cho việc bảo đảm
tính liên tục trong công tác kế toán.
Việc làm này quả là lợi bât cập hại, có thê mang lại cho doanh nghiệp một sô
lợi ich trước măt nhưng lại có những hệ luy khôn lường vê lâu vê dài. Thực tê đa
cho thây các nhà đâu tư cá nhân, ngân hàng thương mại, qũy đâu tư mạo hiêm đêu
thiêu tin tưởng khi đâu tư vôn cho DNNVV chinh vì không tin tưởng khi lây báo
62
cáo tài chinh của doanh nghiệp như một cơ sở đê ra quyêt định cho vay hay đâu
tư.
Doanh nghiệp phải có sự lựa chọn đúng đắn hoặc là không minh bạch trong
tài chính để có thể trốn thuế nhưng doanh nghiệp sẽ không có khả năng tiếp
cận được các nguồn vốn chính thức phục vụ cho việc mở rộng phát triển sản xuất
kinh doanh hoặc là minh bạch tình hình tài chính của doanh nghiệp nhưng không
thể trốn thuế nhưng có thể gia tăng cơ hội tiếp cận các nguồn vốn chính thức từ đó
dễ dàng tiếp cận nguồn vốn chính thức phục vụ cho nhu cầu mở rộng phất triển kinh
doanh. Do đó đê tăng cường niêm tin với các ngân hàng, các tô chức, cá nhân đâu
tư vôn vào doanh nghiệp, các DNNVV cân phai có lựa chọn đúng đăn, có một cái
nhìn mới vê hoạt động kê toán, lập báo cáo tài chinh. Phai xem đây là một công cu
quản trị và thực hiện trung thực, minh bạch và đúng với qui định pháp luật. Phải
tuyên dung những kê toán viên có năng lực thực sự, chú trọng đên khâu bôi dưỡng
cập nhật và nâng cao kiên thức. Làm tôt được khâu này không những giúp doanh
nghiệp kiểm soát hoạt động kinh doanh của chính bản thân doanh nghiệp (kiểm soát
chi phí, giá thành sản phẩm …) mà còn góp phần giúp các doanh nghiệp tạo lập
được niêm tin từ các đôi tượng bên ngoài doanh nghiệp như: nhà đâu tư, ngân hàng,
cơ quan thuê. Cuộc điêu tra của CIEM (Viện Nghiên cứu Quan lý Kinh tê Trung
ương) vê việc sử dung hệ thông kê toán chinh thức ở các DNNVV cho kêt qủa như
sau: Trong số 2692 DN được điều tra có áp dụng hệ thống sổ sách kế toán chính
thức thì có 998 DN (37,1%) Áp dụng hệ thống sổ sách kế toán chính thức còn lại
1694 DN (62,9%) Không áp dụng. Trong số 998 DN áp dụng hệ thống sổ sách kế
toán chính thức thì có 251 DN (25,2%) có kiểm toán còn 747 DN (74,8%) không
được kiểm toán.
3.1.2 Thay đổi tư duy trong quản trị doanh nghiệp ở các DNNVV.
Rất nhiều các DNNVV ở Việt nam hoạt động theo hình thức “gia đình” các
doanh nghiệp có xu hướng sử dụng người trong gia đình vào làm việc trong doanh
nghiệp và năm giữ những vị trí quan trọng mà không hê có sự xem xét đên năng lực
thực tê của những người này. Do đó làm hiệu qua công việc kém đi, doanh nghiệp
63
sẽ không tuyên dung được người tài, hoặc nêu tuyên dung được người tài thì cũng
không tạo cơ hội, điêu kiện đê họ phát huy được hêt năng lực của mình và cuôi
cùng không giữ chân được người tài. Do đó nguôn nhân lực có chât lượng cao đa
phân xem các DNNVV là nơi họ học tập kinh nghiệm, không phai nơi họ găn bó lâu
dài. Việc thiêu người tài trong doanh nghiệp làm doanh nghiệp rât khó khăn trong
quá trình phát triển.
Vì vậy để giữ chân và thu hút người tài thì DNNVV phải thay đổi trong tư duy
quản trị doanh nghiệp, phải định hình một phong cách quản trị doanh nghiệp riêng
cho bản thân. Các DNNVV không có nguồn tài chính dồi dào để trả lương và
thưởng hậu hĩnh cho người tài như các công ty lớn thay vào đó họ có thể mời họ
tham gia vào ban quản trị doanh nghiệp làm cho họ trở thành chủ của doanh nghiệp,
tôi tin rằng rất nhiều người làm thuê sẽ đồng ý với lời mời này thay vì họ chuyển
sang một doanh nghiệp lớn khác nhưng vẫn là làm thuê. Làm được điều này doanh
nghiệp sẽ giải quyết được nhiều vấn đề: trước tiên họ giữ chân được người tài,
không cho họ chuyển sang đối thủ cạnh tranh hoặc thành lập các doanh nhgiệp mới
là đối thủ cạnh tranh tiềm năng sau này, thứ hai họ không tốn chi phí, không thay
đổi cơ cấu trả lương nhưng vẫn giữ chân được người có năng lực, thứ ba nếu người
tài sau khi được làm chủ doanh nghiệp thì họ sẽ làm việc càng hiệu quả hơn vì lúc
đó họ không còn phải làm thuê nữa mà làm cho chính bản thân họ, thứ tư doanh
nghiệp có thể thu hút thêm vốn đầu tư từ những người tài khi họ đóng góp thêm vốn
cho doanh nghiệp.
3.1.3 Tham gia cac hiệp hôi nganh nghê.
Các DNNVV tại Việt Nam có mối liên kết với nhau rất hạn chế. Điều này thể
hiện trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự liên kết kém chặt chẽ với nhau của
các DNNVV có thể bắt nguồn từ tính cách của dân tộc Việt nam. Dân tộc Việt nam
thường thể hiện tinh thần đoàn kết khi gặp khó khăn trong khi bình thường thì rất ít
khi hợp tác đoàn kết với nhau. Do đó với mục tiêu là sự lớn mạnh của bản thân
DNNVV nói riêng và hệ thống các DNNVV của Việt nam nói chung, các DNNVV
cần thiết phải có sự hợp tác và liên kết với nhau. Đặc biệt trong thời kỳ hiện nay,
64
thời kỳ toàn cầu hoá và chuyên môn hoá sự phân công lao động diễn ra trên toàn thế
giới, một doanh nghiệp riêng rẽ không thể tự mình và cũng không nên tự mình hoàn
tất các công đoạn của một quá trình sản xuất sản phẩm. Dĩ nhiên thực hiện điều này
là thật sự không dễ dàng phải có sự phối hợp từ nhiều phía nhưng bản thân các
doanh nhân, các ông chủ doanh nghiệp phải tự mình thay đổi quan điểm (lâu nay
các doanh nhân Việt nam thường có quan điểm thương trường là chiến trường nên
sự hợp tác là hạn hữu) đề cao sự hợp tác, liên kết giúp nhau cùng phát triển thì hệ
thống các DNNVV sẽ ngày càng phát triển.
Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam là nơi mà DNNVV có thể tìm kiếm
sự hỗ trợ vê nhiêu mặt như: tư vân hô trợ ky thuật, thông tin phá́p lý cho các doanh
nghiệp, tô chức hội thao, kêu gọi tài trợ, giúp đỡ các DNNVV phát triên, giúp các
doanh nghiệp trong việc tìm kiêm cơ hội ở thị trường nước ngoài v.v.
Kinh nghiệm ở nhiêu nước cho thây, vai trò của hiệp hội các DNNVV rât được
coi trọng, có sức anh hưởng lớn đên các doanh nghiệp đang hoạt động trong nên
kinh tê nói chung. Vi du ở Hàn Quôc, hiệp hội các DNNVV ở đây còn sở hữu ca
một hệ thông ngân hàng của riêng hiệp hội với sô vôn rât lớn.
Vì vậy, các doanh nghiệp cần tham gia tích cực hơn nữa vào các hiệp hội ngành
nghê, không chỉ dừng lại ở việc đăng ký thành viên mà phai tham gia vào các hoạt
động, chương trình do hiệp hội tô chức, đóng góp ý kiên, sáng kiên vì sự phát triên
của hiệp hội của nói chung. Điêu đó sẽ vô cùng có lợi cho các doanh nghiệp, hiệp
hội chinh là nơi các doanh nghiệp có thê chia sẻ và học tập kinh nghiệm, giúp đỡ và
hợp tác trong kinh doanh, nhận được sự tư vân, hô trợ của hiệp hội khi cân thiêt và
nhât là tạo dựng được một tiêng nói có trọng lượng đôi với chinh phủ.
3.2 Kiến nghị các trung gian tài chính.
3.2.1 Kiến nghi đối vơi cac công ty cho thuê tài chính.
Trong thời gian qua với các ưu điểm của mình như: tách quyền sở hữu và quyền
sử dụng tài sản, đặc biệt là cho vay không cần tài sản thế chấp các công ty CTTC đã
có những bước phát triển mạnh mẽ. Thị trường cho thuê tài chính có những bước
tiên đáng kê, trở thành một kênh dân vôn trung dài hạn quan trọng cho nên kinh tê,
65
nhất là cho các DNNVV. Tuy nhiên để đáp ứng với nhu cầu đổi mới trang thiết bị,
máy móc của các doanh nghiệp ngày càng tăng để tăng quy mô, tăng năng lực cạnh
tranh trong thời gian tới các công ty tài chinh cân có những giai pháp cu thê đê nâng
cao tinh hâp dân và hiệu qua hoạt động tương xứng với tiêm năng của mình, cũng
đồng nghĩa với việc nâng cao hơn nữa sự hỗ trợ dành cho các DNNVV. Một số kiến
nghị đối với công ty CTTC như sau:
- Nâng cao trình độ nguồn nhân lực trong việc đánh giá thẩm định tính khả thi của
dự án và quản lý chặt chẽ tài sản sau khi cho thuê.
- Cố gắng giảm các loại chi phí đầu vào nhằm hạ giá dịch vụ để thu hút khách
hàng.
- Mở rộng mạng lưới hoạt động.
- Trong thời gian qua hoạt động của các công ty CTTC ngày càng phát triển nhưng
sự hiểu biết của DNNVV đối với hoạt động của các công ty CTTC còn hạn chế.
Nhiều khách hàng tiềm năng chưa tiếp cận và tận dụng được những lợi ích của
phương thức này mang lại. Do đó các công ty CTTC cần phải kết hợp với hiệp hội
DNNVV để thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề về CTTC thông qua
hội thảo để tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu rộng rãi về hoạt động CTTC nâng cao
sự hiểu biết của DNNVV về hoạt động CTTC.
- Nhà nước cũng cần có các chính sách khuyến khích cho các công ty CTTC để các
công ty CTTC có các chương trình tài trợ cho các DNNVV, ví dụ như ưu đãi thuế
(thuế thu nhập doanh nghiệp), ngoại tệ, lãi suất huy động vốn trung dài hạn…nhằm
giúp các công ty CTTC có thể giảm các chi phí đầu vào và từ đó giảm giá cho thuê,
nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng qui mô hoạt động.
3.2.2 Quỹ đâu tư mạo hiêm.
Vốn đầu tư mạo hiểm được xem là một trong những lựa chọn tốt mà doanh
nghiệp có thể sử dụng khi có nhu cầu về vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh,
đồng thời vốn đầu tư mạo hiểm là một kênh dẫn vốn hiệu quả cho nền kinh tế giảm
áp lực về nguồn cung vốn cho nền kinh tế của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, ở
một thị trường được đánh giá là có tiềm năng và đang khát vốn mà thị trường vốn
66
mạo hiểm lại chưa phát triển mạnh là một vấn đề cần phải suy nghĩ. Để có thể phát
triển thị trường vốn đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam thì cần phải có những giải pháp
phối hợp từ nhiều phía, từ phía chính phủ với việc hoàn thiện môi trường đầu tư,
môi trường pháp lý, từ phía các doanh nghiệp phải chuyên nghiệp chủ động hơn
trong việc tiếp cận vốn đầu tư mạo hiểm và từ các quỹ đầu tư mạo hiểm với những
chính sách sâu sát hơn với môi trường đầu tư ở Việt Nam.
Về khía cạnh nhà nước thì để quỹ đầu tư thực hiện tốt vai trò của mình thì cần
những chính sách khuyến khích ủng hộ như:
+ Ưu đai vê thuê cho hoạt động đầu tư mạo hiêm trong một sô truờng hợp
mà nhà nước khuyến khích. Đầu tư mạo hiểm tức là phải gánh chịu những rủi ro rất
lớn, có thể được lợi nhuận rất cao nhưng cũng có thể thất bại, chính vì yếu tố rủi ro
cao hơn nên thiết nghĩ chúng ta phải có một chính sách thuế thích hơp để thu hút
được nguồn vốn đầu tư mạo hiểm. Trong trường hợp quỹ đầu tư vào các DNNVV
vừa thành lập thì được ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian đầu
nhưng nếu đầu tư vào các doanh nghiêp đang trên đà thua lỗ và chuẩn bị phá sản thì
không được ưu đãi gì.
+ Luật sở hữu trí tuệ nước ta còn tồn tại một số vấn đề như việc xử lý các vi phạm
sở hữu trí tuệ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chế tài xử phạt thấp do đó tính răn
đe gần như không có, thời gian xử lý kéo dài. Do đó để tạo môi trường kinh doanh
thuận lợi thu hút các quỹ đầu tư mạo hiểm thì đẩy mạnh quá trình sửa đổi, hoàn
thiện luật quyền sở hữu trí tuệ là cần thiết nhằm bảo vệ quyền của những phát minh,
sáng chế sản phẩm, công nghệ mới cho những doanh nghiệp mới khởi sự. Điều này
không chỉ giúp cho hoạt động của thị trường vốn mạo hiểm phát triển mạnh mẽ mà
còn làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh ở Việt Nam, thu hút được nguồn
vốn đầu tư nước ngoài trong điều kiện chúng ta đã là thành viên chính thức của
WTO.
+ Phát triển một thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả và có tính bền vững.
Có thể xem thị trường chứng khoán là tiền đề để phát triển thị trường vốn mạo
hiểm. Bất kỳ một quốc gia nào nếu chưa có sự ra đời của thị trường chứng khoán
67
hoặc thị trường chứng khoán hoạt động chưa mạnh thì vốn mạo hiểm còn bị hạn chế
nhiều vì đây được xem là kênh thoát vốn quan trọng của các quỹ đầu tư mạo
hiểm.
3.2.3 Kiến nghị phát triển thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Việt Nam hình thành được gần mười năm. Chính
phủ Việt Nam quyết tâm xây dựng một thị trường vốn phát triển để làm một kênh
huy động vốn tốt cho nền kinh tế nói chung và cho các doanh nghiệp. Thị trường
chứng khoán vừa qua đã có những phát triển rất tốt, rất nhanh quy mô vốn hoá của
thị trường ngày càng tăng và chiếm một tỷ trọng khá lớn trong GDP của nền kinh
tế, nhưng nó cũng có những vấn đề như chưa được ổn định. Trong quá trình phát
triển nó cũng có những biến động rất là lớn. Việc mất ổn định của thị trường chứng
khoán Việt Nam trong thời gian qua là chuyện đương nhiên khi mọi thứ đối với
Việt Nam còn quá mới. Nếu thị trường chứng khoán hoạt động ổn định và thể hiện
được đúng chức năng của nó sẽ làm giảm áp lực về cung vốn cho nền kinh tế từ các
ngân hàng để từ đó ngân hàng có nhiều điều kiện mở rộng tín dụng đối với
DNNVV.
- Tăng cường và phát triển hệ thống công bố thông tin nhằm đảm bảo thông tin
công bố kịp thời. Giám sát việc công bố thông tin của các thành viên thị trường đảm
bảo tính minh bạch, đầy đủ. Ngoài ra có cơ chế, các biện pháp chế tài nghiêm khắc
hiệu quả đối với các cá nhân tổ chức (thành viên của SGDCK)có các hành vi phạm
luật như: giao dịch nội gián, thao túng, lũng đoạn thị trường. Để giảm thiểu rủi ro
gắn với những vi phạm thông tin trong kinh doanh chứng khoán cần coi trọng ngăn
chặn và xử lý các thông tin sau: thiếu phổ biến thông tin chính xác, cần thiết đầy đủ,
có hệ thống cập nhật, thông tin bị bóp méo, chậm công bố thông tin hoặc đánh tráo
thông tin khi đưa ra công chúng.
- Cần tăng cường hoạt động kiểm tra giám sát các phát hành cổ phiếu, huy động vốn
một cách vô tội vạ, huy động vốn mà không sử dụng vốn đúng mục đích gây thiệt
hại cho các nhà đầu tư.
68
- Phải hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán. Hiện nay chúng ta đã
có luật Chứng khoán và chúng ta đang vận hành trên cái luật đó. Tuy nhiên qua quá
trình vận hành thì mới thấy là có quá nhiều khiếm khuyết và có những vấn đề chưa
phù hợp, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đang xảy ra đối với thị trường chứng
khoán. Phải sửa luật Chứng khoán cho phù hợp hơn, tốt hơn, để đảm bảo cho thị
trường chứng khoán phát triển được theo xu thế chung, hội nhập trên thế giới, đồng
thời đảm bảo được một thị trường phát triển tốt.
- Bên cạnh đó, do thiếu nhà tạo lập thị trường nên một đặc trưng riêng có của TTCK
Việt Nam là khi giá cổ phiếu cao thì hầu như không ai bán, còn khi giá thấp lại rất
hiếm người mua. Những yếu tố này khiến thị trường dễ rơi vào trạng thái giao dịch
một chiều. Khi đó vai trò của nhà nước là tạo ra một công ty có nguồn vốn và chứng
khoán lớn như dạng Cty SCIC để bình ổn thị trường.
- Hiện nay theo luật định tỉ lệ nắm giữ vốn cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
là không quá 30% hay 49% đối với các DN đã niêm yết, nếu nhà đầu tư nước ngoài
nào nắm giữ vượt 49% tổng số cổ phần phát hành ra công chúng trước khi niêm yết,
đăng ký giao dịch thì phải thực hiện bán cổ phiếu để đảm bảo tỷ lệ nắm giữ của bên
nước ngoài tối đa là 49%.Đối với thị trường chứng khoán thời kỳ đầu thì quy định
này còn phù hợp tuy nhiên sau thời gian phát triển gần 10 năm thì quy định này nên
được thay đổi hay chỉ giữ lại đối với những ngành nghề mang tính nhạy cảm còn
đối với các ngành nghề khác thì không cần thiết giữ quy định này.
- Khuyến khích thành lập các công ty đánh giá mức tín nhiệm.
3.2.4 Kiến nghi đối vơi ngân hang thương mại.
Theo báo cáo của ngân hàng nhà nước tính đến cuối năm 2008 tổng số doanh
nghiệp đang còn quan hệ tín dụng với ngân hàng là 163.673 doanh nghiệp chiếm
trên 50% số DNNVV với tổng nguồn vốn kinh doanh là 482.092 tỷ đồng trong đó
vốn tự có chiếm tỷ trọng là 36,35%, vốn vay ngân hàng chiếm tỷ trọng là 45,31%
còn lại vôn khác chiêm tỷ trọng 18,44%. Như vậy ta thây rằng ngân hàng chinh là
nguôn cung vôn chủ yêu cho các DNNVV. Nhìn chung hiện nay, hâu hêt các ngân
hàng đêu đặt DNNVV là khách hàng chiên lược và có những chinh sách, chiên lược
69
nhằm hướng đên đôi tượng khách hàng này. Vi du như ở ngân hàng Ngoại Thương
Việt Nam, theo ông Huỳnh Song Hào (phó giám đôc chi nhánh thành phô Hô Chi
Minh) cho biêt, hệ thông ngân hàng này đa chuyên từ mô hình bán buôn sang bán
lẻ, đặc biệt là nguôn vôn cho DNNVV ngày càng được tăng lên qua các năm. Tinh
riêng trong năm 2006, nguôn vôn này đa tăng từ 500 tỷ lên 3.000 tỷ đông. Còn với
ngân hàng Ngoài quôc doanh (VP bank), ngân hàng này cũng tuyên bô ngoại trừ
khách hàng truyền thống, còn lại sẽ từ chối các khoản vay mới trên 15 tỷ đồng, để
chia nhỏ cho nhiều DNNVV được vay. Vì thấy được tiềm năng của khối DNNVV
nên các ngân hàng đã thay đổi cách nhìn đối với DNNVV đưa DNNVV từ vị trí
khách hàng tiềm năng trở thành khách hàng trọng tâm. Và kết quả bước đầu đạt
được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, như đã trình bày ở phần thực trạng về
huy động của DNNVV từ kênh ngân hàng thì hiện tại DNNVV còn gặp một số khó
khăn khi tiếp cận vốn vay từ ngân hàng như: lãi suất vay cao, thiếu tài sản thế chấp,
vướng mắc thủ tục, khó khăn về lập phương án kinh doanh. Tất cảc những khó khăn
trên đều có thể giải quyết được nếu hai bên DNNVV và ngân hàng cùng nhau giải
quyết mục đích cuối cùng mang lại lợi ích cho cả đôi bên và cuối cùng là cả xã hội
được hưởng lợi đôi với sự phát triên chung này. Do đó đê khai thác hêt tiêm năng
đó các ngân hàng cân:
- Nghiên cứu phát triển các sản phẩm mới phù hợp với đặc điểm của loại hình
DNNVV. Muốn vậy ngân hàng cần phải thực hiện việc khảo sát, điều tra nhu cầu
khách hàng, đồng thời phải ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn cho từng loại sản
phâm riêng biệt từ đó hô trợ các DNNVV tiêp cận được nguôn vôn của ngân hàng
một cách thuận lợi hơn.
- Giảm tối đa các thủ tục xét duyệt hồ sơ, thẩm định, giải ngân, giảm thời gian giải
quyết hồ sơ xuông mức thâp nhât có thê. Vi du như ở Ngân hàng An Bình hiện nay,
thời gian xét duyệt hô sơ đa được giam xuông còn 3 ngày kê từ ngày nhận hô sơ. Ơ
ngân hàng đâu tư và phát triên Việt Nam, thời gian này là từ 3 đên 5 ngày.
- Bao thanh toán là nghiệp vụ không còn xa lạ gì đối với nhiều quốc gia trên thế
giới và nó đã mang lại lợi ích thiết thực cho khách hàng lẫn đơn vị cung cấp dịch
70
vụ. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, bao thanh toán vẫn chưa được phát triển rộng
rãi mà một trong những nguyên nhân là do ngân hàng vẫn còn dè dặt với loại hình
này. Mặc khác, bao thanh toán (factoring) còn là một khái niệm còn lạ lẫm với
nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì thế, dù được giới chuyên môn đánh giá cao
nhưng nghiệp vụ bao thanh toán vẫn chưa thực sự phát triển ở Việt Nam.
Theo Hiệp hội bao thanh toán thế giới (FCI – Factors Chain International)
thì định nghĩa bao thanh toán là một loại hình dịch vụ tài chính trọn gói bao gồm sự
kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín dụng, theo dõi các khoản
phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là một sự thỏa thuận giữa người cung cấp dịch vụ
bao thanh toán (factor) với người cung ứng hàng hóa dịch vụ hay còn gọi là người
bán hàng trong quan hệ mua bán hàng hóa (seller). Theo như thỏa thuận, factor sẽ
mua lại các khoản phải thu của người bán dựa trên khả năng trả nợ của người mua
trong quan hệ mua bán hàng hóa (buyer) hay còn gọi là con nợ trong quan hệ tín
dụng (debtor).
Nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam theo Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN
được định nghĩa là “một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán
hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa
đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng
hóa”.
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng nói chung, có thể hiểu nghiệp
vụ bao thanh toán chính là hình thức tài trợ cho những khoản thanh toán chưa đến
hạn từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ, đó chính
là hoạt động mua bán nợ.
Theo số liệu thống kê của FCI, doanh số bao thanh toán của Việt Nam năm 2007
là 43 triệu Euro. Tuy rằng con số này còn rất nhỏ so với nhiều nước trong khu vực,
nhưng nó cũng thể hiện bước chuyển biến tích cực của thị trường bao thanh toán ở
Việt Nam. Từ năm 2004 trở về trước, doanh số bao thanh toán của Việt Nam chỉ là
con số 0, nhưng đến năm 2005, con số này đã tăng lên đạt 2 triệu Euro, năm 2006
đạt 16 triệu Euro, đến năm 2007 được 43 triệu Euro.
71
Biểu đồ 3.1: Doanh thu bao thanh toán tại Việt Nam (Đơn vị: Triệu Euro)
Nguồn FCI: www.factors-chain.com)
Qua một thời gian triển khai hoạt động, mặc dù có những dấu hiệu tích cực
nhưng tình hình bao thanh toán ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển và chưa thể
hiện hết những ưu điểm vốn có của nó. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khác nhau, từ phía Nhà nước với những bất cập môi trường pháp lý, từ chính bản
thân các đơn vị thực hiện bao thanh toán và thái độ của các doanh nghiệp, nhất là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể:
- Theo Quy chế 1096, nghiệp vụ bao thanh toán chỉ áp dụng cho các khoản phải thu
xuất phát từ hợp đồng mua bán hàng hóa, không đề cập gì đến khoản phải thu phát
sinh từ việc cung ứng dịch vụ.
- Theo định nghĩa, bao thanh toán chỉ là hình thức cấp tín dụng, nên khoản ứng
trước chỉ đơn thuần là khoản cho vay, còn khoản phải thu vẫn là tài sản thuộc
sở hữu của người bán. Chính sự không chính xác trong việc định nghĩa nghiệp vụ
bao thanh toán đã dẫn đến những rủi ro tiềm ẩn đối với đơn vị bao thanh toán trong
việc chuyển giao quyền đòi nợ từ người bán sang đơn vị bao thanh toán. Pháp luật
hiện nay vẫn không có quy định liên quan đến việc xác lập mối quan hệ này.
- Sự không thống nhất các qui định về bao thanh toán cũng tạo một rào cản lớn cho
sự phát triển của bao thanh toán quốc tế. Bởi vì bao thanh toán quốc tế không những
chỉ chịu sự điều tiết của GRIF (General rules for international factoring), mà còn
chịu sự điều tiết của luật pháp tại quốc gia của các bên liên quan trong hợp đồng. Ví
dụ như: theo GRIF thì không cần phải có xác nhận của người mua đồng ý thanh
toán cho đơn vị bao thanh toán. Tuy nhiên, theo Quy chế bao thanh toán tại Việt
72
Nam thì phải có xác nhận này thì hợp đồng bao thanh toán giữa bên bán và tổ chức
bao thanh toán mới có hiệu lực. Sự không thống nhất này gây khó khăn cho bên bán
và đơn vị thực hiện bao thanh toán.
- Lợi ích của bao thanh toán là không cần dùng hối phiếu để tài trợ và giải quyết
mọi tranh chấp thương mại mà chỉ cần có hợp đồng và các hóa đơn thương mại đã
được đóng dấu chuyển quyền sở hữu. Hợp đồng bao thanh toán cũng như các hợp
đồng thương mại khác sẽ được xem như là cơ sở pháp lý để trong trường hợp có
tranh chấp, sẽ được đưa ra trọng tài kinh tế hoặc tòa án thương mại để xét xử.
Nhưng vấn đề ở đây là, ở Việt Nam, hiệu lực hợp đồng và thậm chí là hiệu lực kết
quả xét xử của trọng tài kinh tế hay tòa án thương mại vẫn còn bị xem nhẹ. Rất
nhiều trường hợp vi phạm hợp đồng, không tuân thủ phán quyết của trọng tài và tòa
án mà vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Nói tóm lại, một nguyên nhân khiến bao
thanh toán chậm được triển khai ở Việt Nam là do luật pháp của ta chưa
nghiêm.
- Mặt khác, trên cơ sở lý thuyết, khởi kiện tại tòa án được xem là cứu cánh cuối
cùng và hiệu quả nhất của ngân hàng để thu hồi các khoản nợ khi con nợ cố tình lẫn
tránh nghĩa vụ khi đến hạn. Nhưng thực tế cho thấy việc khởi kiện tại tòa án chưa
thực sự là phương thức hiệu quả để bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ. Thủ tục tố tụng
kinh tế và dân sự còn quá phức tạp, chi phí kiện tụng tốn kém, công tác thi hành án
còn nhiều bất cập… Sau một chặng đường dài tốn kém thời gian và tiền bạc, kết
quả là ngân hàng vẫn đứng trước nguy cơ không thu hồi được khoản nợ.
- Về phía ngân hàng thì sản phẩm bao thanh toán chưa có sức hấp dẫn đối với khách
hàng. Dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thường chỉ chú trọng tới các doanh
nghiệp lớn. Dịch vụ bao thanh toán của ngân hàng chưa thật tiện lợi, hệ thống thông
tin tín dụng còn thiếu thốn nên để tránh rủi ro, ngân hàng đưa ra những điều kiện rất
khó đáp ứng, có đòi hỏi cao đối với khách hàng như phải chứng minh uy tín của bên
mua hàng, các khoản phải thu phải thật sự an toàn hay phải có sự bảo lãnh của định
chế tài chính khác. Đây thật sự là điều kiện khó khăn đối với doanh nghiệp khi sử
dụng dịch vụ, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
73
- Đối với quốc tế, bao thanh toán thường là miễn truy đòi. Sau khi kí hợp đồng bao
thanh toán và nhận tiền đầy đủ từ phía tổ chức bao thanh toán, người bán (nhà xuất
khẩu) sẽ hết nghĩa vụ đối với hợp đồng đã kí với nhà nhập khẩu. Đây là một trong
những ưu điểm nổi bật làm bao thanh toán trở nên hấp dẫn vì nhà xuất khẩu không
còn lo lắng, bận tâm với hợp đồng mua bán nữa. Tuy nhiên, vì dịch vụ bao thanh
toán còn khá mới mẻ và để đảm bảo an toàn, ngân hàng chỉ thực hiện bao thanh
toán có quyền truy đòi. Điều này cũng được xem là một cản trở lớn đối với sự phát
triển dịch vụ này tại Việt Nam. Nó làm cho các doanh nghiệp có tâm lý không
muốn sử dụng dịch vụ.
- Ngoài ra, bên bán hàng muốn được ngân hàng thực hiện bao thanh toán, khách
hàng của bên bán (bên mua hàng) phải được đơn vị bao thanh toán cấp hạn mức tín
dụng. Điều này thật sự vô lý, và đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi sử dụng
dịch vụ bao thanh toán.
Xét về mặt lý thuyết, bao thanh toán khắc phục được tình trạng cho vay dựa trên
tài sản thế chấp của tín dụng ngân hàng giải toả khó khăn về tài sản đảm bảo của
DNNVV. Do đó để nghiệp vụ bao thanh toán phát triển thì cần:
- Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động bao thanh toán. NHNN cần
sớm ban hành một văn bản, quy chế khác ngắn gọn, đầy đủ, khắc phục được những
vấn đề chưa hoàn thiện trong quy chế cũ và thống nhất với thông lệ, công ước về
bao thanh toán quốc tế:
+ Định nghĩa chính xác nghiệp vụ bao thanh toán theo thông lệ quốc tế. Cần
có sự phân biệt rạch ròi giữa các thuật ngữ “cấp tín dụng” và “mua bán nợ”. Nên
tách bạch hoạt động bao thanh toán với cho vay và hai nghiệp vụ này không nên
được quản lý và kiểm soát như nhau.
+ Cần mở rộng phạm vi cung ứng dịch vụ bao thanh toán, không nên chỉ bó hẹp
trong hoạt động thương mại hàng hóa. Bởi vì hiện nay, lĩnh vực dịch vụ đang ngày
càng được mở rộng và đây là một lĩnh vực đầy tiềm năng phát triển. Vì thế, nên
thực hiện bao thanh toán đối với các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng dịch
vụ.
74
+ Nên bỏ quy định bên mua hàng phải gửi văn bản xác nhận và cam kết thanh toán
cho đơn vị bao thanh toán. Qui định này làm hạn chế phạm vi hoạt động của đơn vị
bao thanh toán cũng như quyền lợi sử dụng dịch vụ bao thanh toán của người bán.
Mặt khác, xét về nguyên tắc, việc chuyển giao quyền đòi nợ từ bên bán cho đơn vị
bao thanh toán không cần phải có sự đồng ý của bên mua vì dù bên mua thanh toán
tiền cho ai đi nữa, thì bên mua cũng không thể phủ nhận nghĩa vụ thanh toán của
mình trong hợp đồng thương mại.
+ Về phía ngân hàng cần có chính sách thu phí hợp lý hơn đối với các khoản thu
từ các công ty uy tín có thương hiệu, các công ty trên sàn niêm yết được đánh giá
tốt, hoặc thực hiện các công trình có nguồn gốc là nguồn vốn là ngân sách nhà nước
vì rủI ro ở các trường hợp này là khá thấp.
- Ở Việt Nam, tài sản đảm bảo vẫn là vấn đề tiên quyết để nhận được nguồn tài trợ
từ các tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam, tài sản đảm bảo không những được các ngân
hàng Việt Nam mà còn được các ngân hàng nước ngoài xem trọng. Điều này cũng
là tất yếu, bởi vì, đặc điểm thị trường Việt Nam đầy rủi ro, không cho phép ngân
hàng mạo hiểm. Các ngân hàng không thể xét duyệt hạn mức tín dụng đơn thuần
sau khi nghe các doanh nghiệp chứng minh tình trạng tài chính của mình là lành
mạnh trong khi những lý lẽ đó có được từ việc phân tích các báo cáo tài chính
không thể tin tưởng được. Hiện tại hầu hết các khoản vay tại ngân hàng đều phải có
tài sản đảm bảo mà chủ yếu tài sản đảm bảo được ngân hàng dễ dàng chấp thuận là
bất động sản (quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất)
nguyên nhân là bất động sản có giá trị ổn định, tài sản loại này dễ quản lý, thẩm
định giá tài sản đảm bảo dễ và chi phí thẩm định thấp còn các loại tài sản khác như
động sản, quyền đòi nợ, … không được ngân hàng thích vì lý do khó xác định giá
trị để thế chấp (quyền sở hữu trí tuệ, dây chuyền máy móc thiết bị chuyên dùng,
bằng phát minh sáng chế..) hay khó quản lý như các loại động sản. Để giải quyết
vấn đề trên là ngân hàng phải tăng cường đào tạo cho cán bộ thẩm định về công tác
thẩm định giá sau đó là tiến tới ngân hàng cần thành lập riêng cho mình một công ty
chuyên về định giá mang tính chuyên môn hoá cao nhằm giảm thiểu rủi ro trong
75
việc định giá mà khách hàng vay vốn có thể được đáp ứng nhu cầu vốn vay khi tài
sản đảm bảo được định giá một cách chính xác.
- Phôi hợp với các quy bảo lãnh (quỹ bảo lãnh DNNVV, quỹ bảo lãnh DNNVV do
NH Phát triên Việt nam là đâu môi) đê mở rộng cho vay đôi với DNNVV.
3.3 Kiến nghi đối vơi quỹ bao lãnh tín dụng.
3.3.1 Kiến nghi đối vơi quỹ bao lãnh tín dụng DNNVV.
Nếu nói các chính sách của Chính phủ có thể tác động mạnh tới sự phát triển
và lớn mạnh của DNNVV thì như thế vẫn còn quá khiêm tốn. Trong một thế giới
còn tồn tại sự nghèo đói và thiếu thốn thì DNNVV là một công cụ có năng lực đã
được thực tế chứng minh là đủ để không những xóa đi mọi đau khổ mà còn tạo ra
một tầng lớp trung lưu vững chắc, một nguồn thuế ổn định và tăng cường ổn định
xã hội. Nói tóm lại, DNNVV là một định hướng đúng đắn.
Hầu hết các DNNVV ra đời với một số vốn ít ỏi nó là tập hợp vốn của những
người thân trong gia đình hay là một nhóm người có quen biết nhau từ trước. Do đó,
nếu một chính phủ muốn thúc đẩy sự phát triển của DNNVV thì họ phải đề cao
những chính sách giảm thiểu những mạo hiểm cố hữu trong kinh doanh mà cụ thể ở
đây là tạo ra khả năng tiếp cận vốn chính thức một cách dễ dàng.
Vậy chính sách cần thiết đầu tiên để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp
nhỏ là hỗ trợ những doanh nhân tương lai tiếp cận nguồn vốn cần có thể có thể khởi
nghiệp.
Ở Hoa Kỳ, có Cơ quan Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ (SBA) có nhiệm vụ giúp các
doanh nhân tiếp cận nguồn vốn cần có để chấp nhận thử thách khi khởi sự doanh
nghiệp nhỏ. Điều đáng chú ý là SBA không thực sự cho vay mà chỉ bảo lãnh cho
các khoản vay. Các ngân hàng sẽ dễ cho những doanh nghiệp mới khá rủi ro vay
hơn khi họ biết SBA và Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh việc trả nợ, ngay cả khi người
vay không trả được. Kết quả là nền kinh tế Hoa Kỳ luôn năng động và có tới 99%
doanh nghiệp là các doanh nghiệp nhỏ. Do vậy, điều đầu tiên mà bất kỳ chính phủ
nào đang mong muốn khuyến khích DNNVV nên làm là xây dựng quỹ cho vay có
bảo lãnh của chính phủ. Việc tiếp cận vốn dễ dàng sẽ tạo nền móng vững chắc cho
76
khu vực DNNVV sống động. Tại Việt Nam quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động
Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được ban hành từ
20/12/2001 theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (QĐ
193/QĐ-TTg) thế nhưng đến thời điểm hiện tại số tỉnh có quỹ bảo lãnh tín dụng đi
vào hoạt động thì rất ít. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao mà một chủ trương đúng
đắn của chính phủ nhằm giúp các DNNVV giải quyết khó khăn về nguồn vốn kinh
doanh lại không thể phát huy tác dụng như mong muốn? Nguyên nhân đã được
phân tích ở phần thực trạng nhận thức được khó khăn nêu trên nên học viên nêu ra
một số kiến nghị sau nhằm giúp cho quỹ hoạt động hiệu quả hơn:
+ Trong việc huy động nguôn vôn cho hoạt động của quy, cân chủ động hợp tác,
tìm nguôn vôn mới từ các tô chức, đặc biệt là những tô chức quôc tê có chương
trình hỗ trợ cho các DNNVV tại Việt Nam, như Uy Ban Châu Âu, quy hô trợ tài
chinh dành cho các DNNVV của APEC, ngân hàng Thê Giới WB, ngân hàng Phát
Triển Á Châu ADB v.v…
+ Đối với các TP lớn có nguồn thu ngân sách dồi dào như: TP.HCM, Hà Nội, Đà
Nẵng thì nguồn vốn của Quỹ bảo lãnh tín dụng nên dựa trên ngân sách là chủ yếu
và khi đó việc tổ chức và điều hành quỹ sẽ do UBND thành phố, tỉnh quản lý điều
hành. Hơn nữa các tỉnh thành phố lớn cũng là nơi tập trung phần lớn DNNVV của
cả nước, còn các DNNVV ở các địa phương chưa thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng
có thể có sự lựa chọn khác là dựa vào sự bảo lãnh của ngân hàng phát triển Việt
Nam (điểm này sẽ trình bày rõ hơn ở phần sau).
3.3.2 Kiến nghi đối vơi quỹ bao lãnh tín dụng DNNVV do VDB lam đầu
mối.
Thực hiện những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy
trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP
ngày 11/12/2008 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định
số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 ban hành Quy chế Bảo lãnh cho doanh
nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại, Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg sửa đổi
bổ sung một số điều QĐ số 14 và giao cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPT
77
VN) thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tại các
ngân hàng thương mại (NHTM) để thực hiện dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh
doanh. Theo đó đối tượng được bảo lãnh vay vốn của ngân hàng Phát Triển Việt
Nam (VDB) là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (kể cả các Hợp tác xã) có
vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa 1.000 lao động (trong Quy chế này
gọi chung là doanh nghiệp). Phạm vi bảo lãnh vay vốn: Ngân hàng Phát triển Việt
Nam bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại hoạt động hợp
pháp tại Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh (vay
vốn đầu tư tài sản cố định); phương án sản xuất kinh doanh (vay vốn lưu động) phù
hợp với quy định của pháp luật. Ngân hàng Phát Triển Việt Nam không bảo lãnh
cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, kinh doanh bất động sản,
kinh doanh chứng khoán; dịch vụ (trừ dịch vụ vận tải hàng hóa, giáo dục đào tạo và
y tế); vay vốn để thanh toán nợ vay của các hợp đồng tín dụng khác.
Điều kiện để doanh nghiệp được bảo lãnh vay vốn:
- Thuộc đối tượng và phạm vi được bảo lãnh quy định tại Điều 1, Điều 2 của Quy
chế này.
- Có dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, phương án sản xuất kinh doanh
hiệu quả. Quy mô dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tối thiểu là 100
triệu đồng.
- Không có nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng. trường hợp doanh nghiệp có nợ quá
ạhn tại các tổ chức tín dụng nhưng có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh
và cam kết trả được nợ quá hạn thì được bên bảo lãnh thẩm định, quyết định bảo
lãnh vay vốn theo quy chế.
- Không nợ đọng thuế. Trường hợp doanh nghiệp có nợ đọng thuế, nhưng dự án đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh hoặc phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả
thì vẫn được Bên bảo lãnh thẩm định, quyết định bảo lãnh theo quy định tại Quy
chế này.
- Có vốn chủ sở hữu tham gia dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, phương án sản xuất
kinh doanh tối thiểu 10%.
78
- Sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay thực hiện dự án đầu tư để thế chấp bảo đảm
bảo lãnh tại Bên bảo lãnh.
Trên thực tế kể từ khi quyết định số 14 được triển khai đã mang lại hiệu
quả rất đáng khích lệ. Trên trang chủ www.vdb.gov.vn của VDB cho biết, hiện đã
có 30 trong 85 ngân hàng thương mại đầu mối trong cả nước đã ký thoả thuận với
VDB về bảo lãnh vay vốn kích cầu và tính tới ngày 27-3, hệ thống của VDB đã tiếp
nhận 506 hồ sơ đề nghị bảo lãnh. Trong đó, VDB đã thẩm định 177 hồ sơ, gồm bảo
lãnh 152 hồ sơ với giá trị vốn vay chấp thuận bảo lãnh 703,95 tỉ đồng/2.102,5 tỉ
đồng giá trị thực hiện dự án, phương án của doanh nghiệp và từ chối 25 hồ sơ
không đủ điều kiện. Còn lại 329 hồ sơ đang được thẩm định với nhu cầu vốn vay
4.281,1 tỉ đồng. Rõ ràng so với quỹ bảo lãnh tín dụng được thành lập theo Quyết
định số 193/2001/QĐ-TTg quỹ bảo lãnh được thành lập theo Quyết định
14/2009/QĐ-TTg thông thoáng đối với các DNNVV hơn rất nhiều. Tuy đạt một số
thành tựu rất khả quan trong thời gian chưa đầy một năm thực hiện nhưng quỹ bảo
lãnh tín dụng đã bộc lộ một số khiếm khuyết ngăn cản DNNVV tiếp cận dịch vụ hỗ
trợ của chính phủ như:
+ Một trong những điều kiện để được Ngân hàng Phát triển Việt Nam chấp thuận
bảo lãnh là doanh nghiệp sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay thực hiện dự án đầu
tư để thế chấp bảo đảm bảo lãnh tại Bên bảo lãnh. Đối với các DNNVV thực hiện
vay vốn để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động thì điều này sẽ rất khó vì nguyên vật liệu
đưa vào quá trình sản xuất rất khó để làm tài sản bảo đảm đáp ứng yêu cầu của
VDB.
+ Thời gian thẩm định và giải ngân khá lâu theo quy định là tối đa 20 ngày làm việc
kể từ khi nhận đủ hồ sơ, Ngân hàng Phát triển Việt Nam tiến hành thẩm định, nếu
đủ điều kiện thì có văn bản thông báo chấp thuận bảo lãnh cho doanh nghiệp vay
vốn. Trường hợp không chấp thuận bảo lãnh, Ngân hàng Phát triển Việt Nam thông
báo cho doanh nghiệp và giải thích rõ lý do không chấp thuận. Sau đó DNNVV
phải mất thời gian khoảng 7 ngày nữa sang làm việc với ngân hàng thương mại cho
vay để được tiến hành giải ngân nếu món cho vay được chấp thuận. Như vậy tổng
79
cộng thời gian mất gần cả tháng thì DNNVV mới nhận được tiền vay đây quả thực
là thời gian rất dài và sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là
các doanh nghiệp kinh doanh có yếu tố mùa vụ.
+ Theo Quy định của quyết định số 14 NH phải thông báo DN nợ thuế cho VDB
nếu không VDB sẽ từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Nhưng thực tế NH không
thể can thiệp quá sâu để biết DN có nợ thuế hay không. Tuy nhiên nếu VDB phát
hiện DN thiếu thuế từ chối bảo lãnh thì sẽ gây khó cho NH.
+ VDB sẽ từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không
sử dụng vốn vay đúng mục đích vay vốn đã ghi trong hợp đồng đã ký kết với bên
nhận bảo lãnh nếu DN sử dụng vốn sai hợp đồng tín dụng thì nên thu hồi vốn trước
hạn, không nên từ chối bảo lãnh gây khó cho NH trong việc thu hồi vốn.
Xuất phát từ những vướng mắc khó khăn nêu trên tôi đề nghị các kiến nghị
sau:
- Tổ chức các khoá đào tạo nhằm nâng cao chất lượng cán bộ thẩm định của VDB
giúp việc thẩm định hồ sơ bảo lãnh chính xác, rút ngắn thời gian thẩm định. Khách
hàng trước đây của VDB chủ yếu là các doanh nghiệp đủ điều kiện được vay theo
các chương trình hỗ trợ của chính phủ: như chương trình xuất khẩu nên đây là các
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bài bản (tổ chức quản lý kinh doanh, sổ sách
chứng từ) trong khi hiện tại thực hiện Quyết định 14/2009/QĐ-TTg không ít cán bộ
thẩm định xét duyệt cấp bảo lãnh cho DNNVV sẽ gặp không ít khó khăn khi tiếp
xúc các DNNVV có tình hình sổ sách thiếu minh bạch và khá lộn xộn. Thêm vào đó
cán bộ thực hiện xét duyệt bảo lãnh phải thẩm định các loại tài sản đảm bảo đa dạng
và không ít trong số đó tính chất chuyên ngành. Đó chính là những tài sản do tính
chất đặc biệt của chúng, chỉ có giá trị sử dụng hạn hẹp cho một mục đích hoặc một
đối tượng sử dụng nào đó. Do đó, không dễ dàng gì bán được chúng trên thị trường,
trừ khi chúng được bán với toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Các loại tài sản này có
thể là các loại dây chuyền thiết bị chuyên dùng,… Do đó tổ chức các chương trình
tập huấn, truyền đạt kinh nghiệm về thẩm định giá tài sản đảm bảo và cách thức
thẩm định DNNVV là cần thiết.
80
- Trong trường hợp rủi ro khách hàng vay không trả được thì VDB nên thực hiện
ngay nghĩa vụ bảo lãnh là trả nợ vay thay cho khách hàng chứ không nên để lâu (60
ngày) hay giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng cho vay tự xử lý để tránh tình trạng
NHTM không tin tưởng vào sự bảo lãnh của NHPT, hay cho rằng chứng thư bảo
lãnh của NHPT là chứng thư bảo lãnh có điều kiện và như vậy NHTM sẽ đương
nhiên gặp khó khăn khi phát sinh yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
- Đối với các trường hợp cho vay vốn lưu động thì nên có hình thức thế chấp tài sản
linh hoạt hơn.
- Không nên thu phí 0,5%/năm/số tiền bảo lãnh. Các DNNVV nhìn chung là tình tài
chính chưa cao và khi đi vay ngân hàng thường phải chịu mức lãi suất cao hơn các
doanh nghiệp lớn nay lại phải chịu thêm phí bảo lãnh thì gánh nặng tài chính sẽ
không nhỏ đối với các DNNVV đặc biệt là trong thời điểm khó khăn hiện nay. Hơn
nữa mục đích của nhà nước khi thực hiện QĐ 14 là giúp đỡ DNNVV nên cần thiết
không thu phí còn đối với các NHTM rất khó để họ cho vay với lãi suất thấp vì mục
tiêu kinh doanh là phải có lợi nhuận, nếu ép buộc thì sẽ gây tâm lý không thích cho
DNNVV vay vốn.
- Bỏ quy định NHTM phải thông báo DN nợ thuế cho VDB. Vì thực tế trong quy
trình cho vay của NHTM không thể can thiệp quá sâu để biết DN có nợ thuế hay
không nên quy định như vậy thì không hợp lý và gây khó khăn cho NHTM trong
quá trình cho DNNVV vay vốn.
3.4 Kiến nghị khác đối với chính phủ:
- Chính sách về tài chính: Điều chỉnh hệ thống thuế phù hợp nhằm khuyến khích
khởi sự doanh nghiệp, khuyến khích phát triển kinh doanh nhỏ và tạo việc làm.
Đồng thời, thực hiện đổi mới chế độ kế toán, thống kê theo hướng đơn giản hoá,
khuyến khích doanh nghiệp tự kê khai và nộp thuế đồng thời tăng các biện pháp,
hình thức chế tài đối với các doanh nghiệp có hành vi trốn thuế, lậu thuế
- Sửa đổi, bổ sung quy định về Thuế Thu nhập Doanh nghiệp theo hướng mở rộng
đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, đơn giản hoá phương pháp và căn
cứ tính thuế; giảm các trường hợp ưu đãi thuế để đơn giản hoá chính sách ưu đãi,
81
tạo cơ hội cho các DNNVV dễ tiếp cận và hưởng các ưu đãi; thu hẹp khoảng cách
giữa đối tượng nộp thuế khoán và đối tượng nộp thuế theo thu nhập, dần hạn chế áp
dụng chế độ khoán thuế và tiến tới áp dụng chế độ thuế phù hợp hơn. Khuyến khích
các hộ kinh doanh thực hiện đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp.
- Sửa đổi quy định về Thuế Giá trị gia tăng, Thuế Xuất nhập khẩu theo hướng
xác định các tiêu chí minh bạch, rõ ràng, phù hợp với các hiệp định song phương
và đa phương mà Việt Nam đã tham gia ký kết và các quy tắc của hội nhập. Cần
soạn thảo các quy định và đưa vào thực hiện để việc hoàn thuế nhanh chóng để
tránh tình trạng ứ đọng vốn của doanh nghiệp.
- Sửa đổi, bổ sung các quy định về thuế, kế toán và biên lai hóa đơn đối với các
doanh nghiệp đặc biệt đối với DNNVV, phù hợp với năng lực thực tế của đối tượng
này nhằm khuyến khích hộ kinh doanh cá thể chính thức hóa đăng ký hoạt động
kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp.
- Khuyến khích các DNNVV tham gia vào các liên kết ngành ở mọi cấp
và hỗ trợ phát triển các hiệp hội doanh nghiệp. Nhìn chung, trên thế giới việc liên
kết doanh nghiệp luôn được đề cập dưới các hình thức là hiệp hội doanh nghiệp,
liên kết chùm (cluster)... Tuy nhiên, ở Việt Nam cả 2 hình thức này mới chỉ phát
triển ở mức hạn chế và hiệu quả hoạt động chưa cao. Do đó, cần có những chính
sách phù hợp hơn để khuyến khích phát triển các hiệp hội theo hướng trợ giúp đào
tạo cán bộ hội; các Bộ, cơ quan ngang Bộ hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi để các
hội tham gia các hoạt động thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của Bộ theo quy định của
pháp luật, tổ chức lấy ý kiến của hội để hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước
về ngành, lĩnh vực; trợ giúp phát triển các chùm công nghiệp trong các ngành công
nghiệp phụ trợ; khuyến khích phát triển liên kết giữa DNNVV với các tổ chức
nghiên cứu và giáo dục có trình độ phát triển cao thông qua chính sách trợ giúp phù
hợp. Liên kết doanh nghiệp: các hiệp hội yếu kém, hoạt động chưa hiệu quả, liên
kết giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ trong việc cung cấp đầu
vào và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ còn rất yếu, mang tính tự phát, chưa có sự hỗ trợ
của Nhà nước về cơ chế chính sách thúc đẩy quá trình này.
82
- Phát triển văn hoá doanh nghiệp, văn hoá kinh doanh, khuyến khích khởi sự doanh
nghiệp. Nhằm khơi gợi tinh thần kinh doanh, phát triển nền văn hoá doanh nghiệp,
cần thiết phải triển khai các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến tinh thần
doanh nghiệp, ý chí kinh doanh và làm giàu tới mọi đối tượng, đặc biệt là thí điểm
thực hiện việc đưa các bài học về kinh doanh vào chương trình học ở trường phổ
thông, đại học, dạy nghề; đẩy mạnh triển khai trợ giúp đào tạo khởi sự doanh
nghiệp. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, đòi hỏi các doanh nghiệp, các
doanh nhân phải có đạo đức trong kinh doanh, có những hiểu biết về pháp luật, có ý
thức tuân thủ pháp luật, có trách nhiệm với toàn xã hội,… Những cái đó được coi là
văn hoá kinh doanh. Ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh một bộ phận doanh nghiệp tuy
hiểu biết về pháp luật nhưng vẫn cố tình vi phạm, thì vẫn còn diễn ra tình trạng một
số doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp không có kiến thức về pháp luật nên đã vô tình
vi phạm pháp luật trong quá trình hoạt động. Vì vậy, phát triển văn hoá kinh doanh
cũng là một khía cạnh cần được quan tâm nhiều trong công cuộc phát triển DNNVV
giai đoạn tới.
- Nhà nước phối hợp với các trường đại học trong cả nước xây dựng các chương
trình đào tạo giám đốc, các chương trình đào tạo giúp cho doanh nhân nâng cao
khả năng quản lý. Rõ ràng ở nước ta hiện nay việc các doanh nghiệp (bao gồm
DNNVV và các doanh nghiệp lớn, tập đoàn kinh tế) đang lúng túng với sự phát
triển ngày càng to lớn của chính bản thân doanh nghiệp do các doanh nghiệp Việt
nam chưa định hình cho mình một phong cách quản trị riêng. Do đó khi quy mô của
doanh nghiệp phát triển thì làm cho doanh nghiệp không thể định hướng cho sự
phát triển và khả năng quản lý một cách có hiệu quả. Trong quá khứ trưòng ĐH
Kinh Tế từng rất thành công với chương trình đào tạo 1000 giám đốc, với chương
trình này các doanh nhân sẽ tự tin hơn rất nhiều khi điều hành quản lý doanh nghiệp
trong thời kỳ đất nước hội nhập.
- Tạo cơ chế để thành lập trung tâm thông tin tín dụng tư nhân. Kinh nghiệm quốc
tế cho thấy ở những quốc gia mà thông tin tín dụng sẵn có sẽ có nhiều doanh nghiệp
và cá nhân tiếp cận được các nguồn tài chính. Trung tâm thông tin tín dụng (TTTD)
83
tư nhân là một mô hình đang rất phát triển ở nhiều nước và đã được chứng minh là
có thể giúp tăng cường tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ và cá nhân.
Thực tế cho thấy phân bổ tín dụng kém hiệu quả một phần do các tổ chức tín dụng
thiếu thông tin về người đi vay. Thế chấp thường được sử dụng làm công cụ để bảo
đảm khoản cho vay. Tuy nhiên, việc đòi hỏi thế chấp lại là cản trở lớn đối với nhiều
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và những doanh
nghiệp mới thành lập vì họ thường không có tài sản cố định hoặc không có đủ giấy
tờ hợp pháp của tài sản để thế chấp. Thay vì đòi hỏi thế chấp, một giải pháp khác
hiệu quả hơn đang được tổ chức cho vay ở nhiều nước sử dụng là chỉ phục vụ
những khách hàng có khả năng trả nợ thông qua việc lựa chọn và theo dõi họ
thường xuyên. Giải pháp này đòi hỏi tổ chức cho vay phải nắm được thông tin về
lịch sử thanh toán của những khách hàng tiềm năng khi ra quyết định cho vay và
xác định lãi suất vay. Trung tâm thông tin tín dụng chính là các tổ chức trung gian
đứng ra thu thập, cung cấp và chia sẻ thông tin cho các tổ chức cho vay, qua đó giúp
các tổ chức này tăng dung lượng cho vay và gián tiếp giúp bên đi vay (doanh nghiệp
và cá nhân) tiếp cận tín dụng dễ dàng hơn.
Ở Việt Nam, mô hình trung tâm TTTD còn rất mới. Trung tâm thông tin tín
dụng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Credit Information Center, viết tắt
là CIC) mới được thành lập từ năm 1999. Nước ta chưa có trung tâm TTTD tư
nhân. Do hạn chế này, phạm vi thu thập thông tin tín dụng ở Việt Nam là rất hẹp so
với ở nước có trung tâm TTTD tư nhân. ở Việt Nam, trên 1000 người trưởng thành
thì chỉ có thông tin tín dụng của 11 người - trong khi đó ở Thái Lan con số này là
184 người và ở Úc là 1000 người. Đây có thể là một trong những lý do giải thích tại
sao DNNVV và cá nhân ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều rào cản khi tiếp cận tín
dụng.
Trung tâm TTTD tư nhân giúp loại bớt rào cản tiếp cận tài chính cho DNNVV.
Trung tâm TTTD nhà nước thông thường do Ngân hàng Nhà nước thành lập với
mục đích giám sát các ngân hàng là chính, còn trung tâm TTTD tư nhân thường
được thành lập bởi các tổ chức tín dụng hay những thành viên tham gia thị trường
84
tín dụng khác để giúp các thành viên chia sẻ thông tin tín dụng vì mục đích kinh
doanh. Các trung tâm TTTD Nhà nước có xu hướng chỉ thu thập thông tin về các
khoản vay giá trị lớn có thể có ảnh hưởng tổng thể đến nền kinh tế. Những thông tin
mà họ thu thập là từ những tổ chức tài chính thuộc quyền giám sát của Ngân hàng
Nhà nước, do đó thường không bao gồm các định chế tài chính phi ngân hàng đang
rất phát triển như các công ty thuê mua, công ty tài chính. Hơn nữa, trung tâm
TTTD Nhà nước cũng chỉ cung cấp thông tin tín dụng hiện tại mà không cung cấp
thông tin lịch sử thanh toán của người vay. Trong khi đó, trung tâm TTTD tư nhân
thu thập thông tin trên phạm vi rộng hơn nhiều, bao gồm cả những khoản vay của
DNNVV và cá nhân. Đặc biệt thông tin được lưu giữ không chỉ giới hạn ở những
khoản vay lớn. Trung tâm TTTD tư nhân cung cấp thông tin về lịch sử thanh toán
của người đi vay và nhiều dịch vụ khác như công cụ xử lý đơn xin cấp tín dụng, hệ
thống chấm điểm tín dụng v.v. Như vậy, trung tâm TTTD tư nhân mới đáp ứng tốt
nhất các yêu cầu về thông tin tín dụng của các tổ chức cho vay để phục vụ đối tượng
xin vay là DNNVV và cá nhân tốt hơn. Một điều tra năm 2003 của Ngân hàng Thế
giới ở nhiều nước đã đưa ra những bằng chứng cho thấy không có mối liên hệ đáng
kể nào giữa hoạt động của trung tâm TTTD Nhà nước với sự giảm bớt các rào cản
về tín dụng; trong khi đó với sự có mặt của trung tâm TTTD tư nhân, rào cản tiếp
cận tài chính giảm bớt một cách rõ rệt và tỷ lệ được cấp tín dụng của doanh nghiệp
nhỏ gia tăng. Những phát hiện cụ thể là tỷ lệ % các doanh nghiệp nhỏ gặp khó khăn
về vốn ở những nước có trung tâm TTTD tư nhân là 27% trong khi đó, ở những nơi
không có trung tâm này, tỷ lệ này là 49%; xác suất doanh nghiệp nhỏ vay được từ
ngân hàng ở những nước có trung tâm TTTD tư nhân là 40%, cao hơn nhiều ở
những nước không có (28%). Trong bối cảnh mà tốc độ tăng trưởng tín dụng, đặc
biệt là tín dụng cho DNNVV và tín dụng tiêu dùng trong những năm gần đây, đang
tạo ra một nhu cầu rất lớn về thông tin tín dụng mà khả năng và nguồn lực của CIC
không thể đáp ứng hết. Nhu cầu thông tin tín dụng về DNVVN và cá nhân tăng cao
không được đáp ứng đang ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của các
85
ngân hàng. Do đó ngân hàng nhà nước cần nỗ lực đẩy nhanh hơn nữa để trung tâm
TTTD tư nhân có thể sớm ra đời và hoạt động hiệu quả ở Việt Nam.
Kết luận chương 3:
Những giải pháp hợp lý và phù hợp là hết sức quan trọng và cần thiết cho
sự phát triển của DNNVV hiện nay. Các kiến nghị và giải pháp trên phải được thực
hiện cùng lúc, đồng thời trong đó vai trò của nhà nước là quan trọng nhất nhưng
không thể thiếu sự nỗ lực của bản thân DNNVV.
86
KẾT LUẬN
Với vai trò và đóng góp của loại hình DNNVV đối với sự phát triển kinh tế đồng
thời giải quyết các nhu cầu về công ăn việc làm cho xã hội DNNVV khẳng định sự
cần thiết phát triển loại hình doanh nghiệp này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
là một nhu cầu tất yếu, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và xu hướng
phát triển của thế giới.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, đặc điểm của DNNVV ở Việt nam trong giai
đoạn hiện nay đặc biệt là về khả năng tiếp cận với các nguồn vốn chính thức. Từ đó
luận văn đưa ra một số giải pháp để giúp DNNVV tìm kiếm các nguồn vốn chính
thức phục vụ cho việc kinh doanh. Ta nhận thấy rằng để loại hình DNNVV phát
huy được các tiềm năng của nó thì cần có sự chung tay giúp sức của nhiều bên như:
bản thân các doanh nghiệp, các tổ chức trung gian tài chính, chính phủ. Trong đó
vai trò của nhà nước đặc biệt quan trọng nếu không nói là mang tính chủ đạo để
giúp DNNVV khắc phục được điểm yếu về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh.
Với kiến thức thu nhận được từ nhà trường, nghiên cứu từ thực tế cuộc sống đồng
thời thông qua sự hướng dẫn của thầy PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng, tác giả luận văn
đã trình bày một số giải pháp hỗ trợ DNNVV trong việc tiếp cận các nguồn vốn để
phát triển sản xuất kinh doanh.
Chân thành cảm ơn nhà trường, thầy cô đã tận tình hướng dẫn truyền đạt kiến
thức giúp đỡ cho tác giả trong quá trình hoàn thành luận văn. Rất mong được
87
sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô, bạn bè để luận văn hoàn thiện hơn.
TAI LIÊU THAM KHAO
Tiếng Việt
1. Báo cáo của Ngân Hàng Nhà Nước, 2008.
2. Công văn 1070/NHNN-TD của Ngân hàng Nhà nước về việc triển khai một
số nội dung liên quan đến việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
3. “Đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt Nam” kết quả điều tra doanh nghiệp
nhỏ và vừa năm 2005, CIEM (Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương) kết hợp
với nhóm nghiên cứu kinh tế học phát triển, khoa kinh tế đại học Tổng hợp
Copenhagen tiên hành.
4. Điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp VN (VCCI) tiến hành đối với
các DNNVV năm 2008.
5. Kêt qua điêu tra doanh nghiệp 2009, tông cuc thông kê.
6. Kêt qua điêu tra của cuc phát triên doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kê hoạch và
đâu tư) năm 2005.
7. Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 5 năm (2006-2010) của Thủ tướng
Chính phủ, ngày 23 tháng 10 năm 2006.
8. Huỳnh Thị Hương Thảo, Tạp chí ngân hàng số 19+20/2008.
10. Lê Thanh Hà (2006), “Nghiên cứu một số giải pháp nhằm phát triển tài trợ vốn
dưới hình thức cho thuê tài chính đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn
TP.HCM”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Đại học Kinh tế Tp.HCM.
88
11. Luật Chứng khoán số 70/QH11 ngày 29/6/2006; có hiệu lực ngày 01/01/2007.
12. Nguyễn Thị Thanh Bình, 2008, “một số giải pháp tài chính hỗ trợ cho sự phát
triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa”. Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh
tế Tp.HCM.
13. Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Chứng khoán; có hiệu lực ngày 08/02/2007.
14. Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển với doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
15. Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển với doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
16. Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ vê quy chê thành lập,
tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV.
17. Quyết định 13/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính Ban
hành mẫu Bản cáo bạch trong Hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng
và Hồ sơ đăng ký niêm yết chứng khoán tại Sở GDCK, Trung tâm GDCK; có hiệu
lực ngày 12/8/2007.
18. Quyết định số 168/QĐ-SGDHCM ngày 7/12/2007 của Tổng Giám đốc Sở giao
dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quy chế niêm yết chứng
khoán tại Sở GDCK Tp HCM.
19. Quyết định số 420 /QĐ-TTGDHN ngày 31 tháng 12 năm 2007 của Giám đốc
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội Về việc ban hành Quy chế niêm yết
chứng khoán tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
20. Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
Ban hành Quy chế Bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của Ngân hàng Thương mại.
21. Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg ngày 17/04/2009 của Thủ Tướng Chính
Phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày
21 tháng 01 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế bảo lãnh cho
doanh nghiệp vay vốn tại các ngân hàng thương mại.
89
22. Thúy Hải (17/06/2008) Bài viết “Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Lớn nhưng chưa
mạnh!” của, đăng trên website báo Sài Gòn Giải Phóng, www.sggp.org.vn.
23. Thời báo Kinh tế Sài Gòn 22/04/2009.
24. Thông tư 38/2007/TT-BTC ngày 18/4/2007 hướng dẫn về việc công bố thông
tin trên thị trường chứng khoán; hiệu lực ngày 13/8/2007.
25. Thông kê của Bộ kế hoạch và đầu tư và Tổng cục thống kê năm 2006.
Tiếng Anh
26. US small business administration, March, 2008.
27. Worl Bank, Development Research Group, 2003.
Các website
www.vneconomy.vn.
http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov.
www.svb.gov.vn.
www.vdb.gov.vn.
http://www.malaysiasme.com.my.
http://www.smidec.gov.my.
www.exim.go.th.