1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

*******

LÊ BẢO THU

GIẢI PHÁP HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

TRONG VIỆC TIẾP CẬN CÁC NGUỒN VỐN ĐỂ PHÁT

TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2010

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

*******

LÊ BẢO THU

GIẢI PHÁP HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

TRONG VIỆC TIẾP CẬN CÁC NGUỒN VỐN ĐỂ PHÁT

TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH

Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - Ngân hàng

Mã số: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NGỌC HÙNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2010

3

MỤC LỤC

TRANG

Trang bìa phụ lục.

Mục lục.

Danh mục các cụm từ viết tắt.

Danh mục các bảng số liệu.

LỜI MỞ ĐẦU.

1. Lý do chọn đề tài.

2. Mục đích của đề tài.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

4. Phương pháp nghiên cứu.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu.

6. Kết cấu của luận văn.

Chương 1: Tổng quan về DNNVV và các nguồn tài trợ cho DNNVV.

1.1 Khái niệm, phân loại và đặc điểm DNNVV…………………………………….. 11

1.1.1 Khái niệm……………………………………………………………………... 11

1.1.2 Phân loại DNNVV……………………………………………………………. 13

1.1.3 Đặc điểm DNNVV…………………………………………………………….. 15

1.2 Vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế………………………………………... 18

1.2.1 DNNVV đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế………………... 19

1.2.2 DNNVV góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế………………………………... 20

1.2.3 DNNVV làm tăng năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế………………………. 20

1.2.4 DNNVV đóng góp vào ngân sách nhà nước………………………………….. 21

1.2.5 Góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, các vấn đề xã hội……….. 21

1.3 Nguồn vốn kinh doanh và các hình thức huy động vốn của DNNVV trong nền kinh tế

thị trường…………………………………………………………………….. 22

1.3.1 Nguồn vốn kinh doanh………………………………………………………… 22

1.3.2 Các hình thức huy động vốn của DNNVV trong nền kinh tế thị trường……… 23

4

1.4 Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới về việc hỗ trợ DNNVV tiếp cận các nguồn

vốn để phát triển sản xuất kinh doanh………………………………………... 28

1.4.1 Malaysia………………………………………………………………………. 28

1.4.2 Đài Loan………………………………………………………………………. 30

1.4.3 Thái Lan……………………………………………………………………….. 33

1.4.4 Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam……………………………………...36

Kết luận chương 1…………………………………………………………………… 37

Chương 2: Thực trạng về khả năng tiếp cận các nguồn vốn để phát triền sản xuất

kinh doanh của DNNVV ở Việt Nam.

2.1 Khái quát thực trạng về hoạt động kinh doanh của DNNVV ở Việt Nam hiện

nay…………………………………………………………………………………… 38

2.2 Thực trạng về khả năng tiếp cận các nguồn vốn để phát triển sản xuất kinh doanh của

DNNVV ở Việt Nam hiện nay………………………………………… 42

2.2.1 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng thương mại…………………….. 42

2.2.2 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ cho thuê tài chính…………………………. 46

2.2.3 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ bảo lãnh tín dụng…………………….. 47

2.2.4 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ tín dụng xanh dành cho DNNVV…….. 50

2.2.5 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ đầu tư mạo hiểm……………………... 51

2.2.6 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ thị trường chứng khoán……………………. 54

Kết luận chương 2…………………………………………………………………… 59

Chương 3: Một số giải pháp hỗ trợ DNNVV tiếp cận các nguồn vốn để phát triển sản

xuất kinh doanh.

3.1 Kiên nghị đôi với DNNVV……………………………………………………… 60

3.1.1 Nâng cao chât lượng báo cáo kê toán………………………………………….. 60

3.1.2 Thay đổi tư duy trong quản trị doanh nghiệp ở các DNNVV………………… 62

3.1.3 Tham gia các hiệp hội ngành nghê…………………………………………….. 63

3.2 Kiến nghị các trung gian tài chính………………………………………………..64

3.2.1 Kiên nghị đôi với các công ty cho thuê tài chính……………………………… 64

3.2.2 Quỹ đâu tư mạo hiêm…………………………………………………………. 65

5

3.2.3 Kiến nghị phát triển thị trường chứng khoán………………………………….. 66

3.2.4 Kiên nghị đôi với ngân hàng thương mại……………………………………… 68

3.3 Kiên nghị đôi với quy bao lanh tin dung………………………………………… 74

3.3.1 Kiên nghị đôi với quy bao lanh tin dung DNNVV……………………………. 74

3.3.2 Kiên nghị đôi với quy bao lanh tin dung DNNVV do VDB làm đâu môi…….. 76

3.4 Kiến nghị đối với chính phủ…………………………………………………….. 80

Kết luận chương 3…………………………………………………………………… 85

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

6

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)

GNP Tổng thu nhập quốc dân (Gross National Product)

OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for economic co-

operation and Development)

CIEM Viện Nghiên Cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương

NHTM Ngân hàng thương mại

NHNN Ngân hàng nhà nước

VCCI Phòng thương mại công nghiệp Việt nam

HSBC Ngân hàng Hồng Kong Thượng Hải

ACB Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu

CTTC Cho thuê tài chính

ĐTMH Đầu tư mạo hiểm

DN Doanh nghiệp

TTCK Thị trường chứng khoán

DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa

SGDCK Sở giao dịch chứng khoán

SCIC Tổng công ty đầu tư kinh doanh và vốn nhà nước

NH Ngân hàng

FCI Hiệp hội bao thanh toán thế giới (Factors Chain International)

VDB ngân hàng phát triển Việt nam

TTTD thông tin tín dụng

7

DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU

Trang

Bảng 1.1. Tiêu chí phân loại DNNVV ở Việt nam ………………………………….. 12

Bảng 1.2. Tiêu chí phân loại DNNVV ở một số quốc gia…………………………… 15

Bảng 1.3. Đóng góp của khu vực DNNVV vào lao động và GDP ở các nước……… 19

Bảng 2.1. Thống kê về số lượng DNNVV giai đoạn 2000-2008……………………. 38

Bảng 2.2. Cơ cấu nguồn vốn của DNNVV………………………………………….. 42

Bảng 2.3. Những khó khăn khi tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng…………………… 43

Bảng 2.4. Tỷ lệ vốn vay đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp…………………… 43

8

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Quy mô vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt nam từ 1991-2006……………. 53

Biểu đồ 3.1: Doanh thu bao thanh toán tại Việt nam…………………………………70

9

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Sự thành công của các DNNVV là động lực chính cho phát triển kinh tế, tăng

thu nhập và xoá đói giảm nghèo ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Với đặc điểm

của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay DNNVV đóng một vai trò rất

quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế.

Chính vì lý do đó mà nhiệm vụ phát triển khu vực DNNVV là một nhiệm

vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc ban hành hàng loạt các Nghị định, Thông tư, chỉ

thị về các chính sách hỗ trợ cho sự phát triển của các DNNVV đã làm cho DNNVV

có bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua. Việc phát triển DNNVV góp phần

đa dạng hoá các thành phần kinh tế, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng GDP của

đất nước, đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế, góp phần giải quyết công ăn

việc làm và ổn định đời sống xã hội cho hàng triệu lao động.

Tuy nhiên, trên thực tế các DNNVV còn gặp nhiều khó khăn như: nguồn vốn

hoạt động còn hạn chế, khả năng tiếp cận với các nguồn vốn chính thức khó khăn,

khoa học công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kinh doanh còn yếu kém,… Chính

điều này đã kềm hãm sự phát triển của DNNVV làm cho DNNVV không thể hiện

hết tiềm năng của nó.

Trong các nguyên nhân gây cản trở sự phát triển của DNNVV thì vấn đề nguồn

vốn hoạt động của các DNNVV là vấn đề được đánh giá là quan trọng và cấp thiết

nhất. Do đó, việc lựa chọn đề tài “giải pháp hỗ trợ DNNVV trong việc tiếp cận

các nguồn vốn để phát triển sản xuất kinh doanh” nhằm góp phần mở ra nhiều

cơ hội cho các DNNVV tiếp cận với các nguồn vốn chính thức để các doanh nghiệp

mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và ngày càng phát triển mạnh mẽ

hơn góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.

2. Mục đích của đề tài:

10

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về DNNVV (khái niệm, đặc điểm, vai

trò, các nguồn tài trợ cho sự phát triển của DNNVV).

- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới (Malaysia, Đài Loan,

Thái Lan) về việc hỗ trợ DNNVV tiếp cận các nguồn vốn để phát triển sản xuất

kinh doanh để rút ra những bài học kinh nghiệm ứng dụng vào điều kiện Việt Nam.

- Đánh giá đúng thực trạng về khả năng tiếp cận các nguồn vốn để phát triển sản

xuất kinh doanh của DNNVV ở VN trong thời gian qua.

- Đề xuất một số giải pháp hỗ trợ DNNVV ở VN tiếp cận các nguồn vốn để phát

triển sản xuất kinh doanh trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng nghiên cứu:

+ Các nguồn tài trợ và vai trò của chúng đối với sự phát triển của DNNVV trong

nền kinh tế.

+ Thực trạng tiếp cận các nguồn tài trợ của các DNNVV.

+ Các giải pháp giúp cho các DNNVV tiếp cận các nguồn tài trợ.

- Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận văn này thì người viết chỉ tập trung

xem xét kỹ về khả năng tiếp cận các nguồn vốn và những giải pháp nhằm nâng cao

khả năng tiếp cận của các DNNVV đối với từng nguồn vốn vay cụ thể.

4. Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp nghiên cứu sử dụng được vận dụng tổng hợp từ các phương pháp

phân tích, tổng hợp, suy luận logic.

- Nguồn thông tin dữ liệu từ nhiều nguồn như từ các khảo sát, nghiên cứu khoa học

về DNNVV của các nhà nghiên cứu, các dữ liệu từ Tổng cục thống kê,Sở Kế Hoạch

và Đầu Tư, Niên giám thống kê, các kết quả khảo sát về DNNVV của các tổ chức

kinh tế trong và ngoài nước, các bài báo, tạp chí, báo điện tử, nhận định của các

chuyên gia về các vấn đề của DNNVV,…

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu:

11

- Việc nhìn nhận, đánh giá một cách đúng đắn vai trò của các DNNVV trong nền

kinh tế sẽ giúp các doanh nghiệp này phát triển mạnh mẽ hơn và đóng góp nhiều

hơn vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam.

- Để phát huy vai trò của DNNVV trong sự phát triển chung của nền kinh tế cần

phải có giải pháp hỗ trợ từ nhiều phía, nhiều cơ quan hữu quan, trong đó giải pháp

hỗ trợ các DNNVV tiếp vận các nguồn vốn vay để phát triển SXKD đóng vai trò

hết sức quan trọng, đang trở thành vấn đề bức xúc hiện nay.

6. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần mở đầu và kết luận Luận văn được kết cấu thành ba chương:

- Chương 1: Tổng quan về DNNVV và các nguồn tài trợ cho DNNVV.

- Chương 2: Thực trạng về khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay để phát triển sản

xuất kinh doanh của DNNVV ở Việt Nam.

- Chương 3: Một số giải pháp hỗ trợ DNNVV tiếp cận các nguồn vốn vay để phát

triển sản xuất kinh doanh.

12

CHƯƠNG 1: TÔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀ CÁC

NGUỒN TÀI TRỢ CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA.

1.1 Khái niệm, phân loại và đặc điểm DNNVV.

1.1.1 Khái niệm DNNVV.

DNNVV chính là đối tượng của đề tài nghiên cứu này nên việc đưa ra một khái

niệm chính xác về DNNVV có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó sẽ giúp cho việc

phân loại, xác định tính chất, đặc điểm, vai trò cũng như hướng hỗ trợ đối với đối

tượng này ở các phần sau. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay trên thế giới không có

khái niệm chuẩn mực về doanh nghiệp vừa và nhỏ chung cho tất các nước. Việc xác

lập khái niệm về DNNVV được dựa trên một số tiêu chí, nhưng việc lựa chọn tiêu

chí nào và thước đo của các tiêu chí đó lại có sự khác biệt tùy theo trình độ phát

triển kinh tế-xã hội, của từng thời kỳ, ngành nghề, vùng lãnh thổ.v.v.. Sự khác biệt

này có thể xảy ra giữa các quốc gia, khu vực kinh tế với nhau và cũng có thể xảy ra

trong chính bản thân một quốc gia nào đó.

Các tiêu chí được sử dụng trong việc xây dựng khái niệm về DNNVV chủ yếu

tập trung vào hai nhóm tiêu chí lớn: tiêu chí mang tính định tính và tiêu chí mang

tính định lượng. Nhóm tiêu chí định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của các

doanh nghiệp vừa và nhỏ như: mức độ chuyên môn hóa, mức độ phức tạp của quản

lý, số đầu mối quản lý..v.v.. Các tiêu chí này về mặt định tính được cho là phản ánh

đúng bản chất vấn đề nhưng lại khó xác định trên thực tế vì việc thực hiện những đo

lường nói trên là rất khó khăn. Cũng chính bởi lý do này mà nhóm tiêu chí định tính

chỉ được sử dụng mang tính chất tham khảo. Nhóm tiêu chí thứ hai là tiêu chí định

lượng, thường sử dụng những tiêu chí như số lượng lao động, vốn (hoặc giá trị tài

sản), doanh thu, lợi nhuận. Cụ thể hơn:

- Số lượng lao động có thể là số lao động trung bình trong danh sách, số lao động

thường xuyên, số lao động thực tế.

- Vốn (hoặc giá trị tài sản) có thể là tổng vốn (hoặc giá trị tài sản), vốn (hoặc

giá trị tài sản) cố định.

13

- Doanh thu có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm (hiện nay tiêu

chí này có xu hướng được sử dụng nhiều).

Theo Liên minh Châu Âu, DNNVV là doanh nghiệp có số lượng công nhân

không vượt quá 250. Ở Mỹ và Canada các doanh nghiệp có ít hơn 500 lao động

được xem là DNNVV. Ở Nhật Bản thì tùy ngành nghề, với các ngành sản xuất

thì tối đa 300 người và nguồn vốn tối đa là 300 triệu Yên, các doanh nghiệp hoạt

động trong lĩnh vực buôn bán (wholesale) thì qui mô là 100 người và 100 triệu Yên,

còn ngành bán lẻ, dịch vụ thì số lao động nằm ở mức 50-100 người, nguồn vốn là

50 triệu Yên. Tại Ôxtraylia DNNVV là doanh nghiệp có số lượng công nhân tối đa

không vượt quá 300.

Hiện nay, ở nước ta cơ sở pháp lý để xác định DNNVV hiện nay là Nghị định

số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển với doanh nghiệp vừa

và nhỏ. Theo quy định tại Điều 3 của Nghị định thì “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ

sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật, được chia thành 3 cấp: siêu

nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài

sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động

bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên) cụ thể như sau:

Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại DNNVV ở Việt nam

Quy Doanh Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa

nghiệp siêu mô

nhỏ

Tổng Tổng nguồn

Số lao động nguồn vốn Số lao động vốn Số lao động

Khu vực I.Nông, lâm 10 người 20 tỷ đồng từ trên 10 từ trên 20 tỷ từ trên 200

nghiệp trở xuống trở xuống người đến đồng đến 100 người đến

và thuỷ sản II. Công nghiệp 10 người 20 tỷ đồng 200 người từ trên 10 tỷ đồng từ trên 20 tỷ 300 người từ trên 200

và xây dựng trở xuống trở xuống người đến đồng đến 100 người đến

200 người tỷ đồng 300 người

III. Thương mại 10 người 20 tỷ đồng từ trên 10 từ trên 20 tỷ từ trên 50

14

và dịch vụ trở xuống trở xuống người đến 50 đồng đến 50 tỷ người đến

người đồng 100 người

Nghị định này so với nghị định số số 90/2001/NĐ-CP của chính phủ về trợ giúp

phát triển với doanh nghiệp vừa và nhỏ có một số điểm thay đổi. Nếu

như Nghị định số 90/2001/NĐ-CP quy định doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản

xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn

đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá

300 người thì nghị định mới phân chia các doanh nghiệp nhỏ và vừa thành ba mức

là: doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa theo từng khu

vực ngành nghề khác nhau như: Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, Công nghiệp và xây

dựng, Thương mại và dịch vụ. Cách phân chia theo quy định mới sẽ chính xác hơn

vì đã chú ý đến tính chất, đặc điểm của từng ngành nghề. Và việc phân loại

DNNVV ra thành ba cấp giúp cho việc trợ giúp cho từng đối tượng được thuận lợi

hơn.

1.1.2 Phân loại DNNVV

Việc lựa chọn các tiêu chí để xây dựng khái niệm về DNNVV thực chất chính

là việc phân loại doanh nghiệp dựa trên các tiêu chí được xác định đó (nhóm tiêu

chí về quy mô). (Việc phân loại doanh nghiệp còn có thể dựa vào những tiêu chí

khác ví dụ như ngành nghề hoạt động, hình thức tổ chức v.v…) Đầu tiên, hãy bắt

đầu bằng việc xem xét các yếu tố tác động đến phân loại DNNVV.

- Trình độ phát triển kinh tế: sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế ở đây được

hiểu là giữa các quốc gia với nhau, và trong chính một quốc gia qua những thời kỳ

khác nhau. Một điều dễ nhận thấy là trình độ phát triển kinh tế khác nhau thì thì trị

số của các tiêu chí xếp loại cũng khác nhau. Trong thực tế có rất nhiều trường hợp

những trị số dùng để xác định doanh nghiệp nhỏ ở nước này lại tương đương với trị

số để xác định doanh nghiệp vừa ở nước khác. Hoặc trong một quốc gia ở các thời

kỳ phát triển kinh tế khác nhau cũng có sự khác nhau trong tiêu chí để xếp loại ví dụ

15

như ở Việt nam giai đoạn trước đây, trị số về số lao động ở DNNVV là 200 gần đây

đã nâng lên 300.

- Tính chất ngành nghề: do tính chất ngành nghề khác nhau mà dẫn đến hệ quả sự

thâm dụng vốn và lao động cũng khác nhau. Có ngành sẽ sử dụng nhiều lao động

(như giày da, dệt may), cũng có ngành sử dụng ít lao động nhưng nhiều vốn (như

hóa chất, điện). Vì vậy cần có tính chất này để có sự so sánh trong việc phân loại

giữa các DNNVV với nhau. Trên thực tế, việc phân loại theo tính chất ngành nghề

thường được chia thành 2 nhóm: nhóm sản xuất, nhóm dịch vụ; hoặc cũng có một

cách phân chia khác như là nhóm sản xuất và dịch vụ, nhóm buôn bán sỉ, nhóm

buôn bán lẻ. vv.. Ngoài ra trong tính toán kỹ thuật cũng có thể sử dụng hệ số ngành

để so sánh, đối chứng giữa các ngành với nhau.

- Vùng lãnh thổ: Vùng lãnh thổ được hiểu là giữa các khu vực kinh tế với nhau,

giữa các vùng trong một quốc gia. Lý do vùng lãnh thổ ảnh hưởng đến sự phân loại

doanh nghiệp là do điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, trình độ phát triển giữa các

vùng không đồng đều. Một doanh nghiệp được coi là nhỏ ở khu vực thành thị

nhưng cũng cùng qui mô đó lại là doanh nghiệp vừa ở vùng nông thôn. Trong tính

toán kỹ thuật, hệ số vùng cũng thường được sử dụng.

- Mục đích phân loại: đây là một yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến việc xác định

DNNVV, khái niệm về DNNVV sẽ khác nhau khi mục đích phân loại khác nhau.

Chẳng hạn, khái niệm DNNVV với mục đích phân loại là để hỗ trợ các doanh

nghiệp yếu, mới thành lập, sẽ khác với khái niệm DNNVV với mục đích giảm thuế

cho các doanh nghiệp có công nghệ sạch, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường.

Trong thực tế, mục đích, quan điểm của người phân loại DNNVV là hết sức quan

trọng, lấy ví dụ như trường hợp ở Việt Nam, việc xác định DNNVV trong nghị định

56/2009/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV cũng được dựa trên

một trong hai tiêu chí, số vốn đăng ký hoặc số lao động trung bình hằng năm.

Nhìn chung, ở hầu hết các quốc gia thực hiện sự phân loại DNNVV đều tiếp tục

áp dụng các tiêu chí về số lượng lao động, nguồn vốn, ở một số quốc gia có sự phân

loại cụ thể hơn, những tiêu chí này được áp dụng trong một khoảng thời gian xác

16

định, được áp dụng tùy theo nhóm ngành nghề, (tuy nhiên, sự khác biệt về vùng

lãnh thổ trong phạm vi một quốc gia thường ít được xem xét đến).

Rõ ràng, việc phân loại các DNNVV là hết sức khó khăn, tuy nhiên lại là việc

cần được thực hiện vì việc phân loại sẽ được lấy làm cơ sở cho việc hoạch định

chính sách, hay áp dụng các ưu tiên, hỗ trợ v.v.. Tùy theo mục đích phân loại mà ta

sẽ có các tiêu chí và cách thức xác định khác nhau, việc tiến hành cần phải hết sức

linh hoạt và khách quan.

1.1.3 Đặc điểm các DNNVV.

Phân tích đặc điểm của DNNVV rất quan trọng giúp chúng ta hiểu rõ bản chất

của DNNVV vì nó có ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách đối với các doanh

nghiệp này. Dưới đây là một số đặc điểm của DNNVV:

+ Qui mô vốn và lao động nhỏ: đây là đặc trưng chủ yếu của DNNVV, đặc trưng

này có ở hầu hết các DNNVV ở các quốc gia trên thế giới cho dù đó là DNNVV ở

một nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ hay DNNVV ở một nền kinh tế

đang phát triển như ở Việt Nam. Sau đây là tiêu chí về vốn và số lao động của

DNNVV ở các quốc gia trong khu vực và trên thế giới tại điểm vào năm 2002

Bảng 1.2: Tiêu chí phân loại DNNVV ở một số quốc gia 2002.

STT Nước Phân loại Số lao Số vốn Doanh thu

động I. Các nước phát triển

1 Mỹ Tất cả các ngành 0 - 500 Không quan Không quan trọng

2 Nhật Bản

Chế tác Bán buôn 1 - 300 1 - 100 trọng 300 triệu Yên 0 – 100 triệu

3 EU Bán lẻ Dịch vụ DN cực nhỏ 1 – 50 1 - 100 < 10 Yên 0 – 50 1 – 100 Không quan

trọng

DN nhỏ DN vừa < 50 < 250 7 triệu Ecu 27 triệu Ecu

17

4 Australia Chế tác nhỏ < 100 Không quan Không quan trọng

trọng

5 Hàn Quốc

Chế tác vừa Dịch vụ nhỏ Dịch vụ vừa Chế tác K mỏ & vận tải 100 – 199 < 20 20 - 199 0 - 300 0 - 300 20 - 80 tỷ Won Không quan Không quan trọng

trọng

Xây dựng TM & DV

0 - 200 0 - 20 II. Các nước đang phát triển

1 Thái Lan Sản xuất nhỏ Không quan 0 – 50 tr Baht

trọng

Không quan trọng

Sản xuất vừa Bán buôn nhỏ Bán buôn vừa Bán lẻ nhỏ Bán lẻ vừa DN nhỏ 51 - 200 0 - 50 51 - 100 0 – 30 31 - 60 0 – 20.000$ 2 Indônêxia 0 – 100.000$ Không quan

trọng

DN vừa 20.000 100.000 – 500.000

– 100.000$ 1,5 – 15 tr 3 Philippine DN nhỏ 10 – 99

Pêxo 10 – 60 tr Không quan 4 Malaysia DN vừa Chế tác 100 - 199 0 - 150 0 – 25 RM

trọng Không quan 5 Mêxico DN cực nhỏ 0 - 15 Không quan trọng

trọng

DN nhỏ DN vừa

1 Nga Không quan trọng 16 – 100 101 - 250 III. Các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Không quan 1 – 249 DN nhỏ

trọng

DN vừa 250 – 999

18

2 Trung

DN nhỏ DN vừa 50 – 100 101 - 500

Quốc Hungary 3

4 Ba Lan

DN cực nhỏ DN nhỏ DN vừa DN nhỏ DN vừa DN nhỏ DN nhỏ Rumani Bungary 20 tr BGL 5 6

1 – 10 10 - 50 50 - 250 < 50 51 - 200 1 – 20 < 50 Nguồn: Hồ sơ các DNNVV của APEC, 2003; Tổng quan các DNNVV của OECD,

2002

+ Trình độ công nghệ thấp, năng suất lao động kém: Đây cũng là một đặc điểm

chung các DNNVV. Do đa số DNNVV được thành lập với số vốn ban đầu rất hạn

chế nên trang bị máy móc thiết bị lạc hậu. Hơn nữa chi phí đầu tư công nghệ mới và

kỹ thuật hiện đại cao nên thường vượt quá khả năng của các DNNVV. Chính vì ít

đầu tư máy móc thiết bị hoặc không có đủ vốn để đầu tư vào máy móc hiện đại đã

làm cho năng suất lao của DNNVV thấp. Cũng bắt nguồn từ qui mô nhỏ, nguồn vốn

ít nên không có khả năng để đầu tư trang thiết bị hiện đại, dẫn đến khả năng cạnh

tranh kém từ đó dẫn đến không có khả năng vay vốn để nâng cấp, mua mới các

trang thiết bị hiện đại. Điều này làm cho DNNVV rơi vào vòng luẩn quẩn gây trở

ngại lớn cho sự phát triển của các DNNVV.

+ Về chất lượng nguồn nhân lực: Phần lớn các DNNVV sử dụng nhiều lao động

giản đơn, trình độ tay nghề chưa cao. Đội ngũ quản lý còn thiếu trình độ, kỹ năng

quản lý, sử dụng kinh nghiệm là chủ yếu. Khả năng quản lý của chủ DNNVV được

đánh giá chung là yếu và còn hạn chế.

+ Về năng lực tiếp cận thị trường: DNNVV thiếu thông tin tiếp cận thị trường,

đặc biệt là thị trường quốc tế. Điều này một phần bắt nguồn từ trình độ của chính

doanh nghiệp. Đa phần các DNNVV thiếu chiến lược dài hạn, thiếu tầm nhìn. Rất

nhiều doanh nghiệp chưa có ý định vươn xa ra các thị trường khác trong nước, vươn

ra thị trường quốc tế.

19

+ Về sự linh hoạt với sự thay đổi của thị trường: các DNNVV được xem là rất

linh hoạt để thích ứng với những thay đổi trong môi trường kinh doanh, điều này

chính là do và cấu trúc tổ chức gọn nhẹ của các doanh nghiệp này. Người chủ doanh

nghiệp hầu như làm tất cả mọi việc và người lao động được thuê mướn để đảm

đương nhiều công việc khác nhau do đó không có tính chuyên môn hóa. Nhưng nếu

nhìn nhận từ một khía cạnh mang tính dài hạn hơn, các DNNVV từ chỗ linh hoạt

cũng rất dễ chuyển thành dễ bị tổn thương khi phát triển trong một môi trường kinh

doanh nhiều biến động lớn, đặc biệt là bất kỳ thay đổi nào về công nghệ hay chính

sách của chính phủ, hoặc thay đổi các yếu tố vĩ mô khác như lạm phát tăng cao

cũng có thể có một tác động mạnh lên hoạt động của các doanh nghiệp này bởi vì

những thay đổi tức thì, trực tiếp thường yêu cầu sự gia tăng về vốn và nguồn lực.

Điều này có thể trở thành một hạn chế lớn đối với các doanh nghiệp này trong cạnh

tranh và đảm bảo sự phát triển bền vững của chính mình.

1.2 Vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế.

Tại các nước phát triển nhất như Hoa Kỳ, Nhật Bản..., Chính phủ các nước này

cũng xác định vai trò quan trọng, lâu dài của các DNNVV là bộ phận cấu thành

không thể thiếu được của nền kinh tế, có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời

nhau với các tập đoàn kinh tế, đặc biệt trong công nghiệp bổ trợ (supporting

industries) và mạng lưới phân phối sản phẩm.

Ở nước ta, thành phần kinh tế dân doanh, trong đó chủ yếu là các DNNVV ngày

càng giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Chiếm trên 96% số doanh nghiệp đăng

ký hoạt động, các DNNVV đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế và giải

quyết các vấn đề xã hội.

1.2.1 DNNVV đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế: DNNVV là

khu vực thu hút tích cực và có khả năng huy động các nguồn vốn, nguồn lực của xã

hội cho đầu tư phát triển. Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực DNNVV đã khơi dậy

một sức sản xuất rất lớn. Năng lực sản xuất hàng hóa của thành phần này tăng

mạnh, đóng góp đáng kể vào GDP.

20

Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, các xí nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) đang

chiếm khoảng 60% GDP và 70% lực lượng lao động tại những nước có tổng thu

nhập quốc dân (GNP) từ 100-500 USD/năm/người, đóng góp 50% GDP và chiếm

65% lực lượng lao động tại các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế

(OECD). Hãy xem xét biểu đồ sau về đóng góp của các DNNVV vào GDP ở các

nhóm quốc gia trên thế giới (năm 2003).

Bang 1.3 Đong gop cua khu vưc DNNVV vao lao đông va GDP ơ cac nươc

Trên biểu đồ cột màu đen biểu thị cho tỉ lệ đóng góp của các DNNVV vào GDP

của các quốc gia, tức là các DNNVV đóng góp 15.6% vào GDP ở các quốc gia có

thu nhập thấp, 39,5% GDP ở các quốc gia có mức thu nhập trung bình và khoảng

51,5% ở các nước có thu nhập cao. Nhìn chung vào những năm gần đây, sự đóng

góp của các DNNVV vào GDP của các nước nằm ở khoảng 40-50%. Riêng ở Việt

Nam, theo số liệu mới nhất của Bộ Tài chính (năm 2008), các DNNVV đã đóng góp

hơn 40% vào GDP.

1.2.2 DNNVV góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Các DNNVV hầu hết

hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp, hầu hết là các doanh nghiệp

ngoài quốc doanh. Với số lượng vào khoảng 90% tổng số lượng doanh nghiệp thì

các doanh nghiệp này cũng có những đóng góp hết sức quan trọng vào chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo ngành, theo thành phần kinh tế ở các nước đang phát triển nói

chung cũng như ở Việt nam nói riêng. Theo thống kê của bộ Kế hoạch và Đầu tư,

vào năm 2008 các DNNVV đóng góp khoảng 78% mức bán lẻ, 33% giá trị sản

21

lượng công nghiệp. Bên cạnh đó, số lượng các DNNVV ở các vùng nông thôn,

miền núi ngày càng tăng cũng là một yếu tố quan trọng giúp cho sự chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo lãnh thổ diễn ra theo hướng tích cực.

1.2.3 DNNVV làm tăng năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế: Vai trò này

xuất phát từ việc số lượng các DNNVV rất lớn, do đó làm tăng tính cạnh tranh, hạn

chế sự độc quyền đồng thời cũng làm phong phú thêm số lượng, chủng loại hàng

hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Ngoài ra, do chính cấu trúc tinh gọn, kích thước nhỏ,

các doanh nghiệp này cũng tỏ ra hết sức năng động trong việc đối phó với thay đổi

trong hoạt động kinh doanh, ví như chuyển hướng kinh doanh, thay đổi mặt hàng,

công nghệ…sự năng động này đã làm tăng cường tính linh hoạt, năng động trong

nền kinh tế. Một vai trò rất lớn nữa mà không thể bỏ qua đó chính là các DNNVV

đóng vai trò như cầu nối trong nền kinh tế, nhờ có các DNNVV mà các doanh

nghiệp lớn hoạt động có hiệu quả hơn, các DNNVV làm đại lý, vệ tinh, gia công

cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hóa, cung cấp nguyên liệu đầu vào cho

doanh nghiệp lớn. Nhìn nhận từ góc độ này, nhiều nhà nghiên cứu tán thành với ý

kiến rằng các DNNVV giúp cho hoạt động của nền kinh tế tốt hơn, thậm chí có

nhiều đánh giá cho rằng đây mới thực sự là vai trò quan trọng nhất của các doanh

nghiệp này.

1.2.4 DNNVV đóng góp vào ngân sách nhà nước: Vai trò này hoàn toàn có

thể nhận thấy được khi nhìn vào số lượng của các DNNVV trong nền kinh tế. Các

DNNVV chiếm khoảng 90% số lượng doanh nghiệp trên toàn thế giới, con số này ở

Việt Nam là 95% (theo hiệp hội các DNNVV, cuối năm 2008 ở Việt Nam có

khoảng 350.000 doanh nghiệp, chiếm 95% số doanh nghiệp trong cả nước). Với

một lực lượng doanh nghiệp hùng hậu hoạt động sản xuất kinh doanh, giá trị mà nó

mang lại cho nền kinh tế là rất lớn, ngoài ra DNNVV là nguồn thu cho Ngân sách

Nhà nước thông qua việc nộp thuế.

Trong thời gian qua, ở Việt Nam, khu vực DNNVV đóng góp Ngân sách nhà

nước tăng đều đặn qua các năm. Ví dụ như năm 2001 tỉ lệ đóng góp vào ngân sách

nhà nước của các DNNVV là 6,4%, năm 2002 là 7,2%. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu

22

tư, tính đến khoảng giữa năm 2008, tỉ lệ đóng góp này là khoảng 17,6%. (cụ thể

trong bảy tháng đầu năm 2008, các DNNVV nộp ngân sách 5.721 tỷ đồng, tính bình

quân số nộp ngân sách là 48 triệu đồng/doanh nghiệp). Chúng ta có thể tham khảo

sự đóng góp vào ngân sách của các DNNVV ở một khía cạnh khác, theo thông tin

từ Tổng cục thuế, nếu giảm 30% thuế thu nhập cho các DNNVV vào năm 2009 thì

ngân sách nhà nước sẽ thất thu 20.000 tỷ đồng, một con số rất đáng kể.

1.2.5 Góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, các vấn đề xã hội:

Ngoài việc đóng góp cho sự phát triển kinh tế vai trò của các DNNVV có ý nghĩa

then chốt nữa là nó tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo thu nhập ổn định

cải thiện cuộc sống của người lao động. DNNVV tạo ra nhiều việc làm mới, giảm

áp lực về việc làm và thất nghiệp cho xã hội. Tại Hoa Kỳ những doanh nghiệp nhỏ

thành công có vai trò thiết yếu đối với việc duy trì sự năng động trong nền kinh tế

Hoa Kỳ. Những con số nêu ra dưới đây tự nó đã nói lên tất cả: 99% doanh nghiệp

Hoa Kỳ có quy mô nhỏ; Các doanh nghiệp nhỏ tạo ra khoảng 75% công ăn việc làm

mới trong nền kinh tế Hoa Kỳ mỗi năm; Các doanh nghiệp nhỏ chiếm 99,7% lực

lượng sử dụng lao động; Các doanh nghiệp nhỏ chiếm 50,1% lực lượng lao động tư

nhân. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các DNNVV ở các thành phố, địa phương, các

vùng nông thôn góp phần giải quyết vấn đề lao động dôi dư, nhàn rỗi trong xã hội

và ổn định kinh tế - xã hội. Theo thống kê, có tới 90% việc làm mới được tạo ra từ

khu vực này, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển đồng đều giữa các vùng, khu

vực trong cả nước. Còn tại Việt Nam DNNVV hoạt động trong nhiều ngành nghề,

phân bố khắp các địa phương trong toàn quốc, yều cầu về trình độ của người lao

động ở mức trung bình do đó có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giải quyết

vấn đề việc làm. Xét trên bình diện chung của các quốc gia, các DNNVV sử dụng

khoảng 50-60% lực lượng lao động, riêng ở Việt Nam các DNNVV cung cấp việc

làm cho hơn 50% số lao động làm việc trong doanh nghiệp và mỗi năm tăng thêm

nửa triệu lao động. Đây cũng chính là cơ sở cho sự đa dạng hóa, tăng thu nhập và

nâng cao mức sống của dân cư.

23

Nhìn chung, từ một số vai trò nên trên có thể kết luận rằng các DNNVV có một

vai trò rất lớn trong nền kinh tế, giúp nền kinh tế vận hành hiệu quả linh hoạt hơn,

cũng như giúp giảm áp lực về thất nghiệp và giúp tăng nguồn thu cho ngân sách

nhà nước. Tuy nhiên, hiện tại DNNVV chưa phát triển đúng với tiềm năng vốn có

của nó, vai trò của các doanh nghiệp này vẫn chưa được phát huy một cách tối đa.

Nguyên nhân của tình trạng này là do những khó khăn mà các doanh nghiệp này

gặp phải trong quá trình kinh doanh, đặc biệt là khó khăn về nguồn vốn đề mở rộng

sản xuất, đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường v.v… Phần nghiên cứu trong bài

này chủ yếu tập trung vào việc phân tích và đưa ra những những giải pháp để giúp

các DNNVV tiếp cận nguồn vốn chính thức dễ dàng hơn từ đó giúp doanh nghiệp

hoạt động hiệu quả hơn, qua đó phát huy tối đa vai trò của mình trong nền kinh

tế.

1.3 Nguồn vốn kinh doanh và các hình thức huy động vốn của các DNNVV

trong nền kinh tế thị trường.

1.3.1 Nguồn vốn kinh doanh.

Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn sau:

- Vốn chủ sở hữu

- Vốn vay

- Lợi nhuận chưa phân phối.

Vốn kinh doanh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp

nói chung, cũng như riêng đối với các DNNVV, có thể nói vốn chính là máu trong

cơ thể doanh nghiệp.

1.3.2 Các hình thức huy động vốn của DNNVV trong nền kinh tế thị

trường.

Như đã trình bày ở trên về các nguồn của vốn kinh doanh, trong đó hai nguồn

quan trọng chính hình thành nên nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp là vốn

chủ sở hữu và vốn vay. Tương ứng với hai nguồn này, có một số hình thức huy

động như sau:

24

1.3.2.1. Đối với vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp có thể sử dụng những hình

thức huy động như sau:

+ Huy động vốn góp ban đầu của các chủ sở hữu: đây là nguồn vốn ban đầu do

chủ sở hữu doanh nghiệp trực tiếp đầu tư khi thành lập doanh nghiệp. Tùy theo hình

thức sở hữu của doanh nghiệp mà nguồn vốn này được hình thành theo các hình

thức khác nhau. Nếu doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước thì nguồn vốn này sẽ do

nhà nước cấp, nếu doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân thì nguồn vốn do chính tổ

chức, cá nhân này đóng góp, còn trường hợp doanh nghiệp thuộc hình thức sở hữu

tập thể thì sẽ do các thành viên cổ đông đóng góp. Ở nước ta hiện nay từ khi luật

doanh nghiệp 2005 được ban hành thì có nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và

tương ứng với mỗi loại hình doanh nghiệp sẽ có cách thức huy động vốn tương ứng

phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp, nhưng nhìn chung đa số các doanh nghiệp

được thành lập với số vốn hình thành dựa trên sự đóng góp của các bạn bè, người

thân trong gia đình…

+ Huy động vốn từ lợi nhuận sau thuế: đây cũng là một hình thức huy động khá

phổ biến ở các doanh nghiệp. Hình thức này chính là lợi nhuận từ hoạt động kinh

doanh sẽ được giữ lại một phần, sau đó sẽ tái đầu tư, qua đó làm tăng nguồn vốn

chủ sở hữu. Hoặc, bên cạnh việc giữ lại một phần lợi nhuận, doanh nghiệp có thể

tiến hành việc phân chia lợi nhuận cho các cổ đông dưới dạng cổ phiếu, phương

pháp này cũng làm tăng vốn chủ sở hữu cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế hiện

nay, đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, đây là một kênh huy động cực kỳ

quan trọng, nhưng với DNNVV thường tỉ suất lợi nhuận không cao, lại bị hạn chế

bởi quy mô nên hình thức huy động này vẫn chưa thực sự mang lại hiệu quả

cao.

+ Huy động nguồn vốn bổ sung bằng cách kết nạp thêm thành viên mới: Về

bản chất hình thức này cũng giống như vốn đóng góp ban đầu của các chủ sở hữu.

Nghĩa là khi cần thêm nguồn vốn để hoạt động kinh doanh hoặc để tăng qui mô

doanh nghiệp thì các doanh nghiệp có thể tiến hành việc huy động vốn thông qua

hình thức kêu gọi thêm nhà đầu tư mới. Ở các DNNVV tại Việt Nam hiện nay, hình

25

thức này cũng vẫn chưa được phát huy mạnh mẽ, nghĩa là chưa có sức hút với các

nhà đầu tư. Các thành viên mới thường vẫn là những người có quan hệ quen biết từ

trước, bạn bè hay người thân. Về phía doanh nghiệp, lí do có thể được lí giải là hình

thức huy động này có thể dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư cũ phải phân chia quyền

kiểm soát doanh nghiệp và lợi ích kinh tế cho nhà đầu tư mới. Về phía các nhà đầu

tư, lí do vì sao các DNNVV kém sức hút được lí giải là các doanh nghiệp này chưa

có sự minh bạch về tài chính, chưa có kế hoạch, phương án kinh doanh cụ thể …

chúng ta sẽ đề cập đến những giải pháp thiết thực tình trạng này ở phần sau.

+ Huy động vốn bằng cách hợp nhất, sát nhập doanh nghiệp lại với nhau: Về

cơ bản, hình thức này thường được diễn ra giữa các doanh nghiệp có sự gẫn gũi về

địa lý, lĩnh vực kinh doanh, hoặc là giữa các doanh nghiệp giữ vai trò là những mắt

xích liền nhau trong chuỗi hình thành giá trị chung của nền kinh tế. Việc sát nhập

ngoài việc làm tăng nguồn vốn sở hữu cho mỗi doanh nghiệp, còn giúp gia tăng sức

mạnh cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn hơn, các đối thủ nước ngoài v..v..tuy

nhiên ở Việt Nam hiện nay hoạt động hợp nhất, sát nhập giữa các doanh nghiệp vẫn

chưa phát triển mạnh. Nguyên nhân của vấn đề này là do: hoạt động mua bán sát

nhập doanh nghiệp là hoạt động bình thưòng đối với các nước trên thế giới song đối

với Việt Nam điều này cón khá mới nên tâm lý của những người trong cuộc chưa

sẵn sàng.

+ Nguồn vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm: Đối tượng tiếp cận vốn mạo hiểm hầu

hết đều là các công ty đang trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát

triển, thị phần nhỏ, thương hiệu chưa có. Các doanh nghiệp mới thành lập hoặc các

doanh nghiệp có qui mô nhỏ rất khó khăn khi tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của

ngân hàng và các tổ chức tín dụng, bởi vì mức rủi ro không thu hồi vốn rất cao. Bỏ

vốn ra, các nhà đầu tư mạo hiểm đồng thời thực hiện việc hỗ trợ điều hành các công

ty này.

Các nhà đầu tư mạo hiểm có khuynh hướng đầu tư vào các ngành kinh doanh

đặc thù, hoặc nhắm vào những công ty mới thành lập, còn thiếu vốn và kinh nghiệm

quản lý hoặc dùng quỹ mạo hiểm để vực dậy các công ty đang đứng trước nguy

26

cơ phá sản. Theo đúng như tên gọi, mục tiêu của các quỹ này thường hướng vào

những dự án có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm những khoảng lợi nhuận cao hơn mức

thông thường. Nếu nhìn vào đối tượng của loại quỹ này thì có thể thấy rằng các

DNNVV hoàn toàn có đủ tiêu chuẩn để lọt vào danh sách được nhận đầu tư. Nhưng

trong thực tế, các quỹ đầu tư có thể vẫn là một khái niệm còn khá mới ở Việt Nam

và các quỹ này khi đầu tư vào Việt Nam thường thích đầu tư vào các công ty tương

đối thành công, đã qua giai đoạn khởi nghiệp cần các nguồn vốn đầu tư dài hạn để

mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh. Các DNNVV thường

ít quan tâm đến nguồn đầu tư này hoặc giả nếu có quan tâm thì họ cũng không biết

được cách thức marketing cho chính mình để có thể nhận được các khoản đầu tư.

- 1.3.2.2. Đối với nguồn vốn vay: đặc điểm đáng lưu ý đối với nguồn huy động

vốn này là doanh nghiệp phải cam kết thanh toán nợ (thường kèm với lãi suất) cho

chủ sở hữu trong một khoảng thời gian nhất định. Nguồn vốn này có thể được huy

động bằng những hình thức như sau:

+ Huy động từ nguồn tín dụng của ngân hàng: Vốn vay ngân hàng là một trong

những nguồn vốn mang ý nghĩa sống còn với nhiều doanh nghiệp. Trong quá trình

hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là với các DNNVV thường

xảy ra tình trạng thiếu hụt vốn. Để bù đắp khoảng thiếu hụt này doanh nghiệp cần

có sự bổ sung nguồn vốn từ bên ngoài, vay ngân hàng là một cách giải pháp mà

doanh nghiệp thường sử dụng nhất. Với vai trò là một người cho vay trong nền kinh

tế, ngân hàng sẵn sàng cấp cho doanh nghiệp các khoản tín dụng cần thiết nếu các

doanh nghiệp đáp ứng được các điều kiện, yêu cầu được đưa ra từ phía ngân hàng.

+ Huy động từ nguồn tín dụng thương mại: Nguồn vốn này hình thành trong

quan hệ mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với nhau. Đây là một hình thức tín

dụng ngắn hạn, thường được thực hiện giữa các doanh nghiệp khi có sự tín nhiệm

và thiết lập được quan hệ đối tác lâu dài trong kinh doanh. Hoạt động tín dụng

thương mại này có nhiều ý nghĩa trong nền kinh tế, nhất là đối với các DNNVV sự

chiếm dụng vốn sẽ giúp cho chu kỳ kinh doanh và luân chuyển vốn của các doanh

nghiệp không bị chững lại. Ở các nước có nền tài chính phát triển mạnh thì các công

27

cụ như thương phiếu, hối phiếu được mua bán trên thị trường tài chính một cách

khá dể dàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh thu hồi vốn đưa vốn vào phục vụ

sản xuất kinh doanh quay nhanh vòng vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên đối với

Việt Nam mặc dù luật về thương phiếu, hối phiếu đã có nhưng do thị trường tài

chính phát triển còn non kém nên các doanh nhgiệp chưa thể sử dụng công cụ này

để có thể đáp ứng nhu cầu trong hoạt động kinh doanh..

+ Huy động từ hoạt động cho thuê tài chính: Theo quy định của pháp luật Việt

Nam thì một giao dịch được gọi là thuê tài chính phải thoả mãn một trong những

điều kiện:

- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu

tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên.

- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua

tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm

mua lại;

- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để

khấu hao tài sản thuê;

- Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất

phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng

Do đó cho thuê tài chính thực ra là một hình thức cấp tín dụng trung dài hạn. Khi

một hợp đồng thuê tài chính được ký kết, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp được

cấp một khoản vốn. Khoản vốn này có được do doanh nghiệp không phải bỏ tiền

hoàn toàn ra mua tài sản mà vẫn có tài sản sử dụng lâu dài cho hoạt động sản xuất

kinh doanh. Vì đáng lẽ ra, có thể doanh nghiệp đã phải đi vay một số vốn tương

đương giá trị tài sản trong hợp đồng thuê trả cho công ty cho thuê tài chính bao gồm

cả vốn gốc và lãi.

Trong nhiều trường hợp, cho thuê tài chính có thể là một lựa chọn tối ưu cho

các DNNVV khi có nhu cầu cấp thiết về vốn, nhưng ở Việt Nam hiện nay, hình

thức này vẫn chưa thực sự phát triển mạnh, nhất là ở khu vực các DNNVV. Thực

tế cho thấy việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị ở các doanh nghiệp sản xuất

28

là một đòi hỏi bức thiết trong bối cảnh hội nhập để nâng cao chất lượng sản phẩm

cũng như năng suất lao động, giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

Phần lớn các trang thiết bị của nhiều doanh nghiệp đã lạc hậu so với các nước tiên

tiến. Hiện nay lượng vốn dài hạn đầu tư cho các dự án này ở các doanh nghiệp Việt

nam là hết sức khiêm tốn. Kênh tài trợ quen thuộc vẫn là đi vay ở các ngân hàng

thương mại. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới

ra đời không có đủ tài sản đảm bảo cũng như uy tín thì việc tiếp cận nguồn vốn vay

ngân hàng rất là khó khăn. Trong những trường hợp như vậy, đi thuê tài chính có

thể là một giải pháp tối ưu.

- Huy động từ nguồn vốn ưu đãi của nhà nước: các nguồn vốn ưu đãi của nhà

nước hiện nay được cung cấp cho các doanh nghiệp thông qua các Quỹ hỗ trợ phát

triển, quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Các quỹ này là các tổ chức tài chính của Nhà nước,

được thành lập với mục đích cung cấp tín dụng ưu đãi cho các dự án vay vốn đầu tư

nếu đáp ứng một số điều kiện nhất định. Dĩ nhiên đây cũng là một nguồn cung vốn

quan trọng đối với các DNNVV tuy nhiên các quỹ này chỉ ra đời và hoạt động

trong một khoảng thời gian nhất định, thường chỉ cấp tín dụng cho những dự án vay

vốn nằm trong danh mục ưu tiên, cộng thêm một số điều kiện bắt buộc mà không

phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được do đó tiếp cận được với nguồn vốn này

thật sự không phải là điều dễ dàng.

- Huy động từ nguổn chiếm dụng hợp pháp: doanh nghiệp có thể tạm thời chiếm

dụng trong một thời gian ngắn các quỹ như: tiền lương, bảo hiểm xã hội, tiền thuế

chưa nộp, các khoản thanh toán khác… để làm nguồn vốn đáp ứng nhu cầu kinh

doanh. Tuy nhiên, việc chiếm dụng này nhất thiết phải diễn ra trong thời gian ngắn,

phải lưu ý đến khả năng thanh toán kịp thời các khoản bị chiếm dụng khi đến hạn,

các quy định của pháp luật mà doanh nghiệp phải tuân thủ như thời hạn nộp thuế,

xử phạt.v.v… Nguồn cung vốn này có thể giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn

trước mắt nhưng nhất quyết không được lạm dụng hình thức chiếm dụng vốn này.

Doanh nghiệp có thể sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro nếu không hoàn trả kịp thời

các quỹ này, ví dụ như sự phản đối từ phía nhân viên, qui định xử phạt của pháp

29

luật. Hơn nữa, điều đáng nói là ở các DNNVV, các quỹ này thường rất nhỏ, có

nhiều doanh nghiệp chỉ thành lập các quỹ mang tính hình thức, mang tính đối phó.

Tóm lại, ta có thể thấy rằng DNNVV có nhiều nguồn để huy động vốn

nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh, tuy nhiên trên thực tế hiện nay thì

DNNVV lại đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn đó

đặc biệt là các nguồn vốn chính thức từ các tổ chức tín dụng. Nguyên nhân thì có

nhiều như: từ phía ngân hàng, từ phía doanh nghiệp…..

1.4 Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới về việc hỗ trợ DNNVV tiếp

cận các nguồn vốn vay để phát triển sản xuất kinh doanh.

1.4.1 Malaysia:

Ngân hàng Negara Malaysia thiết lập Chương trình hỗ trợ bão lãnh tín dụng giá

trị 2 tỉ ringit cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Malaysia. Theo chương trình này

mỗi doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ được cấp một khoảng tín dụng trị giá 500.000

ringit trong thời hạn 5 năm. Tổ chức bão lãnh tín dụng Berhad (CGC) sẽ bảo lãnh

80% giá trị của khoản vay này. Các doanh nghiệp hoàn toàn không phải chịu một

mức phí bảo lãnh nào cả, tất cả sẽ được ngân hàng Negara gánh chịu. Khoản tín

dụng được cấp lần này là tín dụng mới mà phải được sử dụng cho những mục đích

kinh doanh, ví dụ như bổ sung vốn lưu động, đầu tư cho các dự án.

Các doanh nghiệp có thể tiếp xúc trực tiếp với chương trình hỗ trợ này tại bất

kỳ ngân hàng thương mại Hồi giáo nào, E bank, Agrobank, Bank Rakyat,

Eximbank, và Bank Simpanan Nasioanal.

Chương trình này được bắt đầu từ ngày 3 tháng Hai năm 2009 và kéo dài đến 31

tháng Mười Hai năm 2009 hoặc cho đến khi hạn mức 2 tỉ ringit được tận dụng

hết.

Một số chi tiết cơ bản của chương trình:

- Mức bảo lãnh được cung cấp bởi CGC: 80%, 20% rủi ro còn lại sẽ được các

tổ chức tài chính tham gia cấp tín dụng tự gánh chịu

- Mức phí bảo lãnh: các doanh nghiệp hoàn toàn không phải chịu một mức phí bảo

lãnh nào.

30

- Lãi suất: được quyết định bởi các tổ chức tài chính tham gia

- Nguồn cấp tín dụng: từ các tổ chức tài chính tham gia.

- Mục đích sử dụng: vốn lưu động, đầu tư dự án, không được sử dụng để bù đắp

những khoản tín dụng đang tồn tại

- Tiêu chuẩn được cấp tín dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa:

+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa có vốn chủ sở hữu thấp hơn 3 triệu ringit (định nghĩa

về doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Malaysia như sau, đối với doanh nghiệp hoạt động

trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ liên quan đến sản xuất), doanh thu hằng năm

không quá 25 triệu ringit, không quá 150 lao động toàn thời gian. Đối với doanh

nghiệp hoạt động trong nông nghiệp hoặc dịch vụ liên quan đến nông nghiệp, có

doanh thu hằng năm không quá 5 triệu ringit, và số lao động không nhiều hơn 50

lao động toàn thời gian.)

+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa do người Malaysia sở hữu, ít nhất là 51% cổ phần, đang

hoạt động tại Malaysia

+ Những doanh nghiệp nhỏ và vừa bị tác động tiêu cực bởi suy thoái kinh tế hiện

nay.

- Thời hạn cấp tín dụng tối đa: 5 năm

- Hạn mức tín dụng: 500.000 ringit trên một doanh nghiệp, không có mức tổi thiểu.

Hạn mức này được hiểu là hạn mức được mà một doanh nghiệp nhận được và được

bảo lãnh, nghĩa là các doanh nghiệp có thể xin cấp tín dụng ở nhiều tổ chức khác

nhau, miễn là nằm tổng tín dụng được cấp không được vượt quá 500.000 ringit.

- Thời hạn xin cấp tín dụng: về thời gian sẽ kéo dài từ 3/2/2009 – 31/12/2009 hoặc

sớm hơn nếu mức 2 tỉ ringit được cấp hết cho các doanh nghiệp, việc tiếp tục của

chương trình này sau đó sẽ được xem xét.

- Những tổ chức tài chính tham gia:

+ Tất cả các ngân hàng thương mại

+ Tất cả các ngân hàng Islamic ( Hồi Giáo)

+ Agrobank

+ Bank Rakyat

31

+ SME Bank

+ Exim Bank

+ Bank Simpanan Nasional

Nếu bị từ chối ở một tổ chức tài chính nào đó, các doanh nghiệp có thể xin cấp

tín dụng từ một tổ chức khác, bởi vì các tổ chức tín dụng tham gia chương trình này

được tùy ý đưa ra lãi suất và tiêu chí xét duyệt hồ sơ khác nhau.

1.4.2 Đài Loan:

Những chính sách nhằm hỗ trợ các DNNVV ở Đài Loan được chia ra làm năm

nhóm chính sách chính:

1. Tạo một môi trường tốt nhất cho sự phát triển của các DNNVV.

2. Khuyến khích sự đổi mới, cải tiến và sự khởi đầu những hoạt động kinh doanh

mới. Tăng những nguồn đầu tư tài chính khả dụng cho sự cải tiến cũng như để nâng

cao cơ hội thành công cho những doanh nghiệp mới khởi động hoạt động kinh

doanh.

3. Cung cấp những hướng dẫn về mặt quản trị cho các DNNVV.

4. Tăng cường tính cạnh tranh về mặt công nghệ hiện đại của các DNNVV của Đài

Loan.

5. Tăng cường sức mạnh của những cơ chế hỗ trợ vốn.

Chính sách về tăng cường sức mạnh của những cơ chế hỗ trợ vốn cho các DNNVV

ở Đài Loan được thực hiện như sau:

- Tăng cường sức mạnh cho những hệ thống tài chính và kế toán để nâng cao

khả năng của các DNNVV trong việc tìm kiếm tài trợ. Chính phủ Đài Loan nhận

thức một cách rõ ràng khó khăn trong việc tìm kiếm, đảm bảo sự hỗ trợ vốn (chủ

yếu là do sự giới hạn của những kênh hỗ trợ vốn khả dụng) là một trong những khó

khăn chủ yếu mà các DNNVV phải đối mặt trong quá trình hoạt động kinh doanh.

Rất nhiều DNNVV ở Đài Loan không có một hệ thống tài chính và kế toán hợp lý.

Và chính từ thất bại này đã dẫn đến việc nhận thức được tầm quan trọng của những

hệ thống tài chính và kế toán hợp lý, đúng đắn. Trong khi tiếp tục nâng cao chất

lượng các chức năng của hệ thống hướng dẫn về mặt tài chính cho các DNNVV và

32

theo dõi tình trạng hiện thời của những sự cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp

này và các vấn đề kèm theo, chính phủ cũng sẽ cần phải thực hiện việc tích hợp,

phối hợp những nguồn lực thuộc về những tổ chức khác nhau có liên quan trong

việc cung cấp những chỉ dẫn cho khu vực này, để đảm bảo rằng các DNNVV có thể

nhận được các chỉ dẫn cả trước và sau khi tìm kiếm hỗ trợ tài chính và do đó cũng

góp phần tạo ra một mối quan hệ cộng tác lâu dài giữa các ngân hàng và các

DNNVV. Một sự lựa chọn cũng sẽ được tiến hành (giống như ví dụ về Hiệp hội kế

toán châu Âu), chính là việc phát triển những tiêu chuẩn kế toán phù hợp với sự sử

dụng của các DNNVV điều này sẽ giúp các DNNVV thiết lập những hệ thống tài

chính và kế toán hợp lý, giúp các doanh nghiệp này tiến hành việc tìm kiếm hỗ trợ

vốn thông qua nhiều kênh khác nhau một cách dễ dàng hơn.

- Mở rộng khả năng của quỹ bảo đảm tín dụng cho các DNNVV để tạo ra những

kênh hỗ trợ tài chính rộng rãi hơn, khả dụng hơn đối với các DNNVV. Mức độ rủi

ro cao mà các tổ chức tài chính phải gánh chịu khi cấp vốn cho các DNNVV đã dẫn

đến việc các tổ chức này đưa ra những điều khoản nghiêm ngặt hơn với các doanh

nghiệp này (so với những công ty, tập đoàn lớn). Do đó, mà chi phí cho việc tìm

kiếm cũng như đảm bảo sự chắc chắn của những nguồn hỗ trợ vốn đối với các

DNNVV cũng cao hơn. Do đó, mà có một nhu cầu cấp thiết đối với chính phủ về

việc cung cấp nhiều hướng dẫn hơn ở khu vực này, để có thể giúp các DNNVV tìm

được những sự đảm bảo về mặt tín dụng mà họ cần khi đi vay vốn. Thông qua việc

tích hợp cơ sở dữ liệu về tín dụng, sẽ giúp cho việc xây dựng một mô hình đánh giá,

xếp loại bảo lãnh tín dụng mà có thể được sử dụng để tăng cường tính hiệu quả của

những sự cung cấp dịch vụ về tín dụng. Chính phủ cũng xem xét việc cung cấp

những sự bảo đảm tín dụng trực tiếp để giúp các DNNVV hoạt động trong những

ngành công nghiệp mới nổi, những ngành công nghiệp trình độ cao để họ có thể tìm

được sự tài trợ vốn cần thiết. Cùng lúc đó, sự cộng tác ở khu vực Công nghiệp-các

trường Đại học và những mô hình cụm công nghiệp có thể được sử dụng làm đòn

bẩy để phối hợp sự hướng dẫn, bảo đảm tín dụng và cung cấp tài chính vào một thể

thống nhất.

33

- Phân bổ 10 tỉ đô la Đài Loan từ Ngân sách phát triển quốc gia để đầu tư vào những

DNNVV với những tiềm năng phát triển cao. Chính phủ cũng có thể xem xét việc

sử dụng quỹ Đầu tư Phát triển quốc gia để cung cấp hỗ trợ tài chính cho những

doanh nghiệp có tiềm năng phát triển ấn tượng và cho những doanh nghiệp tiến

hành đầu tư ở những quốc gia có quan hệ mật thiết với Đài Loan. Giả định rằng một

khoảng đầu tư 10 tỉ đô la Đài loan trên doanh nghiệp, nó sẽ có thể cung cấp hỗ trợ

cho 1.000 doanh nghiệp DNNVV.

- Thiết lập cơ chế hướng dẫn tái cấu trúc để giúp các DNNVV có tiềm năng để các

doanh nghiệp này có thể tự quay trở lại thị trường “bằng chính đôi chân của mình”.

Thực tế, nhiều DNNVV mà đã từng trải qua những khó khăn về tài chính chính là

những doanh nghiệp có nhiều tiềm năng phát triển to lớn. Nếu sự trợ giúp không

được cung cấp cho những doanh nghiệp thuộc kiểu này, trong dài hạn sẽ có tác

động vô cùng tiêu cực lên chuỗi giá trị trong ngành công nghiệp lên sự tạo việc làm

và sự phát triển của thị trường vốn cũng như toàn bộ nền kinh tế. Sự cung cấp

những chỉ dẫn tài chính liên tục, mang tính thời điểm cao có thể giúp những doanh

nghiệp tiếp tục tăng trưởng lợi nhuận và tạo việc làm.

1.4.3 Thái Lan:

Trong khu vực Đông Nam Á, Thái Lan là quôc gia được xem là có nhiều chính

sách hỗ trợ phát triên cho các DNNVV hiệu qua nhât. Hiện nay ở Thái Lan có

khoang 1,99 triệu DNNVV, chiêm khoang 99% sô doanh nghiệp ở Thái Lan, vì vậy

việc hô trợ nhóm doanh nghiệp này được xem là ưu tiên hàng đâu. Chinh phủ Thái

lan đưa ra các biện pháp hỗ trợ cho DNNVV bao gồm 6 nhóm chính:

+ Hô trợ về mặt tài chính.

+ Nguồn nhân lực.

+ Hệ thông shindan.

+ Khuyên khich sự phát triên của các DNNVV ở các địa phương.

+ Phân loại công nghiệp.

+ Cải thiện môi trường hoạt động kinh doanh.

34

Một chinh sách rât đáng học tập ở Thái Lan đó chính là việc thành lập riêng một

ngân hàng dành cho các DNNVV, “Ngân hàng phát triên DNNVV Thái Lan” (SME

development bank of thailand). Theo một báo cáo được thực hiện bởi ông Pongsak

Chewcharat, chủ tịch của ngân hàng phát triên DNNVV Thái Lan, ta có thê tham

khao một sô thông tin vê ngân hàng này như sau:

- Ngân hàng phát triên DNNVV Thái Lan được thành lập vào năm 2002, chịu

sự giám sát của bộ tài chính và bộ công nghiệp Thái Lan. Trong đó bộ tài chinh năm

quyên sở hữu là 97%. Tông giá trị tài san tinh đên 31/12/2006 là khoang 1,7 tỉ

USD, tông dư nợ là 1,26 tỉ USD, đa có khoang 15.195 doanh nghiệp vay vôn tại

ngân hàng, với khoản vay trung bình là 100.000 USD, ngân hàng có 19 văn phòng ở

các vùng trong nước và 90 trung tâm dịch vụ.

- Vai trò của ngân hàng này được xác định rõ là nhằm đê:

+ Xây dựng một nên kinh tê cơ sở (dựa vào nguôn lực trong nước, nhât

là nguồn lực từ các DNNVV).

+ Nâng cao tính cạnh tranh và tạo điều kiện cho một sự phát triên bên vững.

+ Thực hiện những chương trình hô trợ tài chính dựa trên cơ sở là các chính

sách của chính phủ.

- Một sô chương trình hoạt động là:

+ Chương trình cho vay OTOP (one town, one product).

+ Những chương trình vôn hoá tài san. Chương trình OTOP nhằm hô

trợ và khuyên khich các nhóm cá nhân ở các địa phương phát triên hoạt động kinh

doanh, tông nguôn vôn phân bô cho dự án này vào khoang 142,8 triệu USD, mức

cho vay tôi đa tinh trên một người là 28,571 USD, chương trình này cũng nhận

được sự hô trợ từ phia chinh phủ với muc đich khuyên khich và giới thiệu san phâm

ở thị trường nội địa, cũng như quôc tê. Những chương trình vôn hoá tài san là nhằm

xem xét lại tài san của những người có thu nhập thâp, xác định những tài san hữu

hình, vô hình có thê như vật thê châp nêu các câu trúc vay vôn được thiêt lập,

những cơ sở hạ tâng kinh tê được thiêt kê đê có thê cho phép việc thê châp được

thực hiện, cung câp những khoan vay đê băt đâu công việc kinh doanh hoặc câp vôn

35

kinh doanh. Những thành tô chinh bao gôm: nguôn chủ yêu là những tài san được

đăng ký, nghĩa là quyên cho thuê nơi bán thực phâm, hoặc địa điêm cho những cửa

hàng bán lẻ. Những dự án “thê châp hóa” máy móc, máy móc được sử dung như tài

san thê châp, những đăng ký máy móc chủ yêu được thiêt lập bởi bộ công nghiệp,

những dự án “thê châp hóa” tài san tri tuệ, như khuôn mâu, thương hiệu, ban quyên

được sử dung như tài san thê châp.

Hệ thông shindan, đây là hệ thông nhằm đánh giá doanh nghiệp băt nguôn

từ Nhật Bản từ năm 1960, đôi tượng chủ yêu là các DNNVV, muc đich nhằm giúp

đỡ các doanh nghiệp này có những đánh giá chinh xác vê “sức khoẻ tài chinh” của

mình, các kêt qua chân đoán này cũng được lây làm cơ sở đê các ngân hàng, tô chức

tài chính, hoặc các chương trình tài trợ của chính phủ thực hiện các chương trình

cho vay, hô trợ tài chinh. “shindan” theo tiêng Nhật nghĩa là “chân đoán”, những

chuyên gia đánh giá ở hệ thông shindan được gọi là shindanshi, đây là đội ngũ

chuyên gia đa được chuân hóa. Hệ thông shindan ở Thái Lan cũng hoạt động tương

tự với những chức năng trên:

- Xác định hệ thông tiêu chuân tài chinh.

- Thê hiện những tiêu chuân sức khoẻ tài chinh cho các tô chức ngân hàng.

- Cung câp những chỉ dân hữu ich, thiêt thực cho các doanh nghiệp. (Việc tiên hành

điêu tra, xác định tình hình tài chinh ở các doanh nghiệp được thực hiện miên

phí.).

Một chương trình hoạt động gần đây nhất, mang tính thực tế nhằm giúp đỡ các

DNNVV trong cuộc suy thoái kinh thế toàn cầu, đó chính là chương trình “EXIM 4

SMEs” (đây là một bộ phận chuyên trách của ngân hàng xuất nhập khẩu Thái Lan-

EXIM THAILAND) được thành lập nhằm gia tăng tính cạnh tranh của những

DNNVV hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu với giá trị xuất khẩu hàng năm đạt đến

100 triệu bạt đồng thời giảm những lo lắng của các doanh nghiệp này về việc chi trả

chậm hoặc không chi trả của những đối tác nước ngoài. EXIM 4 SMEs là một

sự hỗ trợ mới thêm vào nhóm những sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu (EXIM

surance) với mục đích nâng cao sự tự tin của những DNNVV của Thái Lan trong

36

việc bắt đầu hay mở rộng hoạt động kinh doanh xuất khẩu trong những thị trường

truyền thống hoặc thị trường mới bất chấp những rủi ro tăng cao về sự không chi trả

từ những đối tác nước ngoài được gây ra bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu. Với

sự ra đời của bộ phận mới này, ngân hàng xuất nhập khẩu Thái Lan sẽ giúp kiểm tra

thông tin tín dụng của những đối tác nước ngoài và bảo đảm khả năng chi trả của

họ. Ngân hàng cũng sẽ đề xuất những thời hạn chi trả mang tính cạnh tranh cho

những nhà xuất khẩu và sẽ tiến hành đền bù trong trường hợp không có sự chi trả

sau khi hàng hóa đã được vận chuyển. Hơn nữa, chính sách EXIM 4 SMEs có thể

được sử dụng như là một công cụ thế chấp cho một khoản vay từ những tổ chức tài

chính như một quyền được đòi thanh toán có thể chuyển giao đến ngân hàng cho

vay. “EXIM 4 SMEs là một sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu mang lại nhiều

lợi ích cho các DNNVV ở Thái lan với một phí suất bảo hiểm thấp hơn 35% so với

những chính sách thông thường khác. Các doanh nghiệp có thể rất dễ dàng tiếp cận

với sản phẩm này trong khoảng thời gian một tuần. Phạm vi bảo hiểm lên đến 90%

tổn thất và bắt đầu từ ngày ký kết hơp đồng. Trong khi tung ra sản phẩm mới này,

EXIM Thái Lan cũng tổ chức một hội thảo chuyên ngành mang tên:

“EXIMSurance: Thai Exporters’ Way to Survive” để trang bị cho các nhà xuất khẩu

Thái Lan, đặc biệt là các DNNVV kiến thức và sự hiểu biết về những rủi ro trong

thương mại quốc tế và quản trị rủi ro. Trong bối cảnh nhiều biến đổi hiện nay, các

nhà xuất khẩu Thái Lan cần phải có sự điều chỉnh về sản xuất và những chiến lược

marketing của mình, đồng thời áp dụng EXIMSurance như một công cụ quản lý rủi

ro.

1.4.4 Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.

Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đánh gia cao vai trò quan trọng của

DNNVV cho dù đó là cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật hay các

quốc gia NIC (Đài loan…), hay các nước đang phát triển (Thái lan, Malaysia..).

Mỗi quốc gia có cách làm riêng tùy thuộc vào hoàn cảnh và đặc điểm riêng của từng

nước để hỗ trợ cho khu vực này phát triển. Với tư cách là nước chậm phát triển và

37

đi sau các quốc gia kể trên Việt nam có thể rút ra các bài học kinh nghiệm của các

nước trong việc đề ra các chính sách giúp các DNNVV phát triển.

Nhìn chung các chính sách của các nước tập trung vào một số giải pháp chính

sau:

- Bảo lãnh tín dụng (Malaysia, Đài loan, Nhật, Mỹ…).

- Cải cách hành chính (hầu hết các nước đều thực hiện giải pháp này).

- Thậm chí có quốc gia còn thành lập ngân hàng dành riêng cho DNNVV (Thái lan).

- Thành lập các trung tâm hỗ trợ cho DNNVV (Đài loan).

Việc tham khảo bài học kinh nghiệm từ các nước là cần thiết, tuy nhiên trong

quá trình thực thi các chính sách để hỗ trợ cho DNNVV chính phủ Việt Nam cần

phải nghiên cứu tình hình thực tiễn nền kinh tế của đất nước cũng như là tập quán

kinh doanh của DNNVV của Việt Nam mà đề ra những chính sách hợp lý mang

tính thực tiễn cao từ đó giúp các DNNVV Việt Nam phát triển đóng góp chung cho

sự phát triển của nền kinh tế.

Kết luận chương 1

Chương 1 của luận văn trình bày những vấn đề lý luận cơ bản liện quan trực tiếp

đến đề tài làm nền tảng để phát triển những nội dung tiếp theo của luận văn.

Chương này đã làm bật rõ các vấn đề sau:

- Khái niệm, phân loại và đặc điểm DNNVV.

- Vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế.

- Nguồn vốn kinh doanh và các hình thức huy động vốn của DNNVV trong nền

kinh tế thị trường.

- Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới về việc hỗ trợ DNNVV tiếp cận các

nguồn vốn để phát triển sản xuất kinh doanh.

38

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ KHẢ NĂNG TIẾP CẬN CÁC NGUỒN

VỐN ĐỂ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DNNVV ở VIỆT

NAM.

2.1 Khái quát thực trạng về hoạt động kinh doanh của DNNVV ở VN hiện

nay.

Nhìn chung số lượng các DNNVV gia tăng đáng kể qua các năm, tuy nhiên về

chất lượng thì còn nhiều hạn chế và yếu kém. Đặc điểm chung của các DNNVV

Việt Nam là vốn ít, máy móc công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin, trình độ quản lý

thấp, chủ yếu hoạt động trong các ngành nghề thâm dụng lao động, chi phí cao,

năng suất và hiệu quả thấp, tỷ suất lợi nhuận bình quân không cao…

Hầu hết các DNNVV có quy mô nhỏ, năng lực đảm nhận các đơn hàng lớn còn

hạn chế do đó chưa thể trở thành đối tác của các tập đoàn lớn.

- Về số lượng doanh nghiệp: Đề cập đến hoạt động của các DNNVV, điều đễ nhận

thấy rằng số lượng DNNVV đang có những bước phát triển khá nhanh, hiện tại loại

39

hình doanh nghiệp này chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp hiện có trên toàn

quốc. Bảng sau thể hiện rõ sự sự tăng trưởng vượt bậc về mặt số lượng.

Bang 2.1 Thống kê về số lượng các DNNVV giai đoạn 2000-2009.

Năm Số lượng DNNVV trên toàn quốc 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 14,200 19,800 20,800 26,023 45,126 113,352 192,000 285,000 350,000 446,000

Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư.

Dự tính đến hết năm 2010, số lượng DNNVV ở nước ta sẽ đạt đến mức 500,000

doanh nghiệp.

- Về qui mô vốn: Tuy nhiên, ta thấy rằng tuy có sự tăng trưởng cao về mặt số lượng

doanh nghiệp, mức đóng góp vào GDP (Trung bình 40% mỗi năm), số lao động sử

dụng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động, nhưng về mặt chất phải nói rằng nhóm

doanh nghiệp này vẫn chưa có những bước tiến rõ nét. Theo quy định, DNNVV vốn

không quá 100 tỷ đồng, nhưng xem ra các DNNVV đang hoạt động hiện nay có quy

mô vốn khá thấp, có rất ít doanh nghiệp chạm đến ngưỡng tối đa của quy định này.

Theo một cuộc điều tra quy mô được Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ

Kế hoạch và Đầu tư) tiến hành vào năm 2005 với sự tham gia của hơn 63,000 doanh

nghiệp tại 30 tỉnh thành phía Bắc đã cho thấy, quy mô vốn của các doanh nghiệp

còn nhỏ, gần 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng; gần 75% số doanh

nghiệp có mức vốn dưới 2 tỷ đồng và 90% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ

đồng. Thống kê năm 2006 của Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới cho thấy,

trên cả nước số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ chiếm 41,8%, từ 1 – 5 tỷ chiếm

37,03%, 5 – 10 tỷ chiếm 8,18%. Còn theo kết quả điều tra được công bố tại một hội

thảo do VCCI tổ chức, nếu năm 2000, Về tài sản, năm 2000 DN tư nhân chỉ chiếm

40

9,6%, DNNN là 68,4%, thì tới hết năm 2008, DN tư nhân đã chiếm 38,9%, tỷ lệ tài

sản của các DNNN giảm xuống còn 20,32%, phần còn lại thuộc về khối các DN có

vốn FDI. Năm 2008, DN tư nhân chiếm tới 95,2% về số lượng DN, nhưng chỉ

chiếm có 34% về vốn chủ sở hữu, DNNN chỉ còn chiếm 1,8% về số DN, nhưng

nắm giữ 43% vốn chủ sở hữu. Một điều tra của VCCI cho thấy, có đến 80% DN tư

nhân VN chỉ có quy mô nhỏ. Có 80% số DN vốn kinh doanh dưới mức 5 tỷ VND,

ngoài ra, có 87% số DN tư nhân chỉ sử dụng dưới 50 lao động. Còn theo tính toán

của một nhóm nghiên cứu độc lập do Tổng cục Thống kê thành lập, trong giai đoạn

2001-2009, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của khu vực DN tư nhân tăng từ

4,4% lên 7,1%, DNNN tăng từ 7,9% lên 12,4%. Nhưng tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài

sản của khu vực DN tư nhân lại chỉ từ 1,63% vào năm 2000 lên 1,76% năm 2008.

Trong khi tỷ lệ này của khối DNNN tuy tăng chậm, nhưng cũng từ mức 2,35%

(2000) lên 3,38% (2008)…

- Về số lao động: Về quy mô lao động ở mỗi doanh nghiệp vẫn rất thấp, số doanh

nghiệp dưới 10 lao động chiếm 51,3%, từ 10 - 200 lao động chiếm 44,07%, từ 200 -

300 lao động chỉ chiếm 1,43%. Còn theo điều tra của VCCI thì năm 2000 DN tư

nhân mới sử dụng 9,6% tổng số lao động tại các DN, thì tới năm 2008, tỷ lệ này đã

là 66,06%. Điều này chứng tỏ mặc dù các DNNVV sở hữu ít lao động trong mỗi

doanh nghiệp nhưng xét về tổng số thì loại hình doanh nghiệp dang thu hút một số

lượng lớn lao động của cả nước.

- Về chất lượng nguồn nhân lực: Khả năng quản lý ở các DNNVV còn hạn

chế. Đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý còn nhiều hạn

chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám

đốc DNNVV chưa được đào tạo bài bản về kiến thức quản lý kinh doanh. Các chủ

doanh nghiệp quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu dựa vào kinh

nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức về công nghệ thông tin, phát

triển thương hiệu, chiến lược cạnh tranh.

Cuộc điều tra 63.000 DN của Cục phát triển DNNVV cũng đã cho thấy một kết

quả phản ánh thực trạng nêu trên của loại hình DNNVV là 55,63% số chủ doanh

41

nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh

nghiệp có trình độ học vấn phổ thông các cấp. Trong số các cán bộ quản lý có trình

độ cao đẳng và đại học trở lên, thì cũng ít người được đào tạo có hệ thống kiến thức

kinh tế và quản trị kinh doanh. Cũng có tới 63% doanh nghiệp đang vướng phải

chuyện không tuyển dụng được người tài, 55% khó khăn trong việc giữ chân người

giỏi.

- Về trình độ sử dụng công nghệ: Năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất,

kinh doanh và quản lý ở các DNNVV còn yếu, trang bị máy móc thiết bị, công nghệ

hiện đại rất hạn chế, mức độ đầu tư vào tài sản cố định thấp. Chỉ có khoảng 8% số

doanh nghiệp đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Doanh nghiệp trong nước đang sử dụng công nghệ cũ,

lạc hậu và khả năng cạnh tranh về công nghệ của các doanh nghiệp là rất thấp. Số

doanh nghiệp có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55% doanh

nghiệp có sử dụng mạng nội bộ, số doanh nghiệp có Website là rất thấp chỉ

2,16%.

- Về tình hình phát triển: Không chỉ phát triển nhanh về số lượng, các DNNVV

có nhịp độ tăng trưởng doanh thu cao nhất. Doanh thu của các doanh nghiệp này gia

tăng liên tục qua các năm, tỷ lệ tăng trên 30%/năm. Nếu chỉ tính riêng trong giai

đoạn 2001-2005 thì các DNNVV là nhóm doanh nghiệp có nhịp độ tăng trưởng cao

nhất. Nếu năm 2000, loại hình DN này chiếm 24.6% trong giá trị sản xuất theo giá

trị thực tế của toàn ngành công nghiệp, năm 2003 là 27.5%, năm 2004 tăng lên

28.5% thì đến năm 2005 vọt lên tới 37%.

Nguồn: (Bài viết “Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Lớn nhưng chưa mạnh!” của Thúy

Hải, đăng trên website báo Sài Gòn Giải Phóng, www.sggp.org.vn, ngày

17/06/2008)

Đánh giá mức độ hiệu quả của các DNNVV trên phương diện trả nợ đúng hạn

của các DNNVV có quan hệ tín dụng với các NHTM cho thấy: 23% số doanh

nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả; 73,2% DNNVV hoạt động trung bình và

3,8% doanh nghiệp gặp khó khăn, trong đó có 1,42% doanh nghiệp có khả năng mất

42

vốn. Một số con số thống kê nêu trên, phần nào đã bộc lộ được thực trạng

về hoạt động của các DNNVV ở nước ta.

- Quá trình hoạt động có những thuận lợi như:

+ Có sự quan tâm, ủng hộ của nhà nước. Nhà nước, đã có nhiều chủ trương, chính

sách và hoạt động cụ thể nhằm giúp đỡ và khuyến khích DNNVV phát triển

+ Về phía Ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, các DNNVV từ vị trí khách

hàng tiềm năng ngày càng tiến gần hơn đến vị trí khách hàng trọng tâm

+ DNNVV có khả năng thích nghi cao, linh hoạt biến đổi theo những biến đổi của

thị trường và môi trường kinh tế chung

- Bên cạnh đó DNNVV còn gặp khó khăn trong quá trình hoạt động như:

+ Tiềm lực tài chính, năng lực quản lý, trình độ công nghệ, kinh nghiệm thương

trường, khả năng tiếp cận các nguồn lực của các DNNVV còn hạn chế.

+ DNNVV gặp nhiều khó khăn về đất đai, vốn trong đó khó khăn lớn nhất

là khó khăn về nguồn vốn. Trong báo cáo “đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt

Nam, kết quả điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2005” do CIEM (Viện nghiên

cứu quản lý kinh tế trung ương) kết hợp với nhóm nghiên cứu kinh tế học phát triển,

khoa kinh tế đại học Tổng hợp Copenhagen, đã miêu tả năm khó khăn lớn nhất mà

các DNNVV tại Việt Nam gặp phải như sau: khó khăn về việc thiếu vốn vẫn luôn là

khó khăn lớn nhất tồn tại trong nhiều năm qua. Nguồn vốn sở hữu thấp, các

DNNVV hầu như không đáp ứng được điều kiện để có mặt trên thị trường chứng

khoán. Các doanh nghiệp phải huy động vốn từ nhiều nguồn như: ngân hàng, bản

thân chủ doanh nghiệp, người thân, bạn bè, thậm chí vay nặng lãi.

Xem xét một cách tổng quan về đặc điểm cũng như tình hình hoạt động

cả về thuận lợi và cả khó khăn của DNNVV trong thời gian, có thể đưa kết luận

rằng các doanh nghiệp có sự phát triển đáng kể về mặt số lượng, tuy nhiên về chất

lượng của sự tăng trưởng đó vẫn còn thấp, những điểm yếu, khó khăn gặp phải

trong quá trình hoạt động, đặc biệt là khó khăn về vốn vẫn chưa được khắc phục

một cách rõ nét và hiệu quả.

43

2.2 Thực trạng về khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho hoạt động kinh

doanh của DNNVV ở Việt Nam hiện nay.

2.2.1 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ NHTM.

Một đặc trưng của các DNNVV ở nước ta là khi doanh nghiệp hình thành nguồn

vốn tự có rất ít, vốn để sản xuất kinh doanh chủ yếu là đi vay.

Bang 2.2 Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Nguồn vốn

- Vốn tự có - Vốn vay ngân hàng - Vốn khác Tỷ lệ % 36,25 45,31 18,44

Nguồn: Báo cáo TD NHNN, 2008.

Trong cơ cấu vốn của DNNVV thì tỷ trọng vốn vay ngân hàng lên đến trên 45%,

điều này cho thấy vốn tín dụng ngân hàng giữ một vai trò quan trọng đối với

DNNVV. Ngoài ra DNNVV gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận với vốn tín dụng

ngân hàng. một số khó khăn được tổng hợp như sau:

Bang 2.3 Những kho khăn khi tiếp cận vốn tín dụng NH.

Khó khăn

- Lãi suất vay cao - Thiếu tài sản thế chấp - Vướng mắc về thủ tục hành chính - Khó khăn về lập phương án kinh doanh Tỷ lệ % 73,8 29,6 23,7 19,1

Nguồn: VCCI, 2008

Theo kết quả điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp VN (VCCI) vừa

tiến hành đối với các DNNVV năm 2008 thì có tới 74% số DNNVV cho rằng đang

gặp rất nhiều khó khăn về vốn; tuy nhiên mức độ được đáp ứng đủ nhu cầu về vốn

đê giai quyêt khó khăn lại rât thâp. Thông kê trên cũng tỏ ra khá phù hợp với kêt

quả điều tra của Cục phát triển DNNVV (Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư) tiến hành năm

2008 với sự tham gia của 63.000 DNNVV ở 30 tỉnh phía Bắc. Theo cuộc điều tra

này, 66.95% doanh nghiệp cho biết thường gặp khó khăn về tài chính, hiện có đến

80% lượng vốn cung ứng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là từ kênh ngân hàng. Tuy

44

nhiên, chỉ có 32,38% những doanh nghiệp này có khả năng tiếp cận được nguồn

vốn của các ngân hàng; 35,24% khó tiếp cận và 32,38% không tiếp cận được.

Bang 2.4 Tỷ lệ vốn vay đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp.

Mức độ đáp ứng nhu cầu vốn của DN

- Đúng nhu cầu - Thỏa mãn 75% nhu cầu - Đáp ứng 50% nhu cầu - Chỉ vay được 25% nhu cầu Tỷ lệ % 10,5 26,1 33,5 29,8

Nguồn : VCCI, 2008

Nhu cầu về vốn của DNNVV chủ yếu là vốn vay ngân hàng nhưng mức độ đáp

ứng vốn theo đúng nhu cầu của doanh nghiệp của ngân hàng chỉ vào khoảng 10%.

Khi tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng thì không phải doanh nghiệp nào

cũng có đủ điều kiện để vay. Với nguồn vốn tự có hạn chế, không có tài sản đảm

bảo, công nghệ sản xuất còn thấp kém, khả năng lập dự án còn yếu, trình độ quản lý

chưa cao,…làm cho các ngân hàng không mạnh dạn cho DNNVV vay vốn vì chưa

tin tưởng vào khả năng phát triển của doanh nghiệp dẫn đến khả năng tiếp cận với

nguồn vốn vay của ngân hàng là rất khó khăn đối với các DNNVV. Về phía ngân

hàng thì khi cho các doanh nghiệp lớn vay có lợi hơn khi cho DNNVV vay vì rủi ro

về tín dụng giảm, chi phí quản lý khoản vay thấp ngoài ra còn bán được nhiều sản

phẩm dịch vụ cho nên doanh nghiệp lớn luôn là ưu tiên hàng đầu còn đối với

DNNVV khi cho vay ngân hàng đối mặt một số khó khăn cụ thể như:

- Hầu hết các các DNNVV có tài sản đảm bảo không đủ giá trị thế chấp đảm bảo

nhu cầu vốn vay.

- Rủi ro cho ngân hàng cao hơn so với doanh nghiệp lớn khi cấp tín dụng cho các

DNNVV. Yếu tố rủi ro này lại xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Nguồn vốn kinh

doanh của doanh nghiệp quá ít, dẫn đến vốn tự có tham gia vào dự án thấp, do đó

ngân hàng gánh rủi ro cao nếu thực hiện cho vay, cách tổ chức quản lý và điều hành

doanh nghiệp chưa chuyên nghiệp thiếu bài bản (cả về kế hoạch kinh doanh cũng

như công tác tổ chức bộ máy kế toán).

45

Nhưng hiện tại các ngân hàng thương mại đã ít nhiều có cái nhìn khác đối

DNNVV khi hiện có nhiều ngân hàng có chương trình hỗ trợ vốn cho họ. Cố gắng

đi tìm tiếng nói chung, các ngân hàng ngày càng tạo nhiều thuận lợi cho DN. Ngân

hàng An Bình (ABBANK) dành ra hạn mức tín dụng 1.500 tỉ đồng để cho DNNVV

vay. ABBANK cũng khởi xướng áp dụng lãi suất cho vay tối đa chỉ bằng 95% lãi

suất cho vay cùng kỳ hạn bình quân của các ngân hàng TMCP khác. ABBANK cho

vay 80% giá trị tài sản thế chấp nếu DN vừa và nhỏ thế chấp bằng bất động sản;

65% giá trị tài sản đảm bảo khi thế chấp bằng động sản. Ngoài ra ngân hàng còn đa

dạng các tài sản đảm bảo để phù hợp với các loại hình hoạt động của DNNVV. Đặc

biệt, ngân hàng thanh giản tối đa những thủ tục xét duyệt, thẩm định, giải ngân...

nhằm giảm thời gian giải quyết hồ sơ xuống 3 ngày kể từ ngày nhận đầy đủ hồ sơ.

Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) vừa phối hợp với Ban Thư ký Nhà nước về các

vấn đề kinh tế của Thụy Sĩ (SECO) triển khai chương trình bảo lãnh tín dụng cho

các DN vừa và nhỏ từ Quỹ Tín dụng xanh (SMESC). Chương trình nhằm hỗ trợ DN

vừa và nhỏ muốn đầu tư nâng cấp và mở rộng hoạt động sản xuất nhưng thiếu tài

sản đảm bảo, đồng thời khuyến khích DN đầu tư vào công nghệ giảm thiểu ô nhiễm

môi trường. Các DN sẽ được hỗ trợ vay vốn từ 25.000 - 1.000.000 USD hoặc tiền

đồng với giá trị tương đương. Sau khi đầu tư, DN sẽ được hoàn lại 25% giá trị

khoản vay nếu mức độ cải thiện môi trường từ 50% trở lên; 15% giá trị khoản vay

cho mức độ cải thiện môi trường từ 30% đến dưới 50%.

Những kết qủa trên là hết sức đáng khích lệ, qua các năm tỷ trọng cho vay của

các ngân hàng đôi với nhóm khách hàng là các DNNVV ngày càng tăng, điêu này

cũng đông nghĩa với việc có nhiêu doanh nghiệp được tiêp cận với nguôn vôn ngân

hàng hơn và lượng vôn được đáp ứng cũng nhiêu hơn. Tuy nhiên, những kêt qua

trên vân chưa thực sự đưa các DNNVV từ vị tri khách hàng tiêm năng lên vị tri

khách hàng muc tiêu của các ngân hàng được. Vân chưa có sự tương xứng với tiêm

năng ở khu vực doanh nghiệp này. Điêu này cũng gián tiêp nói lên rằng, những khó

khăn, rào can trong quá trình tiêp cận nguôn vôn từ hai phia vân chưa được tháo dỡ

hoàn toàn.

46

Trong bối cảnh suy thoái kinh tế từ đầu năm 2009, Chính phủ đã quyết định thực

hiện Quyết định 131/QĐ-TTg ngày 23/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ

trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất – kinh doanh,

nhằm giảm giá thành sản phẩm hàng hóa, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc

làm, trong điều kiện nền kinh tế bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái

kinh tế thế giới.

Theo Báo cáo của NHNN cho thấy kết quả sau 1 năm triển khai, cùng với các

chính sách linh hoạt khác của Chính phủ được ban hành trong năm khó khăn của

nền kinh tế Việt Nam, tính đến cuối năm 2009 tổng số dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất

đạt gần 420.000 tỉ đồng (tính đến ngày 19-11-2009 là 416.737 tỉ đồng).

Chính sách hỗ trợ lãi suất trên đã phát huy tác dụng tích cực giúp Việt Nam

không những kiềm chế được khủng hoảng, suy thoái mà còn giữ ổn định kinh tế vĩ

mô, duy trì tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng.

Nhiều DNVVN nhờ vậy mà thoát khỏi phá sản nhưng bên cạnh những thành

công do chính sách hỗ trợ lãi suất mang lại thì một số bất cập do chính sách này

mang lại cho nền kinh tế như: chỉ khoảng trên 20% trong tổng số doanh nghiệp, tức

khoảng 78.000 trong tổng số khoảng 390.000 doanh nghiệp tiếp cận được vốn hỗ

trợ. Ngoài ra việc khó kiểm soát hiệu quả thực chất của các khoản tín dụng. Dùng

vốn vay để đảo nợ, đầu tư vào chứng khoán hoặc đầu tư vào bất động sản. Hiện

tượng doanh nghiệp vay vốn hỗ trợ lãi suất thấp tại ngân hàng này gửi sang ngân

hàng khác để hưởng chênh lệch, có vốn gửi vào ngân hàng thương mại để hưởng lãi

suất cao nhưng vẫn vay vốn VND để hưởng hỗ trợ lãi suất….

Hiện tại chương trình hỗ trợ lãi suất đã chấm dứt về mặt nào đó nó đã hoàn

thành vai trò của nó trong một thời điểm khó khăn nhất định của nền kinh tế.

Chương trình hỗ trợ lãi suất đã phần nào giải quyết khó khăn về vấn đề chi phí sử

dụng vốn cho DN Việt nam nói chung và DNNVV nói riêng trong thời điểm khó

khăn. Đây cũng là một cố gắng của chính phủ trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tuy

nhiên chương trình hỗ trợ lãi suất này cũng không được coi là biện pháp lâu dài

trong việc giúp đỡ các DNNVV tăng cơ hội tiếp cận các nguồn vay chính thức.

47

2.2.2 Thưc trạng tiếp cận nguồn vốn từ các công ty thuê mua tài chính.

Nghiệp vụ tín dụng thuê mua hay còn gọi là thuê tài chính là loại hình cấp tín

dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên thế giới (Hiện nay ở Mỹ, ngành thuê mua

thiết bị chiếm khoảng 25 - 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết

bị hàng năm). Tuy nhiên tại Việt nam hoạt động CTTC hiện nay còn quá khiêm tốn

so với hoạt động của các ngân hàng thương mại. Dư nợ CTTC chỉ chiếm tỷ trọng

rất nhỏ trong tổng dư nợ tín dụng. Dư nợ trung, dài hạn, chiếm khoảng 1,2% tổng

dư nợ tín dụng của nền kinh tế (Nguồn: NHNN) trong khi ở các nước đang phát

triển, tỷ trọng của thị trường CTTC so với thị trường tín dụng vào khoảng từ 15 đến

20% Hiện nay, trên thị trường cho thuê tài chính Việt Nam đã có 13 công ty CTTC

được thành lập và cấp giấy phép hoạt động. Bao gồm: 3 công ty 100% vốn nước

ngoài, 1 công ty liên doanh giữa NHTM Việt Nam với các đối tác nước ngoài, 8

công ty 100% vốn trong nước trực thuộc các ngân hàng, 1 công ty 100% vốn trong

nước thuộc Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy VINASHIN. Nhưng trên thực tế hoạt

động CTTC tại Việt Nam cũng chưa có sự tiến triển mạnh mẽ nào, một số nguyên

nhân được biết đến như:

+ Qui mô về vốn của các công ty CTTC chưa thực sự lớn (vốn điều lệ trung bình

của một công ty CTTC là 150 tỷ) nên cũng chỉ có khả năng đáp ứng một phần nhu

cầu của nền kinh tế. So với ngân hàng, hoạt động của các công ty CTTC còn non

kém, chưa đủ lực cạnh tranh về vốn, nhân lực, công nghệ. Các tổ chức, người dân

cũng chỉ nghĩ đến ngân hàng khi có nhu cầu về vay vốn hay gửi tiền. Điều này là

bất lợi lớn đối với các công ty CTTC trong huy động vốn, mở rộng tín dụng và phát

triển các dịch vụ tài chính khác.

+ Hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ của các công ty CTTC đến các DNNVV

còn hạn chế. Các công ty CTTC chưa quan tâm đúng mức đến việc quảng bá, giới

thiệu và chưa tích cực tìm đến các đối tác trong kinh doanh.

+ Mạng lưới hoạt động của các công ty cho thuê tài chính mới chỉ có mặt tại một

vài trung tâm kinh tế lớn, chưa trãi rộng trong cả nước

48

+ Chi phí thuê cao, nếu tính theo lãi suất ngân hàng thì lãi suất thuê tài chính cao

hơn vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành,

bảo hiểm,…của bên cho thuê phải bỏ ra.

+ Doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ CTTC còn hạn chế.

+ Để tiếp cận được với nguồn vốn từ cho thuê tài chính, DNNVV phải có dự án

thuê tài chính khả thi, tình hình tài chính lành mạnh và có khả năng tài chính để

tham gia vào dự án điều kiện mà không phải DNNVV nào cũng đáp ứng được.

2.2.3 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ bảo lãnh tín dụng.

Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho các

DNNVV được ban hành vào ngày 20/12/2001 theo quyết định số 193/2001/QĐ-

TTg của thủ tướng chinh phủ. Tinh đên thời điểm hiện nay số tỉnh thành có thành

lập quỹ bảo lãnh tín dụng rất ít và hầu như các quỹ bảo lãnh tín dụng đã được thành

lập hoạt động không thật sự hiệu qua, một sô nguyên nhân được ghi nhận và phân

tích như sau:

- Tâm lý e ngại về tính hiệu quả của quỹ: Như đã trình bày ở các phân trước, các

DNNVV luôn ở trong tình trạng thiếu vốn và nguyên nhân dẫn đến tình trạng này

thì có nhiều nhưng nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp không có tài sản

bảo đảm để tiếp cận với các nguồn vốn vay, đặc biệt là từ ngân hàng. Vì vậy, nhu

cầu về sự có mặt của một bên thứ ba là quỹ bảo lãnh tín dụng là vô cùng cấp thiết

nhằm hỗ trợ cho hoạt động của các DNNVV. Nguồn vốn của quỹ này được hình

thành từ hai nguồn chính là ngân sách của địa phương và nguồn đóng góp tự

nguyện của các tổ tín dụng, doanh nghiệp và các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức

đại diện và hỗ trợ cho các DNNVV, vốn tài trợ hợp pháp từ các tổ chức và cá nhân,

vốn bổ sung từ kết quả hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng, trong đó các ngân hàng

thương mại là nòng cốt. Phía ngân hàng vẫn chưa đánh giá cao hiệu quả hoạt động

của quỹ. Phía các DNNVV lại có một mối băn khoăn khác, đó là mối lo lắng về thủ

tục để được nhận bảo lãnh, nhiều doanh nghiệp lo lắng các “chi phí” liên quan đến

các thủ tục, cộng với lãi suất vay ngân hàng thì làm cho chi phí sử dụng vốn của

doanh nghiệp bị đội lên cao. Tinh đên 4 tháng đâu năm 2009, trên địa bàn thành phô

49

HCM mới có gân 100 DNNVV nộp đơn xin được bao lanh vay vôn, mặc dù sô

lượng DNNVV trên địa bàn là 60.000 doanh nghiệp và rất nhiều doanh nghiệp

trong sô đó đang rât cân vôn và gặp khó khăn khi tiêp cận trực tiêp với ngân hàng.

(Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 22/04/200).

- Khó huy động được các nguồn vốn cho quỹ: Những thành phố có nguồn thu lớn

như Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh, việc chi ngân sách cho quỹ bảo lãnh tín

dụng không phải là vấn đề lớn, tuy nhiên ở một số địa phương khác, mặc dù có nhu

câu thành lập quy nhưng đê huy động đóng góp đủ 30 tỷ đông vôn điêu lệ theo quy

định thì quả là một thách thức vô cùng lớn. Vấn đề còn bộc lộ ở một khía cạnh

khác, điển hình như ở thành phố Hồ Chí Minh, quyết định thành lập Quỹ bảo lãnh

tín dụng với tổng vốn 50 tỷ đồng, ngân sách của thành phố đã chi 25 tỷ đồng, tuy

nhiên đóng góp của các ngân hàng chỉ dừng ở mức 6 tỷ đồng. Lý do từ phía các tổ

chức tín dụng đưa ra là: quỹ bảo lãnh tín dụng là một tổ chức không vì mục tiêu lợi

nhuận, chỉ bao toàn vôn và bù đăp chi phi, vì vậy không khuyên khich được các tô

chức tín dụng dùng vốn điều lệ và và quỹ dự trữ (theo hướng dẫn của công văn

1070/NHNN-TD) để đóng góp vào.

- Vê mặt pháp lý quy chế thành lập quỹ cũng chưa xác định rõ quyền lợi và trách

nhiệm của các tổ chức góp vốn... Mặt khác, vẫn chưa có quy chế cụ thể về việc rút

vốn, chuyển nhượng vốn góp của các tổ chức, cá nhân sau khi tham gia góp vốn

vào quỹ bảo lãnh.

- Một lý do nữa được phía các ngân hàng thương mại đưa ra là với số vốn hoạt động

của quỹ và bội số bảo lãnh tín dụng trong ba năm đầu không vượt quá 5 lần so với

vốn hoạt động thì số doanh nghiệp được cấp tín dụng chỉ là một tỉ lệ cực kỳ nhỏ so

với sô doanh nghiệp có nhu câu, đây cũng là một điêm phi hiệu qua. Đơn cử vê hoạt

động của quy bao lanh tin dung trên địa bàn thành phô HCM, theo thông kê, tinh

đên khoang 4 tháng đâu năm 2009, trên địa bàn thành phô có khoang 60.000

DNNVV, phần lớn các doanh nghiệp đang rất cần vốn nhưng không có tài sản thế

châp nên nhu câu được bao lanh đê vay vôn là rât câp bách. Tuy nhiên, tinh đên thời

điêm đó, quy bao lanh tin dung mới bao lanh được cho 15 doanh nghiệp vay vôn

50

với sô tiên bao lanh khoang 105 tỷ đông. (Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn,

22/04/200).

- Vướng mắc về tổ chức điều hành quỹ. Việc thành lập một tổ chức độc lập để điều

hành quỹ hay là ủy quyền cho một định chế tài chính có sẵn ở các tỉnh, thành

phố quản lý cũng là một vấn đề chưa có được sự đồng thuận cao. Tuy nhiên, xu

hướng chung vẫn là giao cho các định chế tài chính sẵn có quản lý, như Quỹ bảo

lãnh tín dụng ở thành phố Hồ Chí Minh được ủy quyền cho quỹ Đầu tư phát triển

đô thị thành phố quản lý, ở Hà Nội là do Quỹ đầu tư phát triển Hà Nội quản lý. Đây

cũng là một lý do làm các tổ chức tín dụng, ngân hàng e ngại việc góp vốn vì họ

không trực tiếp tham gia quản lý nguồn vốn góp của mình.

- Thực hiện những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì

tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP

ngày 11/12/2008 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số

14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 ban hành Quy chế Bảo lãnh cho doanh nghiệp

vay vốn của ngân hàng thương mại, Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg sửa đổi bổ

sung một số điều QĐ số 14 và giao cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPT

VN) thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tại các

ngân hàng thương mại (NHTM) để thực hiện dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh

doanh. Trong quá trình thực hiện vừa qua đã giải quyết phần nào khó khăn về việc

tiếp cận vốn cho DNNVV nhưng trong quá trình hoạt động đã sớm bộc lộ những

nhược điểm. Cho đến nay, chương trình bảo lãnh vay vốn của Chính phủ do ngân

hàng Phát Triển thực hiện đã chấp thuận bảo lãnh cho 1.900 DN và HTX vay vốn ở

các ngân hàng thương mại để thực hiện 270 dự án và 1.000 phương án kinh doanh,

tổng số vốn là khoảng 20.400 tỷ đồng.

Nhờ việc thực hiện bảo lãnh này, các DN và HTX không có đủ điều kiện vẫn

tiếp cận được nguồn vốn thương mại để phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần

phục hồi kinh tế, vượt qua khủng hoảng.

Dự kiến năm 2010 sẽ bảo lãnh cho DN vay vốn khoảng 15.000 tỷ đồng.

51

2.2.4 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ tín dụng xanh dành cho các

DNNVV.

Ngày 10-10-2007, Quỹ Tín dụng Xanh (GCTF) - một quỹ do Chính phủ Thụy

Sĩ tài trợ với sô vôn 5 triệu USD nhằm cung câp tài chinh cho các DNNVV áp dung

công nghệ sản xuất sạch đã ra mắt tại Hà Nội. GCTF sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp

cận các nguồn vốn khi không đủ khả năng thế chấp. Quỹ này sẽ bảo lãnh tín dụng

50% cho các doanh nghiệp (tối đa 500.000 đô la Mỹ) tại Ngân hàng TMCP Quốc tế

(VIBank). Ngoài VIBank, tham gia vào Quỹ còn có Trung tâm Sản xuất sạch Việt

Nam, ngân hàng TMCP Á châu (ACB) và Kỹ thương (Techcombank). Các doanh

nghiệp đăng ký tham gia chương trình sẽ được tư vấn, đánh giá miễn phí về mức độ

tiêu thụ năng lượng, chất thải, môi trường... và khi dự án đầu tư kết thúc, tuỳ theo

mức độ cải thiện môi trường, doanh nghiệp sẽ được GCTF hỗ trợ không hoàn lại

25% nếu cải thiện môi trường được trên 50% hoặc được hoàn lại 15% nếu cải thiện

môi trường trên 30%.

Với quy mô của quỹ 5 triệu USD đây thực sự là con số không lớn so với nhu cầu

của DNNVV ở Việt nam hiện nay nhưng dù sao đây cũng là một nguồn hỗ trợ tài

chinh có ý nghĩa đôi với các DNNVV. Tuy nhiên, không phai DNNVV đêu có thê

tiêp cận với nguôn tài chinh này vì muc đich của quy là hướng đên những doanh

nghiệp tìm kiếm nguồn vốn cho đầu tư công nghệ thân thiện với môi trường trong

hoạt động sản xuất, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị

trường và vì sức khỏe của cộng đồng. Việc sử dụng công nghệ thân thiện với môi

trường, cũng như những biện pháp ky thuật khác đê bao vệ môi trường vân còn là

một thách thức quá lớn với nhiều DNNVV Việt Nam, bởi các doanh nghiệp này đa

phân sử dung công nghệ lạc hậu, thường gây ô nhiêm môi trường. Thêm vào đó ý

thức bao vệ môi trường ở các DNNVV rât kém.

2.2.5 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ Qũy đâu tư mạo hiêm.

Trong giai đoạn khởi đầu doanh nghiệp hay khi quy mô doanh nghiệp chưa lớn

Khi tìm nguồn tài trợ vê vôn đáp ứng nhu câu hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp

cần cân nhắc và tìm kiếm các nguồn vốn sao cho phù hợp với nhu cầu của chính

52

doanh nghiệp. Như vậy rõ ràng, trong giai đoạn này một cấu trúc sử dụng nợ cao sẽ

tiềm ẩn nhiều rủi ro cho doanh nghiệp vì trong giai đoạn mới khởi sự qui mô doanh

nghiệp còn nhỏ, kinh nghiệm cũng như thị trường của doanh nghiệp còn hạn chế.

Hơn nữa trong giai đoạn này để tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng doanh nghiệp

cũng khó tiếp cận được vì doanh nghiệp chưa có đủ tài sản để thế chấp và uy tín của

doanh nghiệp chưa đủ để đáp ứng nhu cầu vay vốn từ ngân hàng.

Xem xét từ khía cạnh này thì vốn đầu tư mạo hiểm được xem là đáp án tối ưu

cho bài toán vê vôn của các DNNVV. Một điêu đáng nói đên nữa là ngoài hô trợ tài

chinh từ các quy đâu tư mạo hiêm các doanh nghiệp còn nhận được những hô trợ

phi tài chính khác như là: quản lý, chính sách nhân sự, marketing, phát triển sản

phẩm,..Những hỗ trợ phi tài chính này có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển của

DNNVV. Vậy vốn đầu tư mạo hiểm là gì?

Vốn đầu tư mạo hiểm là những khoản đầu tư cổ phần vào giai đoạn đầu của

những doanh nghiệp mới khởi sự, các doanh nghiệp này đang cần vốn để tài trợ

cho việc phát triển sản phẩm mới hoặc có ý tưởng về khoa học công nghệ, do vậy

đây là những khoản đầu tư hứa hẹn một tiềm năng tăng trưởng rất lớn để bù đắp cho

mức độ rủi ro cao hơn. Các chuyên gia quản lý vốn đầu tư mạo hiểm sẽ tìm kiếm

các khoản thu nhập vốn tiềm năng cao hơn. Nếu hiểu theo nghĩa rộng hơn thì vốn

đầu tư mạo hiểm là nguồn tài chính đầu tư cho các doanh nghiệp dưới hình thức vốn

cổ phần và các khoản đầu tư gần giống vốn cổ phần, có thời hạn trung bình (3-5

năm). Mục tiêu là tìm kiếm được khoản thu nhập vốn cao hơn mức trung bình. Bên

cạnh việc cung cấp vốn, các chuyên gia quản lý quỹ vốn đầu tư mạo hiểm còn cung

cấp cho các doanh nghiệp những hỗ trơ về mặt phi tài chính như: chiến lược kinh

doanh, marketing, khách hàng, đối tác tiềm năng,…tạo điều kiện cho doanh nghiệp

bước sang một giai đoạn tăng trưởng tiếp theo và chuẩn bị sẵn sàng để doanh

nghiệp được chuyển giao cho các cổ đông khác.

Do đó đối tượng mà quỹ đâu tư mạo hiêm hướng đên là các doanh nghiệp mới

khởi sự, không có tài san đam bao vay vôn, có ý tưởng mới, có kha năng tăng

53

trưởng cao (nhưng rủi ro đi kèm cũng rât lớn) nên có thê nói các DNNVV chinh là

khách hàng mục tiêu của các quỹ này.

Quá trình phát triển của vốn ĐTMH ở thị trường Việt Nam:

- Giai đoạn từ 1991 đến 2002: đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của một số quỹ

ĐTMH vào thị trường Việt Nam, nhưng sau đó hầu hết các quỹ này đã rút khỏi Việt

Nam do hoạt động không hiệu quả.

- Giai đoạn từ 2002 đến 2006: có những dấu hiệu tích cực từ nền kinh tế, thị trường

chứng khoán từng bước phát triển, cơ hội đầu tư ở Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn và

đã có sự xuất hiện trở lại của các quỹ ĐTMH với qui mô vốn lớn hơn đầu tư vào thị

trường Việt Nam.

- Giai đoạn 2007 đến nay: nhiều quỹ đầu tư nước ngoài xuất hiện tại Việt Nam, các

quỹ này tập trung đầu tư theo những lĩnh vực khác nhau. Với sự xuất hiện của khá

nhiều quỹ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, từ Hàn Quốc có các quỹ: Korea WW

CHN Viet MC EQ, MA Maps Oppo Viet & CHN, Tongyang Vietnam, KITM WW

Vietnam Real Est; từ Singapore: DBS Indochina Fund, Lion Capital Vietnam Fund

và Fullerton Vietnam Fund; từ Malaysia có quỹ: Hwang/DBS Indochina Fund; từ

Anh có quỹ: Indochina Capital Vietnam, và từ Liechtenstein có quỹ T.I.M Vietnam

Tiger Fund. Hiện tại số quỹ đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam khá nhiều khoảng

56 quỹ.

Biêu đồ 2.1: Qui mô vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam từ 1991 đến 2006.

(Đơn vi triệu USD) Nguồn: Asia venture capital journal

54

Việt Nam được đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng cho hoạt động đầu

tư vốn mạo hiểm, tuy nhiên thị trường vốn mạo hiểm tại Việt nam thời gian qua đã

không đạt được những kêt qua như người ta từng mong đợi. Mặc dù, chưa có sô liệu

chinh thức vê hoạt động đâu tư của các quy đâu tư mạo hiêm cho các DNNVV,

nhưng nhìn chung còn rât hạn chê vê sô lượng doanh nghiệp được nhận đâu tư cũng

như sô vôn đâu tư. Có các nguyên do sau:

- Theo đúng đặc điểm của vốn mạo hiểm thì thời điểm doanh nghiệp tiến hành IPO

cũng là thời điểm mà doanh nghiệp sẽ tiến hành việc thoát vốn của các quỹ, trong

khi ở Việt Nam đây là giai đoạn để các quỹ tiến hành đầu tư vào các doanh nghiệp

vì đầu tư vào các doanh nghiệp vừa được lên sàn chứng khoán sẽ giảm thiểu được

rủi ro cho quỹ, do đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam rất khó tiếp cận

được nguồn vốn tài trợ này. Hơn nữa, hoạt động của thị trường chứng khoán còn

nhiêu bât cập và không ôn định, anh hưởng đên kha năng thoát vôn của các quy đâu

tư này.

- Số lượng DNNVV gia tăng mạnh mẽ trong thời gian qua đã mở ra rất nhiều cơ hội

cho các quỹ đầu tư lựa chọn. Tuy nhiên, những dự án có tiềm năng tốt thực sự hấp

dẫn và đáp ứng yêu cầu của các quỹ đầu tư lại không được nhiều.

- Cũng giông như ngân hàng các quỹ đầu tư mạo hiêm chưa có niềm tin nơi các

DNNVV, vì các doanh nghiệp này không minh bạch vê tài chinh, che giâu kêt qua

hoạt động kinh doanh. Các ông chủ DNNVV không thích có sự tham gia quản lý

của người ngoài, chưa có mô hình quản trị doanh nghiệp phù hợp, vì vậy nên khi có

nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh thì có xu hướng đi vay hơn là kết

nạp các thành viên mới là các quỹ đầu tư mạo hiểm, đây là một trở ngại lớn cho sự

tiếp cận của các quỹ đầu mạo hiểm.

- Mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm tuy đã phổ biến ở nhiều quốc gia phát triển nhưng

đối với Việt nam thì khái niệm này chưa thật sự phổ biến khi có không ít các

55

DNNVV chưa có khái niệm về quỹ đầu tư mạo hiểm. Điều này một phần xuất phát

từ thiếu hoạt động quãng bá của các quỹ dẫn tới các DNNVV không biết đến các

quỹ.

2.2.6 Thực trạng tiếp cận nguồn vốn từ thị trường chứng khoán.

Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đi vào hoạt động từ tháng 7/2000

đến nay đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy còn non trẻ nhưng TTCK Việt

Nam bước đầu đã góp phần hình thành một thị trường vốn tương đối toàn diện, tạo

lập và vận hành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Nhưng sự phát

triển đó vẫn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Yếu tố “bong bóng” trên TTCK được thể hiện

rất rõ. Vì vậy, mặc dù có những bước phát triển ấn tượng, TTCK Việt Nam vẫn

chưa thể coi là “hàn thử biểu của nền kinh tế và cũng chưa là kênh huy động vốn

trung và dài hạn quan trọng của các DN Việt Nam”. Đại diện Bộ Tài chính cũng có

chung quan điểm khi nhận xét: Từ năm 2006, điểm yếu về quy mô của TTCK mặc

dù đã được khắc phục cơ bản nhưng TTCK vẫn chưa thực hiện đúng chức năng của

nó vì biến động của TTCK không hoặc ít nhất là chưa thật sự phản ánh đúng trạng

thái của nền kinh tế Việt Nam.

Có thê nói, thị trường chứng khoán là kênh huy động vôn cực kỳ hiệu qủa cho các

doanh nghiệp. Tuy nhiên đôi với các DNNVV, việc huy động vôn từ thị trường

chứng khoán là điều vô cùng khó khăn. Về phía doanh nghiệp là những do tâm lý e

ngại do niêm yết là phải minh bạch tình hình hoạt động của doanh nghiệp, khó khăn

vê mặt nhận thức vê việc huy động vôn từ kênh này (mặc dù trong thực tê không it

DNNVV đủ điều kiện để niêm yết) và khó khăn nữa là những quy định khác

nghiêm ngặt vê điêu kiện niêm yêt:

- Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính:

+ Luật Chứng khoán số 70/QH11 ngày 29/6/2006; có hiệu lực ngày 01/01/2007.

+ Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 quy định chi tiết thi hành một số

điều của Luật Chứng khoán; có hiệu lực ngày 08/02/2007.

+ Quyết định 13/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính Ban

hành mẫu Bản cáo bạch trong Hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng

56

và Hồ sơ đăng ký niêm yết chứng khoán tại Sở GDCK, Trung tâm GDCK; có hiệu

lực ngày 12/8/2007.

+ Thông tư 38/2007/TT-BTC ngày 18/4/2007 hướng dẫn về việc công bố thông tin

trên thị trường chứng khoán; hiệu lực ngày 13/8/2007.

+ Quyết định số 168/QĐ-SGDHCM ngày 7/12/2007 của Tổng Giám đốc Sở giao

dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quy chế niêm yết chứng

khoán tại Sở GDCK Tp HCM; hiệu lực ngày 07/12/2007.

+ Quyết định số 420 /QĐ-TTGDHN ngày 31 tháng 12 năm 2007 của Giám đốc

Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội Về việc ban hành Quy chế niêm yết

chứng khoán tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội; hiệu lực ngày

31/12/2007.

Niêm yết cổ phiếu tại Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh.

- Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ

đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán.

- Hoạt động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi

và không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký niêm yết.

- Không có các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng theo quy định của pháp luật;

công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm

soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc, Kế

toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan.

- Tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông

nắm giữ.

- Cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng

Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc và Kế toán trưởng của công ty

phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể

từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không

tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ.

- Có hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu hợp lệ.

Niêm yết trái phiếu tại Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh.

57

- Là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhà nước

có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ đồng Việt Nam

trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;

- Hoạt động kinh doanh của hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi,

không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm và hoàn thành các nghĩa vụ

tài chính với Nhà nước;

- Có ít nhất 100 người sở hữu trái phiếu cùng một đợt phát hành;

- Có hồ sơ đăng ký niêm yết trái phiếu hợp lệ.

Niêm yết chứng chỉ quỹ đại chúng hoặc cổ phiếu của công ty đầu tư chứng

khoán đại chúng tại Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh:

- Là quỹ đóng có tổng giá trị chứng chỉ quỹ (theo mệnh giá) phát hành từ 50 tỷ đồng

Việt Nam trở lên hoặc công ty đầu tư chứng khoán có vốn điều lệ đã góp tại thời

điểm đăng ký niêm yết từ 50 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ

kế toán;

- Sáng lập viên và thành viên Ban đại diện quỹ đầu tư chứng khoán hoặc thành viên

Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc

hoặc Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng của công ty đầu tư chứng khoán phải cam

kết nắm giữ 100% số chứng chỉ quỹ hoặc cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6

tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số chứng chỉ quỹ hoặc cổ phiếu này trong thời

gian 6 tháng tiếp theo;

- Có ít nhất 100 người sở hữu chứng chỉ quỹ của quỹ đại chúng hoặc ít nhất 100 cổ

đông nắm giữ cổ phiếu của công ty đầu tư chứng khoán đại chúng;

- Có hồ sơ đăng ký niêm yết chứng chỉ quỹ đại chúng hoặc cổ phiếu của công ty

đầu tư chứng khoán đại chúng hợp lệ.

Niêm yết cổ phiếu tại Sở GDCK Hà Nội:

- Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 10 tỷ

đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;

58

- Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi,

không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm và hoàn thành các nghĩa vụ

tài chính với Nhà nước;

- Cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông nắm giữ;

- Cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng

giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc và Kế toán trưởng của công ty

phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể

từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không

tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ;

- Có hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu hợp lệ.

Niêm yết trái phiếu tại Sở GDCK Hà Nội:

- Là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhà nước có vốn

điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính

theo giá trị ghi trên sổ kế toán;

- Các trái phiếu của một đợt phát hành có cùng ngày đáo hạn;

- Có hồ sơ đăng ký niêm yết trái phiếu hợp lệ.

Với những điều kiện như trên thì dễ nhận ra rằng rất ít DNNVV đủ điều kiện để

có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán vì quy mô vốn không đủ yêu cầu là vốn

điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính

theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Như phân tích ở phần đầu chương II, hiện tại xét về

quy mô vốn có đến 90% số DNNVV có mức vốn dưới 5 tỷ đồng do đó số lượng

DNNVV đủ điều kiện nêm yết trên thị trường chứng khoán chiếm một tỷ lệ rất thấp,

vì vậy nên hâu như các DNNVV vân chưa thê huy động được vôn từ thị trường

chứng khoán được.

59

Kết luận chương 2

Sau khi phân tích thực trạng về tình hình hoạt động và khả năng tiếp cận nguồn

vốn của các DNNVV nhận thấy rằng mỗi hình thức huy động vốn đều có những đặc

điểm riêng, có ưu nhược khác nhau, do đó các doanh nghiệp phải căn cứ vào điều

kiện, nhu cầu vốn của bản thân mà quyết định nên tiếp cận với nguồn vốn nào là

phù hợp, sao cho quá trình huy động vốn được khả thi và quá trình sử dụng cũng

mang lại hiệu quả cao nhất có thể được.

Do đó để các DNNVV ngày càng phát triển mạnh hơn đóng góp vào sự phát

triển chung của nền kinh tế thì ở phần tiếp theo người viết sẽ nêu ra một số kiến

nghị nhằm giúp loại hình doanh nghiệp này tiếp cận nguồn vốn từ các nguồn như:

tín dụng ngân hàng, cho thuê tài chính, quỹ đầu tư, thị trường chứng khoán

60

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỖ TRỢ DNNVV TIẾP CẬN NGUỒN

VỐN CHÍNH THỨC ĐỂ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH

Với vai trò và những đóng góp như đã nêu trên của DNNVV đối với nền kinh

tế để giúp DNNVV thoát khỏi vòng luẩn quẩn thiếu nguồn tài chính dẫn đến

khó khăn trong sản xuất kinh doanh (công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh kém,

thiếu thông tin và khả năng tiếp cận thông tin….) khó khăn trong sản xuất kinh

doanh lại gây khó khăn trong việc tìm nguồn vốn thì đòi hỏi phải có một cú hích từ

bên ngoài mà cụ thể là cơ chế và chính sách của chính phủ, sự thay đổi trong quan

điểm và cả trong cách làm của các ngân hàng thương mại đối với DNNVV và sự nổ

lực vươn lên của chính các DNNVV.

Xuất phát từ quan điểm như vậy nên tôi đề xuất ra một số gợi ý cho các bên liên

quan trong việc giúp DNNVV tiếp cận nguồn vốn chính thức nhằm phát triển sản

xuất kinh doanh.

3.1 Kiến nghi đối vơi DNNVV.

Nhìn chung DNNVV phải tự chủ động xây dựng kế hoạch, chiến lược sản xuất

kinh doanh, nghiên cứu áp dụng công nghệ, đổi mới trang thiết bị, tăng năng suất

lao động và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Chấp hành đúng

pháp luật, đề cao văn hoá trong kinh doanh. Có kế hoạch đào tạo và nâng cao chất

61

lượng nguồn nhân lực quản lý doanh nghiệp, nâng cao nhận thức về xu thế hội nhập

và cạnh tranh quốc tế; chủ động liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp trong và

ngoài nước để mở rộng sản xuất, kinh doanh, năng lực cạnh tranh.

3.1.1 Nâng cao chât lượng bao cao kế toán.

Hâu hêt các DNNVV ở nước ta hiện nay đều không nhận thấy tầm quan trọng

của việc thực hiện hoạt động kế toán một cách trung thực và minh bạch. Hiện nay,

các DNNVV chủ yêu thực hiện hoạt động kê toán nhằm muc đich đôi phó với các

cơ quan chức năng và các tô chức câp tin dung. Trong doanh nghiệp có khi tôn tại

nhiêu hệ thông sô sách kê toán. Hệ thông thứ nhât là hệ thông kê toán mà chỉ có chủ

doanh nghiệp được biết. Đó là hệ thống ghi chép không theo bất kỳ quy định nào

của pháp luật, tuy nhiên lại phản ánh đúng về tình trạng hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp. Hệ thống thứ hai là hệ thống kế toán dùng để báo cáo cho cơ quan

thuế. Hệ thống này về hình thức, theo đúng quy định của pháp luật nhưng thông tin,

số liệu trong đó hoàn toàn không phản ánh đúng thực tiễn hoạt động kinh doanh,

được lập ra nhằm muc đich đôi phó, che đậy kêt qua thực tê, lừa dôi cơ quan thuê,

nguyên nhân của việc này là DNNVV muốn trốn thuế. Ngoài ra khi đi vay ngân

hàng thì thậm chí có DNNVV còn có thể trưng ra một bản báo cáo khác với số liệu

đẹp để có thể dễ dàng được ngân hàng cho vay. Bên cạnh đó, DNNVV thường bán

hàng không có hợp đồng kinh tế, không tuân thủ chế độ phát hành hóa đơn bán

hàng, nên ngân hàng không đủ cơ sở để đánh giá và quyết định việc cho vay. Công

tác kế toán trong doanh nghiệp thường không được coi trọng thậm chí có nhiều

doanh nghiệp còn thực hiện thuê dịch vu kê toán theo mùa vu. Vì vậy, đội ngũ kê

toán trong các doanh nghiệp không ổn định, gây khó khăn lớn cho việc bảo đảm

tính liên tục trong công tác kế toán.

Việc làm này quả là lợi bât cập hại, có thê mang lại cho doanh nghiệp một sô

lợi ich trước măt nhưng lại có những hệ luy khôn lường vê lâu vê dài. Thực tê đa

cho thây các nhà đâu tư cá nhân, ngân hàng thương mại, qũy đâu tư mạo hiêm đêu

thiêu tin tưởng khi đâu tư vôn cho DNNVV chinh vì không tin tưởng khi lây báo

62

cáo tài chinh của doanh nghiệp như một cơ sở đê ra quyêt định cho vay hay đâu

tư.

Doanh nghiệp phải có sự lựa chọn đúng đắn hoặc là không minh bạch trong

tài chính để có thể trốn thuế nhưng doanh nghiệp sẽ không có khả năng tiếp

cận được các nguồn vốn chính thức phục vụ cho việc mở rộng phát triển sản xuất

kinh doanh hoặc là minh bạch tình hình tài chính của doanh nghiệp nhưng không

thể trốn thuế nhưng có thể gia tăng cơ hội tiếp cận các nguồn vốn chính thức từ đó

dễ dàng tiếp cận nguồn vốn chính thức phục vụ cho nhu cầu mở rộng phất triển kinh

doanh. Do đó đê tăng cường niêm tin với các ngân hàng, các tô chức, cá nhân đâu

tư vôn vào doanh nghiệp, các DNNVV cân phai có lựa chọn đúng đăn, có một cái

nhìn mới vê hoạt động kê toán, lập báo cáo tài chinh. Phai xem đây là một công cu

quản trị và thực hiện trung thực, minh bạch và đúng với qui định pháp luật. Phải

tuyên dung những kê toán viên có năng lực thực sự, chú trọng đên khâu bôi dưỡng

cập nhật và nâng cao kiên thức. Làm tôt được khâu này không những giúp doanh

nghiệp kiểm soát hoạt động kinh doanh của chính bản thân doanh nghiệp (kiểm soát

chi phí, giá thành sản phẩm …) mà còn góp phần giúp các doanh nghiệp tạo lập

được niêm tin từ các đôi tượng bên ngoài doanh nghiệp như: nhà đâu tư, ngân hàng,

cơ quan thuê. Cuộc điêu tra của CIEM (Viện Nghiên cứu Quan lý Kinh tê Trung

ương) vê việc sử dung hệ thông kê toán chinh thức ở các DNNVV cho kêt qủa như

sau: Trong số 2692 DN được điều tra có áp dụng hệ thống sổ sách kế toán chính

thức thì có 998 DN (37,1%) Áp dụng hệ thống sổ sách kế toán chính thức còn lại

1694 DN (62,9%) Không áp dụng. Trong số 998 DN áp dụng hệ thống sổ sách kế

toán chính thức thì có 251 DN (25,2%) có kiểm toán còn 747 DN (74,8%) không

được kiểm toán.

3.1.2 Thay đổi tư duy trong quản trị doanh nghiệp ở các DNNVV.

Rất nhiều các DNNVV ở Việt nam hoạt động theo hình thức “gia đình” các

doanh nghiệp có xu hướng sử dụng người trong gia đình vào làm việc trong doanh

nghiệp và năm giữ những vị trí quan trọng mà không hê có sự xem xét đên năng lực

thực tê của những người này. Do đó làm hiệu qua công việc kém đi, doanh nghiệp

63

sẽ không tuyên dung được người tài, hoặc nêu tuyên dung được người tài thì cũng

không tạo cơ hội, điêu kiện đê họ phát huy được hêt năng lực của mình và cuôi

cùng không giữ chân được người tài. Do đó nguôn nhân lực có chât lượng cao đa

phân xem các DNNVV là nơi họ học tập kinh nghiệm, không phai nơi họ găn bó lâu

dài. Việc thiêu người tài trong doanh nghiệp làm doanh nghiệp rât khó khăn trong

quá trình phát triển.

Vì vậy để giữ chân và thu hút người tài thì DNNVV phải thay đổi trong tư duy

quản trị doanh nghiệp, phải định hình một phong cách quản trị doanh nghiệp riêng

cho bản thân. Các DNNVV không có nguồn tài chính dồi dào để trả lương và

thưởng hậu hĩnh cho người tài như các công ty lớn thay vào đó họ có thể mời họ

tham gia vào ban quản trị doanh nghiệp làm cho họ trở thành chủ của doanh nghiệp,

tôi tin rằng rất nhiều người làm thuê sẽ đồng ý với lời mời này thay vì họ chuyển

sang một doanh nghiệp lớn khác nhưng vẫn là làm thuê. Làm được điều này doanh

nghiệp sẽ giải quyết được nhiều vấn đề: trước tiên họ giữ chân được người tài,

không cho họ chuyển sang đối thủ cạnh tranh hoặc thành lập các doanh nhgiệp mới

là đối thủ cạnh tranh tiềm năng sau này, thứ hai họ không tốn chi phí, không thay

đổi cơ cấu trả lương nhưng vẫn giữ chân được người có năng lực, thứ ba nếu người

tài sau khi được làm chủ doanh nghiệp thì họ sẽ làm việc càng hiệu quả hơn vì lúc

đó họ không còn phải làm thuê nữa mà làm cho chính bản thân họ, thứ tư doanh

nghiệp có thể thu hút thêm vốn đầu tư từ những người tài khi họ đóng góp thêm vốn

cho doanh nghiệp.

3.1.3 Tham gia cac hiệp hôi nganh nghê.

Các DNNVV tại Việt Nam có mối liên kết với nhau rất hạn chế. Điều này thể

hiện trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự liên kết kém chặt chẽ với nhau của

các DNNVV có thể bắt nguồn từ tính cách của dân tộc Việt nam. Dân tộc Việt nam

thường thể hiện tinh thần đoàn kết khi gặp khó khăn trong khi bình thường thì rất ít

khi hợp tác đoàn kết với nhau. Do đó với mục tiêu là sự lớn mạnh của bản thân

DNNVV nói riêng và hệ thống các DNNVV của Việt nam nói chung, các DNNVV

cần thiết phải có sự hợp tác và liên kết với nhau. Đặc biệt trong thời kỳ hiện nay,

64

thời kỳ toàn cầu hoá và chuyên môn hoá sự phân công lao động diễn ra trên toàn thế

giới, một doanh nghiệp riêng rẽ không thể tự mình và cũng không nên tự mình hoàn

tất các công đoạn của một quá trình sản xuất sản phẩm. Dĩ nhiên thực hiện điều này

là thật sự không dễ dàng phải có sự phối hợp từ nhiều phía nhưng bản thân các

doanh nhân, các ông chủ doanh nghiệp phải tự mình thay đổi quan điểm (lâu nay

các doanh nhân Việt nam thường có quan điểm thương trường là chiến trường nên

sự hợp tác là hạn hữu) đề cao sự hợp tác, liên kết giúp nhau cùng phát triển thì hệ

thống các DNNVV sẽ ngày càng phát triển.

Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam là nơi mà DNNVV có thể tìm kiếm

sự hỗ trợ vê nhiêu mặt như: tư vân hô trợ ky thuật, thông tin phá́p lý cho các doanh

nghiệp, tô chức hội thao, kêu gọi tài trợ, giúp đỡ các DNNVV phát triên, giúp các

doanh nghiệp trong việc tìm kiêm cơ hội ở thị trường nước ngoài v.v.

Kinh nghiệm ở nhiêu nước cho thây, vai trò của hiệp hội các DNNVV rât được

coi trọng, có sức anh hưởng lớn đên các doanh nghiệp đang hoạt động trong nên

kinh tê nói chung. Vi du ở Hàn Quôc, hiệp hội các DNNVV ở đây còn sở hữu ca

một hệ thông ngân hàng của riêng hiệp hội với sô vôn rât lớn.

Vì vậy, các doanh nghiệp cần tham gia tích cực hơn nữa vào các hiệp hội ngành

nghê, không chỉ dừng lại ở việc đăng ký thành viên mà phai tham gia vào các hoạt

động, chương trình do hiệp hội tô chức, đóng góp ý kiên, sáng kiên vì sự phát triên

của hiệp hội của nói chung. Điêu đó sẽ vô cùng có lợi cho các doanh nghiệp, hiệp

hội chinh là nơi các doanh nghiệp có thê chia sẻ và học tập kinh nghiệm, giúp đỡ và

hợp tác trong kinh doanh, nhận được sự tư vân, hô trợ của hiệp hội khi cân thiêt và

nhât là tạo dựng được một tiêng nói có trọng lượng đôi với chinh phủ.

3.2 Kiến nghị các trung gian tài chính.

3.2.1 Kiến nghi đối vơi cac công ty cho thuê tài chính.

Trong thời gian qua với các ưu điểm của mình như: tách quyền sở hữu và quyền

sử dụng tài sản, đặc biệt là cho vay không cần tài sản thế chấp các công ty CTTC đã

có những bước phát triển mạnh mẽ. Thị trường cho thuê tài chính có những bước

tiên đáng kê, trở thành một kênh dân vôn trung dài hạn quan trọng cho nên kinh tê,

65

nhất là cho các DNNVV. Tuy nhiên để đáp ứng với nhu cầu đổi mới trang thiết bị,

máy móc của các doanh nghiệp ngày càng tăng để tăng quy mô, tăng năng lực cạnh

tranh trong thời gian tới các công ty tài chinh cân có những giai pháp cu thê đê nâng

cao tinh hâp dân và hiệu qua hoạt động tương xứng với tiêm năng của mình, cũng

đồng nghĩa với việc nâng cao hơn nữa sự hỗ trợ dành cho các DNNVV. Một số kiến

nghị đối với công ty CTTC như sau:

- Nâng cao trình độ nguồn nhân lực trong việc đánh giá thẩm định tính khả thi của

dự án và quản lý chặt chẽ tài sản sau khi cho thuê.

- Cố gắng giảm các loại chi phí đầu vào nhằm hạ giá dịch vụ để thu hút khách

hàng.

- Mở rộng mạng lưới hoạt động.

- Trong thời gian qua hoạt động của các công ty CTTC ngày càng phát triển nhưng

sự hiểu biết của DNNVV đối với hoạt động của các công ty CTTC còn hạn chế.

Nhiều khách hàng tiềm năng chưa tiếp cận và tận dụng được những lợi ích của

phương thức này mang lại. Do đó các công ty CTTC cần phải kết hợp với hiệp hội

DNNVV để thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề về CTTC thông qua

hội thảo để tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu rộng rãi về hoạt động CTTC nâng cao

sự hiểu biết của DNNVV về hoạt động CTTC.

- Nhà nước cũng cần có các chính sách khuyến khích cho các công ty CTTC để các

công ty CTTC có các chương trình tài trợ cho các DNNVV, ví dụ như ưu đãi thuế

(thuế thu nhập doanh nghiệp), ngoại tệ, lãi suất huy động vốn trung dài hạn…nhằm

giúp các công ty CTTC có thể giảm các chi phí đầu vào và từ đó giảm giá cho thuê,

nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng qui mô hoạt động.

3.2.2 Quỹ đâu tư mạo hiêm.

Vốn đầu tư mạo hiểm được xem là một trong những lựa chọn tốt mà doanh

nghiệp có thể sử dụng khi có nhu cầu về vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh,

đồng thời vốn đầu tư mạo hiểm là một kênh dẫn vốn hiệu quả cho nền kinh tế giảm

áp lực về nguồn cung vốn cho nền kinh tế của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, ở

một thị trường được đánh giá là có tiềm năng và đang khát vốn mà thị trường vốn

66

mạo hiểm lại chưa phát triển mạnh là một vấn đề cần phải suy nghĩ. Để có thể phát

triển thị trường vốn đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam thì cần phải có những giải pháp

phối hợp từ nhiều phía, từ phía chính phủ với việc hoàn thiện môi trường đầu tư,

môi trường pháp lý, từ phía các doanh nghiệp phải chuyên nghiệp chủ động hơn

trong việc tiếp cận vốn đầu tư mạo hiểm và từ các quỹ đầu tư mạo hiểm với những

chính sách sâu sát hơn với môi trường đầu tư ở Việt Nam.

Về khía cạnh nhà nước thì để quỹ đầu tư thực hiện tốt vai trò của mình thì cần

những chính sách khuyến khích ủng hộ như:

+ Ưu đai vê thuê cho hoạt động đầu tư mạo hiêm trong một sô truờng hợp

mà nhà nước khuyến khích. Đầu tư mạo hiểm tức là phải gánh chịu những rủi ro rất

lớn, có thể được lợi nhuận rất cao nhưng cũng có thể thất bại, chính vì yếu tố rủi ro

cao hơn nên thiết nghĩ chúng ta phải có một chính sách thuế thích hơp để thu hút

được nguồn vốn đầu tư mạo hiểm. Trong trường hợp quỹ đầu tư vào các DNNVV

vừa thành lập thì được ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian đầu

nhưng nếu đầu tư vào các doanh nghiêp đang trên đà thua lỗ và chuẩn bị phá sản thì

không được ưu đãi gì.

+ Luật sở hữu trí tuệ nước ta còn tồn tại một số vấn đề như việc xử lý các vi phạm

sở hữu trí tuệ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chế tài xử phạt thấp do đó tính răn

đe gần như không có, thời gian xử lý kéo dài. Do đó để tạo môi trường kinh doanh

thuận lợi thu hút các quỹ đầu tư mạo hiểm thì đẩy mạnh quá trình sửa đổi, hoàn

thiện luật quyền sở hữu trí tuệ là cần thiết nhằm bảo vệ quyền của những phát minh,

sáng chế sản phẩm, công nghệ mới cho những doanh nghiệp mới khởi sự. Điều này

không chỉ giúp cho hoạt động của thị trường vốn mạo hiểm phát triển mạnh mẽ mà

còn làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh ở Việt Nam, thu hút được nguồn

vốn đầu tư nước ngoài trong điều kiện chúng ta đã là thành viên chính thức của

WTO.

+ Phát triển một thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả và có tính bền vững.

Có thể xem thị trường chứng khoán là tiền đề để phát triển thị trường vốn mạo

hiểm. Bất kỳ một quốc gia nào nếu chưa có sự ra đời của thị trường chứng khoán

67

hoặc thị trường chứng khoán hoạt động chưa mạnh thì vốn mạo hiểm còn bị hạn chế

nhiều vì đây được xem là kênh thoát vốn quan trọng của các quỹ đầu tư mạo

hiểm.

3.2.3 Kiến nghị phát triển thị trường chứng khoán.

Thị trường chứng khoán Việt Nam hình thành được gần mười năm. Chính

phủ Việt Nam quyết tâm xây dựng một thị trường vốn phát triển để làm một kênh

huy động vốn tốt cho nền kinh tế nói chung và cho các doanh nghiệp. Thị trường

chứng khoán vừa qua đã có những phát triển rất tốt, rất nhanh quy mô vốn hoá của

thị trường ngày càng tăng và chiếm một tỷ trọng khá lớn trong GDP của nền kinh

tế, nhưng nó cũng có những vấn đề như chưa được ổn định. Trong quá trình phát

triển nó cũng có những biến động rất là lớn. Việc mất ổn định của thị trường chứng

khoán Việt Nam trong thời gian qua là chuyện đương nhiên khi mọi thứ đối với

Việt Nam còn quá mới. Nếu thị trường chứng khoán hoạt động ổn định và thể hiện

được đúng chức năng của nó sẽ làm giảm áp lực về cung vốn cho nền kinh tế từ các

ngân hàng để từ đó ngân hàng có nhiều điều kiện mở rộng tín dụng đối với

DNNVV.

- Tăng cường và phát triển hệ thống công bố thông tin nhằm đảm bảo thông tin

công bố kịp thời. Giám sát việc công bố thông tin của các thành viên thị trường đảm

bảo tính minh bạch, đầy đủ. Ngoài ra có cơ chế, các biện pháp chế tài nghiêm khắc

hiệu quả đối với các cá nhân tổ chức (thành viên của SGDCK)có các hành vi phạm

luật như: giao dịch nội gián, thao túng, lũng đoạn thị trường. Để giảm thiểu rủi ro

gắn với những vi phạm thông tin trong kinh doanh chứng khoán cần coi trọng ngăn

chặn và xử lý các thông tin sau: thiếu phổ biến thông tin chính xác, cần thiết đầy đủ,

có hệ thống cập nhật, thông tin bị bóp méo, chậm công bố thông tin hoặc đánh tráo

thông tin khi đưa ra công chúng.

- Cần tăng cường hoạt động kiểm tra giám sát các phát hành cổ phiếu, huy động vốn

một cách vô tội vạ, huy động vốn mà không sử dụng vốn đúng mục đích gây thiệt

hại cho các nhà đầu tư.

68

- Phải hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán. Hiện nay chúng ta đã

có luật Chứng khoán và chúng ta đang vận hành trên cái luật đó. Tuy nhiên qua quá

trình vận hành thì mới thấy là có quá nhiều khiếm khuyết và có những vấn đề chưa

phù hợp, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đang xảy ra đối với thị trường chứng

khoán. Phải sửa luật Chứng khoán cho phù hợp hơn, tốt hơn, để đảm bảo cho thị

trường chứng khoán phát triển được theo xu thế chung, hội nhập trên thế giới, đồng

thời đảm bảo được một thị trường phát triển tốt.

- Bên cạnh đó, do thiếu nhà tạo lập thị trường nên một đặc trưng riêng có của TTCK

Việt Nam là khi giá cổ phiếu cao thì hầu như không ai bán, còn khi giá thấp lại rất

hiếm người mua. Những yếu tố này khiến thị trường dễ rơi vào trạng thái giao dịch

một chiều. Khi đó vai trò của nhà nước là tạo ra một công ty có nguồn vốn và chứng

khoán lớn như dạng Cty SCIC để bình ổn thị trường.

- Hiện nay theo luật định tỉ lệ nắm giữ vốn cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài

là không quá 30% hay 49% đối với các DN đã niêm yết, nếu nhà đầu tư nước ngoài

nào nắm giữ vượt 49% tổng số cổ phần phát hành ra công chúng trước khi niêm yết,

đăng ký giao dịch thì phải thực hiện bán cổ phiếu để đảm bảo tỷ lệ nắm giữ của bên

nước ngoài tối đa là 49%.Đối với thị trường chứng khoán thời kỳ đầu thì quy định

này còn phù hợp tuy nhiên sau thời gian phát triển gần 10 năm thì quy định này nên

được thay đổi hay chỉ giữ lại đối với những ngành nghề mang tính nhạy cảm còn

đối với các ngành nghề khác thì không cần thiết giữ quy định này.

- Khuyến khích thành lập các công ty đánh giá mức tín nhiệm.

3.2.4 Kiến nghi đối vơi ngân hang thương mại.

Theo báo cáo của ngân hàng nhà nước tính đến cuối năm 2008 tổng số doanh

nghiệp đang còn quan hệ tín dụng với ngân hàng là 163.673 doanh nghiệp chiếm

trên 50% số DNNVV với tổng nguồn vốn kinh doanh là 482.092 tỷ đồng trong đó

vốn tự có chiếm tỷ trọng là 36,35%, vốn vay ngân hàng chiếm tỷ trọng là 45,31%

còn lại vôn khác chiêm tỷ trọng 18,44%. Như vậy ta thây rằng ngân hàng chinh là

nguôn cung vôn chủ yêu cho các DNNVV. Nhìn chung hiện nay, hâu hêt các ngân

hàng đêu đặt DNNVV là khách hàng chiên lược và có những chinh sách, chiên lược

69

nhằm hướng đên đôi tượng khách hàng này. Vi du như ở ngân hàng Ngoại Thương

Việt Nam, theo ông Huỳnh Song Hào (phó giám đôc chi nhánh thành phô Hô Chi

Minh) cho biêt, hệ thông ngân hàng này đa chuyên từ mô hình bán buôn sang bán

lẻ, đặc biệt là nguôn vôn cho DNNVV ngày càng được tăng lên qua các năm. Tinh

riêng trong năm 2006, nguôn vôn này đa tăng từ 500 tỷ lên 3.000 tỷ đông. Còn với

ngân hàng Ngoài quôc doanh (VP bank), ngân hàng này cũng tuyên bô ngoại trừ

khách hàng truyền thống, còn lại sẽ từ chối các khoản vay mới trên 15 tỷ đồng, để

chia nhỏ cho nhiều DNNVV được vay. Vì thấy được tiềm năng của khối DNNVV

nên các ngân hàng đã thay đổi cách nhìn đối với DNNVV đưa DNNVV từ vị trí

khách hàng tiềm năng trở thành khách hàng trọng tâm. Và kết quả bước đầu đạt

được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, như đã trình bày ở phần thực trạng về

huy động của DNNVV từ kênh ngân hàng thì hiện tại DNNVV còn gặp một số khó

khăn khi tiếp cận vốn vay từ ngân hàng như: lãi suất vay cao, thiếu tài sản thế chấp,

vướng mắc thủ tục, khó khăn về lập phương án kinh doanh. Tất cảc những khó khăn

trên đều có thể giải quyết được nếu hai bên DNNVV và ngân hàng cùng nhau giải

quyết mục đích cuối cùng mang lại lợi ích cho cả đôi bên và cuối cùng là cả xã hội

được hưởng lợi đôi với sự phát triên chung này. Do đó đê khai thác hêt tiêm năng

đó các ngân hàng cân:

- Nghiên cứu phát triển các sản phẩm mới phù hợp với đặc điểm của loại hình

DNNVV. Muốn vậy ngân hàng cần phải thực hiện việc khảo sát, điều tra nhu cầu

khách hàng, đồng thời phải ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn cho từng loại sản

phâm riêng biệt từ đó hô trợ các DNNVV tiêp cận được nguôn vôn của ngân hàng

một cách thuận lợi hơn.

- Giảm tối đa các thủ tục xét duyệt hồ sơ, thẩm định, giải ngân, giảm thời gian giải

quyết hồ sơ xuông mức thâp nhât có thê. Vi du như ở Ngân hàng An Bình hiện nay,

thời gian xét duyệt hô sơ đa được giam xuông còn 3 ngày kê từ ngày nhận hô sơ. Ơ

ngân hàng đâu tư và phát triên Việt Nam, thời gian này là từ 3 đên 5 ngày.

- Bao thanh toán là nghiệp vụ không còn xa lạ gì đối với nhiều quốc gia trên thế

giới và nó đã mang lại lợi ích thiết thực cho khách hàng lẫn đơn vị cung cấp dịch

70

vụ. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, bao thanh toán vẫn chưa được phát triển rộng

rãi mà một trong những nguyên nhân là do ngân hàng vẫn còn dè dặt với loại hình

này. Mặc khác, bao thanh toán (factoring) còn là một khái niệm còn lạ lẫm với

nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì thế, dù được giới chuyên môn đánh giá cao

nhưng nghiệp vụ bao thanh toán vẫn chưa thực sự phát triển ở Việt Nam.

Theo Hiệp hội bao thanh toán thế giới (FCI – Factors Chain International)

thì định nghĩa bao thanh toán là một loại hình dịch vụ tài chính trọn gói bao gồm sự

kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín dụng, theo dõi các khoản

phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là một sự thỏa thuận giữa người cung cấp dịch vụ

bao thanh toán (factor) với người cung ứng hàng hóa dịch vụ hay còn gọi là người

bán hàng trong quan hệ mua bán hàng hóa (seller). Theo như thỏa thuận, factor sẽ

mua lại các khoản phải thu của người bán dựa trên khả năng trả nợ của người mua

trong quan hệ mua bán hàng hóa (buyer) hay còn gọi là con nợ trong quan hệ tín

dụng (debtor).

Nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam theo Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN

được định nghĩa là “một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán

hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa

đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng

hóa”.

Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng nói chung, có thể hiểu nghiệp

vụ bao thanh toán chính là hình thức tài trợ cho những khoản thanh toán chưa đến

hạn từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ, đó chính

là hoạt động mua bán nợ.

Theo số liệu thống kê của FCI, doanh số bao thanh toán của Việt Nam năm 2007

là 43 triệu Euro. Tuy rằng con số này còn rất nhỏ so với nhiều nước trong khu vực,

nhưng nó cũng thể hiện bước chuyển biến tích cực của thị trường bao thanh toán ở

Việt Nam. Từ năm 2004 trở về trước, doanh số bao thanh toán của Việt Nam chỉ là

con số 0, nhưng đến năm 2005, con số này đã tăng lên đạt 2 triệu Euro, năm 2006

đạt 16 triệu Euro, đến năm 2007 được 43 triệu Euro.

71

Biểu đồ 3.1: Doanh thu bao thanh toán tại Việt Nam (Đơn vị: Triệu Euro)

Nguồn FCI: www.factors-chain.com)

Qua một thời gian triển khai hoạt động, mặc dù có những dấu hiệu tích cực

nhưng tình hình bao thanh toán ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển và chưa thể

hiện hết những ưu điểm vốn có của nó. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân

khác nhau, từ phía Nhà nước với những bất cập môi trường pháp lý, từ chính bản

thân các đơn vị thực hiện bao thanh toán và thái độ của các doanh nghiệp, nhất là

các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể:

- Theo Quy chế 1096, nghiệp vụ bao thanh toán chỉ áp dụng cho các khoản phải thu

xuất phát từ hợp đồng mua bán hàng hóa, không đề cập gì đến khoản phải thu phát

sinh từ việc cung ứng dịch vụ.

- Theo định nghĩa, bao thanh toán chỉ là hình thức cấp tín dụng, nên khoản ứng

trước chỉ đơn thuần là khoản cho vay, còn khoản phải thu vẫn là tài sản thuộc

sở hữu của người bán. Chính sự không chính xác trong việc định nghĩa nghiệp vụ

bao thanh toán đã dẫn đến những rủi ro tiềm ẩn đối với đơn vị bao thanh toán trong

việc chuyển giao quyền đòi nợ từ người bán sang đơn vị bao thanh toán. Pháp luật

hiện nay vẫn không có quy định liên quan đến việc xác lập mối quan hệ này.

- Sự không thống nhất các qui định về bao thanh toán cũng tạo một rào cản lớn cho

sự phát triển của bao thanh toán quốc tế. Bởi vì bao thanh toán quốc tế không những

chỉ chịu sự điều tiết của GRIF (General rules for international factoring), mà còn

chịu sự điều tiết của luật pháp tại quốc gia của các bên liên quan trong hợp đồng. Ví

dụ như: theo GRIF thì không cần phải có xác nhận của người mua đồng ý thanh

toán cho đơn vị bao thanh toán. Tuy nhiên, theo Quy chế bao thanh toán tại Việt

72

Nam thì phải có xác nhận này thì hợp đồng bao thanh toán giữa bên bán và tổ chức

bao thanh toán mới có hiệu lực. Sự không thống nhất này gây khó khăn cho bên bán

và đơn vị thực hiện bao thanh toán.

- Lợi ích của bao thanh toán là không cần dùng hối phiếu để tài trợ và giải quyết

mọi tranh chấp thương mại mà chỉ cần có hợp đồng và các hóa đơn thương mại đã

được đóng dấu chuyển quyền sở hữu. Hợp đồng bao thanh toán cũng như các hợp

đồng thương mại khác sẽ được xem như là cơ sở pháp lý để trong trường hợp có

tranh chấp, sẽ được đưa ra trọng tài kinh tế hoặc tòa án thương mại để xét xử.

Nhưng vấn đề ở đây là, ở Việt Nam, hiệu lực hợp đồng và thậm chí là hiệu lực kết

quả xét xử của trọng tài kinh tế hay tòa án thương mại vẫn còn bị xem nhẹ. Rất

nhiều trường hợp vi phạm hợp đồng, không tuân thủ phán quyết của trọng tài và tòa

án mà vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Nói tóm lại, một nguyên nhân khiến bao

thanh toán chậm được triển khai ở Việt Nam là do luật pháp của ta chưa

nghiêm.

- Mặt khác, trên cơ sở lý thuyết, khởi kiện tại tòa án được xem là cứu cánh cuối

cùng và hiệu quả nhất của ngân hàng để thu hồi các khoản nợ khi con nợ cố tình lẫn

tránh nghĩa vụ khi đến hạn. Nhưng thực tế cho thấy việc khởi kiện tại tòa án chưa

thực sự là phương thức hiệu quả để bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ. Thủ tục tố tụng

kinh tế và dân sự còn quá phức tạp, chi phí kiện tụng tốn kém, công tác thi hành án

còn nhiều bất cập… Sau một chặng đường dài tốn kém thời gian và tiền bạc, kết

quả là ngân hàng vẫn đứng trước nguy cơ không thu hồi được khoản nợ.

- Về phía ngân hàng thì sản phẩm bao thanh toán chưa có sức hấp dẫn đối với khách

hàng. Dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thường chỉ chú trọng tới các doanh

nghiệp lớn. Dịch vụ bao thanh toán của ngân hàng chưa thật tiện lợi, hệ thống thông

tin tín dụng còn thiếu thốn nên để tránh rủi ro, ngân hàng đưa ra những điều kiện rất

khó đáp ứng, có đòi hỏi cao đối với khách hàng như phải chứng minh uy tín của bên

mua hàng, các khoản phải thu phải thật sự an toàn hay phải có sự bảo lãnh của định

chế tài chính khác. Đây thật sự là điều kiện khó khăn đối với doanh nghiệp khi sử

dụng dịch vụ, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

73

- Đối với quốc tế, bao thanh toán thường là miễn truy đòi. Sau khi kí hợp đồng bao

thanh toán và nhận tiền đầy đủ từ phía tổ chức bao thanh toán, người bán (nhà xuất

khẩu) sẽ hết nghĩa vụ đối với hợp đồng đã kí với nhà nhập khẩu. Đây là một trong

những ưu điểm nổi bật làm bao thanh toán trở nên hấp dẫn vì nhà xuất khẩu không

còn lo lắng, bận tâm với hợp đồng mua bán nữa. Tuy nhiên, vì dịch vụ bao thanh

toán còn khá mới mẻ và để đảm bảo an toàn, ngân hàng chỉ thực hiện bao thanh

toán có quyền truy đòi. Điều này cũng được xem là một cản trở lớn đối với sự phát

triển dịch vụ này tại Việt Nam. Nó làm cho các doanh nghiệp có tâm lý không

muốn sử dụng dịch vụ.

- Ngoài ra, bên bán hàng muốn được ngân hàng thực hiện bao thanh toán, khách

hàng của bên bán (bên mua hàng) phải được đơn vị bao thanh toán cấp hạn mức tín

dụng. Điều này thật sự vô lý, và đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi sử dụng

dịch vụ bao thanh toán.

Xét về mặt lý thuyết, bao thanh toán khắc phục được tình trạng cho vay dựa trên

tài sản thế chấp của tín dụng ngân hàng giải toả khó khăn về tài sản đảm bảo của

DNNVV. Do đó để nghiệp vụ bao thanh toán phát triển thì cần:

- Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động bao thanh toán. NHNN cần

sớm ban hành một văn bản, quy chế khác ngắn gọn, đầy đủ, khắc phục được những

vấn đề chưa hoàn thiện trong quy chế cũ và thống nhất với thông lệ, công ước về

bao thanh toán quốc tế:

+ Định nghĩa chính xác nghiệp vụ bao thanh toán theo thông lệ quốc tế. Cần

có sự phân biệt rạch ròi giữa các thuật ngữ “cấp tín dụng” và “mua bán nợ”. Nên

tách bạch hoạt động bao thanh toán với cho vay và hai nghiệp vụ này không nên

được quản lý và kiểm soát như nhau.

+ Cần mở rộng phạm vi cung ứng dịch vụ bao thanh toán, không nên chỉ bó hẹp

trong hoạt động thương mại hàng hóa. Bởi vì hiện nay, lĩnh vực dịch vụ đang ngày

càng được mở rộng và đây là một lĩnh vực đầy tiềm năng phát triển. Vì thế, nên

thực hiện bao thanh toán đối với các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng dịch

vụ.

74

+ Nên bỏ quy định bên mua hàng phải gửi văn bản xác nhận và cam kết thanh toán

cho đơn vị bao thanh toán. Qui định này làm hạn chế phạm vi hoạt động của đơn vị

bao thanh toán cũng như quyền lợi sử dụng dịch vụ bao thanh toán của người bán.

Mặt khác, xét về nguyên tắc, việc chuyển giao quyền đòi nợ từ bên bán cho đơn vị

bao thanh toán không cần phải có sự đồng ý của bên mua vì dù bên mua thanh toán

tiền cho ai đi nữa, thì bên mua cũng không thể phủ nhận nghĩa vụ thanh toán của

mình trong hợp đồng thương mại.

+ Về phía ngân hàng cần có chính sách thu phí hợp lý hơn đối với các khoản thu

từ các công ty uy tín có thương hiệu, các công ty trên sàn niêm yết được đánh giá

tốt, hoặc thực hiện các công trình có nguồn gốc là nguồn vốn là ngân sách nhà nước

vì rủI ro ở các trường hợp này là khá thấp.

- Ở Việt Nam, tài sản đảm bảo vẫn là vấn đề tiên quyết để nhận được nguồn tài trợ

từ các tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam, tài sản đảm bảo không những được các ngân

hàng Việt Nam mà còn được các ngân hàng nước ngoài xem trọng. Điều này cũng

là tất yếu, bởi vì, đặc điểm thị trường Việt Nam đầy rủi ro, không cho phép ngân

hàng mạo hiểm. Các ngân hàng không thể xét duyệt hạn mức tín dụng đơn thuần

sau khi nghe các doanh nghiệp chứng minh tình trạng tài chính của mình là lành

mạnh trong khi những lý lẽ đó có được từ việc phân tích các báo cáo tài chính

không thể tin tưởng được. Hiện tại hầu hết các khoản vay tại ngân hàng đều phải có

tài sản đảm bảo mà chủ yếu tài sản đảm bảo được ngân hàng dễ dàng chấp thuận là

bất động sản (quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất)

nguyên nhân là bất động sản có giá trị ổn định, tài sản loại này dễ quản lý, thẩm

định giá tài sản đảm bảo dễ và chi phí thẩm định thấp còn các loại tài sản khác như

động sản, quyền đòi nợ, … không được ngân hàng thích vì lý do khó xác định giá

trị để thế chấp (quyền sở hữu trí tuệ, dây chuyền máy móc thiết bị chuyên dùng,

bằng phát minh sáng chế..) hay khó quản lý như các loại động sản. Để giải quyết

vấn đề trên là ngân hàng phải tăng cường đào tạo cho cán bộ thẩm định về công tác

thẩm định giá sau đó là tiến tới ngân hàng cần thành lập riêng cho mình một công ty

chuyên về định giá mang tính chuyên môn hoá cao nhằm giảm thiểu rủi ro trong

75

việc định giá mà khách hàng vay vốn có thể được đáp ứng nhu cầu vốn vay khi tài

sản đảm bảo được định giá một cách chính xác.

- Phôi hợp với các quy bảo lãnh (quỹ bảo lãnh DNNVV, quỹ bảo lãnh DNNVV do

NH Phát triên Việt nam là đâu môi) đê mở rộng cho vay đôi với DNNVV.

3.3 Kiến nghi đối vơi quỹ bao lãnh tín dụng.

3.3.1 Kiến nghi đối vơi quỹ bao lãnh tín dụng DNNVV.

Nếu nói các chính sách của Chính phủ có thể tác động mạnh tới sự phát triển

và lớn mạnh của DNNVV thì như thế vẫn còn quá khiêm tốn. Trong một thế giới

còn tồn tại sự nghèo đói và thiếu thốn thì DNNVV là một công cụ có năng lực đã

được thực tế chứng minh là đủ để không những xóa đi mọi đau khổ mà còn tạo ra

một tầng lớp trung lưu vững chắc, một nguồn thuế ổn định và tăng cường ổn định

xã hội. Nói tóm lại, DNNVV là một định hướng đúng đắn.

Hầu hết các DNNVV ra đời với một số vốn ít ỏi nó là tập hợp vốn của những

người thân trong gia đình hay là một nhóm người có quen biết nhau từ trước. Do đó,

nếu một chính phủ muốn thúc đẩy sự phát triển của DNNVV thì họ phải đề cao

những chính sách giảm thiểu những mạo hiểm cố hữu trong kinh doanh mà cụ thể ở

đây là tạo ra khả năng tiếp cận vốn chính thức một cách dễ dàng.

Vậy chính sách cần thiết đầu tiên để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp

nhỏ là hỗ trợ những doanh nhân tương lai tiếp cận nguồn vốn cần có thể có thể khởi

nghiệp.

Ở Hoa Kỳ, có Cơ quan Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ (SBA) có nhiệm vụ giúp các

doanh nhân tiếp cận nguồn vốn cần có để chấp nhận thử thách khi khởi sự doanh

nghiệp nhỏ. Điều đáng chú ý là SBA không thực sự cho vay mà chỉ bảo lãnh cho

các khoản vay. Các ngân hàng sẽ dễ cho những doanh nghiệp mới khá rủi ro vay

hơn khi họ biết SBA và Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh việc trả nợ, ngay cả khi người

vay không trả được. Kết quả là nền kinh tế Hoa Kỳ luôn năng động và có tới 99%

doanh nghiệp là các doanh nghiệp nhỏ. Do vậy, điều đầu tiên mà bất kỳ chính phủ

nào đang mong muốn khuyến khích DNNVV nên làm là xây dựng quỹ cho vay có

bảo lãnh của chính phủ. Việc tiếp cận vốn dễ dàng sẽ tạo nền móng vững chắc cho

76

khu vực DNNVV sống động. Tại Việt Nam quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động

Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được ban hành từ

20/12/2001 theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (QĐ

193/QĐ-TTg) thế nhưng đến thời điểm hiện tại số tỉnh có quỹ bảo lãnh tín dụng đi

vào hoạt động thì rất ít. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao mà một chủ trương đúng

đắn của chính phủ nhằm giúp các DNNVV giải quyết khó khăn về nguồn vốn kinh

doanh lại không thể phát huy tác dụng như mong muốn? Nguyên nhân đã được

phân tích ở phần thực trạng nhận thức được khó khăn nêu trên nên học viên nêu ra

một số kiến nghị sau nhằm giúp cho quỹ hoạt động hiệu quả hơn:

+ Trong việc huy động nguôn vôn cho hoạt động của quy, cân chủ động hợp tác,

tìm nguôn vôn mới từ các tô chức, đặc biệt là những tô chức quôc tê có chương

trình hỗ trợ cho các DNNVV tại Việt Nam, như Uy Ban Châu Âu, quy hô trợ tài

chinh dành cho các DNNVV của APEC, ngân hàng Thê Giới WB, ngân hàng Phát

Triển Á Châu ADB v.v…

+ Đối với các TP lớn có nguồn thu ngân sách dồi dào như: TP.HCM, Hà Nội, Đà

Nẵng thì nguồn vốn của Quỹ bảo lãnh tín dụng nên dựa trên ngân sách là chủ yếu

và khi đó việc tổ chức và điều hành quỹ sẽ do UBND thành phố, tỉnh quản lý điều

hành. Hơn nữa các tỉnh thành phố lớn cũng là nơi tập trung phần lớn DNNVV của

cả nước, còn các DNNVV ở các địa phương chưa thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng

có thể có sự lựa chọn khác là dựa vào sự bảo lãnh của ngân hàng phát triển Việt

Nam (điểm này sẽ trình bày rõ hơn ở phần sau).

3.3.2 Kiến nghi đối vơi quỹ bao lãnh tín dụng DNNVV do VDB lam đầu

mối.

Thực hiện những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy

trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP

ngày 11/12/2008 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định

số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 ban hành Quy chế Bảo lãnh cho doanh

nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại, Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg sửa đổi

bổ sung một số điều QĐ số 14 và giao cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPT

77

VN) thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tại các

ngân hàng thương mại (NHTM) để thực hiện dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh

doanh. Theo đó đối tượng được bảo lãnh vay vốn của ngân hàng Phát Triển Việt

Nam (VDB) là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (kể cả các Hợp tác xã) có

vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa 1.000 lao động (trong Quy chế này

gọi chung là doanh nghiệp). Phạm vi bảo lãnh vay vốn: Ngân hàng Phát triển Việt

Nam bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại hoạt động hợp

pháp tại Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh (vay

vốn đầu tư tài sản cố định); phương án sản xuất kinh doanh (vay vốn lưu động) phù

hợp với quy định của pháp luật. Ngân hàng Phát Triển Việt Nam không bảo lãnh

cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, kinh doanh bất động sản,

kinh doanh chứng khoán; dịch vụ (trừ dịch vụ vận tải hàng hóa, giáo dục đào tạo và

y tế); vay vốn để thanh toán nợ vay của các hợp đồng tín dụng khác.

Điều kiện để doanh nghiệp được bảo lãnh vay vốn:

- Thuộc đối tượng và phạm vi được bảo lãnh quy định tại Điều 1, Điều 2 của Quy

chế này.

- Có dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, phương án sản xuất kinh doanh

hiệu quả. Quy mô dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tối thiểu là 100

triệu đồng.

- Không có nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng. trường hợp doanh nghiệp có nợ quá

ạhn tại các tổ chức tín dụng nhưng có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh

và cam kết trả được nợ quá hạn thì được bên bảo lãnh thẩm định, quyết định bảo

lãnh vay vốn theo quy chế.

- Không nợ đọng thuế. Trường hợp doanh nghiệp có nợ đọng thuế, nhưng dự án đầu

tư phát triển sản xuất kinh doanh hoặc phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả

thì vẫn được Bên bảo lãnh thẩm định, quyết định bảo lãnh theo quy định tại Quy

chế này.

- Có vốn chủ sở hữu tham gia dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, phương án sản xuất

kinh doanh tối thiểu 10%.

78

- Sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay thực hiện dự án đầu tư để thế chấp bảo đảm

bảo lãnh tại Bên bảo lãnh.

Trên thực tế kể từ khi quyết định số 14 được triển khai đã mang lại hiệu

quả rất đáng khích lệ. Trên trang chủ www.vdb.gov.vn của VDB cho biết, hiện đã

có 30 trong 85 ngân hàng thương mại đầu mối trong cả nước đã ký thoả thuận với

VDB về bảo lãnh vay vốn kích cầu và tính tới ngày 27-3, hệ thống của VDB đã tiếp

nhận 506 hồ sơ đề nghị bảo lãnh. Trong đó, VDB đã thẩm định 177 hồ sơ, gồm bảo

lãnh 152 hồ sơ với giá trị vốn vay chấp thuận bảo lãnh 703,95 tỉ đồng/2.102,5 tỉ

đồng giá trị thực hiện dự án, phương án của doanh nghiệp và từ chối 25 hồ sơ

không đủ điều kiện. Còn lại 329 hồ sơ đang được thẩm định với nhu cầu vốn vay

4.281,1 tỉ đồng. Rõ ràng so với quỹ bảo lãnh tín dụng được thành lập theo Quyết

định số 193/2001/QĐ-TTg quỹ bảo lãnh được thành lập theo Quyết định

14/2009/QĐ-TTg thông thoáng đối với các DNNVV hơn rất nhiều. Tuy đạt một số

thành tựu rất khả quan trong thời gian chưa đầy một năm thực hiện nhưng quỹ bảo

lãnh tín dụng đã bộc lộ một số khiếm khuyết ngăn cản DNNVV tiếp cận dịch vụ hỗ

trợ của chính phủ như:

+ Một trong những điều kiện để được Ngân hàng Phát triển Việt Nam chấp thuận

bảo lãnh là doanh nghiệp sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay thực hiện dự án đầu

tư để thế chấp bảo đảm bảo lãnh tại Bên bảo lãnh. Đối với các DNNVV thực hiện

vay vốn để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động thì điều này sẽ rất khó vì nguyên vật liệu

đưa vào quá trình sản xuất rất khó để làm tài sản bảo đảm đáp ứng yêu cầu của

VDB.

+ Thời gian thẩm định và giải ngân khá lâu theo quy định là tối đa 20 ngày làm việc

kể từ khi nhận đủ hồ sơ, Ngân hàng Phát triển Việt Nam tiến hành thẩm định, nếu

đủ điều kiện thì có văn bản thông báo chấp thuận bảo lãnh cho doanh nghiệp vay

vốn. Trường hợp không chấp thuận bảo lãnh, Ngân hàng Phát triển Việt Nam thông

báo cho doanh nghiệp và giải thích rõ lý do không chấp thuận. Sau đó DNNVV

phải mất thời gian khoảng 7 ngày nữa sang làm việc với ngân hàng thương mại cho

vay để được tiến hành giải ngân nếu món cho vay được chấp thuận. Như vậy tổng

79

cộng thời gian mất gần cả tháng thì DNNVV mới nhận được tiền vay đây quả thực

là thời gian rất dài và sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là

các doanh nghiệp kinh doanh có yếu tố mùa vụ.

+ Theo Quy định của quyết định số 14 NH phải thông báo DN nợ thuế cho VDB

nếu không VDB sẽ từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Nhưng thực tế NH không

thể can thiệp quá sâu để biết DN có nợ thuế hay không. Tuy nhiên nếu VDB phát

hiện DN thiếu thuế từ chối bảo lãnh thì sẽ gây khó cho NH.

+ VDB sẽ từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không

sử dụng vốn vay đúng mục đích vay vốn đã ghi trong hợp đồng đã ký kết với bên

nhận bảo lãnh nếu DN sử dụng vốn sai hợp đồng tín dụng thì nên thu hồi vốn trước

hạn, không nên từ chối bảo lãnh gây khó cho NH trong việc thu hồi vốn.

Xuất phát từ những vướng mắc khó khăn nêu trên tôi đề nghị các kiến nghị

sau:

- Tổ chức các khoá đào tạo nhằm nâng cao chất lượng cán bộ thẩm định của VDB

giúp việc thẩm định hồ sơ bảo lãnh chính xác, rút ngắn thời gian thẩm định. Khách

hàng trước đây của VDB chủ yếu là các doanh nghiệp đủ điều kiện được vay theo

các chương trình hỗ trợ của chính phủ: như chương trình xuất khẩu nên đây là các

doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bài bản (tổ chức quản lý kinh doanh, sổ sách

chứng từ) trong khi hiện tại thực hiện Quyết định 14/2009/QĐ-TTg không ít cán bộ

thẩm định xét duyệt cấp bảo lãnh cho DNNVV sẽ gặp không ít khó khăn khi tiếp

xúc các DNNVV có tình hình sổ sách thiếu minh bạch và khá lộn xộn. Thêm vào đó

cán bộ thực hiện xét duyệt bảo lãnh phải thẩm định các loại tài sản đảm bảo đa dạng

và không ít trong số đó tính chất chuyên ngành. Đó chính là những tài sản do tính

chất đặc biệt của chúng, chỉ có giá trị sử dụng hạn hẹp cho một mục đích hoặc một

đối tượng sử dụng nào đó. Do đó, không dễ dàng gì bán được chúng trên thị trường,

trừ khi chúng được bán với toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Các loại tài sản này có

thể là các loại dây chuyền thiết bị chuyên dùng,… Do đó tổ chức các chương trình

tập huấn, truyền đạt kinh nghiệm về thẩm định giá tài sản đảm bảo và cách thức

thẩm định DNNVV là cần thiết.

80

- Trong trường hợp rủi ro khách hàng vay không trả được thì VDB nên thực hiện

ngay nghĩa vụ bảo lãnh là trả nợ vay thay cho khách hàng chứ không nên để lâu (60

ngày) hay giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng cho vay tự xử lý để tránh tình trạng

NHTM không tin tưởng vào sự bảo lãnh của NHPT, hay cho rằng chứng thư bảo

lãnh của NHPT là chứng thư bảo lãnh có điều kiện và như vậy NHTM sẽ đương

nhiên gặp khó khăn khi phát sinh yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

- Đối với các trường hợp cho vay vốn lưu động thì nên có hình thức thế chấp tài sản

linh hoạt hơn.

- Không nên thu phí 0,5%/năm/số tiền bảo lãnh. Các DNNVV nhìn chung là tình tài

chính chưa cao và khi đi vay ngân hàng thường phải chịu mức lãi suất cao hơn các

doanh nghiệp lớn nay lại phải chịu thêm phí bảo lãnh thì gánh nặng tài chính sẽ

không nhỏ đối với các DNNVV đặc biệt là trong thời điểm khó khăn hiện nay. Hơn

nữa mục đích của nhà nước khi thực hiện QĐ 14 là giúp đỡ DNNVV nên cần thiết

không thu phí còn đối với các NHTM rất khó để họ cho vay với lãi suất thấp vì mục

tiêu kinh doanh là phải có lợi nhuận, nếu ép buộc thì sẽ gây tâm lý không thích cho

DNNVV vay vốn.

- Bỏ quy định NHTM phải thông báo DN nợ thuế cho VDB. Vì thực tế trong quy

trình cho vay của NHTM không thể can thiệp quá sâu để biết DN có nợ thuế hay

không nên quy định như vậy thì không hợp lý và gây khó khăn cho NHTM trong

quá trình cho DNNVV vay vốn.

3.4 Kiến nghị khác đối với chính phủ:

- Chính sách về tài chính: Điều chỉnh hệ thống thuế phù hợp nhằm khuyến khích

khởi sự doanh nghiệp, khuyến khích phát triển kinh doanh nhỏ và tạo việc làm.

Đồng thời, thực hiện đổi mới chế độ kế toán, thống kê theo hướng đơn giản hoá,

khuyến khích doanh nghiệp tự kê khai và nộp thuế đồng thời tăng các biện pháp,

hình thức chế tài đối với các doanh nghiệp có hành vi trốn thuế, lậu thuế

- Sửa đổi, bổ sung quy định về Thuế Thu nhập Doanh nghiệp theo hướng mở rộng

đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, đơn giản hoá phương pháp và căn

cứ tính thuế; giảm các trường hợp ưu đãi thuế để đơn giản hoá chính sách ưu đãi,

81

tạo cơ hội cho các DNNVV dễ tiếp cận và hưởng các ưu đãi; thu hẹp khoảng cách

giữa đối tượng nộp thuế khoán và đối tượng nộp thuế theo thu nhập, dần hạn chế áp

dụng chế độ khoán thuế và tiến tới áp dụng chế độ thuế phù hợp hơn. Khuyến khích

các hộ kinh doanh thực hiện đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp.

- Sửa đổi quy định về Thuế Giá trị gia tăng, Thuế Xuất nhập khẩu theo hướng

xác định các tiêu chí minh bạch, rõ ràng, phù hợp với các hiệp định song phương

và đa phương mà Việt Nam đã tham gia ký kết và các quy tắc của hội nhập. Cần

soạn thảo các quy định và đưa vào thực hiện để việc hoàn thuế nhanh chóng để

tránh tình trạng ứ đọng vốn của doanh nghiệp.

- Sửa đổi, bổ sung các quy định về thuế, kế toán và biên lai hóa đơn đối với các

doanh nghiệp đặc biệt đối với DNNVV, phù hợp với năng lực thực tế của đối tượng

này nhằm khuyến khích hộ kinh doanh cá thể chính thức hóa đăng ký hoạt động

kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp.

- Khuyến khích các DNNVV tham gia vào các liên kết ngành ở mọi cấp

và hỗ trợ phát triển các hiệp hội doanh nghiệp. Nhìn chung, trên thế giới việc liên

kết doanh nghiệp luôn được đề cập dưới các hình thức là hiệp hội doanh nghiệp,

liên kết chùm (cluster)... Tuy nhiên, ở Việt Nam cả 2 hình thức này mới chỉ phát

triển ở mức hạn chế và hiệu quả hoạt động chưa cao. Do đó, cần có những chính

sách phù hợp hơn để khuyến khích phát triển các hiệp hội theo hướng trợ giúp đào

tạo cán bộ hội; các Bộ, cơ quan ngang Bộ hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi để các

hội tham gia các hoạt động thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của Bộ theo quy định của

pháp luật, tổ chức lấy ý kiến của hội để hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước

về ngành, lĩnh vực; trợ giúp phát triển các chùm công nghiệp trong các ngành công

nghiệp phụ trợ; khuyến khích phát triển liên kết giữa DNNVV với các tổ chức

nghiên cứu và giáo dục có trình độ phát triển cao thông qua chính sách trợ giúp phù

hợp. Liên kết doanh nghiệp: các hiệp hội yếu kém, hoạt động chưa hiệu quả, liên

kết giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ trong việc cung cấp đầu

vào và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ còn rất yếu, mang tính tự phát, chưa có sự hỗ trợ

của Nhà nước về cơ chế chính sách thúc đẩy quá trình này.

82

- Phát triển văn hoá doanh nghiệp, văn hoá kinh doanh, khuyến khích khởi sự doanh

nghiệp. Nhằm khơi gợi tinh thần kinh doanh, phát triển nền văn hoá doanh nghiệp,

cần thiết phải triển khai các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến tinh thần

doanh nghiệp, ý chí kinh doanh và làm giàu tới mọi đối tượng, đặc biệt là thí điểm

thực hiện việc đưa các bài học về kinh doanh vào chương trình học ở trường phổ

thông, đại học, dạy nghề; đẩy mạnh triển khai trợ giúp đào tạo khởi sự doanh

nghiệp. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, đòi hỏi các doanh nghiệp, các

doanh nhân phải có đạo đức trong kinh doanh, có những hiểu biết về pháp luật, có ý

thức tuân thủ pháp luật, có trách nhiệm với toàn xã hội,… Những cái đó được coi là

văn hoá kinh doanh. Ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh một bộ phận doanh nghiệp tuy

hiểu biết về pháp luật nhưng vẫn cố tình vi phạm, thì vẫn còn diễn ra tình trạng một

số doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp không có kiến thức về pháp luật nên đã vô tình

vi phạm pháp luật trong quá trình hoạt động. Vì vậy, phát triển văn hoá kinh doanh

cũng là một khía cạnh cần được quan tâm nhiều trong công cuộc phát triển DNNVV

giai đoạn tới.

- Nhà nước phối hợp với các trường đại học trong cả nước xây dựng các chương

trình đào tạo giám đốc, các chương trình đào tạo giúp cho doanh nhân nâng cao

khả năng quản lý. Rõ ràng ở nước ta hiện nay việc các doanh nghiệp (bao gồm

DNNVV và các doanh nghiệp lớn, tập đoàn kinh tế) đang lúng túng với sự phát

triển ngày càng to lớn của chính bản thân doanh nghiệp do các doanh nghiệp Việt

nam chưa định hình cho mình một phong cách quản trị riêng. Do đó khi quy mô của

doanh nghiệp phát triển thì làm cho doanh nghiệp không thể định hướng cho sự

phát triển và khả năng quản lý một cách có hiệu quả. Trong quá khứ trưòng ĐH

Kinh Tế từng rất thành công với chương trình đào tạo 1000 giám đốc, với chương

trình này các doanh nhân sẽ tự tin hơn rất nhiều khi điều hành quản lý doanh nghiệp

trong thời kỳ đất nước hội nhập.

- Tạo cơ chế để thành lập trung tâm thông tin tín dụng tư nhân. Kinh nghiệm quốc

tế cho thấy ở những quốc gia mà thông tin tín dụng sẵn có sẽ có nhiều doanh nghiệp

và cá nhân tiếp cận được các nguồn tài chính. Trung tâm thông tin tín dụng (TTTD)

83

tư nhân là một mô hình đang rất phát triển ở nhiều nước và đã được chứng minh là

có thể giúp tăng cường tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ và cá nhân.

Thực tế cho thấy phân bổ tín dụng kém hiệu quả một phần do các tổ chức tín dụng

thiếu thông tin về người đi vay. Thế chấp thường được sử dụng làm công cụ để bảo

đảm khoản cho vay. Tuy nhiên, việc đòi hỏi thế chấp lại là cản trở lớn đối với nhiều

doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và những doanh

nghiệp mới thành lập vì họ thường không có tài sản cố định hoặc không có đủ giấy

tờ hợp pháp của tài sản để thế chấp. Thay vì đòi hỏi thế chấp, một giải pháp khác

hiệu quả hơn đang được tổ chức cho vay ở nhiều nước sử dụng là chỉ phục vụ

những khách hàng có khả năng trả nợ thông qua việc lựa chọn và theo dõi họ

thường xuyên. Giải pháp này đòi hỏi tổ chức cho vay phải nắm được thông tin về

lịch sử thanh toán của những khách hàng tiềm năng khi ra quyết định cho vay và

xác định lãi suất vay. Trung tâm thông tin tín dụng chính là các tổ chức trung gian

đứng ra thu thập, cung cấp và chia sẻ thông tin cho các tổ chức cho vay, qua đó giúp

các tổ chức này tăng dung lượng cho vay và gián tiếp giúp bên đi vay (doanh nghiệp

và cá nhân) tiếp cận tín dụng dễ dàng hơn.

Ở Việt Nam, mô hình trung tâm TTTD còn rất mới. Trung tâm thông tin tín

dụng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Credit Information Center, viết tắt

là CIC) mới được thành lập từ năm 1999. Nước ta chưa có trung tâm TTTD tư

nhân. Do hạn chế này, phạm vi thu thập thông tin tín dụng ở Việt Nam là rất hẹp so

với ở nước có trung tâm TTTD tư nhân. ở Việt Nam, trên 1000 người trưởng thành

thì chỉ có thông tin tín dụng của 11 người - trong khi đó ở Thái Lan con số này là

184 người và ở Úc là 1000 người. Đây có thể là một trong những lý do giải thích tại

sao DNNVV và cá nhân ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều rào cản khi tiếp cận tín

dụng.

Trung tâm TTTD tư nhân giúp loại bớt rào cản tiếp cận tài chính cho DNNVV.

Trung tâm TTTD nhà nước thông thường do Ngân hàng Nhà nước thành lập với

mục đích giám sát các ngân hàng là chính, còn trung tâm TTTD tư nhân thường

được thành lập bởi các tổ chức tín dụng hay những thành viên tham gia thị trường

84

tín dụng khác để giúp các thành viên chia sẻ thông tin tín dụng vì mục đích kinh

doanh. Các trung tâm TTTD Nhà nước có xu hướng chỉ thu thập thông tin về các

khoản vay giá trị lớn có thể có ảnh hưởng tổng thể đến nền kinh tế. Những thông tin

mà họ thu thập là từ những tổ chức tài chính thuộc quyền giám sát của Ngân hàng

Nhà nước, do đó thường không bao gồm các định chế tài chính phi ngân hàng đang

rất phát triển như các công ty thuê mua, công ty tài chính. Hơn nữa, trung tâm

TTTD Nhà nước cũng chỉ cung cấp thông tin tín dụng hiện tại mà không cung cấp

thông tin lịch sử thanh toán của người vay. Trong khi đó, trung tâm TTTD tư nhân

thu thập thông tin trên phạm vi rộng hơn nhiều, bao gồm cả những khoản vay của

DNNVV và cá nhân. Đặc biệt thông tin được lưu giữ không chỉ giới hạn ở những

khoản vay lớn. Trung tâm TTTD tư nhân cung cấp thông tin về lịch sử thanh toán

của người đi vay và nhiều dịch vụ khác như công cụ xử lý đơn xin cấp tín dụng, hệ

thống chấm điểm tín dụng v.v. Như vậy, trung tâm TTTD tư nhân mới đáp ứng tốt

nhất các yêu cầu về thông tin tín dụng của các tổ chức cho vay để phục vụ đối tượng

xin vay là DNNVV và cá nhân tốt hơn. Một điều tra năm 2003 của Ngân hàng Thế

giới ở nhiều nước đã đưa ra những bằng chứng cho thấy không có mối liên hệ đáng

kể nào giữa hoạt động của trung tâm TTTD Nhà nước với sự giảm bớt các rào cản

về tín dụng; trong khi đó với sự có mặt của trung tâm TTTD tư nhân, rào cản tiếp

cận tài chính giảm bớt một cách rõ rệt và tỷ lệ được cấp tín dụng của doanh nghiệp

nhỏ gia tăng. Những phát hiện cụ thể là tỷ lệ % các doanh nghiệp nhỏ gặp khó khăn

về vốn ở những nước có trung tâm TTTD tư nhân là 27% trong khi đó, ở những nơi

không có trung tâm này, tỷ lệ này là 49%; xác suất doanh nghiệp nhỏ vay được từ

ngân hàng ở những nước có trung tâm TTTD tư nhân là 40%, cao hơn nhiều ở

những nước không có (28%). Trong bối cảnh mà tốc độ tăng trưởng tín dụng, đặc

biệt là tín dụng cho DNNVV và tín dụng tiêu dùng trong những năm gần đây, đang

tạo ra một nhu cầu rất lớn về thông tin tín dụng mà khả năng và nguồn lực của CIC

không thể đáp ứng hết. Nhu cầu thông tin tín dụng về DNVVN và cá nhân tăng cao

không được đáp ứng đang ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của các

85

ngân hàng. Do đó ngân hàng nhà nước cần nỗ lực đẩy nhanh hơn nữa để trung tâm

TTTD tư nhân có thể sớm ra đời và hoạt động hiệu quả ở Việt Nam.

Kết luận chương 3:

Những giải pháp hợp lý và phù hợp là hết sức quan trọng và cần thiết cho

sự phát triển của DNNVV hiện nay. Các kiến nghị và giải pháp trên phải được thực

hiện cùng lúc, đồng thời trong đó vai trò của nhà nước là quan trọng nhất nhưng

không thể thiếu sự nỗ lực của bản thân DNNVV.

86

KẾT LUẬN

Với vai trò và đóng góp của loại hình DNNVV đối với sự phát triển kinh tế đồng

thời giải quyết các nhu cầu về công ăn việc làm cho xã hội DNNVV khẳng định sự

cần thiết phát triển loại hình doanh nghiệp này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

là một nhu cầu tất yếu, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và xu hướng

phát triển của thế giới.

Trên cơ sở phân tích thực trạng, đặc điểm của DNNVV ở Việt nam trong giai

đoạn hiện nay đặc biệt là về khả năng tiếp cận với các nguồn vốn chính thức. Từ đó

luận văn đưa ra một số giải pháp để giúp DNNVV tìm kiếm các nguồn vốn chính

thức phục vụ cho việc kinh doanh. Ta nhận thấy rằng để loại hình DNNVV phát

huy được các tiềm năng của nó thì cần có sự chung tay giúp sức của nhiều bên như:

bản thân các doanh nghiệp, các tổ chức trung gian tài chính, chính phủ. Trong đó

vai trò của nhà nước đặc biệt quan trọng nếu không nói là mang tính chủ đạo để

giúp DNNVV khắc phục được điểm yếu về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh.

Với kiến thức thu nhận được từ nhà trường, nghiên cứu từ thực tế cuộc sống đồng

thời thông qua sự hướng dẫn của thầy PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng, tác giả luận văn

đã trình bày một số giải pháp hỗ trợ DNNVV trong việc tiếp cận các nguồn vốn để

phát triển sản xuất kinh doanh.

Chân thành cảm ơn nhà trường, thầy cô đã tận tình hướng dẫn truyền đạt kiến

thức giúp đỡ cho tác giả trong quá trình hoàn thành luận văn. Rất mong được

87

sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô, bạn bè để luận văn hoàn thiện hơn.

TAI LIÊU THAM KHAO

Tiếng Việt

1. Báo cáo của Ngân Hàng Nhà Nước, 2008.

2. Công văn 1070/NHNN-TD của Ngân hàng Nhà nước về việc triển khai một

số nội dung liên quan đến việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh

nghiệp nhỏ và vừa.

3. “Đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt Nam” kết quả điều tra doanh nghiệp

nhỏ và vừa năm 2005, CIEM (Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương) kết hợp

với nhóm nghiên cứu kinh tế học phát triển, khoa kinh tế đại học Tổng hợp

Copenhagen tiên hành.

4. Điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp VN (VCCI) tiến hành đối với

các DNNVV năm 2008.

5. Kêt qua điêu tra doanh nghiệp 2009, tông cuc thông kê.

6. Kêt qua điêu tra của cuc phát triên doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kê hoạch và

đâu tư) năm 2005.

7. Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 5 năm (2006-2010) của Thủ tướng

Chính phủ, ngày 23 tháng 10 năm 2006.

8. Huỳnh Thị Hương Thảo, Tạp chí ngân hàng số 19+20/2008.

10. Lê Thanh Hà (2006), “Nghiên cứu một số giải pháp nhằm phát triển tài trợ vốn

dưới hình thức cho thuê tài chính đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn

TP.HCM”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Đại học Kinh tế Tp.HCM.

88

11. Luật Chứng khoán số 70/QH11 ngày 29/6/2006; có hiệu lực ngày 01/01/2007.

12. Nguyễn Thị Thanh Bình, 2008, “một số giải pháp tài chính hỗ trợ cho sự phát

triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa”. Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh

tế Tp.HCM.

13. Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 quy định chi tiết thi hành một số

điều của Luật Chứng khoán; có hiệu lực ngày 08/02/2007.

14. Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển với doanh

nghiệp vừa và nhỏ.

15. Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển với doanh

nghiệp vừa và nhỏ.

16. Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ vê quy chê thành lập,

tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV.

17. Quyết định 13/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính Ban

hành mẫu Bản cáo bạch trong Hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng

và Hồ sơ đăng ký niêm yết chứng khoán tại Sở GDCK, Trung tâm GDCK; có hiệu

lực ngày 12/8/2007.

18. Quyết định số 168/QĐ-SGDHCM ngày 7/12/2007 của Tổng Giám đốc Sở giao

dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quy chế niêm yết chứng

khoán tại Sở GDCK Tp HCM.

19. Quyết định số 420 /QĐ-TTGDHN ngày 31 tháng 12 năm 2007 của Giám đốc

Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội Về việc ban hành Quy chế niêm yết

chứng khoán tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.

20. Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ.

Ban hành Quy chế Bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của Ngân hàng Thương mại.

21. Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg ngày 17/04/2009 của Thủ Tướng Chính

Phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày

21 tháng 01 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế bảo lãnh cho

doanh nghiệp vay vốn tại các ngân hàng thương mại.

89

22. Thúy Hải (17/06/2008) Bài viết “Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Lớn nhưng chưa

mạnh!” của, đăng trên website báo Sài Gòn Giải Phóng, www.sggp.org.vn.

23. Thời báo Kinh tế Sài Gòn 22/04/2009.

24. Thông tư 38/2007/TT-BTC ngày 18/4/2007 hướng dẫn về việc công bố thông

tin trên thị trường chứng khoán; hiệu lực ngày 13/8/2007.

25. Thông kê của Bộ kế hoạch và đầu tư và Tổng cục thống kê năm 2006.

Tiếng Anh

26. US small business administration, March, 2008.

27. Worl Bank, Development Research Group, 2003.

Các website

www.vneconomy.vn.

http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov.

www.svb.gov.vn.

www.vdb.gov.vn.

http://www.malaysiasme.com.my.

http://www.smidec.gov.my.

www.exim.go.th.