ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TRẦN CAO ĐẠT GIẢI PHÁP KINH TẾ NHẰM KHUYẾN KHÍCH TÍCH TỤ
RUỘNG ĐẤT, GÓP PHẦN TÁI CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NHO QUAN, TỈNH NINH BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TRẦN CAO ĐẠT GIẢI PHÁP KINH TẾ NHẰM KHUYẾN KHÍCH TÍCH TỤ
RUỘNG ĐẤT, GÓP PHẦN TÁI CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NHO QUAN, TỈNH NINH BÌNH
Ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 8.62.01.15
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Xuân Luận
THÁI NGUYÊN 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng, các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng dùng để bảo vệ lấy bất kỳ học vị nào.
xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cám ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Nho Quan, ngày tháng 9 năm 2019
Tác giả
Trần Cao Đạt
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, đã nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ, động viên của bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, cho phép tôi được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc cô TS. Đỗ Xuân Luận đã tận tình hướng dẫn, dành nhiều công sức, thời gian và tạo điều kiện cho trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Kinh tế nông nghiệp – Trường Đại học Nông Lâm đã tận tình giúp đỡ trong quá trình học tập, thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo, cán bộ viên chức Phòng nông nghiệp huyện Nho Quan, Phòng thống kê huyện Nho Quan và một số phòng của huyện đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi về mọi mặt, động viên khuyến khích hoàn thành luận văn./.
Nho Quan, ngày tháng 9 năm 2019
Tác giả
Trần Cao Đạt
iii
TRÍCH YẾU LUẬN VĂN THẠC SỸ
Họ và tên: Trần Cao Đạt
Tên luận văn: Giải pháp kinh tế nhằm khuyến khích tích tụ ruộng đất, góp
phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Nho Quan, tỉnh
Ninh Bình.
Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 8.62.01.15
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Xuân Luận
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
1. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu
1.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề tích tụ ruộng đất
trong sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa.
- Phân tích thực trạng tích tụ ruộng đất tại huyện Nho Quan, Ninh Bình
- Phân tích những thuận lợi, rào cản và nguyên nhân của những rào cản
trong tích tụ ruộng đất trên địa bàn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.
- Đề xuất giải pháp kinh tế nhằm khuyến khích tích tụ ruộng đất, góp
phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn huyên.
1.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề kinh tế trong tích
tụ ruộng đất nhằm thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp ở huyện Nho
Quan, tỉnh Ninh Bình.
2. Các phương pháp nghiên cứu đã sử dụng
Hướng tiếp cận của đề tài là kết hợp tiếp cận kinh tế học (hướng tiếp cận chủ
yếu) và xã hội học (hướng tiếp cận bổ sung) để thấy được cả hai khía cạnh kinh tế
và xã hội của tích tụ ruộng đất. Trên cơ sở hướng tiếp cận này, đề tài sử dụng cả hai
phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng.
iv
2.1 Thu thập số liệu
* Số liệu thứ cấp
Thu thập tài liệu thông qua các văn bản , sách báo, tạp chí, niên giám thống
kê các trang website của chính phủ và các bộ ngành. Các số liệu và báo cáo tổng kết
của vùng đang nghiên cứu để có được các số liệu phản ánh quá trình tích tụ ruộng
đất. Đây là những số liệu đã được công bố đảm bảo tính đại diện và tính khách quan
của đề tài nghiên cứu.
* Số liệu sơ cấp
Là những thông tin số liệu thu thập từ các nguồn điều tra phỏng vấn trực tiếp
người dân cứu thông qua bảng hỏi phỏng vấn các hộ gia đình, trang trại, doanh
nghiệp, hợp tác xã và cơ quan quản lý nhà nước.
2.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng
Đề tài sử dụng phương pháp thống kê mô tả kết hợp với phương pháp tổng
hợp, so sánh nhằm phân tích, làm rõ thực trạng tích tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan,
tỉnh Ninh Bình.
2.3. Phương pháp nghiên cứu định tính
Đề tài sử dụng phương pháp phỏng vấn với hộ gia đình, trang trại, doanh
nghiệp, hợp tác xã và cán bộ địa phương tại địa bàn nghiên cứu nhằm phát hiện
thêm các tác động của tích tụ ruộng đất đến sản xuất và đời sống, các nhân tố ảnh
hưởng đến tích tụ ruộng đất, nguyên nhân của vấn đề, những vướng mắc của quá
trình tích tụ ruộng đất, cũng như nhiều khía cạnh khác mà nghiên cứu định lượng
chưa phản ánh hết được. Phương pháp này sẽ chọn mẫu có chủ đích và thuận tiện,
tiến hành phỏng vấn tại huyện Nho Quan.
Tác giả lựa chọn mẫu để khảo sát bao gồm: 30 hộ gia đình, 6 trang trại, 6
HTX sản xuất nông nghiệp, 6 doanh nghiệp.
2.4. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu
* Một số chỉ tiêu phản ánh quy mô tích tụ ruộng đất và hình thức tích tụ
- Quy mô ruộng đất ở quy mô hộ, trang trại, HTX và doanh nghiệp
- Nguồn gốc ruộng đất của hộ, trang trại, HTX và doanh nghiệp
- Vốn tích lũy bình quân 1 hộ, trang trại, HTX và doanh nghiệp….
- Kết quả và hiệu quả sản xuất bình quân hộ, trang trại, HTX và doanh nghiệp…
v
* Những chỉ tiêu đánh giá về kết quả và hiệu quả kinh tế trong nông nghiệp
- Giá trị sản xuất nông nghiệp (GO).
- Tổng chi phí (TC).
- Chi phí trung gian (IC) .
- Giá trị tăng thêm hay giá trị gia tăng (VA)
3. Kết luận
Tích tụ ruộng đất đã và vẫn đang là vấn đề còn nhiều tranh luận mặc
dù đã được sự ủng hộ về mặt chủ trương và chính sách cũng như những tác
động tích cực của nó đã được thực tế khảng định. Tuy nhiên, để phát triển
nông nghiệp Việt Nam nói chung, huyện Nho Quan nói riêng trong bối cảnh
hội nhập quốc tế thì tích tụ ruộng đất là một trong những hướng đi tất yếu.
Vậy đâu là những cơ sở ủng hộ cho việc tích tụ ruộng đất, đồng thời những
giải pháp nào để thúc đẩy tích tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan để thỏa mãn cả
hai yêu cầu giải pháp kinh tế khuyến khích tích tụ ruộng đất để góp phần dịch
chuyển cơ cấu ngành nông nghiệp. Để trả lời câu hỏi đó, luận văn đã tập trung
vào những nội dung cơ bản dưới đây:
- Một là, tích tụ ruộng đất có tác động tích cực đến hiệu quả sản xuất
nông nghiệp huyện Nho Quan thể hiện ở việc với quy mô ruộng đất lớn sẽ
làm tăng năng suất, sản lượng, giảm chi phí, tăng lợi nhuận và thu nhập hộ gia
đình cùng với những lợi ích vật chất khác kèm theo.
- Hai là, tích tụ ruộng đất có tác động đến đời sống kinh tế xã hội nông
thôn ở nhiều khía cạnh. Bên cạnh việc góp phần nâng cao sản lượng, năng suất
cây trồng, áp dụng kỹ thuật tiên tiến, cơ giới hóa và chuyên môn hóa sản xuất
của cả vùng, tích tụ ruộng đất còn cải thiện thu nhập, đời sống, thậm chí làm
giàu cho hộ gia đình có tích tụ. Tuy nhiên, tích tụ ruộng đất cũng là một trong
các yếu tố góp phần tạo ra chênh lệch giàu nghèo từ việc chênh lệch ruộng đất.
Hơn thế nữa, tích tụ ruộng đất cũng là một trong những nguyên nhân của hiện
tượng nông dân không đất sản xuất, làm mất đi sinh kế truyền thống, tạo ra tâm
lý tiêu cực trong một bộ phận người dân nông thôn. Tuy nhiên, tích tụ ruộng
vi
đất đã và đang được sự ủng hộ của người dân và vẫn là phương cách phù hợp
cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp ở huyện.
- Ba là, tích tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan chịu sự ảnh hưởng của
nhiều yếu tố của tích tụ ruộng đất nói chung và những yếu tố mang tính đặc
trưng của địa phương. Những yếu tố này được khái quát thành tám nhóm là:
(i) Đặc điểm nhân khẩu học hộ gia đình; (ii) Nguồn lực sản xuất hộ gia đình;
(iii) Sinh kế hộ gia đình; (iv) Các điều kiện về sinh thái; (v) Chính sách; (vi)
Thị trường ruộng đất và nông sản; (vii) Tập quán, lối sống cư dân;
Cuối cùng, từ các kết quả nghiên cứu, đặt trong bối hội nhập quốc tế,
tác giả đã xác định năm quan điểm và hai nhóm giải pháp chính cho vấn đề
tích tụ ruộng đất ở huyện, bao gồm: (i) Giải pháp thúc đẩy tích tụ ruộng đất;
(ii) Giải pháp đối với các vấn đề xã hội. Trong đó, tập trung ưu tiên thực hiện
nhóm các giải pháp thúc đẩy tích tụ ruộng đất.
vii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
TRÍCH YẾU LUẬN VĂN THẠC SỸ ................................................................... iii
MỤC LỤC ............................................................................................................... vii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................ ix
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ x
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ....................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 2 4. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn ....................................................... 3
4.1. Đóng góp về lý luận .............................................................................................. 3
4.2. Đóng góp về thực tiễn .......................................................................................... 3
4.3. Ý nghĩa của luận văn ............................................................................................ 3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ... 4 1.1. Cơ sở lý luận về tích tụ ruộng đất và tái cơ cấu ngành nông nghiệp ....................... 4
1.1.1. Một số quan điểm và các vấn đề liên quan về tích tụ ruộng đất ....................... 4
1.1.2. Tích tụ ruộng đất và phân hóa ở nông thôn ...................................................... 5
1.1.3. Các lý thuyết liên quan đến tích tụ ruộng đất ................................................... 6
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tích tụ ruộng đất ............................................ 10
1.2. Kinh nghiệm tích tụ ruộng đất tại một số nước trên thế giới và ở Việt Nam .... 13
1.2.1. Kinh nghiệm tích tụ ruộng đất tại số nước trên thế giới ................................. 13
1.2.2. Tình hình tích tụ ruộng đất ở Việt Nam và kinh nghiệm ở một số địa phương
................................................................................................................................... 16 2.3. Rút ra bài học kinh nghiệm về tích tụ ruộng đất của huyện Nho Quan ............. 24
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........ 26 2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Nho Quan ................... 26
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên ........................................................................................... 26 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội ................................................................................ 30 2.1.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng của huyện Nho Quan ................................................. 34 2.1.4. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Nho Quan ...... 35 2.2. Nội dung nghiên cứu .......................................................................................... 37
viii
2.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 37 2.3.1 Thu thập số liệu ................................................................................................ 37
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng .............................................................. 37
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu định tính ................................................................. 38
2.4. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu ....................................................................... 38
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .................................. 41 3.1. Thực trạng tích tụ ruộng đất trong nông nghiệp ở huyện Nho Quan ................. 41 3.1.1. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp ở huyện Nho Quan ................................ 41
3.1.2. Hiện trạng tích tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan ............................................. 45
3.2. Hiệu quả của việc tích tụ ruộng đất ở nhóm hộ khảo sát ................................... 46
3.2.1. Thông tin chung của nhóm được khảo sát ...................................................... 46
3.2.2. Tình hình tích tụ ruộng đất của nhóm được khảo sát ...................................... 48 3.2.3. Tình hình vốn của các chủ thể sản xuất .......................................................... 52
3.2.4. Kết quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp của các nhóm được khảo sát ........ 54
3.2.5. Hiệu quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp của các nhóm được khảo sát ...... 55
3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tích tụ ruộng đất của huyện Nho Quan ....... 55
3.3.1. Lịch sử sở hữu ruộng đất huyện ...................................................................... 55
3.3.2. Thị trường ruộng đất Nho Quan ...................................................................... 56
3.3.3. Thị trường nông sản của huyện ....................................................................... 56
3.3.4. Chính sách ....................................................................................................... 56
3.3.5. Tập quán, lối sống của người dân của huyện Nho Quan ................................ 58
3.3.6. Hoàn cảnh gia đình .......................................................................................... 59
3.4. Thuận lợi và khó khăn trong việc tích tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan............ 62 3.5. Các giải pháp chủ yếu nhằm khuyến khích tích tụ ruộng đất góp phần dịch
chuyển cơ cấu ngành nông nghiệp ở huyện Nho Quan trong những năm tới ........... 64
3.5.1. Quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển nông nghiệp
nông thôn và tích tụ ruộng đất................................................................................... 64 3.5.2. Quan điểm đề xuất giải pháp ........................................................................... 67 3.5.3. Đề xuất giải pháp ............................................................................................ 68
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 75 1. Kết luận ................................................................................................................. 75 2. Kiến nghị ............................................................................................................... 76
2.1. Đối với cấp trung ương ...................................................................................... 76
2.2. Đối với các cấp chính quyền địa phương ........................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 78
ix
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
: Bình quân chung BQC
CC : Cơ cấu
CĐ : Cao đẳng
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CP : Cổ phần
DT : Diện tích
DĐĐT : Dồn điền đổi thửa
: Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên hiệp quốc FAO
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTX : Hợp tác xã
KH-CN : Khoa học - công nghệ
KTTT :Kinh tế trang trại
NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NTTS : Nuôi trồng thủy sản
PTTH : Phổ thông trung học
SL : Số lượng
SXNN : Sản xuất nông nghiệp
SX-KD : Sản xuất - kinh doanh
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TSCĐ : Tài sản cố định
TT : Trang trại
TTATXH : Trật tự an toàn xã hội
UBND : Ủy ban nhân dân
x
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tình hình sử dụng đất của huyện Nho Quan giai đoạn 2016 - 2018 ........ 29
Bảng 2.2: Giá trị, cơ cấu ngành kinh tế huyện Nho Quan giai đoạn 2016 -2018 ..... 30
Bảng 2.3. Tình hình dân số và lao động trên địa bàn huyện Nho Quan giai đoạn
2016-2018.................................................................................................................. 32
Bảng 2.4. Số lượng mẫu chọn để khảo sát thu thập số liệu của huyện Nho Quan năm
2018 ........................................................................................................................... 38
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất nông nghiệp của huyện Nho Quan giai đoạn 2016-
2018 ........................................................................................................................... 41
Bảng 3.2: Tổng hợp phân bố đất sản xuất nông nghiệp các xã trong huyện Nho
Quan năm 2018 ......................................................................................................... 43
Bảng 3.3: Cơ cấu đất nông nghiệp theo đối tượng sử dụng ở huyện Nho Quan giai
đoạn 2016-2018 ......................................................................................................... 44
Bảng 3.4: Diện tích ruộng đất của các chủ thể trên địa bàn huyện phân theo quy mô
năm 2018 ................................................................................................................... 45
Bảng 3.5: Nguồn gốc các mảnh đất trên địa bàn huyện tính đến năm 2018 ............. 46
Bảng 3.6: Thông tin cơ bản của người lãnh đạo đơn vị sản xuất năm 2018 ............. 47
Bảng 3.7: Tình hình đất đai bình quân của nhóm hộ được khảo sát năm 2018 ........ 49
Bảng 3.8: Tình hình đất đai bình quân của nhóm trang trại được khảo sát năm 2018 ............ 50
Bảng 3.9: Tình hình đất đai bình quân của HTX được khảo sát năm 2018 .............. 51
Bảng 3.10: Tình hình vốn bình quân trên chủ thể sản xuất ở huyện Nho Quan năm
2018 ........................................................................................................................... 53
Bảng 3.11: Kết quả sản xuất bình quân trên chủ thể sản xuất ở huyện Nho Quan
năm 2018 ................................................................................................................... 54
Bảng 3.12: Hiệu quả sản xuất bình quân trên chủ thể sản xuất ở huyện Nho Quan
năm 2018 ................................................................................................................... 55
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Kể từ sau “Đổi mới” năm 1986, nhất là từ sau Nghị quyết 10 của Ban chấp
hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VI năm 1988 (còn gọi là khoán 10),
nông nghiệp Việt Nam đã có một bước đột phá mới. Hộ nông dân được thừa nhận là
một đơn vị kinh tế tự chủ, có quyền bình đẳng với các thành phần kinh tế khác
trước pháp luật, đất đai được giao ổn định và lâu dài. Cùng với nhiều chính sách
tiếp theo, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, từ một nước
thiếu lương thực đã trở thành một quốc gia xuất khẩu gạo thứ hai thế giới. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, tăng trưởng nông nghiệp đang có xu hướng chậm
lại và tăng trưởng của khu vực nông lâm nghiệp thủy sản luôn thấp hơn tăng trưởng
kinh tế chung. Đến giai đoạn 2015- 2018 tăng trưởng nông nghiệp có tăng trưởng
trở lại, nhưng so với mức tăng trưởng chung và so với các khu vực khác thì tăng
trưởng nông nghiệp vẫn thấp hơn khá nhiều (tăng trưởng nông nghiệp trung bình
giai đoạn 2015-2018 là 5,22%, trong khi tăng trưởng chung là 8,86%) [23]. Mặt
khác, nông nghiệp nước ta hiện nay vẫn chủ yếu dựa vào nông hộ với diện tích sản
xuất bình quân khá nhỏ, đây là một trong những rào cản cho sự phát triển.
Nông nghiệp là một lĩnh vực sản xuất mang tính chất đặc thù (tư liệu sản xuất
quan trọng nhất và không thể thiếu là đất đai). Bất cứ một chính sách nào liên quan
đến đất đai đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nông nghiệp và đời sống
của người nông dân. Do đó, động lực mới cho phát triển nông nghiệp sẽ liên quan
đến đất đai và vì thế tích tụ ruộng đất là một vấn đề cần được quan tâm hiện nay [16].
Nho Quan là một huyện miền núi phía Tây Bắc của tỉnh Ninh Bình. Phía Bắc
giáp các huyện Yên Thủy và Lạc Thủy của tỉnh Hòa Bình, phía Đông giáp các
huyện Gia Viễn, Hoa Lư, phía Nam giáp thành phố Tam Điệp, phía Tây giáp huyện
Thạch Thành của tỉnh Thanh Hóa. Sản xuất nông nghiệp ở huyện Nho Quan tỉnh
Ninh Bình tuy có quy mô nhưng vẫn đa phần là nhỏ lẻ, manh mún, hiệu quả sản
xuất thấp [20]. Để nâng cao hiệu quả sản suất nông nghiệp và đời sống của người
nông dân thì việc sản xuất trên quy mô lớn với trình độ chuyên môn hóa cao phải
được đặt ra mà tích tụ ruộng đất là một trong những điều kiện quan trọng.
2
Tuy nhiên, cho đến nay tích tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan vẫn chưa được
nhiều nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện. Trong khi đó tích tụ ruộng đất
là một hiện tượng kinh tế có tác động xã hội mạnh mẽ đang diễn ra cùng với quá
trình phát triển của huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và đã được chấp nhận bởi
chính sách của nhà nước trong thời gian gần đây.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu về tích tụ ruộng đất ở
huyện Nho Quan là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay và đó cũng chính là chủ đề
nghiên cứu được tác giả lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sỹ. Luận văn sẽ không
chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận trong việc xác định cơ sở khoa học cho các vấn đề liên
quan đến tích tụ ruộng đất mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong việc tìm ra
những động lực mới xuất phát từ khía cạnh đất đai cho sự phát triển nông nghiệp
huyện Nho Quan. Kết quả của đề tài còn có thể đóng góp vào việc hoạch định chính
sách đất đai nông nghiệp tỉnh Ninh Bình.
Xuất phát từ yêu cầu trên, tác giả tiến hành thực hiện đề tài: “Giải pháp kinh
tế nhằm khuyến khích tích tụ ruộng đất, góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp
trên địa bàn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề tích tụ ruộng đất trong
sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa.
- Phân tích thực trạng tích tụ ruộng đất tại huyện Nho Quan, Ninh Bình
- Phân tích những thuận lợi, rào cản và nguyên nhân của những rào cản trong
tích tụ ruộng đất trên địa bàn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.
- Đề xuất giải pháp kinh tế nhằm khuyến khích tích tụ ruộng đất, góp phần
tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn huyên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn
đề kinh tế trong tích tụ ruộng đất nhằm thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp ở
huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: Luận văn sẽ tập trung chủ yếu vào vấn đề tích tụ ruộng
đất nhằm phát triển các vùng chuyên canh nông sản có thế mạnh của huyện như lúa
chất lượng cao, khoai sọ, ớt xuất khẩu v.v....
3
- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn huyện Nho Quan, tỉnh
Ninh Bình.
- Phạm vi thời gian:
+ Số liệu thứ cấp thu thập từ năm 2016-2018.
+ Số liệu sơ cấp thu thập năm 2018.
+ Giải pháp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
4. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
4.1. Đóng góp về lý luận
Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn những vấn đề về cơ sở lý
luận và thực tiễn về tích tụ ruộng đất góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành nông
nghiệp trên địa bàn huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình.
4.2. Đóng góp về thực tiễn
- Luận văn đã đánh giá một cách khách quan, toàn diện về thực trạng tích tụ
ruộng đất của các hộ trên địa bàn huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình.
- Luận văn xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến tích tụ ruộng đất trên địa
bàn huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình.
- Luận văn phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tích tụ ruộng đất trên địa bàn
huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình.
- Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích thực trạng, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng,
luận văn đã đề xuất các quan điểm, định hướng và những giải pháp nhằm thúc đẩy ến
tích tụ ruộng đất trên địa bàn huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình. đến năm 2025 và tầm
nhìn 2030.
4.3. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả của đề tài luận văn sẽ là tài liệu tham khảo có luận cứ khoa học
vững chắc giúp cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách, các chủ hộ
và những người quan tâm đến đến tích tụ ruộng đất trên địa bàn huyện Nho Quan
tỉnh Ninh Bình.
- Luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích trong giảng dạy tại các trường
chuyên nghiệp và là tài liệu tham khảo của các sinh viên, học viên và các nghiên cứu
sinh về tích tụ ruộng đất góp phần dịch chuyển cơ cấu ngành nông nghiệp.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận về tích tụ ruộng đất và tái cơ cấu ngành nông nghiệp
1.1.1. Một số quan điểm và các vấn đề liên quan về tích tụ ruộng đất
Theo lý luận về sản xuất tư bản của C.Mác [16], quá trình qui mô tư bản tăng
lên được thực hiện bằng hai phương thức là tích tụ tư bản và tập trung tư bản. Hai
phương thức này có liên quan chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện và thúc đẩy nhau.
Tích tụ tư bản là tập trung vốn đủ lớn vào một đơn vị kinh doanh dưới nhiều
hình thức khác nhau để có thể đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị kỹ
thuật, áp dụng công nghệ cao trong sản xuất và quản lý và tận dụng lợi thế kinh tế
theo qui mô. Tích tụ ruộng đất có thể coi là một dạng tích tụ tư bản dưới hình thức
hiện vật trong nông nghiệp.
Quá trình tích tụ tư bản với đất đai là tư liệu sản xuất chính để mở rộng sản
xuất và phát huy được lợi thế kinh tế theo quy mô. Hoạt động tích tụ ruộng đất được
thực hiện trên thị trường đất đai. Để có đất đai đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh
doanh, nhà đầu tư có thể mua quyền sở hữu hay thuê quyền sử dụng đất theo
nguyên tắc "thuận mua, vừa bán" hoặc thuê lại đất và trả địa tô cho người cho thuê
đất. Như vậy, tích tụ ruộng đất gắn liền trực tiếp tới thị trường đất, khác với dồn
điền đổi thửa. Dồn điền đổi thửa chỉ có tác dụng mở rộng qui mô của một thửa đất,
và giảm số thửa đất của nông hộ, khiến họ quản lý sản xuất thuận lợi và có hiệu quả
cao hơn, mà không làm tăng qui mô ruộng đất của nông hộ [9].
Nhìn chung có nhiều cách tiếp cận và quan điểm khác nhau liên quan đến
tích tụ nhưng tất cả đều có những điểm chung là: i) Tích tụ ruộng đất sẽ khắc phục
được tình trạng manh mún đất đai khi tăng quy mô diện tích canh tác của hộ gia
đình; ii) Hoạt động tích tụ không thể tách rời với thị trường đất đai mà cụ thể bao
gồm thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thị trường thuê đất; iii) Tích tụ
và tập trung đất cùng với dồn điền đổi thửa đều nhằm mục đích giảm manh mún,
nhưng tích tụ ruộng đất gắn trực tiếp đến sự phân tầng về diện tích đất và mức sống
ở khu vực nông thôn.
5
- Đặc trưng của tích tụ ruộng đất trong nông nghiệp khác với tích tụ tư bản
trong công nghiệp. Do ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được
và có giới hạn, mặt khác do đặc điểm sản xuất mang tính sinh học, vì thế trong khi
tích tụ tư bản trong công nghiệp gần như là không giới hạn, hình thành nên những
tập đoàn kinh tế ngày một lớn hơn trên phạm vi toàn cầu, tận dụng tối đa lợi thế
kinh tế theo quy mô, thì trong nông nghiệp, lợi thế kinh tế theo quy mô bị hạn chế.
- Điều kiện để tích tụ ruộng đất chủ yếu liên quan đến hành lang pháp lý và
hoạt động của thị trường đất đai.
- Hình thức liên kết, hợp tác giữa các chủ thể sở hữu để hình thành nên quy
mô canh tác lớn hơn mà không làm thay đổi tình trạng sở hữu không được xem là
tích tụ ruộng đất.
Trong đề tài này thì tích tụ ruộng đất được hiểu là sự tăng quy mô ruộng đất
của một đơn vị sản xuất (nông hộ) theo thời gian. Theo quy định của luật đất đai
2003 và luật đất đai hiện hành 2013, hạn điền là 3 ha đối với đất trồng cây hàng
năm, thì hộ canh tác lúa được coi là có tích tụ ruộng đất nếu có diện tích đất lúa
tăng lên đến trên 3 ha ở thời điểm khảo sát hiện tại so với thời điểm khảo sát trước
[26], [28]. Tích tụ ruộng đất ở cấp độ nông hộ bao gồm các hành vi khai hoang,
thừa kế, mua, thuê, nhận cầm cố để tạo ra quy mô ruộng đất lớn hơn phục vụ cho
mục đích sản xuất nông nghiệp. Hành vi làm tăng tuyệt đối về mặt số lượng ruộng
đất để canh tác là hành vi tích tụ. Khác với hành vi đầu cơ, lúc này việc mua, bán,
thuê, cho thuê ruộng đất là để thu lợi nhuận từ chênh lệch giá.
Ngoài ra, trong đề tài khi đề cập đến những vấn đề liên quan đến đất đai ở
Việt Nam thì cụm từ “mua bán” ruộng đất được dùng chỉ việc “chuyển nhượng
quyền sử dụng đất” và quyền “sở hữu đất đai” đôi khi được dùng dùng thay quyền
“sử dụng đất đai” theo luật đất đai hiện hành của Việt Nam.
1.1.2. Tích tụ ruộng đất và phân hóa ở nông thôn
Trong nghiên cứu về phân phối thu nhập ở các nước đang phát triển đã phát
hiện ra rằng, khoảng cách thu nhập đang ngày một gia tăng giữa nông thôn và thành
thị và ở ngay trong khu vực nông thôn. Kết quả cho thấy, khu vực Châu Mỹ La tinh
có hệ số Gini cao nhất và phản ánh mức độ bất bình đẳng về thu nhập là lớn nhất
[9]. Một trong những lý do là ảnh hưởng của việc phân bổ đất và ngày càng có
6
nhiều người bị mất đất. Việc đổi người sử dụng đất hay thay đổi mục đích sử dụng
đất trước khi có cơ sở pháp lý đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng đất, hoặc cho
phép sung công đất đang được sử dụng làm cho những người sử dụng đất trở nên
nghèo khó hơn. Như vậy, những nghiên cứu về đất đai trong nông nghiệp và các
vấn đề liên quan ở trên cho thấy:
- Thứ nhất là xác lập quyền sở hữu và sử dụng đất đai đóng vai trò quan
trọng trong việc quyết định đầu tư sản xuất của nông dân. Vấn đề không nằm ở hình
thức sở hữu mà ở chỗ thực chất người dân có quyền như thế nào và thời hạn bao lâu
với đất đai của mình.
- Thứ hai là tích tụ ruộng đất để có quy mô lớn có thể là giải pháp cho tăng
trưởng nông nghiệp.
- Thứ ba là quá trình tích tụ ruộng đất phải gắn với phát triển thị trường đất
đai và giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh như sự bất bình đẳng thu nhập, mất
đất, nghèo khó, thất nghiệp…
1.1.3. Các lý thuyết liên quan đến tích tụ ruộng đất
Ricardo đã chỉ ra quy luật lợi tức giảm dần trong nông nghiệp do đất đai là
yếu tố sản xuất cố định. Theo Ricardo, để tăng quy mô sản xuất cần phải sử dụng
đất đai ngày càng xấu hơn, dẫn đến chi phí sản xuất ngày một gia tăng. Những dự
báo về giới hạn của tăng trưởng nông nghiệp của Ricardo và cách giải quyết lao
động dư thừa ở khu vực nông thôn của nhiều nhà kinh tế cổ điển khác đã không
thấy được vai trò của khoa học công nghệ tạo ra cuộc cách mạng về năng suất trong
nông nghiệp. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy được tầm quan trọng trong việc duy trì
ổn định quỹ đất sản xuất nông nghiệp nếu như muốn duy trì mục tiêu tăng trưởng
nông nghiệp và đảm bảo an ninh lương thực [18].
Theo Todaro thì phát triển nông nghiệp trải qua ba giai đoạn tuần tự từ thấp
đến cao, đó là từ nền nông nghiệp tự cấp tự túc sang giai đoạn chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp theo hướng đa dạng hoá và tiến tới nền nông nghiệp hiện đại. Ở giai
đoạn tự cấp tự túc, phần lớn các sản phẩm sản xuất ra được tiêu dùng nội bộ trong
khu vực nông nghiệp; sản phẩm chưa đa dạng, chủ yếu là các loại cây lương thực và
một số con vật nuôi truyền thống; công cụ sản xuất thô sơ, phương pháp sản xuất
truyền thống giản đơn, chủ yếu là độc canh; đất, lao động là những yếu tố sản xuất
7
chủ yếu, đầu tư vốn còn thấp do đó xu hướng lợi nhuận giảm dần được thể hiện rõ
khi sản xuất mở rộng trên diện tích đất không màu mỡ. Giai đoạn chuyển dịch cơ
cấu theo hướng đa dạng hoá, từ sản xuất tự cấp tự túc sang chuyên môn hoá. Đặc
trưng cơ bản của giai đoạn này là cơ cấu cây trồng, vật nuôi phát triển theo hướng
hỗn hợp và đa dạng, thay thế cho hình thức canh tác độc canh trước kia; sử dụng
giống mới kết hợp với phân bón hoá học và tưới tiêu làm tăng năng suất nông
nghiệp; sản lượng lương thực tăng đồng thời tiết kiệm được diện tích đất sản xuất
và sản xuất hướng tới thị trường. Giai đoạn phát triển cao nhất của nông nghiệp đó
là một nền nông nghiệp hiện đại. Đặc trưng cơ bản trong giai đoạn này là trong các
trang trại được chuyên môn hoá, sản xuất được cung ứng hoàn toàn cho thị trường
và lợi nhuận thương mại là mục tiêu của người sản xuất; yếu tố vốn và công nghệ
trở thành các yếu tố quyết định đối với việc tăng sản lượng nông nghiệp; dựa vào
lợi thế về quy mô, áp dụng tối đa công nghệ mới, hướng vào sản xuất một vài loại
sản phẩm chuyên biệt [17].
Đi vào những vấn đề cụ thể hơn liên quan đến năng suất, hiệu quả của sản
suất nông nghiệp thì Lý thuyết lợi thế theo quy mô - Economies of scale (David
Beg, 2005) vẫn được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp mặc dù xuất phát của lý
thuyết này không phải từ nông nghiệp. Lý thuyết lợi thế theo quy mô ám chỉ những
lợi thế về chi phí mà một xí nghiệp có được nhờ vào việc mở rộng quy mô sản xuất.
Có những yếu tố mà khi mở rộng quy mô sản xuất thì chi phí bình quân theo đơn vị
giảm xuống, trong khi quy mô đầu ra được tăng lên.
Trong nông nghiệp, với quy mô diện tích đất đai lớn hơn, hộ nông dân dễ
dàng áp dụng cơ giới hoá, thủy lợi hoá cũng như việc tổ chức sản xuất hàng hoá có
lợi thế hơn rất nhiều với các hộ nông dân có diện tích đất đai nhỏ lẻ, manh mún.
Tuy nhiên, do ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được của
nông nghiệp và do đặc điểm sản xuất mang tính sinh học nên lợi thế kinh tế theo
quy mô trong nông nghiệp bị hạn chế hơn trong công nghiệp.
Lý thuyết sản xuất nông nghiệp cũng đề cập tới các vấn đề của lý thuyết sản
xuất nói chung như: các nguồn lực sản xuất, quy luật sinh lợi, năng suất biên, lợi
nhuận biên, tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa chi phí, tỷ lệ biên thay thế sản xuất,
thị trường, giá cả nông sản…
8
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm rất riêng biệt. Theo
Mundlak nguồn lực SXNN bao gồm nguồn lực tài nguyên, môi trường tự nhiên và
đa dạng sinh học, trong đó ruộng đất là yếu tố đặc biệt quan trọng, nó vừa là đối
tượng lao động vừa là tư liệu lao động chưa thể thay thế được trong sản xuất nông
nghiệp. Lao động nông nghiệp có tính thời vụ và chất lượng lao động nông nghiệp
thường thấp hơn các ngành công nghiệp và dịch vụ. Vốn đầu tu trong nông nghiệp
cũng mang tính thời điểm, tốc độ thu hồi vốn chậm và có tính rủi ro cao. Phát triển
công nghệ sinh học là trung tâm của khoa học công nghệ trong nông nghiệp, nó tạo
ra giống phù hợp, giảm nguy cơ sâu bệnh, tham gia chế biến nông phẩm…[18].
Hiệu quả kinh tế trong nông nghiệp không đơn thuần là lợi nhuận mà nó còn
phải đạt hiệu quả phân phối và hiệu quả kỹ thuật. Chính vì vậy khi lựa chọn kỹ
thuật mới hay một mô hình sản xuất cần phải tính đến năng suất đồng thời phải xem
xét những thuận lợi hay khó khăn khi áp dụng kỹ thuật mới và đầu ra của sản phẩm
như thế nào. Đặc biệt sản xuất nông nghiệp thường sử dụng lao động gia đình hay
dùng một số sản phẩm đầu vào tự sản xuất được (như con giống, cây giống…) do
đó khi tính chi phí sản xuất phải tính hết các chi phí này bằng với giá thuê lao động
hay mua sản phẩm ở thị trường địa phương.
Về hình thức tổ chức SXNN thì kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại là hai
loại hình tổ chức sản xuất phổ biến trên thế giới.
* Kinh tế hộ gia đình nông dân: Kinh tế hộ gia đình nông dân (nông hộ) là
đơn vị sản xuất và tiêu dùng của kinh tế nông thôn, dựa chủ yếu vào lao động gia
đình để khai thác đất đai và các yếu tố sản xuất khác nhằm thu về thu nhập thuần
cao nhất. Theo Mendola, có ba nhóm mô hình nông hộ chính đã và đang được sử
dụng nhiều trong các nghiên cứu: (1) nhóm mô hình sơ kỳ chỉ bao gồm sản xuất
(mô hình tối đa hóa lợi nhuận); (2) nhóm mô hình nông hộ tân cổ điển hỗn hợp sản xuất và
tiêu dùng (mô hình tối đa hóa lợi ích); (3) nhóm mô hình nông hộ sợ rủi ro [9].
- Nhóm mô hình nông hộ tối đa hóa lợi nhuận. Nhóm mô hình này coi các hộ
như những doanh nghiệp nhỏ, quyết định phân bổ nguồn lực của họ theo tín hiệu thị
trường như giá của các nguyên liệu đầu vào, giá sản phẩm, giá thuê đất và giá nhân
công... Tuy nhiên, nó thường bị phê phán là chưa làm rõ được khía cạnh đặc thù của
các hộ là hành vi tự sản tự tiêu. Điều này sẽ được mô hình thứ hai khắc phục.
9
- Nhóm mô hình nông hộ tối đa hóa lợi ích. Điểm khác biệt chính và cũng là
đóng góp quan trọng của nhóm mô hình này là các hộ vừa đóng vai trò người tiêu
dùng vừa đóng vai trò doanh nghiệp. Để làm được điều này, người ta giả định các
hộ tối đa hóa lợi ích, thay vì tối đa hóa lợi nhuận. Các hộ gia đình được coi là tiêu
dùng ba loại hàng hóa: sản phẩm tự làm ra, sản phẩm mua trên thị trường và sự
nhàn hạ, nghỉ ngơi. Như vậy, có ít nhất hai ràng buộc đối với hộ, đó là tổng ngân
sách (cả ở dạng tiền mặt và hiện vật) và tổng quỹ thời gian (gồm cả nghỉ ngơi và
làm việc). Các hộ tối đa hóa hàm lợi ích căn cứ vào việc thỏa mãn ba loại hàng tiêu
dùng nêu trên.
- Nhóm mô hình nông hộ sợ rủi ro. Có nhiều lập luận cho rằng vì các hộ nông
dân thường nghèo và chỉ trong điều kiện trên mức sống sót một chút, do đó, họ có
khuynh hướng giữ nguyên cách sống và sản xuất để duy trì điều kiện này, thay vì thử
áp dụng các phương tiện hay cách thức canh tác mới, những thứ có rủi ro và khiến họ
có thể bị đẩy ngay xuống dưới mức sinh tồn. Do đó, ngay cả khi lợi nhuận kỳ vọng
của một hoạt động đầu tư có thể lớn hơn lợi nhuận hiện thời, nhưng việc e ngại
những hậu quả nặng nề của rủi ro khiến họ không dám chấp nhận đầu tư. Cách tiếp
cận này thường được gọi là cách lựa chọn an toàn là trên hết trong môi trường rủi ro.
Nhóm mô hình này cũng nhấn mạnh tính rủi ro bất trắc rất cao trong lĩnh vực nông
nghiệp, đồng thời đây lại là thị trường bảo hiểm phát triển thấp, nên tác động của rủi
ro là rất lớn. Hơn thế nữa, nhiều vấn đề liên quan đến yếu tố tâm lý của người nông
dân trong môi trường đặc thù của khu vực nông thôn, được cho là tạo ra những lực
cản cho sự thay đổi hay làm chậm hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất.
- Các nhóm mô hình căn bản trên, đặc biệt là nhóm (2) và (3), có thể coi là
các khung khổ lý thuyết làm nền tảng hữu ích cho các phân tích chi tiết, đi sâu vào
các khía cạnh cụ thể của môi trường nông thôn.
- Nhìn chung, các mô hình này cho phép lý giải tương đối tốt hành vi tiêu
dùng và sản xuất của hộ với những đặc trưng của khu vực nông nghiệp. Tuy nhiên,
các mô hình này chưa giải thích được vì sao mức đầu tư ở các hộ nông thôn thường
thấp một cách bất thường.
10
* Kinh tế trang trại: Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức kinh doanh
trong nông nghiệp phổ biến, được hình thành và phát triển trên nền tảng kinh tế hộ
và về cơ bản mang bản chất của kinh tế hộ. Quá trình hình thành và phát triển kinh
tế trang trại gắn với sự tích tụ tập trung các yếu tố sản xuất kinh doanh (đất đai, lao
động, tư liệu sản xuất, vốn, khoa học kỹ thuật) để nâng cao năng lực sản xuất, có
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Đặc trưng của kinh tế trang trại là người
quản lý vẫn chính là chủ hộ (hoặc thành viên của hộ); sử dụng lao động làm thuê
nhưng lao động gia đình là trụ cột; có tích tụ tập trung đất nhưng không vượt quá
khả năng sử dụng có hiệu quả của trang trại. Mục tiêu tối đa hóa lợi ích hay tối đa
hóa lợi nhuận của sản xuất nông nghiệp là tiêu chí cơ bản để phân định trang trại
với hộ tiểu nông.
Như vậy những lý thuyết liên quan đến sản xuất nêu trên đều cho rằng quy
mô đất đai có tác động tích cực đến năng suất và hiệu quả SXNN. Nhưng những
giới hạn của việc tăng quy mô đất cũng được nhắc nhở như một lời cảnh báo cho
việc áp dụng vào thực tiễn.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tích tụ ruộng đất
Trên cơ sở những nghiên cứu trên cùng với những đặc điểm của các
vùng ở Việt Nam cho thấy những yếu tố ảnh hưởng đến tích tụ ruộng đất rất
đa dạng và có thể chia theo các nhóm như sau:
1.1.4.1. Yếu tố nguồn gốc của ruộng đất
Lịch sử sở hữu ruộng đất ở Việt Nam, ruộng đất từ ban đầu do nông dân khai khẩn, rồi để lại cho con cháu. Ngay cả những năm sau này mới được khai hoang, thau chua rửa mặn và dần dần có một khuôn mặt như ngày nay. Chính vì thế sở hữu tư nhân về ruộng đất là chính, ngoài ra nguồn gốc đất từ việc mua và thuê nhưng chiếm tỷ lệ không cao. Chính lịch sử và những đặc điểm nguồn gốc ruộng đất đã tác động đến tâm lý mong muốn sở hữu riêng và là động lực tích tụ ruộng đất của người dân.
1.1.4.2. Yếu tố về thị trường
Thị trường đất đai và nông sản của huyện Nho Quan: Do yếu tố lịch sử
để lại, ruộng đất Của huyện Nho Quan có những đặc trưng khác biệt với các
11
vùng còn lại. Trước năm 1975 sở hữu tư nhân về ruộng đất là chủ yếu nên
nguồn gốc ruộng đất thừa kế khá cao. Thị trường mua bán trao đổi thuê mướn
ruộng đất cũng đã hình thành sớm hơn và sôi động hơn các vùng khác trong
cả nước. Đó là yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tích tụ ruộng đất ở Của huyện
Nho Quan. Thị trường nông sản là một yếu tố ảnh hưởng đến tích tụ ruộng
đất. Cung cầu và giá cả nông sản là một động lực cho tích tụ ruộng đất để mở
rộng sản xuất. Thị trường nông sản Của huyện Nho Quan bên cạnh những đặc
điểm chung của thị trường nông sản cả nước thì cũng có những đặc điểm
riêng, như là: nguồn cung dồi dào về các sản phẩm lúa gạo, thủy hải sản, trái
cây; thị trường xuất khẩu khá lớn và phụ thuộc nhiều vào chính sách thuế, hay
hàng rào kỹ thuật của các quốc gia nhập khẩu; công nghiệp chế biến nông sản
phát triển nhất cả nước nhưng vẫn còn nhiều hạn chế [19].
1.1.3.3. Yếu tố về chính sách về đất đai
Chính sách về đất đai và tích tụ ruộng đất Ngay sau ngày đất nước thống nhất, với chính sách xây dựng kinh tế tập thể trên phạm vi cả nước, nông dân Tây Nam Bộ được kêu gọi vào làm ăn tập thể trong các tổ sản xuất, tập đoàn sản xuất và hợp tác xã. Lúc này ruộng đất tập trung chủ yếu trong các tập đoàn sản xuất, tuy vẫn còn một số hộ nông dân nằm ngoài các tập đoàn. Có thể coi giai đoạn này có tích tụ ruộng đất theo chính sách của nhà nước nhưng thực tế không đem lại hiệu quả kinh tế và đã chấm dứt sau một thời gian ngắn.
Năm 1988 các tập đoàn sản xuất, hợp tác xã giải thể hoàn toàn, hình thành các hình thức hợp tác xã mới, hộ nông dân chính thức được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao ruộng đất canh tác lâu dài. Từ đây đến trước khi Luật đất đai đầu tiên được ban hành năm 1993 quy định về hạn điền, một xu hướng tích tụ đất đai đã hình thành. Ruộng đất được các hộ gia đình có điều kiện khai hoang, mua thêm từ các hộ không có khả năng canh tác, làm ăn thua lỗ hoặc gặp hoàn cảnh khó khăn, đáp ứng mong muốn tư hữu ruộng đất của người nông dân. Luật đất đai năm 1993 chính thức giao đất cho hộ gia đình, công nhận năm quyền sử dụng bao gồm quyền chuyển nhượng, trao đổi, cho
12
thuê, thừa kế và thế chấp. Tuy nhiên những quy định như hạn điền 3 ha, thời hạn giao đất 20 năm, cũng như hạn mức chuyển quyền sử dụng đất 6 ha đối với đất nông nghiệp... đã làm cản trở việc tích tụ ruộng đất, vì việc vượt hạn điền phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thời hạn giao đất ngắn, người nông dân ngại đầu tư, không thể đứng tên chính thức và thế chấp vay vốn với ruộng đất vượt hạn điền. Luật đất đai 2013 đã có những điểm mới, thời hạn giao đất 50 năm và cho phép nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp không quá 10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp, nhưng hạn điền vẫn là 3ha. Một lần nữa, tích tụ ruộng đất vẫn bị hạn điền ràng buộc, khi mà chỉ xét riêng về mặt kinh tế theo Nghị quyết số 55/2010/QH12 (được thực hiện từ ngày 1/1/2011 đến hết ngày 31/12/2020) thì chỉ đất trong hạn điền mới được miễn thuế [19].
1.1.4.4. Tập quán lối sống dân cư
Mỗi vùng miền có tập quán sống mang nét đặc trưng. Một số nét tập
quán sống của cư dân của vùng có thể ảnh hưởng đến cách thức ứng xử với
ruộng đất. Tập quán sống di cư có lẽ đã bắt nguồn từ xa xưa trong quá trình di
cư vào phương nam, nên người nông dân ở đây có thể mua, thuê ruộng đất
nhiều nơi khác nhau (kể cả ngoài tỉnh) để canh tác, hoặc nếu không sinh sống
được ở nơi này họ có thể bán ruộng đưa cả gia đình đi nơi khác làm ăn. Làm
thuê cũng là một hoạt động bình thường khá phổ biến nếu không có ruộng
đất, dư thừa lao động hoặc những lúc nông nhàn. Từ đó việc mua, bán, cho
thuê, thuê ruộng đất cũng dễ dàng hơn, tạo điều kiện cho tích tụ ruộng đất.
Ngược lại, tập quán sống gắn liền với ruộng đất vẫn tồn tại trong bộ phận
người nông dân, nhất là nông dân lớn tuổi. Họ có tâm lý luôn muốn giữ đất để
lại cho con cái và đây là yếu tố cản trở đối với hoạt động tích tụ [12].
1.1.4.5. Yếu tố cơ hội việc làm phi nông nghiệp
Tập quán và tâm lý mang tính hai mặt đối với ruộng đất của người nông dân như trên làm nảy sinh ra câu hỏi phải chăng vì không có việc làm ngoài nông nghiệp nên người nông dân phải giữ đất? Và ngược lại nếu có việc làm phi nông nghiệp thì người nông dân có từ bỏ ruộng đất hay không?
13
Thực tế đối với những hộ gia đình không có nhiều đất, thu nhập từ nông nghiệp rất thấp, nhưng vì không có việc làm ngoài nông nghiệp nên họ không thể bán hay cho thuê đất, do đó không tạo cơ hội cho những hộ có điều kiện muốn tích tụ đất. Chỉ khi việc làm phi nông nghiệp mang lại thu nhập cao và ổn định thì một số hộ gia đình chấp nhận không sản xuất, từ bỏ ruộng đất bằng việc bán hoặc cho thuê đất. Hiện nay đã có rất nhiều khu công nghiệp và cụm công nghiệp được mở ra, thu hút rất nhiều lao động, hiện tượng bỏ hoang đất chiếm tỷ lệ nhiều. Như vậy cơ hội việc làm phi nông nghiệp có thể là một trong những câu trả lời cho bài toán giải phóng bớt lao động nông nghiệp khỏi ruộng đất, điều kiện cần để tích tụ ruộng đất [18].
1.1.4.6. Yếu tố hoàn cảnh gia đình
Hoàn cảnh kinh tế của hộ gia đình khác nhau sẽ có những ứng xử khác
nhau đối với ruộng đất của mình. Đối với hộ có điều kiện kinh tế, đủ năng lực tài
chính, đa số sẽ mua hoặc thuê thêm ruộng đất, tích tụ ngày càng nhiều, còn đối
với hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn, làm ăn thua lỗ, bệnh tật… thì có thể phải
bán hoặc cầm cố ruộng đất. Những hộ này tham gia vào quá trình tích tụ ruộng đất
ở khía cạnh tạo cơ hội cho những hộ có điều kiện mua lại. Hoàn cảnh gia đình họ
đôi khi được hé lộ thông qua những người mua đất. Tùy thuộc vào hoàn cảnh của
từng đối tượng để có chính sách phù hợp [18].
1.2. Kinh nghiệm tích tụ ruộng đất tại một số nước trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Kinh nghiệm tích tụ ruộng đất tại số nước trên thế giới
1.2.1.1. Nhật Bản
Giống như một số nước trong khu vực, ruộng đất ở Nhật Bản cũng khá manh
mún, là kết quả của cải cách ruộng đất năm 1946-1950 .
Năm 1961 Nhật Bản áp dụng biện pháp khuyến khích tích tụ đất đai là trợ
cấp cho nông dân mua đất. Tiếp đến năm 1962 mức hạn điền 3 ha đã được bãi bỏ.
Tuy nhiên biện pháp này không mấy thành công vì rất nhiều lao động nam hàng
ngày đi vào thành phố làm việc nhưng người già và phụ nữ trong gia đình vẫn tiếp
tục làm nông nghiệp. Cũng có những hộ gia đình không còn làm nông và bỏ không
ruộng đất nhưng không muốn bán vì thu nhập phi nông nghiệp của họ vẫn đủ sống
14
và họ vẫn muốn giữ đất đai để khi nghỉ hưu về quê sinh sống. Mặt khác, giá đất
tăng cao do công nghiệp hoá làm cho các hộ thuần nông muốn mở rộng sản xuất
không đủ khả năng mua. Vì lý do nêu trên, năm 1970 Nhật Bản đưa ra biện pháp
thúc đẩy tích tụ đất đai thông qua thị trường cho thuê đất. Việc kiểm soát giá thuê
đất đều được xoá bỏ và đất sau khi hết hạn hợp đồng cho thuê với thời hạn ít nhất
10 năm thì chủ đất có quyền lấy lại. Đến giai đoạn 1975 - 1980, thì việc cho thuê
ngắn hạn cũng được hợp pháp hoá. Biện pháp thúc đẩy tích tụ qua thị trường thuê
đất có kết quả tốt hơn biện pháp khuyến khích mua bán đất, nhưng vẫn chậm và bị
giới hạn bởi sự mất cân bằng giữa cung và cầu của thị trường cho thuê. Nhưng nhìn
chung, chính sách khuyến khích tích tụ ruộng đất kém thành công ở Nhật Bản do
tâm lý chủ nghĩa quân bình mạnh mẽ ở nông thôn.
“Năm 2011, chính phủ Nhật Bản mới ban hành chính sách và kế hoạch hành
động nhằm thúc đẩy lĩnh vực nông nghiệp. Nội dung chính của chính sách là tăng
cường sản xuất nông nghiệp qui mô lớn. Chính phủ Nhật Bản dự định trong 5 năm tới
tăng diện tích canh tác, chăn nuôi trung bình tại vùng đồng bằng của 1 hộ gia đình lên
20 tới 30 ha. Chính phủ hi vọng việc mở rộng sản xuất sẽ cắt giảm chi phí, tăng sức
cạnh tranh của nông sản quốc nội. Để đạt mục tiêu trên, chính phủ Nhật Bản có thể sẽ
hỗ trợ tài chính cho những hợp đồng chuyển nhượng đất đai vì mục đích sản xuất
nông nghiệp. Hiện diện tích sản xuất nông nghiệp trung bình của 1 hộ nông dân Nhật
Bản là khoảng 2ha, bằng 1/90 ở Mỹ và chỉ bằng 1/1.500 ở Australia. Ngoài ra, Chính
phủ Nhật Bản còn thực hiện các chính sách khuyến khích thanh niên hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp hay thiết lập các tổ chức tài chính khuyến khích nông, lâm, ngư
nghiệp và xây dựng hệ thống phân phối” [16].
1.2.1.2. Hàn Quốc Ở Hàn Quốc trong thời kỳ phong kiến, nông dân không có ruộng đất và làm
thuê cho địa chủ. Năm 1950 trong “Chương trình cải cách ruộng đất” nhằm tạo ra
sự phân chia tài sản công bằng và nông dân đều có ruộng. Năm 1993, Hàn Quốc thử
nghiệm nâng mức hạn điền từ 3 ha lên 10 ha trong các “Vùng phát triển nông
nghiệp”, và nông dân có thể sở hữu đến 20 ha đất nếu được chính quyền địa phương
cho phép. Ở các vùng khác thì mức hạn điền được nâng lên 5 ha vào năm 1999, và
15
hạn điền đều được bãi bỏ vào năm 2002. Nhà nước Hàn Quốc đã tiến hành rất nhiều
chương trình thúc đẩy tích tụ đất đai rất cụ thể. Cộng đồng nông thôn và Hiệp hội
nông nghiệp Hàn Quốc là một tổ chức phi lợi nhuận hỗ trợ tài chính bằng các khoản
vay ưu đãi cho những người muốn thuê và mua đất nông nghiệp, chú trọng đến các
hộ trẻ thuần nông.
Một hệ thống ngân hàng đất nông nghiệp được thành lập vào năm 2005 với mục
đích giảm thiểu hiện tượng manh mún đất đai và khuyến khích các hộ trẻ thuần nông
nghiệp mở rộng quy mô sản xuất. Nó cung cấp thông tin cho những người muốn mua
hoặc thuê đất và những người muốn bán hoặc cho thuê đất, và đóng vai trò trung gian
trên thị trường đất nông nghiệp. Năm 2006, tổ chức Cộng đồng nông thôn và Hiệp hội
nông nghiệp Hàn Quốc có chương trình mua đất của các hộ có các khoản vay nợ lớn và
cho họ thuê lại nếu thích hợp nhằm mục đích cân bằng thị trường đất nông nghiệp và
hỗ trợ các hộ gặp khó khăn tài chính tạm thời [16].
Hiện nay, kết quả của quá trình tích tụ đất là các trang trại ở Hàn Quốc với
việc áp dụng các kỹ thuật canh tác hiện đại như mô hình “trang trại thẳng đứng”.
Tuy nhiên, do tình trạng thiếu lao động ở vùng nông thôn, từ năm 2005 chính phủ
cho phép thuê lao động nước ngoài làm việc tại các trang trại.
1.2.1.3. Trung Quốc
Rào cản cho phát triển nông nghiệp ở Trung Quốc là hiện tượng manh mún
đất đai trong sản xuất nông nghiệp. Từ những năm 80 của thế kỷ 20, Trung Quốc đã
bắt đầu đưa ra các chính sách và chương trình hành động nhằm hạn chế manh mún
và thúc đẩy tích tụ đất đai. Một dự án lớn gọi là “Tăng cường phát triển nông
nghiệp” được bắt đầu trước hết ở các vùng ven biển phía đông Trung Quốc, và sau
đó là ở các tỉnh trong lục địa với mục tiêu chính là nâng cấp cơ sở hạ tầng. Dự án
thực hiện tích tụ đất chủ yếu bằng cách phân chia lại đất, gom các thửa đất tách biệt
của mỗi hộ vào chung một địa điểm, hoặc ít phân tán nhất có thể. Quy trình thu gom
đất trong mỗi làng đòi hỏi sự tham gia của rất nhiều hộ và để đảm bảo thành công
thì tất cả các hộ đều phải tham gia vào tất cả các công đoạn để có thể đưa ra cách
giải quyết phù hợp nhất. Ở các tỉnh miền tây Trung Quốc, các hộ nằm cách xa nhau
hơn so với các tỉnh miền đông nên chi phí thực hiện dự án cũng cao hơn [25].
16
Cuối những năm 1990, một chương trình tích tụ đất cấp quốc gia khác là tích
tụ ruộng đất manh mún và đất ít sử dụng, phát triển đất hoang hoá và thành đất sản
xuất nhằm bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tuy nhiên, kinh nghiệm rút ra từ quá trình tích tụ ruộng đất ở Trung Quốc lại
chính là thị trường cho thuê đất. Theo Báo cáo phát triển thế giới năm 2008 của
WB, ở Trung Quốc, nông dân không có quyền mua bán đất nông nghiệp nhưng ở
nhiều vùng thì họ có thể đi thuê đất của các hộ nông khác hoặc của làng hay hợp tác
xã. Ví dụ, các hộ tìm được việc làm ở khu vực phi nông nghiệp rất muốn cho các hộ
khác trong làng thuê lại đất của họ. Còn nếu họ bị mất việc làm thì vẫn có cơ hội
quay lại tiếp tục làm nông nghiệp. Thông thường các hộ nông cũng muốn đi thuê
đất để mở rộng sản xuất, mở rộng kích thước mỗi thửa nếu có thể thuê được ruộng
liền kề. Tỷ lệ ruộng đất thuê mướn trong tổng diện tích đất canh tác ở Trung Quốc
tăng liên tục, diện tích đất đi thuê đã chiếm hơn 10% cả nước. Cho thuê đất nông
nghiệp là một giải pháp để chuyển lao động nông thôn sang thị trường lao động phi
nông nghiệp. Sau khi cho thuê đất, 55% nông dân di cư ra đô thị, 29% tham gia các
hoạt động phi nông nghiệp ở địa phương. Lợi nhuận được chia khoảng 2/3 cho
người sản xuất, còn lại trả cho chủ đất. Thu nhập ròng của người đi thuê đất sản
xuất đã tăng lên 25% và của chủ đất là 45%, bao gồm cả thu nhập làm phi nông
nghiệp. Như vậy, thu nhập phi nông nghiệp có tác động tích cực đến quá trình tích
tụ ruộng đất [31].
1.2.2. Tình hình tích tụ ruộng đất ở Việt Nam và kinh nghiệm ở một số địa
phương
1.2.2.1. Tình hình tích tụ ruộng đất ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia có mức bình quân ruộng đất theo đầu
người thấp nhất thế giới. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân đầu người ở
Việt Nam là 0,25 ha, trong khi đó trên thế giới là 0,52 ha và trong khu vực là 0,36
ha. Nền nông nghiệp Việt Nam được phát triển chủ yếu dựa vào khoảng 10 triệu hộ
nông dân cá thể với trên 76 triệu thửa và mảnh ruộng nhỏ lẻ, phân tán. Đây là một
trong những trở ngại lớn nhất cho việc phát triển nền nông nghiệp hữu cơ, hiện đại và
bền vững trên cơ sở hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn kinh
17
tế, với các hộ nông dân xây dựng cánh đồng lớn, vùng sản xuất tập trung công nghệ
cao dưới tác động của thị trường, công nghiệp, hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu.
Việc dồn điền, đổi thửa diễn ra rất chậm chạp và không mang lại hiệu quả mong
muốn. Sau mỗi hai chục năm, tình trạng phân mảnh lại tăng gấp đôi. Sự phân mảnh
còn dẫn đến tình trạng lãng phí đất đai được sử dụng làm ranh giới, bờ bao. Con số
này không dưới 4% diện tích canh tác. Đây là một thách thức lớn cho việc hợp tác,
liên kết giữa doanh nghiệp và các hộ nông dân trong quá trình xây dựng cánh đồng
lớn, vùng sản xuất sản xuất tập trung công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn. Bài viết này
phân tích thực trạng tích tụ và tập trung ruộng đất trên nguyên tắc thị trường và thực
hiện chính sách hạn điền linh hoạt, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp đẩy mạnh
tích tụ và tập trung ruộng đất trong nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay [9].
2.2.2.2. Tích tụ và tập trung ruộng đất trong quá trình xây dựng những cánh đồng
quy mô lớn:
- Về mặt chủ trương, quan điểm chỉ đạo và chính sách cụ thể, Nhà nước
khuyến khích các doanh nghiệp liên kết với hộ nông dân để hình thành những cánh
đồng lớn trên cơ sở tích tụ và tập trung ruộng đất. Luật Đất đai năm 2013 và các
văn bản dưới luật đã bước đầu tạo điều kiện thuận lợi hơn, ưu tiên và ưu đãi hơn
cho doanh nghiệp khi liên kết với người nông dân xây dựng cánh đồng lớn, thúc
đẩy nhanh hơn quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất trong nông nghiệp. Nhưng
quá trình này vẫn chậm chạp, không đạt mục tiêu kỳ vọng. Chính sách hạn điền
hiện hành đang là lực cản cho việc tích tụ và tập trung ruộng đất trong quá trình xây
dựng những cánh đồng có quy mô lớn. Những quy định về hạn điền đã hạn chế các
doanh nghiệp và người nông dân kinh doanh có hiệu quả hơn muốn mở rộng quy
mô canh tác nếu vượt mức trần được phép, bởi lẽ nếu vượt mức hạn điền sẽ phải
chịu thêm một khoản thuế lũy tiến không nhỏ. Trên thực tế, đã có không ít trường
hợp “lách luật” bằng cách giả mạo cho nhiều người đứng tên thuê quyền sử dụng
đất. Hoạt động mua bán để tích tụ ruộng đất trước năm 2000 diễn ra rất sôi động,
sau đó lắng dần. Hiện tượng “đóng băng” ruộng đất xảy ra ở nhiều nơi. Tình trạng
phổ biến ở nông thôn, đặc biệt ở đồng bằng sông Hồng, là nhiều nông dân, nhất là
nam giới, thanh niên có điều kiện về sức khỏe bỏ làng, bỏ ruộng để tìm kiếm việc
làm ở thành phố và các khu công nghiệp. Ruộng đất được phân chia của họ hoặc
18
cho thuê lại, hoặc bỏ hoang. Đa phần trong số họ đã “ly nông, ly hương” để làm
công nhân công nghiệp hoặc dịch vụ nhưng vẫn giữ ruộng, phần vì “để còn có chỗ
lùi” nếu thất nghiệp ở thành phố, phần vì tâm lý “người cày phải có ruộng”.
- Chính những bất cập của chính sách hạn điền đã cột chặt người nông dân
với đất và làm cho nhà đầu tư chưa thực sự an tâm khi đầu tư vào nông nghiệp.
- Việc phân quyền quá rộng cho các cấp chính quyền địa phương trong việc
qui hoạch sử dụng đất đã dẫn đến tình trạng đất nông nghiệp bị lạm dụng và chuyển
đổi tùy tiện sang các mục đích phi nông nghiệp vì lợi ích nhóm. Chất lượng quy
hoạch sử dụng đất nông nghiệp thấp, thường xuyên bị phá vỡ vì chưa dựa trên
nguyên tắc thị trường, đánh giá chưa đầy đủ tác động của biến đổi khí hậu và chủ yếu
vẫn ưu tiên dành đất cho việc sản xuất lúa gạo, trong lúc ở nhiều nơi việc chuyển đổi
sang nuôi trồng thủy sản hoặc trồng rau, cây ăn trái sẽ đem lại hiệu quả hơn.
Nói tóm lại, mặc dù có nhiều đổi mới và hoàn thiện, nhưng chính sách hạn
điền hiện hành trong nông nghiệp và nông thôn về bản chất vẫn là chính sách đất
đai của một nền nông nghiệp chủ yếu dựa trên phương thức canh tác truyền thống
của khoảng 10 triệu hộ nông dân cá thể với khoảng 7,6 triệu mảnh và thửa ruộng
nhỏ bé, phân tán và tập trung ưu tiên hàng đầu cho sản xuất lúa gạo phẩm cấp thấp,
sức cạnh tranh kém.
Trong giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam vẫn cần phải
phát triển trên nền tảng khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh của các ngành nông
nghiệp, thủy sản, du lịch và các ngành công nghiệp gia công dựa trên nguồn nhân
công giá rẻ. Phát triển mạnh những ngành truyền thống này là tất yếu, mang tính
quy luật đối với những quốc gia nông nghiệp lạc hậu trên con đường phát triển theo
hướng hiện đại. Lợi thế phát triển nhất của Việt Nam trong 20 năm tới vẫn là nông
nghiệp nhiệt đới gió mùa. Việt Nam có thể và cần phải trở thành một cường quốc
nông nghiệp nhiệt đới gió mùa hiện đại của thế giới. Thông qua hội nhập và bằng
hội nhập, cần tập trung phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới gió mùa hữu cơ,
hiện đại và bền vững ở Việt Nam, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới về sản
xuất và chế biến thủy sản, lúa gạo chất lượng cao, một số sản phẩm rau quả và hoa
sạch, an toàn với giá trị gia tăng cao. Sự phát triển của đất nước trong tầm nhìn
chiến lược đòi hỏi Việt Nam phải trở thành một trung tâm sản xuất và phân phối
19
thủy sản, lúa gạo, rau, trái cây và hoa của khu vực và thế giới; tham gia vào chuỗi
giá trị sản xuất và cung ứng một số sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới gió mùa và
thủy sản chủ lực, có thế mạnh, chế biến sâu với công nghệ hiện đại; phát triển nội
lực; hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp, nhất là các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn,
với các hộ nông dân, hợp tác xã (HTX), nhà khoa học, ngân hàng và nhà nước (để
đáp ứng tốt những nhu cầu cơ bản của sự phát triển của một nền nông nghiệp hữu
cơ, hiện đại và bền vững, định hướng thị trường, tập trung hóa, chuyên môn hóa, tự
động hóa với công nghệ hiện đại).
Bước chuyển mình sang một nền nông nghiệp hữu cơ, hiện đại và bền vững
dưới tác động của thị trường, hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu ở Việt Nam đang
đặt ra nhiều yêu cầu cho việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất
lúa gạo nói riêng và chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến hợp tác, liên kết giữa doanh
nghiệp với hộ nông dân, HTX sản xuất lúa gạo cả ở tầm quan điểm lẫn các giải pháp
chính sách nhằm phát triển cánh đồng lớn, vùng nguyên liệu tập trung chất lượng cao
trong khung khổ định hướng phát triển của cả thị trường lẫn nhà nước.
Chủ thể dẫn dắt sự phát triển này không thể là các hộ nông dân cá thể mà
phải là doanh nghiệp nông công nghiệp quy mô lớn, đặc biệt các tập đoàn kinh tế tư
nhân có sức mạnh tài chính và khoa học và công nghệ, được đặt trên nền tảng hợp
tác, liên kết chặt chẽ với các hộ nông dân và hỗ trợ phát triển của Nhà nước. Chính
yêu cầu phát triển đất nước nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng đang đòi
hỏi phải đổi mới mạnh mẽ chính sách hạn điền hiện hành với tư duy phát triển phù
hợp, nhằm khuyến khích mạnh mẽ liên kết giữa doanh nghiệp và hộ nông dân, hợp
tác xã phát triển những cánh đồng lớn, vùng sản xuất tập trung, chuyên môn hóa,
công nghệ cao. Đẩy mạnh tích tụ và tập trung ruộng đất để phát triển cánh đồng lớn,
vùng sản xuất tập trung, chuyên môn hóa chất lượng cao là tất yếu, phù hợp với quy
luật phát triển hiện đại nhằm đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển nền nông
nghiệp hữu cơ, hiện đại và bền vững ở nước ta hiện nay.
Tổ chức lại sản xuất của nông dân cá thể với mảnh, thửa ruộng phân tán, nhỏ
lẻ trên cơ sở liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp công nghệ cao để tái cấu trúc nền
nông nghiệp theo hướng hữu cơ, hiện đại và bền vững đang là một vấn đề cơ bản
trong phát triển của Việt Nam hiện nay dưới tác động trực tiếp, mạnh mẽ của kinh
20
tế thị trường, hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu. Chỉ trên cơ sở tích tụ và tập
trung đất nông nghiệp trên nền tảng một tư duy thị trường đúng đắn và thực thi
chính sách hạn điền linh hoạt cùng với sự ưu đãi đủ mức độ hấp dẫn của Nhà nước
về thuế, tín dụng thì mới tạo được những đột phá mới trong liên kết giữa doanh
nghiệp và các hộ nông dân, HTX để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông
nghiệp sạch.
a. Kinh nghiệm tích tụ đất ở huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên
Xác định dồn điền, đổi thửa (DĐĐT) là động lực thúc đẩy ngành Nông
nghiệp địa phương phát triển, tăng thu nhập cho nông dân, thời gian qua, huyện Phú
Bình đã tập trung thực hiện DĐĐT. Bởi DDĐT sẽ giúp cho người nông dân đưa cơ
giới hóa vào đồng ruộng, giảm sức lao động, xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập
trung, nâng cao hiệu quả kinh tế trên cùng diện tích canh tác…
Huyện Phú Bình đã lựa chọn 3 xã (Xuân Phương, Ức Kỳ, Tân Đức) để triển
khai dự án dồn điền đổi thửa xây dựng cánh đồng mẫu lớn vì 3 xã này có hệ thống
mương máng, đường nội đồng được quy hoạch khoa học rất thuận lợi cho hoạt động
sản xuất. Trong quá trình hoạt động sản xuất cánh đồng mẫu lớn người dân dễ dàng áp
dụng quy chế 3 cùng: cùng giống, cùng thời gian, cùng kỹ thuật chăm sóc.
Chương trình dồn điền đổi thửa người dân nghe rất hoang mang sợ khi
phân chia không công bằng, diện tích đất tốt xấu không khác, sau khi được cán bộ
tuyên truyền thì người dân ở đây rất hưởng ứng việc dồn điền đổi thửa thành cánh
đồng mẫu lớn để khắc phục những hạn chế khi sản xuất trên mảnh ruộng manh
múm. Trong quá trình triển khai, các cán bộ, đảng viên luôn tiên phong gương
mẫu, nhận phần đất xấu hơn, đảm bảo công khai, minh bạch nên việc dồn đổi
ruộng nhanh chóng hoàn thành…Sau triển khai đã thấy bước đột phá mọi chi phí
được giảm như: chi phí đầu vào và tiết kiệm 50% giống, giảm chi phí khâu làm đất
và khâu thu hoạch từ 2,5 đến 2,7 triệu đồng/ha…, năng suất lúa đạt 60,5 tạ/ha (tăng
5,5tạ/ha); giá trị sản xuất tăng 41,7 triệu đồng/ha; giá trị sản xuất sau dồn điền đổi
thửa đạt 139 triệu đồng/ha;
Những kết quả mà huyện Phú Bình đạt được cho thấy nếu làm tốt công tác
tuyên truyền, vận động, đảm bảo công khai, minh bạch, dân chủ, tăng cường sự
21
đoàn kết, thống nhất ý Đảng và lòng dân thì việc khó khăn mấy cũng có thể thực
hiện thành công. Đó không chỉ là tiền đề, tạo động lực để chính quyền và người
dân trên địa bàn tiếp tục triển khai Dự án DĐĐT ở quy mô lớn hơn, mà còn là bài
học cho các địa phương khác trong tỉnh học tập và nhân rộng, góp phần hoàn thành
mục tiêu của tỉnh đến năm 2020, DĐĐT 1.000ha đất nông nghiệp. [39]
b. Kinh nghiệm tích tụ ruộng đất của huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa
Thực hiện chủ trương tích tụ, tập trung đất đai để thu hút đầu tư phát triển
sản xuất nông nghiệp hàng hóa nhằm đưa sản xuất nông nghiệp của huyện phát
triển toàn diện, xã đã tuyên truyền, vận động người dân cho Công ty TNHH Nông
nghiệp phát triển Kim Huy Việt Nam thuê đất để đầu tư trồng cà rốt xuất khẩu. Đến
nay, công ty đã thuê 15 ha đất của hơn 100 hộ dân của 3 thôn Nhân Trạch, Đạo
Ninh, Đạo Khang trồng cà rốt. Đây là vụ đầu tiên xã đứng ra tuyên truyền, vận động
nhân dân cho công ty thuê đất để sản xuất nông nghiệp. Bước đầu cho thấy, từ vùng
đất khó khăn về nước tưới, người dân đầu tư sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, hiệu quả
kinh tế mang lại không cao, nay công ty đầu tư vào sản xuất đã làm hồi sinh vùng
đất khó, cây cà rốt phát triển xanh tốt; bà con nông dân vẫn được làm việc ngay trên
chính mảnh đất của mình cho thuê với công lao động 160 ngàn đồng/ngày, điều
quan trọng hơn đó là hình thành tư duy sản xuất quy mô lớn, ứng dụng công nghệ
cao vào sản xuất nông nghiệp của người dân, để áp dụng vào sản xuất đối với
những loại cây trồng khác. Nhằm giảm chi phí trong sản xuất, hạn chế ô nhiễm môi
trường, đem lại sản phẩm có chất lượng và bảo đảm an toàn, nâng cao giá trị hàng
hóa cho người dân, xã Hoằng Phú đã áp dụng mô hình sản xuất lúa theo chuẩn
VietGAP trên diện tích 25 ha với 83 hộ dân tham gia. Để có số diện tích sản xuất
trên, HTX dịch vụ nông nghiệp xã Hoằng Phú đã đứng ra thuê lại đất của nông dân
và cũng thuê chính bà con nông dân làm “công nhân” cho HTX. Trong quá trình
canh tác, giống, vật tư do HTX cung cấp, người dân có nhiệm vụ chăm bón trên
diện tích lúa theo đúng kỹ thuật mà cán bộ khuyến nông và HTX hướng dẫn.
Thực hiện Nghị quyết số 11 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hoằng Hóa
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất trồng
trọt trong nông nghiệp, các địa phương trên địa bàn huyện đã tích cực chuyển đổi cơ
cấu giống, cây trồng, thời vụ; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, kỹ thuật - công nghệ,
22
cơ giới hóa đồng bộ vào sản xuất, gắn với tiêu thụ nông sản; thu hút doanh nghiệp
đầu tư vào nông nghiệp, thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, tạo chuỗi liên kết các khâu
dịch vụ - sản xuất - sau thu hoạch - tiêu thụ sản phẩm... mang lại giá trị sản phẩm
trên một ha đất trồng trọt và nuôi trồng thủy sản đạt 135 triệu đồng/ha (năm 2018).
Để có được kết quả trên, Từ năm 2015, huyện đã thực hiện lồng ghép, huy động các
nguồn kinh phí để đầu tư nâng cấp, sửa chữa và kiên cố hóa gần 400 km kênh
mương nội đồng, hơn 226 km giao thông nông thôn phục vụ việc vận chuyển, tiêu
thụ nông sản. Đồng thời, vận động nhân dân “đổi điền, dồn thửa”, tích tụ ruộng đất,
chuyển nhượng, thuê, cho thuê quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất
sản xuất vào doanh nghiệp, HTX để phát triển sản xuất, tạo ra vùng sản xuất lớn và
kêu gọi các doanh nghiệp tham gia đầu tư vào nông nghiệp. Đến nay, toàn huyện đã
có 155 mô hình tích tụ ruộng đất để sản xuất với diện tích 392,7 ha, chuyển đổi
được 360 ha đất trồng lúa sang trồng các cây trồng khác và cấy lúa kết hợp nuôi
trồng thủy sản... Có đất, có cơ chế thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nhiều doanh
nghiệp đã tìm đến huyện Hoằng Hóa đầu tư vào lĩnh vực này. Hiện, trên địa bàn
huyện thu hút được 19 doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực trồng trọt, với tổng diện
tích hơn 968 ha và 5 doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực chăn nuôi, nuôi trồng thủy
sản. Đơn cử như, Công ty CP Nông sản quốc tế An Việt xây dựng nhà xưởng bảo
quản và tiêu thụ khoai tây; Công ty Xuất khẩu rau quả Đồng Giao vào liên kết sản
xuất và tiêu thụ ngô ngọt, đậu tương rau, cải bó xôi; Công ty SuMa Việt Nam vào
liên kết sản xuất và tiêu thụ khoai lang Nhật; Công ty Hàn Quốc thuê đất sản xuất
cà rốt xuất khẩu... Ngoài ra, trên địa bàn huyện đã hình thành được hơn 50 ha rau an
toàn tập trung theo tiêu chuẩn VietGAP, 104 ha tôm thẻ chân trắng ứng dụng công
nghệ cao; 170 trang trại, trong đó có nhiều trang trại ứng dụng công nghệ máng ăn
uống tự động, xử lý chất thải thành phân bón hữu cơ...
Có thể khẳng định, từ thành công bước đầu trong việc tích tụ ruộng đất đã
tạo bước đột phá nhằm phát triển nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững
có giá trị gia tăng cao, đồng thời từng bước thay đổi tư duy, tập quán canh tác
truyền thống sang sản xuất nông nghiệp trong thời kỳ CNH, HĐH. Tuy nhiên, theo
lãnh đạo của một số địa phương trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, việc tích tụ ruộng
đất vẫn còn gặp khá nhiều khó khăn, đó là một bộ phận người nông dân vẫn còn tư
23
tưởng bảo thủ, quyết tâm giữ ruộng mặc dù không tổ chức canh tác, khiến đất đai bị
hoang hóa. Do sản xuất nông nghiệp dễ gặp rủi ro của thời tiết, khí hậu, sâu bệnh,
dịch hại, biến động giá cả của thị trường... nên các doanh nghiệp ít đầu tư vào sản
xuất nông nghiệp.
Trước những khó khăn trên, các xã, thị trấn đang tiếp tục tổ chức rà soát, xây
dựng quy hoạch các vùng tích tụ ruộng đất, liên kết sản xuất nông nghiệp theo
hướng hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất; tạo điều kiện thuận lợi để
các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp vào đầu
tư trên địa bàn. Bên cạnh đó, tuyên truyền, động viên nhân dân tích tụ ruộng đất,
chuyển nhượng, thuê, cho thuê quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất
sản xuất vào doanh nghiệp, HTX để phát triển sản xuất, tạo ra vùng sản xuất lớn và
kêu gọi các doanh nghiệp tham gia đầu tư vào nông nghiệp; tập trung đào tạo nghề,
giải quyết việc làm cho người nông dân, khắc phục tâm lý băn khoăn, e ngại việc
mất ruộng, dẫn đến thất nghiệp của người nông dân. [34]
c. Kinh nghiệm tích tụ ruộng đất ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ
Huyện Thanh Ba nằm ở vùng giữa tỉnh Phú Thọ với trập trùng rừng cọ, đồi
chè, địa chất, khí hậu điển hình của vùng đất trung du. Tuy nhiên, hầu hết người dân
trong huyện làm nông nghiệp theo kiểu cũ, năng suất, chất lượng và giá trị nông sản
còn thấp. Chính vì vậy, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Ðảng bộ huyện Thanh Ba coi trọng
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa giá trị cao với diện tích và
quy mô lớn. Muốn làm được việc này, huyện cần thực hiện khâu then chốt là dồn
điền đổi thửa, tiến tới tích tụ ruộng đất. Thực tế, công tác dồn điền đổi thửa đã thực
hiện trong mấy nhiệm kỳ trước nhưng không thành công, chủ yếu mới dừng ở việc
đổi thửa xa lấy thửa gần, nhưng diện tích thực hiện được rất nhỏ. Sau đổi thửa thì
diện tích các thửa ruộng cơ bản không thay đổi, không khắc phục được tình trạng
sản xuất manh mún. Giao thông nội đồng, thủy lợi không được cải thiện.
Huyện ủy Thanh Ba quyết tâm làm "cách mạng ruộng đất" theo mô hình
"đập ra xây lại" thí điểm ở xã Lương Lỗ. Ðảng ủy xã Lương Lỗ chỉ đạo các khu dân
cư bàn bạc, thống nhất gom lại toàn bộ diện tích đất ruộng phải dồn đổi. Nói cách
khác, các hộ dân góp ruộng của mình vào một khu đồng chung, sau đó san phẳng,
bỏ hết bờ bao, xây dựng giao thông nội đồng và mương tưới tiêu theo đúng quy
24
hoạch, rồi mới chia lại bằng hình thức gắp thăm. Phần đóng góp, diện tích của các
hộ được chia công bằng, ruộng nhà nào cũng giáp đường, mương nên người dân rất
hồ hởi. Nhờ cách làm này, xã Lương Lỗ xây dựng được cánh đồng mẫu lớn rộng
đến 200 ha, năng suất lúa cao hơn trước, đạt 5,9 tấn/ha. Giá trị của giống lúa mới
cao hơn trước 1,5 lần. Đánh giá chính sách dồn điền đổi thửa có hiệu quả về mặt
kinh tế và môi trường, từ đó Huyện ủy Thanh Ba xây dựng Nghị quyết chuyên đề
về dồn điền đổi thửa, phát động tất cả các xã học tập Lương Lỗ. Trong hai năm
2017 và 2018, tất cả các xã trong huyện đã rút kinh nghiệm từ việc triển khai của xã
Lương Lỗ để triển khai. Các xã triển khai hoạt động dồn điền đổi thửa gắn liền với
xây dựng nông thôn mới, nếu cán bộ xã không có quyết tâm cao, thiếu năng lực
thực tế sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ. Ðể giúp đội ngũ cán bộ xã, thôn, Ban Thường
vụ Huyện ủy phân công các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Ban Chấp hành về
các xã đôn đốc, kiểm tra, tháo gỡ vướng mắc. Ðến tháng 2-2019, huyện Thanh Ba
đã hoàn thành công tác dồn điền đổi thửa, 13 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Xuất
hiện nhiều mô hình sản xuất mới, hiệu quả từ việc tích tụ ruộng đất, như cho doanh
nghiệp thuê đất bãi ven sông, đất lúa màu để trồng chuối với giá 1,1 triệu đồng/ha ở
xã Ðỗ Sơn, chuyển đổi 50 ha sang trồng cây có múi ứng dụng công nghệ cao tại xã
Ðông Thành, … Huyện đã đạt và vượt các chỉ tiêu về phát triển nông nghiệp do tỉnh
giao, đội ngũ cán bộ xã đã chủ động hơn trong công việc. Một bầu không khí đổi
mới năng động lan tỏa toàn huyện, tạo đà để thực hiện tốt Nghị quyết Ðại hội Ðảng
bộ huyện và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ 2015 -
2020. [38].
2.3. Rút ra bài học kinh nghiệm về tích tụ ruộng đất của huyện Nho Quan
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn về kinh nghiệm tích tụ ruộng đất góp phần tái cơ
cấu ngành nông nghiệp ở một số địa phương trong và ngoài nước, cùng với việc
nghiên cứu các tài liệu có liên quan, tác giả có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm
cho việc tích tụ ruộng đất tại địa phương như sau:
Thứ nhất, huyện cần xem việc tích tụ ruộng đất góp phần chuyển dịch cơ
cấu ngành nông nghiệp là việc làm cần thiết và cấp bách. Từ đó, có chủ trương, có
quy hoạch, kế hoạch tích tụ ruộng đất bài bản, có chính sách thúc đẩy hỗ trợ và tổ
25
chức thực hiện tốt để góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp hiệu quả và
bền vững;
Thứ hai, nâng cao nhận thức, hiểu biết, ý thức của người dân trong việc tích
tụ ruộng đất để hướng tới sản xuất nông nghiệp công nghệ cao là hết sức cần thiết.
Thứ ba, Huyện cần có những chính sách khuyến khích các HTX và doanh
nghiệp có tiềm lực rất cần tích tụ ruộng đất để giải phóng năng lượng lao động, ứng
dụng khoa học công nghệ để tạo giá trị gia tăng cao. Tuy nhiên, một trong những
rào cản lớn khiến doanh nghiệp ngại đầu tư vào nông nghiệp chính là thiếu đất sản
xuất. Do đó, chưa huy động được tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào cuộc
cùng quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và
phát triển bền vững.
Ngoài ra, huyện Nho Quan cần huy động sức mạnh tổng hợp của các thành
phần kinh tế, thu hút đầu tư của nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, các nguồn lực
trong và ngoài tỉnh để thực hiện việc tích tụ ruộng đất hiệu quả góp phần thay đổi
cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tang và phát triển bền
vững trên địa bàn.
26
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Nho Quan
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
a) Vị trí địa lý
Nho Quan nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Ninh Bình có tọa độ địa lý từ
22°10'00'' đến 22°27'30'' vĩ độ Bắc và từ 105°32'30'' đến 105°51'20'' kinh độ Đông.
- Phía Bắc giáp tỉnh Hòa Bình;
- Phía Đông và Đông Nam giáp huyện Gia Viễn và huyện Hoa Lư;
- Phía Nam giáp thị xã Tam Điệp;
- Phía Tây giáp tỉnh Thanh Hóa.
Nho Quan là cửa ngõ quan trọng của tỉnh trong việc giao lưu phát triển kinh
tế - xã hội với các tỉnh vùng Tây Bắc, vùng đồng bằng Bắc bộ và khu IV cũ. Trên
địa bàn huyện có nhiều tuyến giao thông quan trọng: Quốc lộ 12B chạy theo hướng
Bắc Nam dài khoảng 24,0 km từ cầu Lập Cập đến cầu Vĩnh Khương, quốc lộ 45 dài
9 km từ ngã ba Rịa tới dốc Giang đi Thanh Hóa. Đường tỉnh lộ 477, 477C, 479,
479B, 479C, 491 chạy qua địa bàn nhiều xã trong huyện, ngoài ra trên địa bàn
huyện còn có mạng lưới sông ngòi khá dày như: Sông Đập (Sông Na), sông Bôi,
sông Lạng, sông Rịa, sông Bến Đang, ... chảy qua giúp cho Nho Quan có điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội.
b) Địa hình, Khí hậu, thủy văn
- Địa hình: Địa hình bị chia cắt mạnh, phức tạp, núi đá cao xen lẫn đồi, thung
lũng, lòng chảo và cao nguyên. Độ cao trung bình so với mực nước biển, trung bình
khoảng 800 m - 850 m so với mực nước biển, phổ biến là các dãy núi cao trung
bình, xen kẽ các lòng chảo, rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp và xây dựng các
khu công nghiệp, với 2 hệ thống núi chính là dãy núi chạy dọc theo hướng Tây Bắc
- Đông Nam và dãy chạy theo hướng Tây Bắc - Tây Nam, tạo ra nhiều tiểu vùng
với các ưu thế khác nhau cho phép phát triển nền kinh tế đa dạng.
- Khí hậu: Nho Quan mang những đặc điểm của tiểu vùng khí hậu đồng bằng
bắc bộ, đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm và mưa nhiều.
27
+ Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm từ 23,6oC. Tổng nhiệt độ trung bình
năm từ 8.500 ÷ 8.600oC, mùa đông nhiệt độ trung bình là 20oC, tháng lạnh nhất là
tháng 1 và tháng 2, nhiệt độ trung bình có thể dưới 10oC. Mùa hạ nhiệt độ trung
bình là 27oC tháng nóng nhất là tháng 7 và tháng 8, nhiệt độ trung bình trên 30oC.
Tổng nhiệt độ của Nho Quan khá dồi dào, nhưng sự phân bố theo hai mùa lại
lệch nhau khá lớn, tổng nhiệt độ vụ chiêm xuân chỉ bằng 70% tổng nhiệt độ vụ mùa.
Với tổng nhiệt độ này vẫn đảm bảo đủ nhiệt độ cho cây trồng vụ đông xuân phát
triển, nếu bố trí giống và thời vụ thích hợp.
+ Lượng mưa: Tổng lượng mưa trung bình năm từ 1.850 - 1.970 mm (trung
bình năm có 129 ÷ 161 ngày mưa), lượng mưa tập trung chủ yếu vào 6 tháng mùa
mưa (từ tháng 5 đến tháng 10) chiếm 80 ÷ 85% tổng lượng mưa cả năm, lũ lụt cũng
thường xuyên xảy ra trong thời gian này. Vào mùa đông lượng mưa thấp khoảng 15
÷ 20% tổng lượng mưa cả năm, chủ yếu là dạng mưa nhỏ, mưa phùn.
- Độ ẩm: Do chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nên huyện Nho
Quan có độ ẩm không khí tương đối cao, bình quân độ ẩm cả năm từ 84 ÷ 86%,
chênh lệch về độ ẩm giữa các tháng không nhiều. Tháng có độ ẩm cao nhất là 90%
(tháng 02), thấp nhất là 81% (tháng 10).
Huyện Nho Quan còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió lục địa, hướng Tây
hoặc Tây Nam; gió biển theo hướng Đông Nam. Vào các tháng 7, 8 ,9 thường có
bão làm ảnh hưởng đến sản xuất, sinh hoạt trên địa bàn.
* Thủy văn: Là huyện trung du miền núi, cho nên hệ thống sông ngòi của
Nho Quan không có nhiều. Toàn huyện có 05 con sông lớn chảy qua:
- Sông Bôi: Bắt nguồn từ Hòa Bình đi qua bốn xã của huyện là Xích Thổ,
Gia Sơn, Gia Thủy và Đức Long dài 18,5 km. Đây là nguồn nước ngọt chủ yếu
cung cấp cho các xã phía Đông và Đông Bắc của huyện.
- Sông Hoàng Long: Bắt nguồn từ Hòa Bình chảy vào Nho Quan (tại xã
Thạch Bình) và đổ ra sông Bôi tại xã Đức Long, dài 12,5km. Đây là con sông khá
lớn, chảy cắt ngang huyện, là nguồn cung cấp nước ngọt chủ yếu cho khu vực trung
tâm huyện và các xã lân cận.
- Sông Rịa: Bắt nguồn từ khu vực xã Phú Long, đi qua một số xã của Nho
Quan như Sơn Thành, Quỳnh Lưu, Ninh Bình.
28
- Sông Bến Đang: Được bắt nguồn từ sông Rịa (khu vực xã Quỳnh Lưu)
chảy qua xã Quỳnh Lưu , Sơn Hà dài 8 km. Đây là nguồn cung cấp nước chủ yếu
cho xã Sơn Hà và một phần xã Quỳnh Lưu.
- Sông Đập (Sông Na): Được bắt nguồn từ tỉnh Hòa Bình và đổ vào sông
Bôi, cung cấp nước tưới cho xã Gia Tường và xã Gia Lâm.
Bên cạnh 05 con sông lớn có nhiệm vụ cung cấp nước ngọt cho sản xuất và
dời sống dân sinh của nhân dân trong huyện. Ngoài ra còn có một hệ thống các hồ
nước tự nhiên phân bố nhiều nơi trong huyện, đây là nguồn tài nguyên quý giá của
huyện, không những đảm bảo cung cấp nước ngọt cho sản xuất và đời sống dân
sinh của nhân dân trong khu vực mà còn là tiềm năng để khai thác phát triển du
lịch, nuôi trồng thủy sản.
c) Tài nguyên thiên nhiên
* Tài nguyên đất:
- Nhóm đất phù sa: Diện tích 16.657,13 ha chiếm 37% diện tích đất tự nhiên,
được hình thành do sự bồi đắp của phù sa sông Hoàng Long, sông Bôi, ... Thành
phần cơ giới chủ yếu là thịt nhẹ và một phần nhỏ là đất cát pha, thịt trung bình.
Nhìn chung đất có hàm lượng đạm tổng số từ trung bình đến giầu, hàm lượng lân
tổng số và lân dễ tiêu ở mức trung bình đến rất nghèo, đất có hàm lượng kali từ
trung bình đến giàu, độ dày tầng đất ≥ 0,5 m, độ dốc < 8o. Loại đất này thích hợp
cho việc trồng lúa màu.
- Nhóm đất tầng mỏng trung tính ít chua điểm hình (Lpe - h):
Diện tích 335,38 ha. Đất có thành phần cơ giới thịt nhẹ, tầng đất mỏng, độ
dốc cấp I, II. Hàm lượng các chất hữu cơ dao động mạnh, lân tổng số và dễ tiêu ở
mức nghèo và rất nghèo, kali tổng số và kali trao đổi ở mức nghèo và trung bình,
khả năng hấp phụ của đất biến động mạnh, đất có phản ứng trung tính ít chua. Diện
tích này hiện đang trồng màu và cây công nghiệp hàng năm. Tập trung chủ yếu ở
các xã Thạch Bình, Kỳ Phú, Phú Long, Sơn Hà.
- Tình hình sử dụng đất của huyện Nho Quan được thể hiện bảng 2.1.
như sau:
29
Bảng 2.1. Tình hình sử dụng đất của huyện Nho Quan giai đoạn 2016 - 2018
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Tốc độ phát triển (%)
Loại đất
Cơ cấu
Cơ cấu
Cơ cấu
2017/
2018/
DT (ha)
DT (ha)
DT (ha)
BQC
(%)
(%)
(%)
2016
2017
100,00
100,00
100,00
Tổng diện tích
45052,52 100,00 45052,54 100,00 45052,52 100,00
1. Đất sản xuất NN 17106,06
37,97 17084,02
37,92 17068,79
37,89
99,87
99,91
99,89
2. Đất lâm nghiệp
12197,05
27,07 12193,01
27,06 12190,52
27,06
99,97
99,98
99,97
3. Đất mặt nước
5131,82
11,39
5125,21
11,38 5120,637
11,37
99,87
99,91
99,89
4. Đất phi NN
7155,27
15,88
7182,6
15,94
7204,41
15,99
100,38
100,30
100,34
6. Đất ở
1154,12
2,56
1161,3
2,58
1167,09
2,59
100,62
100,50
100,56
5. Đất chưa sử
2308,20
5,12
2306,40
5,12
2301,07
5,11
99,92
99,77
99,85
dụng
(Nguồn: Báo cáo Kinh tế xã hội huyện Nho Quan)
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là: 45.052,52 ha, trong đó chủ yếu là diện
tích đất sản xuất nông nghiệp chiếm gần 38%, đứng thứ 2 là đất lâm nghiệp chiếm
khoảng gần 27%, đặc biệt huyện có diện tích đất sử dụng rất cao chiếm 5,12% tổng
diện tích đất tự nhiên. Trong giai đoạn 2016 - 2018 cơ cấu sử dụng đất của huyện
Nho Quan có sự chuyển dịch không đáng kể. Số liệu thống kê cho thấy diện tích đất
sản xuất nông nghiệp giảm nhẹ, diện tích giảm bình quân 0,11%/năm chuyển sang
đất phi nông nghiệp; đất lâm nghiệp giảm bình quân là 0,03%/năm; các diện tích đất
lâm nghiệp chuyển sang đất phi nông nghiệp, là xây dựng nhà máy dày của Đài
Loan; đất phi nông nghiệp tăng 0,34%/năm; đất ở tăng nhẹ cụ thể tăng 0,56%/năm;
diện tích đất chưa sử dụng của huyện Nho Quan cao hơn so với các huyện lân cân,
diện tích giảm bình quân 0,15%/năm.
Nhìn chung các loại đất của huyện Nho Quan thuộc loại đất khá bạc màu,
hàm lượng các chất dinh dưỡng từ trung bình làm ảnh hưởng không tốt đến sinh
trưởng phát triển của các loại cây trồng.
- Tài nguyên nước mặt
Ngoài hệ thống: Sông Đập (Sông Na), sông Bôi, Hoàng Long, sông Rịa,
huyện Nho Quan còn có 30 hồ chứa nước với diện tích 586,51 ha. Hiện nay đang
được cải tạo, nâng cấp để phục vụ tốt hơn yêu cầu sản xuất và đời sống nhân dân
trong huyện.
30
- Tài nguyên nước ngầm: Theo kết quả nghiên cứu của liên đoàn II - Cục địa
chất Việt Nam cho thấy, tại vùng Rịa (Phú Lộc) có tổng lượng nước ngầm đạt
361,391 m³/ngày (Cấp công nghiệp 44,691 m³/ ngày). Quá trình tìm kiếm và thăm
dò tại đây cũng chỉ rõ nguồn nước ngầm dưới đất bị nhiễm mặn. Bên cạnh trữ lượng
nước ngầm để cung cấp cho sinh hoạt thì huyện Nho Quan còn một số nguồn nước
khoáng có chất lượng tốt, có thành phần Magedecacbonat cao, có thể khai thác sử
dụng làm nước giải khát, chữa bệnh và phục vụ sinh hoạt trong vùng.
- Tài nguyên rừng: Do quá trình khai thác lâu dài, rừng ở Nho Quan đã bị tàn
phá. Ngoài Cúc Phương, rừng tự nhiên ở Nho Quan không còn nhiều. Trên các
sườn núi đá vôi là thảm rừng nghèo, thứ sinh, phần lớn là các cây bụi nhỏ. Diện tích
rừng của Nho Quan hầu hết là rừng đặc dụng thuộc phạm vi Vườn Quốc gia Cúc
Phương. Diện tích rừng trồng rất ít chủ yếu là thông nhựa, keo, bạch đàn. Hiện nay
Nho Quan đang đẩy mạnh công tác khoanh nuôi bảo vệ và trồng mới rừng.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế của huyện Nho Quan được chuyển dịch đúng hướng, phù hợp
với đường lối phát triển theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng các
ngành công nghiệp và xây dựng thương mại tăng dần, giảm dần tỷ trọng ngành nông
nghiệp.
Bảng 2.2: Giá trị, cơ cấu ngành kinh tế huyện Nho Quan giai đoạn 2016 -2018
Năm
2016
2017
2018
Tốc độ phát triển (%)
SL
SL
SL
CC
CC
CC
2017
2018
Chỉ tiêu
(triệu
(triệu
(triệu
BQC
(%)
(%)
(%)
/2016
/2017
đồng)
đồng)
đồng)
Tổng GTSX
6776659 100,00 7338800 100,00 8756000 100,00 108,30 119,31 113,67
- Nông - lâm - thủy
2280714 33,66 2164698 29,50 2384000 27,23
94,91 110,13 102,24
sản
-Công nghiệp - xây
2026807 29,91 2378921 32,42 2930000 33,46 117,37 123,17 120,23
dựng
-TM-Dịch vụ
2469138 36,44 2795181 38,09 3442000 39,31 113,20 123,14 118,07
(Nguồn: Báo cáo kinh tế huyện Nho Quan)
31
Qua bảng 2.2 ta thấy giá trị ngành kinh tế trên địa bàn huyện đều biến động
qua các năm, tổng giá trị sản xuất của huyện năm 2016 là 6.776,7 tỷ đồng đến năm
2018 đã tăng lên 8.756 tỷ đồng được chia làm 3 ngành:
- Giá trị ngành Nông - lâm - thủy sản năm 2016 là 2.281 tỷ đồng chiếm
33,66% tổng giá trị sản xuất, đến năm 2018 đã tăng lên 2.384 tỷ đồng chiếm
27,23% tổng giá trị sản xuất, đã có sự dịch chuyển cơ cấu sang 2 ngành còn lại nhất
là ngành thương mại và dịch vụ.
- Giá trị ngành Công nghiệp- xây dựng năm 2016 là 2.027 tỷ đồng, chiếm
gần 30% tổng giá trị sản xuất ; năm 2018 tăng lên 2.930 tỷ đồng chiếm 33,46% tổng
giá trị SX, tăng bình quân là 20,23%/năm. Đánh giá trung huyện phát triển hướng
công nghiệp - xây dựng tốt.
- Giá trị ngành Thương mại- dịch vụ năm 2016 là 2.469 tỷ đồng chiếm
36,44% tổng giá trị SX, đây là tỷ lệ rất cao; năm 2018 tăng lên 3.442 tỷ đồng chiếm
39,31%. Tỷ lệ giá trị sản xuất ngành thương mại dịch cao là do huyện có khu du
lịch rừng Cúc Phương cũng đang phát triển khá tốt. Giá trị tăng bình quân trong 3
năm là 18,07%/năm.
Trên đây đã thể hiện sự tăng về giá trị của cả ba ngành kinh tế trên địa bàn
huyện qua đó thể hiện các ngành kinh tế của huyện có sự gia tăng về giá trị ở cả ba
ngành trong đó ngành Nông - lâm - thủy sản vẫn là ngành chủ đạo của huyện, các
ngành thương mại- dịch vụ và công nghiệp xây dựng đang có hướng phát triển mạnh.
2.1.1.2. Dân số, lao động, việc làm và thu nhập
* Dân số: Theo số liệu thống kê toàn huyện đến ngày 31/12/2016, Nho Quan
có số dân 150.167 người (Trong đó: Dân tộc Mường là 23.141 người, tập trung ở
các xã Thạch Bình, Yên Quang, Kỳ Phú, Cúc Phương, Phú Long, Quảng Lạc...),
với 22.140 hộ, bình quân 6,78 người/hộ. Mật độ dân số toàn huyện 333 người /km2.
Mật độ dân số phân bố không đều, dân chủ yếu sống tập trung thị trấn, thị tứ, các
trục đường giao thông chính. Dân cư tập trung nhiều nhất ở thị trấn Nho Quan có
8.437 người với mật độ 3.000 người/km2, xã Gia Thủy có 6.045 người với mật độ
979 người/km2, xã Phú Lộc có 6.116 người với mật độ 711 người/km2. Dân số tập
trung ít nhất ở xã Kỳ Phú có 5.338 người với mật độ 94 người/km2, xã Cúc Phương
32
có 3.079 người với mật độ 25 người/km2. Như vậy, trên địa bàn huyện dân số khu
vực đô thị có 8.437 người chiếm 5,73% tổng dân số, dân số khu vực nông thôn có
138.727 người, chiếm 94,27% tổng dân số toàn huyện. Dưới sự chỉ đạo của các
cấp uỷ Đảng, UBND huyện và các xã, phong trào thực hiện kế hoạch hoá gia đình
được triển khai tích cực, rộng khắp trong toàn huyện và đạt kết quả tốt. Tỷ lệ tăng dân
số tự nhiên giảm dần năm 2010 từ 1,16% đến năm 2016 xuống còn 0,96% và sẽ tiếp
tục giảm mạnh trong những năm tới. Sự chênh lệch về tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giữa
các khu vực không nhiều cho thấy cuộc vận động thực hiện chính sách dân số kế
hoạch hoá gia đình được triển khai có hiệu quả và khá đồng đều trên địa bàn huyện.
Qua bảng 2.3 dưới đây ta thấy:
Bảng 2.3. Tình hình dân số và lao động trên địa bàn huyện Nho Quan giai
đoạn 2016-2018
2016
2017
2018
Tốc độ phát triển (%)
Chỉ tiêu
ĐVT
CC
CC
2017/
2018/
SL
SL CC (%)
SL
BQC
(%)
(%)
2016
2017
Người 150167 100,00 151421 100,00 153500 100,00 100,84 101,37 101,10
1. Tổng dân số
22140 100,00 22175 100,00
22210 100,00 100,16 100,16 100,16
Hộ
2. Tổng số hộ
- Hộ nông nghiệp
16850
76,1
16748
75,52
16540 74,47 99,39 98,76 99,08
Hộ
- Hộ phi NN
5290
23,9
5427
24,48
5670
25,53 102,59 104,48 103,53
Hộ
Người 90921 100,00 88000 100,00
87028 100,00 96,79 98,90 97,84
3. Lao động
3.1. Phân theo ngành nghề
-Lao động NN
Người 64746 71,21 60214
68,42
58176 66,84 93,00 96,62 94,79
- Lao động phi NN Người 26175 28,79 27786
31,58
28852 33,16 106,15 103,84 104,99
3.2. Phân theo độ tuổi lao động
- Số người trong
Người 41051 45,15 42436
48,22
42568 48,91 103,37 100,31 101,83
độ tuổi LĐ
- Số người trong
Người 16868 18,55 17600
20,00
17605 20,23 104,34 100,03 102,16
trên độ tuổi
- Số người trong
Người 33002
27964
26855
84,73 96,03 90,21
-
-
-
dưới độ tuổi
4. Mật độ
Ng/km2
333
336
342
100,90 101,79 101,34
-
-
-
(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Nho Quan năm)
33
- Nhân khẩu của huyện qua 3 năm có tăng, nhưng chiều hướng tăng nhẹ năm
2017 so với năm 2016 tăng 0,84% tương ứng tăng 1254 người; năm 2018 so với
năm 2017 tăng 1,37% tương ứng tăng 2079 người; tỷ lệ nam nữ của huyện khá là
cân đối, nhưng 2 năm gần đây tỷ lệ nam tăng nhiều còn tỷ lệ nam thì giảm, gần có
xu thế mất cân bằng về giới. Nhân khẩu vẫn tập trung ở vùng nông thôn là chính,
tuy nhiên trong 3 năm thì tốc độ số nhân khẩu vùng thành thị có xu hướng tăng cao
hơn so với tốc độ của vùng nông thôn. Nhân khẩu là dân tộc là cao nhất chiếm trên
85%, đến dân tộc thái chiếm khoảng 15%, còn lại là dân tộc mường.
- Tổng số hộ của huyện tăng dần qua các năm: năm 2017 so với năm 2016 là
0,16% cụ thể tăng 35 hộ trong đó hộ nông nghiệp giảm 0,61%, hộ phi nông nghiệp
tăng 2,59%; năm 2018 so với năm 2017 tổng số hộ trong huyện tăng 0,16%; trong
phát triển kinh tế một số khu đất nông nghiệp giao cho các doanh nghiệp, một số hộ
dân mất đất và những hộ trẻ thì làm hướng nghề nên số hộ sản xuất nông nghiệp có
xu thế giảm hơn, còn hộ phi nông nghiệp tăng trong 3 năm bình quân là
3,57%/năm.
- Tổng số lao động của huyện năm 2016 là 90921 lao động, trong đó 71% lao
động nông nghiệp và 29% lao động phi nông nghiệp; có tỷ lệ tăng dần qua các năm,
đến năm 2018 lao động phi nông nghiệp huyện tăng lên 28852 lao động chiếm
33,16%. Qua đây cho thấy tỷ lệ lao động sản xuất phi nông nghiệp của huyện đang
trên đà phát triển, đây chính là lợi thế giúp nền kinh tế huyện phát triển hơn. Nhằm
giải quyết việc làm và cho thu nhập ổn định hơn.
Tuy nhiên với cơ cấu lao động như trên, nền kinh tế của huyện vẫn phải dựa
chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp, và để ổn định vấn đề an ninh lương thực trên địa
bàn bên cạnh đó cần có sự định hướng quy hoạch cho phát triển các ngành kinh tế
khác phát huy thế mạnh tài nguyên của huyện.
Để giải quyết vấn đề này cần có chính sách hợp lý: Nâng cao dân trí, mở
thêm ngành nghề, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, đẩy mạnh việc áp dụng tiến bộ
khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, nhằm giải phóng sức lao động dư thừa phục vụ
cho ngành khác. Từ đó, giúp nền kinh tế của huyện phát triển một cách toàn diện,
cân đối trong cơ cấu trong trời gian tới.
34
Hầu hết những người trong độ tuổi lao động của huyện đều có việc làm chủ
yếu là lao động phổ thông. Chất lượng nguồn lao động nhìn chung đã được cải thiện
nhiều, lực lượng lao động có sức trẻ, cần cù, chịu khó. Tuy nhiên trình độ chuyên
môn kỹ thuật của số đông còn hạn chế vì vậy về chất lượng chưa đáp ứng được yêu
cầu về kỹ thuật, nên năng suất lao động còn thấp.
Đó là tình trạng thiếu hụt kỹ năng của người lao động. Lao động có tay nghề
cao, công nhân kỹ thuật thiếu do đầu tư cho giáo dục chưa đủ, cơ cấu đào tạo chưa
hợp lý, thiếu cơ sở định hướng.
Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới với phương châm nhà nước
và nhân dân cùng làm huy động các nguồn lực từ nhân dân và huyện hội hóa, hệ
thống điện, đường, trường trạm đã được quan tâm xây dựng đảm bảo thuận tiện cho
sự phát triển kinh tế- văn hóa, giáo dục, thể dục thể thao của nhân dân.
2.1.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng của huyện Nho Quan
- Giao thông: huyện Nho Quan có một hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh
và phân bố hợp lý giữa các đường quốc lộ - tỉnh lộ - huyện lộ và liên xã. Toàn
huyện có 487km đường trong đó quốc lộ 30km, tỉnh lộ 15km, đường ô vuông thành
phố có 42km, còn lại là đường dân sinh, đã trải nhựa và bê tông. Hệ thống giao
thông thuận lợi, tạo điều kiện tốt cho việc giao lưu hàng hóa, phát triển kinh tế xã
hội của huyện. Ngoài hệ thống đường bộ, thành phố còn có hệ thống đường thủy đi
qua khá thuận lợi.
- Thuỷ lợi: Cho đến nay huyện có hơn 121 công trình thủy lợi lớn nhỏ tương
đương 537km, ngoài nguồn nước sông Bôi cung cấp nước tưới cho các vùng phía
Đông và phía Nam của huyện, còn có Sông Đáy cung cấp nước tưới cho các xã ở
phía Bắc. Hệ thống kênh mương nội đồng là rất tốt. Điều đó điều kiện thuận lợi đến
hoạt động sản xuất của người nông dân như: năng suất, chất lượng cây trồng của
nông dân.
- Điện: Nguồn cung cấp điện cho huyện hiện nay là nguồn điện lưới quốc gia
với hệ thống đường dây cao thế 110kV và 220kV thông qua đường hạ thế xuống
35kV - 12kV - 6kV/380V/220V; gần 100% người dân ở huyện được sử dụng điện
lưới quốc gia.
35
- Hệ thống giáo dục: Cơ sở vật chất, thiết bị trường học được đầu tư nâng
cấp thường xuyên giúp tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giáo dục cho học sinh.
Huyện Nho Quan đã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia phổ cập giáo dục, xóa mù
chữ. Chất lượng phổ cập giáo dục, xóa mù chữ được củng cố vững chắc và nâng
cao; huyện đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trẻ em 05 tuổi, phổ cập giáo dục
tiểu học mức độ 3, phổ cập giáo dục THCS mức độ 3 và xóa mù chữ mức độ 2. Có
34 trường mầm non, 30 trường tiểu học, 34 trường trung học phổ thông đã được xây
dựng và sửa chữa kiên cố. Đến nay theo kết quả tự đánh giá đã có 26/26 xã (Sở
Giáo dục và đào tạo đã thẩm tra xác nhận 26/26 xã) đạt chuẩn tiêu chí số 14 về Giáo
dục và đào tạo.
- Y tế: Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được củng cố, đầu tư xây dựng mới hệ
thống trạm y tế xã; tăng cường tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế; Đội ngũ cán bộ y tế
được quan tâm đào tạo nâng cao năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp góp phần
nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh ban đầu cho nhân dân. Toàn huyện có 24/26
xã, thị trấn được công nhận đạt chuẩn BTC quốc gia về y tế, dự kiến hết 2019 xã đạt
chuẩn tiêu chí quốc gia về y tế là 26/26 xã.
- Văn hóa, thể dục thể thao, phát thanh truyền hình: Đến nay, toàn huyện đã
có 26/26 xã có Nhà Văn hóa; 26/26 xã có khu thể thao; Số thôn có Nhà văn hóa, nơi
sinh hoạt văn hóa, thể thao phục vụ cộng đồng là 274/274. Theo kết quả tự đánh giá
của các xã toàn huyện có 20/26 xã đạt chuẩn tiêu chí Cơ sở vật chất văn hóa.
2.1.4. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Nho Quan
a. Về thuận lợi
Các điều kiện về địa hình, đất đai và thời tiết khí hậu của Nho Quan có khả
năng phát triển một nền nông nghiệp đa dạng với chủng loại cây trồng và vật nuôi
phong phú, có hiệu quả kinh tế cao, kể cả các loại cây dược liệu quý. Nho Quan có
hệ thống giao thông liên (tỉnh, huyện, xã và thôn) khá thuận lợi. Nho Quan là cửa
ngõ quan trọng của tỉnh trong việc giao lưu phát triển kinh tế - xã hội với các tỉnh.
Trên địa bàn huyện có nhiều tuyến giao thông quan trọng: Quốc lộ 12B chạy theo
hướng Bắc Nam dài khoảng 24,0 km từ cầu Lập Cập đến cầu Vĩnh Khương, quốc lộ
45 dài 9 km từ ngã ba Rịa tới dốc Giang đi Thanh Hóa. Đường tỉnh lộ 477, 477C,
36
479, 479B, 479C, 491 chạy qua địa bàn nhiều xã trong huyện, ngoài ra trên địa bàn
huyện còn có mạng lưới sông ngòi khá dày như: Sông Đập (Sông Na), sông Bôi, sông
Lạng, sông Rịa, sông Bến Đang, ... chảy qua giúp cho Nho Quan có điều kiện thuận
lợi để phát triển kinh tế xã hội trong đó có phát triển trồng rau nói chung và sản xuất rau an
toàn nói riêng.
Do vậy Nho Quan là huyện thu hút được nhiều doanh nghiệp vào đầu tư. Cụ
thể huyện có 3 cụm công nghiệp và 1 khu công nghiệp, đã có 35 doanh nghiệp đầu tư
và hoạt động sản xuất trên địa bàn, giải quyết được công ăn việc làm cho người dân,
những người dân đi làm phi nông nghiệp không có thời gian làm ruộng sẽ tạo điều
kiện cho những người có nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp thuê, mua
lại.
b. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi như trên, Nho Quan cũng có những khó khăn làm
ảnh hưởng đến tích tụ ruộng đất của hộ nông dân.
- Nho Quan là huyện miền núi địa hình phức tạp cho nên một số xã xa trung
tâm huyện đi lại giao thông vẫn gặp nhiều khó khăn. Điều này hạn chế rất lớn đến
phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất hàng hoá trong nông thôn, tiêu thụ sản
phẩm gặp khó khăn.
- Nho Quan là huyện miền núi nên có trình độ dân trí còn hạn chế, còn nhiều
phong tục tập quán lạc hậu, tư tưởng chịu khổ hơn chịu khó vẫn còn tồn tại. Một bộ
phận lớn dân cư sống theo tâm lý sản xuất nhỏ, không chịu cố gắng vươn lên, trình
độ tiếp cận thị trường và khả năng sản xuất hàng hoá thấp. Đây là khó khăn rất lớn
trong phát triển KT - XH nông thôn Nho Quan, trong thời gian tới cần có những
biện pháp hợp lý để từng bước khắc phục vấn đề này thì mới giải quyết có hiệu quả
việc làm và thu nhập cho lao động nông thôn đặc biệt là các hộ nghèo.
- Quy mô diện tích đất nông nghiệp của huyện giảm, trong đó diện tích để
sản xuất rau càng giảm qua các năm, đây là yếu tố khó khăn để tích tụ ruộng đất để
mở rộng thêm quy mô sản xuất.
- Nho Quan là huyện còn nhiều khó khăn về kinh tế, thu nhập bình quân đầu
người chưa cao, thu ngân sách trên địa bàn không đủ để cân đối chi, tỷ lệ hộ nghèo
37
đã giảm song vẫn còn cao, cơ cấu kinh tế của huyện chuyển dịch theo hướng hiện
đại còn chậm. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế nói chung
và tích tụ ruộng đất nói riêng.
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Nho
Quan có những thuận lợi và khó khăn gì đến tích tụ ruộng đất nông nghiệp của
huyện.
- Nghiên cứu thực trạng tình hình sử dụng đất nông nghiệp và tích tụ ruộng
đất nông nghiệp ở huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.
- Chỉ ra được những thuận lợi và khó khăn đến việc tích tụ ruộng đất ở huyện
Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.
- Đề xuất một số giải pháp kinh tế khuyến khích tích tụ ruộng đất góp phần
tái cơ cấu ngành nông nghiệp ở huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Hướng tiếp cận của đề tài là kết hợp tiếp cận kinh tế học (hướng tiếp cận chủ
yếu) và xã hội học (hướng tiếp cận bổ sung) để thấy được cả hai khía cạnh kinh tế
và xã hội của tích tụ ruộng đất. Trên cơ sở hướng tiếp cận này, đề tài sử dụng cả hai
phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng.
2.3.1 Thu thập số liệu
* Số liệu thứ cấp
Thu thập tài liệu thông qua các văn bản , sách báo, tạp chí, niên giám thống
kê các trang website của chính phủ và các bộ ngành. Các số liệu và báo cáo tổng kết
của vùng đang nghiên cứu để có được các số liệu phản ánh quá trình tích tụ ruộng
đất. Đây là những số liệu đã được công bố đảm bảo tính đại diện và tính khách quan
của đề tài nghiên cứu.
* Số liệu sơ cấp
Là những thông tin số liệu thu thập từ các nguồn điều tra phỏng vấn trực tiếp
người dân cứu thông qua bảng hỏi phỏng vấn các hộ gia đình, trang trại, doanh
nghiệp, hợp tác xã và cơ quan quản lý nhà nước.
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng
38
Đề tài sử dụng phương pháp thống kê mô tả kết hợp với phương pháp tổng
hợp, so sánh nhằm phân tích, làm rõ thực trạng tích tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan,
tỉnh Ninh Bình.
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu định tính
Đề tài sử dụng phương pháp phỏng vấn với hộ gia đình, trang trại, doanh
nghiệp, hợp tác xã và cán bộ địa phương tại địa bàn nghiên cứu nhằm phát hiện
thêm các tác động của tích tụ ruộng đất đến sản xuất và đời sống, các nhân tố ảnh
hưởng đến tích tụ ruộng đất, nguyên nhân của vấn đề, những vướng mắc của quá
trình tích tụ ruộng đất, cũng như nhiều khía cạnh khác mà nghiên cứu định lượng
chưa phản ánh hết được. Phương pháp này sẽ chọn mẫu có chủ đích và thuận tiện,
tiến hành phỏng vấn tại huyện Nho Quan.
Tác giả lựa chọn mẫu để khảo sát bao gồm: 30 hộ gia đình, 6 trang trại, 6
HTX sản xuất nông nghiệp, 6 doanh nghiệp.
Bảng 2.4. Số lượng mẫu chọn để khảo sát thu thập số liệu của huyện Nho Quan
năm 2018
STT Đối tượng khảo sát Đơn vị tính Số lượng Số mẫu
Hộ 360 30 1 Hộ gia đình
Trang trại 16 6 2. Trang trại
HTX 30 6 3 Hợp tác xã
6 6 4 Doanh nghiệp Doanh nghiệp
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Ghi chú: nhóm hộ lựa chọn để phỏng vấn là các hộ có liên quan đến tích tụ
ruộng đất.
2.4. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu
* Một số chỉ tiêu phản ánh quy mô tích tụ ruộng đất và hình thức tích tụ
- Quy mô ruộng đất ở quy mô hộ, trang trại, HTX và doanh nghiệp
- Nguồn gốc ruộng đất của hộ, trang trại, HTX và doanh nghiệp
- Vốn tích lũy bình quân 1 hộ, trang trại, HTX và doanh nghiệp….
- Kết quả và hiệu quả sản xuất bình quân hộ, trang trại, HTX và doanh nghiệp…
* Những chỉ tiêu đánh giá về kết quả và hiệu quả kinh tế trong nông nghiệp
39
- Giá trị sản xuất nông nghiệp (GO): Toàn bộ giá trị của cải vật chất và dịch vụ
được sản xuất ra trong nông nghiệp trong một thời gian nhất định thường là 1 năm.
GO =
Trong đó: Pi: đơn giá/sản phẩm
Qi: khối lượng sản phẩm thứ i
- Tổng chi phí (TC): Là tổng số chi phí về vật chất, dịch vụ và lao dộng đã
đầu tư cho việc tổ chức và tiến hành sản xuất trong năm.
TC = IC + A (khấu hao) + CL (lđ gia đình và các vật chất tự có)
- Chi phí trung gian (IC) : Là bộ phận cấu thành cảu tổng giá trị sản xuất bao
gồm toàn bộ chi phí thường xuyên về vật chất và dịch vụ cho sản xuất sản phẩm
nông nghiệp. Chi phí trung gian trong hoạt động sản xuất bao gồm chi phí vật chất
trực tiếp và chi phí dịch vụ thuê.
IC = chi phí vật chất + chi phí dịch vụ (mua hoặc thuê ngoài)
- Giá trị tăng thêm hay giá trị gia tăng (VA): Là chỉ tiêu phản ánh những
phần giá trị do lao động sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định. Đó chính là một bộ
phận của giá trị sản xuất còn lại sau khi trừ đi chi phí trung gian.
VA = GO - IC
- Lợi nhuận (LN): Là hiệu số giữa doanh thu và chi phí.
LN = GO – TC
- Giá trị sản xuất tính cho 1 đơn vị diện tích (GO/S): Chỉ tiêu này cho biết
trên mỗi 1 đơn vị diện tích tạo ra được bao nhiêu đơn vị giá trị sản xuất.
- Giá trị gia tăng tính cho 1 đơn vị diện tích (VA/S): Chỉ tiêu này cho biết
trên mỗi 1 đơn vị diện tích tạo ra được bao nhiêu đơn vị giá trị gia tăng.
Giá trị sản xuất tính cho 1 đơn vị chi phí trung gian (GO/IC): Chỉ tiêu này
cho biết cứ 1 đơn vị chi phí trung gian bỏ ra thì thu được bao nhiêu đơn vị giá trị
sản xuất.
Giá trị gia tăng tính cho 1 đơn vị chi phí trung gian (VA/IC): Chỉ tiêu này cho
biết cứ 1 đơn vị chi phí trung gian bỏ ra thì thu được bao nhiêu đơn vị giá trị gia tăng.
40
Lợi nhuận tính cho 1 đơn vị chi phí trung gian (LN/IC): Thể hiện 1 đơn vị
chi phí mua ngoài bỏ ra thì thu được bao nhiêu đơn vị lợi nhuận.
VA/GO: Chỉ tiêu này cho biết trong 1 đồng giá trị sản xuất ta tích lũy
được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng, đây là nguồn thu thực tế trong quá trình đầu tư
sản xuất.
41
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thực trạng tích tụ ruộng đất trong nông nghiệp ở huyện Nho Quan
3.1.1. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp ở huyện Nho Quan
Do công nghiệp, xây dựng; thương mại, dịch vụ của huyện phát triển mạnh
trong những năm gần đây, vì vậy đất SXNN liên tục giảm mạnh trong những năm vừa
qua. Số liệu diện tích đất nông nghiệp biến động được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất nông nghiệp của huyện Nho Quan
giai đoạn 2016-2018
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Tốc độ phát triển (%)
Loại đất
DT (ha)
DT (ha)
DT (ha)
BQC
Cơ cấu (%)
Cơ cấu (%)
Cơ cấu (%)
2017/ 2016
2018/ 2017
diện
34434,93 100,00 34402,24 100,00 34379,94 100,00 99,91 99,94
99,92
sản
17106,00
49,68 17084,00
49,66 17068,79
49,65 99,87 99,91
99,89
13614,53
79,59 13593,10
79,57 13578,12
79,55 99,84 99,89
99,87
Tổng tích đất NN 1. Đất xuất NN trồng * Đất cây hàng năm - Đất lúa
10276,91
75,48 10243,60
75,36 10230,90
75,35 99,68 99,88
99,78
3258,62
23,93 3253,60
23,94 3250,22
23,94 99,85 99,90
99,87
trồng
79,00
0,58
95,90
0,71
97,00
0,71 121,39 101,15 110,81
trồng
3491,47
20,41 3490,80
20,43 3490,68
20,45 99,98 100,00
99,99
- Đất màu - Đất dược liệu * Đất cây lâu năm - Cây ăn quả
1396,59
40,00 1570,86
45,00 1710,43
49,00 112,48 108,89 110,67
- Cây lấy gỗ
2073,93
59,40 1894,46
54,27 1754,42
50,26 91,35 92,61
91,97
20,95
0,60
25,48
0,73
25,83
0,74 121,64 101,37 111,04
16868,42
48,99 16857,84
49,00 16850,81
49,01 99,94 99,96
99,95
- Cây dược liệu 2. Đất lâm nghiệp - Rừng phòng hộ 3348,57
19,85 3348,60
19,86 3348,57
19,87 100,00 100,00 100,00
- Rừng đặc dụng 11249,72
66,69 11249,70
66,73 11249,72
66,76 100,00 100,00 100,00
3252,76
19,28 3250,00
19,28 3248,76
19,28 99,92 99,96
99,94
460,51
1,34
460,40
1,34
460,34
1,34 99,98 99,99
99,98
- Rừng sản xuất 3. Đất nuôi thủy sản
Nguồn: phòng tài nguyên môi trường huyện Nho Quan
42
Theo bảng số 3.1. Thống kê số liệu biến động đất SXNN nêu trên cho thấy,
trong vòng 03 năm qua đất SXNN đã giảm 27,49 ha/năm tương ứng 0,1%/năm.
Trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp chiếm nhiều nhất là 49,65%, diện tích
đất lâm nghiệp chiếm 4801%, diện tích thủy sản chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 1,34%. Qua
bảng số liệu ta thấy sự dịch chuyển cơ cấu cây trồng như sau:
- Đối với diện tích cây hang năm qua 3 năm giảm tổng 36,41 ha sang phục
vụ cho phát triển kinh tế nông thôn, tương ứng giảm 18,2ha/năm cụ thể giảm
0,13%/năm. Diện tích đất trồng lúa giảm mạnh 46,1 ha trong 3 năm dịch chuyển
sang trồng màu và cây dược liệu là cây đương quy, bạch chỉ.
- Đối với diện tích cây lâu năm cũng bị giảm trong 3 năm nhưng giảm rất ít
chưa đến 1 ha, nhưng người dân dịch chuyển từ diện tích trồng cây lấy gỗ tập trung
sang trồng các loại cây ăn quả, một ít chuyển sang trồng cây dược liệu để mang lại
hiệu quả kinh tế cao.
Thông qua số liệu trên cho thấy diện tích đất SXNN cũng như đất trồng cây
hàng năm của Nho Quan ngày càng bị thu hẹp. Vì vậy đòi hỏi huyện phải có giải
pháp khai thác sử dụng có hiệu quả quỹ đất sản xuất hiện còn.
* Phân bố diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn huyện: Đất nông
nghiệp ở huyện Nho Quan thuộc diện ít so với các các huyện trong tỉnh Ninh Bình.
Hiện nay diện tích đất NN là 17.068,79 ha bằng 37,89% so với diện tích tự nhiên.
Trong đất SXNN thì đất trồng cây hàng năm là 13578,12 ha bằng 79,55% diện tích
đất sản xuất nông nghiệp, còn lại là diện tích cây lâu năm.
Bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người 489m2, thấp hơn nhiều so
với bình quân chung của cả tỉnh. Đất sản xuất nông nghiệp ở Nho Quan được phân
bố không đều, số liệu được thể hiện ở bảng dưới đây:
43
Bảng 3.2: Tổng hợp phân bố đất sản xuất nông nghiệp các xã trong huyện Nho
Quan năm 2018
Đơn vị tính: ha
STT Đơn vị hành chính DT đất SXNN DT cây hàng năm Diện tích cây lâu năm
3490,68 Toàn huyện 17068,79 13578,12
Thị trấn Nho Quan 1 384,20 172,89 211,31
2 Đồng Phong 529,13 343,94 185,20
3 Phú Lộc 460,86 262,69 198,17
4 Lạng Phong 512,04 348,19 163,85
5 Yên Quang 563,24 495,65 67,59
6 Quỳnh Lưu 614,45 509,99 104,46
7 Văn Phong 547,88 454,74 93,14
8 Sơn Thành 433,53 342,49 91,04
9 Xích Thổ 476,03 428,42 47,60
10 Gia Sơn 532,52 362,11 170,41
11 Gia Lâm 616,15 443,63 172,52
12 Gia Tường 647,56 459,77 187,79
13 Lạc Vân 648,58 609,67 38,92
14 Phú Sơn 527,40 411,37 116,03
15 Thanh Lạc 542,42 482,73 59,69
16 Ninh Bình 955,81 734,06 221,75
17 Sơn Hà 853,40 770,62 82,78
18 Cúc Phương 597,38 405,02 192,36
19 Thạch Bình 663,95 535,14 128,81
20 Gia Thủy 682,72 457,42 225,30
21 Đức Long 716,86 627,97 88,89
22 Văn Phương 742,46 660,79 81,67
23 Văn Phú 837,01 757,50 79,52
24 Quảng Lạc 694,16 624,74 69,42
25 Thượng Hòa 839,75 638,21 201,54
26 Phú Long 557,61 457,24 100,37
27 Kỳ Phú 891,69 781,13 110,58
Nguồn: phòng tài nguyên môi trường huyện Nho Quan
44
Qua bảng số liệu ta thấy toàn huyện có 26 xã và 1 thị trấn do địa hình khác
nhau nên diện tích đất sản xuất nông nghiệp phân theo các xã là khác nhau. Thị trấn
có diện tích đất sản xuất nông nghiệp thấp nhất, sau đó là những xã có khu cụm
công nghiệp làm cho diện tích đất sản xuất nông nghiệp giảm mạnh, còn lại thì diện
tích đất sản xuất nông nghiệp của đa số các xã sắp sỉ nhau.
* Về cơ cấu đất nông nghiệp theo đối tượng sử dụng đất
Bảng 3.3: Cơ cấu đất nông nghiệp theo đối tượng sử dụng ở huyện Nho Quan
giai đoạn 2016-2018
Tổ chức Tổ chức, cá Tổng Hộ gia đình, Loại đất kinh tế nhân nước diện tích cá nhân trong ngoài
32529,01 1833,89 17,04 Tổng diện tích đất NN 34379,94
1. Đất sản xuất NN 17068,79 15761,48 1295,16 12,15
* Đất trồng cây hàng năm 13578,12 12837,78 728,19 12,15
- Đất lúa 10230,90 10162,28 68,62 0
- Đất màu 3250,22 2668,50 569,57 12,15
Đất trồng dược liệu 97,00 7,00 90 0
* Đất trồng cây lâu năm 3490,68 2923,71 566,97 0
- Cây ăn quả 1710,43 1409,94 300,4941 0
- Cây lấy gỗ 1754,42 1510,62 243,7971 0
Cây dược liệu 25,83 3,15 22,6788 0
415,58 2. Đất lâm nghiệp 16850,81 16435,23 0
- Rừng phòng hộ 3348,57 3144,02 204,55 0
- Rừng đặc dụng 11249,72 11249,72 0 0
- Rừng sản xuất 3248,76 3037,73 211,03 0
3. Đất nuôi thủy sản 460,34 451,73 8,61 0
Nguồn: Phòng tài nguyên môi trường huyện Nho Quan
Trong tổng diện tích đất nông nghiệp của huyện thì 3 đối tượng sử dụng sở
hữu trong đó chủ yếu là hộ gia đình, cá nhân sở hữu là chính chiếm 94,6%; tổ chức
kinh tế trong nước quản lý 5,33%; còn tổ chức cá nhân nước ngoài chiếm 0,05% cụ
thể có 17 ha trong đó là diện tích trồng cây màu.
45
3.1.2. Hiện trạng tích tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan
3.1.2.1. Tích tụ ruộng đất của các chủ thể ở huyện Nho quan
Mỗi một chủ thể sản xuất có mục tiêu và điều kiện sản xuất khác nhau; do
vậy việc tích tụ ruộng đất cũng rất khác nhau.
* Chủ thể sản xuất phân theo quy mô diện tích đất sản xuất nông nghiệp
được thể hiện trong bảng 3.4 sau:
Bảng 3.4: Diện tích ruộng đất của các chủ thể trên địa bàn huyện phân theo
quy mô năm 2018
Số hộ Trang trại HTX Doanh Nghiệp
Cơ Số Cơ Số Cơ Cơ Chỉ tiêu Số hộ Số DN cấu TT cấu HTX cấu cấu (hộ) (DN) (%) (TT) (%) (HTX) (%) (%)
Tổng số hộ sử
dụng đất sản 16540 100,0 16 100,0 30 100,0 6 100,0
xuất NN
1. Hộ có dưới 3639 22,0 0 0,0 0 0,0 0 0,0 0,2 ha
2. Hộ có 0,2 - 10586 64,0 0 0,0 0 0,0 0 0,0 0,5 ha
3. Hộ có từ 0,5 1489 9,0 0 0,0 0 0,0 0 0,0 -2ha
4. Hộ có từ 2 827 5,0 16 100,0 30 100,0 6 100,0 ha trở lên
Nguồn: phòng tài nguyên môi trường huyện Nho Quan
Qua bảng số liệu ta thây chỉ có mô hình sản xuất hộ phân bổ hết trong 4 tổ
quy mô, còn đối với trang trại, doanh nghiệp và HTX quy mô diện tích trên 2 ha.
Đối với hộ có quy mô chủ yếu tập trung 0,2-0,5 ha chiếm 64%; các hộ còn diện tích
đất sản xuất nông nghiệp dưới 0,2ha là 3.639 hộ chiếm 22%, quy mô 0,5-1 ha và
trên 2 ha là ít, chiếm 14%. Với quy mô như vậy, một số hộ muốn tích lũy thêm diện
tích ruộng đất để phát triển theo hướng hàng hóa hơn.
46
* Nguồn gốc các mảnh đất mà chủ thể đang sơ hữu được thể hiện ở bảng 3.5 sau:
Bảng 3.5: Nguồn gốc các mảnh đất trên địa bàn huyện tính đến năm 2018
Tỷ lệ (%) Nguồn gốc ruộng đất Đất lúa Đất màu Đất SXNN khác
Giao quyền SD lâu dài 67,02 35,20 14,32
15,96 7,80 0,31 Khoán
0,78 14,03 38,26 Thừa kế
7,90 0,72 0,65 Đấu thầu
0,45 24,83 21,73 Mua
0,50 3,58 0,00 Khai hoang
0,36 0,14 0,12 Đổi
5,03 7,96 11,61 Thuê
2,00 5,74 13,00 Mượn
Nguồn: phòng tài nguyên môi trường huyện Nho Quan
Qua bảng 3.5 ta thấy mỗi một loại đất có nguồn gốc khác nhau: đối với
diện tích trồng lúa thì 67% tổng diện tích là do nhà nước giao quyền sử dụng lâu
dài, 16% đất khoán, đất đấu thầu 8%, đất đi thuê 5%, còn lại là đất mua, khai
hoang, đổi, và mượn chiếm tỷ lệ thấp. Đất trồng màu thì đất được giao quyền
chiếm 35%, đất mua chiếm 25%, đất thừa kế chiếm 14%, đối với diện tích này
thuê và mượn chiếm cao hơn đất trồng trồng lúa, chiếm 13%, còn lại là các nguồn
gốc khác. Loại đất trồng loại cây khác thì có sự biến động khác thể hiện sự tích tụ
ruộng đất hơn thông qua 3 nguồn chính, diện tích mua chiếm 22%, diện tích thuê
và mượn chiếm 24%, và diện tích này các chủ thể chủ yếu trồng cây ăn quản,
trồng thâm canh rau củ quả.
3.2. Hiệu quả của việc tích tụ ruộng đất ở nhóm hộ khảo sát
3.2.1. Thông tin chung của nhóm được khảo sát
Chủ hộ, chủ trang trại hay giám đốc HTX, giám đốc doanh nghiệp là người
quyết định hướng SXKD và quản lý cho nên tình hình về giới tính, độ tuổi, trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn ảnh hưởng rất nhiều. Người chủ có trình độ chuyên
môn, học vấn cao, trình độ quản lý tốt thì sẽ dễ dàng áp dụng KH-KT vào sản xuất,
quản lý và sử dụng các nguồn lực một cách khoa học, hợp lý và có hiệu quả hơn.
47
Bảng 3.6: Thông tin cơ bản của người lãnh đạo đơn vị sản xuất năm 2018
ĐVT: người
Hộ gia đình n=30
Trang trại n=6
HTX n=6
Doanh nghiệp n=6
Tên chỉ tiêu
Giới tính
Tổng
Giới tính Tổng
Giới tính Tổng
Giới tính Tổng
số
số
số
số
Nam Nữ
Nam Nữ
Nam Nữ
Nam Nữ
5
1
30
21
I. Dân tộc
9
6
6
6
0
6
6
0
4
1
18
12
- Kinh
6
5
5
5
0
4
4
0
1
0
7
5
- Mường
2
1
1
1
0
2
2
0
0
0
5
4
- Khác
1
0
0
0
0
0
0
0
5
1
II Trình độ
30
21
9
6
6
6
0
6
6
0
5
1
30
21
9
6
6
6
0
6
6
0
1. Trình độ văn hóa
1
0
8
6
Học cấp 2
2
1
0
0
0
0
0
0
4
1
22
15
Học cấp 3
7
5
6
6
0
6
6
0
5
1
30
21
9
2. Trình độ chuyên môn
6
6
6
0
6
6
0
kỹ thuật
- Chưa qua
6
2
4
1
1
0
0
0
0
0
0
0
đào tạo
- Đã qua đào nhưng tạo
5
3
2
0
0
0
0
0
0
0
0
0
có
không chứng chỉ
2
0
- Sơ cấp nghề
6
4
2
2
1
1
0
0
0
0
1
0
11
10
1
1
2
2
0
0
0
0
- Trung cấp nghề
1
1
- Cao Đẳng
2
2
0
2
3
3
0
1
1
0
0
0
- Đại học trở lên
0
0
0
0
0
0
0
5
5
0
5
1
III. Nhóm tuổi
30
21
9
6
6
6
0
6
6
0
0
0
20-30
7
6
1
0
0
0
0
0
0
0
1
1
30-40
10
8
2
2
2
2
0
2
2
0
3
0
40-50
9
4
5
3
1
1
0
2
2
0
1
0
50-55
1
0
1
1
2
2
0
1
1
0
0
0
55-60
4
4
0
0
1
1
0
1
1
0
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả)
48
Qua bảng trên cho thấy: Chủ đơn vị sản xuất chia theo giới tính: Trong 30
chủ hộ được khảo sát thì 70% là nam giới, 83% chủ trang trại là nam, còn 100% chủ
HTX và DN là nam giới. Chủ TT chia theo dân tộc đa số các chủ thể dân tộc kinh
chiếm là chủ yếu, sau là dân tộc mừng, còn dân tộc khác có nhưng không đáng kể.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật tùy thuộc vào loại hình cụ thể như sau: Đối với hộ
sản xuất thì tỷ lệ chưa qua đào tạo hoặc qua đào tạo tập huấn không có chứng chỉ
vẫn chiếm tỷ lệ cao chiếm trên 50%, còn lại là sơ cấp và trung cấp; đối với chủ hộ
có bằng cao đẳng chỉ có 2 hộ, không có hộ nào có trình độ đại học; ngược lại đối
với chủ doanh nghiệp thì 83% có trình độ đại học, còn 17% tương ứng 1 chủ doanh
nghiệp có bằng cao đẳng; Đối với nhóm độ tuổi đối với tất cả chủ thể có độ tuổi từ
30-50 là chủ yếu vì độ tuổi này giúp cho chủ thể có tính quyết đoán và có nhiều
kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh lĩnh vực nông nghiệp.
3.2.2. Tình hình tích tụ ruộng đất của nhóm được khảo sát
Nhà nước đã có chủ trương, quan điểm chỉ đạo và chính sách cụ thể, Nhà
nước khuyến khích các doanh nghiệp liên kết với hộ nông dân để hình thành những
cánh đồng lớn trên cơ sở tích tụ và tập trung ruộng đất. Luật Đất đai năm 2013 và
các văn bản dưới luật đã bước đầu tạo điều kiện thuận lợi hơn, ưu tiên và ưu đãi hơn
cho doanh nghiệp khi liên kết với người nông dân xây dựng cánh đồng lớn, thúc
đẩy nhanh hơn quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất trong nông nghiệp. Nhưng
việc tích tụ ruộng đất đối với các chủ thể còn nhiều hạn chế, quy mô sản xuất chưa
đủ lớn để tập trung khu vực sản xuất hang hóa tập trung. Diện tích trung bình của
các chủ thể vẫn còn nhỏ tùy theo từng loại hình thể hiện dưới đây.
3.2.2.1. Tình hình tích tụ ruộng đất của hộ nông dân
Diện tích ruộng đất bình quân trên hộ của nhóm hộ khảo sát không cao, diện
tích bình quân mỗi hộ có 5.673m2 trong đó diện tích cây ăn quả chiếm nhiều nhất
gần 50%, diện tích trồng lúa đứng thứ 2 chiếm 30%, còn lại là diện tích đất màu và
đất khác. Tuy nhiên thì diện tích đất trồng lúa ở đây họ cũng thâm canh thêm vụ
49
màu tăng thêm hệ số sử dụng đất và tang diện tích đất gieo trồng. Nguồn gốc của
mỗi loại đất trong hộ có sự khác nhau: nguồn gốc ruộng đất của nhóm hộ điều tra
chủ yếu là vẫn là đất giao quyền sử dụng lâu dài, thứ 2 là mua và thuê còn lại là
chiếm tỉ lệ ít không đáng kể. Nhìn chung các hộ đã tích tụ thêm ruộng đất chủ yếu
là mua để đầu tư sản xuất kinh doanh cho chắc chắn, còn diện tích thuê và mượn
cũng có nhưng chiếm tỷ lệ ít hơn, khi đầu tư chủ hộ chưa yên tâm.
Bảng 3.7: Tình hình đất đai bình quân của nhóm hộ được khảo sát năm 2018
Tổng Loại đất (m2)
diện tích Nguồn gốc ruộng đất Đất Đất cây Đất SXNN Đất lúa (m2) màu ăn quả khác
Tổng diện tích đất NN 5673 1702 698 2819 454
Giao quyền SD lâu dài 321 1297 2610 783 209
1021 306 56 226 82 Khoán
340 102 42 169 0 Thừa kế
113 34 14 56 9 Đấu thầu
749 123 120 485 60 Mua
45 14 6 23 4 Khai hoang
113 34 14 56 9 Đổi
511 153 63 254 36 Thuê
170 153 63 254 45 Mượn
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả)
3.2.2.2. Tình hình tích tụ ruộng đất của trang trại
Huyện Nho Quan về quỹ đất nông nghiệp không cao nên các loại hình trang
trại của huyện chiếm con số rất nhỏ, cả huyện có tổng số 16 trang trại trong đó có
10 trang trại chăn nuôi, 2 trang trại trồng trọt và 4 trang trại tổng hợp. Tác giả chọn
luôn 6 trang trại (2 trang trại trồng trọt, 4 trang trại tổng hợp) để khảo sát, còn 10
trang trại chăn nuôi không khảo sát vì trang trại không tích tụ ruộng đất.
50
Diện tích ruộng đất bình quân trên một trang trại được thể hiện bảng dưới đây:
Bảng 3.8: Tình hình đất đai bình quân của nhóm trang trại được khảo sát năm 2018
Loại đất (m2) Tổng diện Nguồn gốc ruộng đất Đất cây Đất SXNN tích (m2) Đất lúa Đất màu ăn quả khác
Tổng diện tích 32540 1440 1080 5400 24620
Giao quyền SD lâu dài 10830 1310 454 1188 7878
Khoán 2190 130 97 486 1477
Thừa kế 700 0 76 378 246
Đấu thầu 9330 0 324 1620 7386
Mua 5185 0 130 378 4678
Đổi 762 0 0 270 492
Thuê 3542 0 0 1080 2462
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả)
Qua kết quả khảo sát ta thấy diện tích đất của 2 loại hình trang trại trồng trọt
cao hơn; 1 trang trại có diện tích là 4,2 ha; 1 trang trại có diện tích 4,7 ha là diện
tích tương đối lớn; nhưng 4 trang trại tổng hợp thì quy mô không lớn làm cho diện
tích đất bình quân của một trang trại thấp. Diện tích bình quân của mỗi trang trại đạt
được 3,3 ha trong đó diện tích đất SXNN khác chiếm nhiều nhất là 76%, trong đó
diện tích đất lâm nghiệp, diện tích đất chăn nuôi; còn diện tích đất trồng cây ăn quả
chiếm 17% tổng quỹ đất, còn 7% là diện tích đất trồng lúa và màu. Nguồn gốc đất
của trang trại chủ yếu vẫn là giao quyền sử dụng lâu dài chiếm 33%, đấu thầu 29%
trong đó chủ yếu là đất rừng và đất hồ nuôi thủy sản, mua 17%, còn lại rất ít là đổi
và thuê. Nhìn trung các chủ trang trại đang có hướng tích tụ ruộng đất mở rộng quy
mô sản xuất.
3.2.2.3. Tình hình tích tụ ruộng đất của hợp tác xã
Trong chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, nhà nước có
rất nhiều trích sách hỗ trợ thúc đẩy phát triển mô hình HTX để nâng cao thu nhập
cho các hộ nông dân ở khu vực nông thôn. Đối với huyện Nho Quan, năm 2010
tổng cả huyện có 8 HTX, năm 2016 tổng số HTX được tang lên 37 HTX nhưng
51
hoạt động chưa được hiệu quả, năm 2018 số HTX của huyện sát nhập còn 30 HTX
hoạt động hiệu quả với quy mô lớn trong đó 27 HTX hoạt động về lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp.
Thực tế thời gian qua cho thấy, trong sản xuất nông nghiệp đã có nhiều HTX
làm tốt vai trò là “bà đỡ” cho các hộ nông dân liên kết với nhau để chuyển từ sản
xuất nhỏ manh mún, phát triển thành sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, hiệu
quả cao. Các HTX này đã vận động, tổ chức cho các hộ nông dân chuyển ghép
ruộng đất, thực hiện dồn điền đổi thửa, chỉnh trang đồng ruộng. Khắc phục được
hạn chế về ruộng đất manh mún chia cắt, hình thành những cánh đồng lớn, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đưa cơ giới hóa vào
đồng ruộng, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, gia tăng giá trị sản phẩm thu
hoạch và thu nhập cho nông dân. Hình thức tích tụ của HTX là hình góp đất tạo
thành cánh đồng mẫu lớn để sản xuất theo hướng hang hóa. Quy mô diện tích đất
bình quân của một HTX được khảo sát thể hiện dưới bảng 3.9 sau.
Bảng 3.9: Tình hình đất đai bình quân của HTX được khảo sát năm 2018
Loại đất (m2) Tổng
Nguồn gốc ruộng đất diện tích Đất Đất cây Đất SXNN Đất lúa (m2) màu ăn quả khác
Tổng diện tích 67200 25536 12768 18144 10752
Giao quyền SD lâu dài 32256 12257 6129 10524 6236
20160 7661 3830 5443 3226 Khoán
12768 4852 2426 1814 0 Thừa kế
2016 766 383 363 1290 Thuê
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả)
Qua kết quả tổng hợp 6 HTX sản xuất nông nghiệp ta thấy tổng quy mô diện
tích/1 HTX là 67.200 m2 trong đó chủ yếu là diện tích đất trồng lúa và đất trồng cây
ăn quả với bình quân mỗi HTX có 17 hộ tham gia góp đất sản xuất tập rất hiệu quả,
nguồn đất từ hộ gia đình góp vào nên chủ yếu là đất được giao quyền sử dụng lâu
52
dài là chính chiếm 48%, thứ 2 là diện tích đất giao khoán chiếm 30%, các hộ cũng
thuê một ít đất để góp vào HTX.
3.2.2.2. Tình hình tích tụ ruộng đất của Doanh nghiệp
Đến năm 2018, toàn huyện có 06 công ty thuê đất để sản xuất nông nghiệp,
trên địa bàn 06 xã (Văn Phương, Đồng Phong, Sơn Lai, Gia Lâm, Văn Phú, Cúc
Phương), bao gồm: Công ty TNHH dược thảo Hoàng Thành Ninh Bình, Công ty CP
giống cây trồng và con nuôi Ninh Bình, Công ty TNHH dược liệu Vũ Gia, Công ty
CP thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, Công ty TNHH Chân Đất, Công ty CP chuyển
giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp NICOTEX với tổng diện tích tích tụ là 145 ha.
Diện tích đất bình quân một doanh nghiệp là 21,2 ha trong đó chủ yếu là trồng rau,
củ quả áp dụng theo công nghệ mới. Nhìn chung một số diện tích doanh nghiệp thuê
hoạt động có hiệu quả, một khoảng 20% diện tích doanh nghiệp thuê không hiệu
quả doanh nghiệp trả lại, còn một số diện tích xã thu lại để phục vụ cho xây dựng và
phát triển kinh tế hạ tầng địa phương.
3.2.3. Tình hình vốn của các chủ thể sản xuất
Vốn đóng vai trò hết sức quan trọng trong mỗi chủ thể sản xuất. Nó là cơ sở,
là tiền đề cho một một chủ thể bắt đầu khởi sự sản xuất kinh doanh. Vốn ở đây bao
gồm (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các tài sản thuộc sở hữu của chủ thể). Rồi để tiến
hành sản xuất kinh doanh, chủ thể phải thuê mua hoặc thuê đất, mua máy móc thiết
bị, công nghệ, nguyên vật liệu, thuê lao động... tất cả những điều kiện cần có để một
chủ thể sản xuất có thể tiến hành và duy trì những hoạt động của mình nhằm đạt
được những mục tiêu đã đặt ra.
Không chỉ có vậy, trong quá trình hoạt động SXKD của chủ thể, vốn là điều
kiện để chủ thể mở rộng sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu, đổi mới máy móc
thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động... cũng như tổ chức bộ máy quản lý đầy đủ
các chức năng. Từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng cường khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Vốn của các chủ thể được khảo sát thể hiện ở bảng dưới đây.
53
Bảng 3.10: Tình hình vốn bình quân trên chủ thể sản xuất
ở huyện Nho Quan năm 2018
Số hộ
Trang trại
HTX
Doanh Nghiệp
Số
Số
Số
Số tiền
Cơ
Cơ
Cơ
Cơ
Chỉ tiêu
tiền
tiền
tiền
(triệu
cấu
cấu
cấu
cấu
(triệu
(triệu
(triệu
đồng)
(%)
(%)
(%)
(%)
đồng)
đồng)
đồng)
Tổng tiền vốn
226,4
100,0 1132,2 100,0 1471,9 100,0 7359,4 100,0
1. Phân loại vốn
226,4
100,0 1132,2 100,0 1471,9 100,0 7359,4 100,0
- Vốn cố định
176,4 77,9
724,6
64,0
1089,2 74,0 3974,1
54,0
- Vốn lưu động
50,0 22,1
407,6
36,0
382,7 26,0 3385,3
46,0
2. Nguồn vốn
226,4
100,0 1132,2 100,0 1471,9 100,0 7359,4 100,0
- Vốn tự có
135,9 60,0
407,6
36,0
1045,0 71,0 3017,4
41,0
- Vốn vay ngân hàng
54,3 24,0
441,6
39,0
323,8 22,0 2943,8
40,0
- Vốn vay khác
36,2 16,0
283,1
25,0
103,0
7,0
1398,3
19,0
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả)
Quy mô vốn của các loại chủ thể khác nhau. Có sự phân cấp rõ ràng giữa các
loại hình sản xuất như sau:
- Hộ sản xuất: Vốn bình quân của hộ sản xuất 226,4 triệu đồng trong đó vốn
cố định chiếm chủ yếu là 78%, còn vốn lưu động chỉ tỷ lệ thấp 22%; nguồn vốn thì
tự có chiếm 60%, vốn vay ngân hàng hay qua các tổ chức nhà nước là 24%, còn lại
vay khác chiếm 16% tương ứng chiếm 36 triệu đồng. Nhìn chung với quy mô của
hộ để đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh lĩnh vực nông nghiệp là lớn, tiền vốn để
đầu tư vào mua đất và thuê đất chiếm chủ yếu, còn đầu tư máy móc, công cụ dụng
cụ không đáng kể.
- Trang trại, hoạt động quy mô lớn hơn hộ, đầu tư để mua và thuê đất chi phí
tốn. Vốn bình quân trên một trang trại là 1,132 tỷ đồng trong đó ốn cố định (đất đai,
máy móc, nhà xưởng) chiếm 64%, vốn để đầu tư trực tiếp vào sản xuất chiếm 36%,
số tiền vốn trang trại vay ngân hàng và tổ chức nhà nước là cao nhất 39%, thứ 2 là
tỷ lệ vốn tự có 36%, còn vốn vay khác là 25% tương ứng là 283 triệu đồng.
54
- Hợp tác xã: Quy mô số hộ góp vốn vào HTX khá đông, bình quân mỗi hợp
tác xã có 18 hộ tham gia. Do vậy vốn cố định của HTX chiếm 74% tương ứng gần
1,5 tỷ đồng, còn vốn lưu động; và 382 triệu đồng chiếm 26% tổng số vốn; nguồn
vốn tự có chiếm 71%, nguồn vốn vay 29% trong đó vốn vay khác có vay nhưng
không đáng kể.
- Doanh nghiệp: Doanh nghiệp vay vốn để tập trung đầu tư vào sản xuất kinh
doanh lĩnh vực nông nghiệp cần nguồn vốn tương đối cao. Doanh nghiệp phải có
nguồn vốn lớn mua và thuê đất của dân, tập trung cải tạo đưa vào hoạt động sản
xuất. Vốn bình quân trên một HTX là gần 7,4 tỷ đồng trong đó vốn cố định chiếm
54%, còn vốn lưu động là 46%; nguồn vốn tự có và vốn vay ngân hàng chiếm đều
trên 40%, còn lại trên 1,4 tỷ đồng là nguồn vốn vay khác.
3.2.4. Kết quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp của các nhóm được khảo sát
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh lĩnh vực nông nghiệp của các chủ thể
có tích tụ ruộng đất được đánh giá thông qua kết quả sản xuất kinh doanh xem các
chủ thể hoạt động có hiệu quả không. Cụ thể được thể hiện trong bảng dưới đây.
Bảng 3.11: Kết quả sản xuất bình quân trên chủ thể sản xuất
ở huyện Nho Quan năm 2018
ĐVT: triệu đồng
Doanh Chỉ tiêu Hộ sản xuất Trang trại HTX nghiệp
1. Giá trị sản xuất 75,44 812,46 3174,39 3455,60
2. Chi phí trung gian 52,81 503,73 2117,32 2004,25
3. Giá trị tăng thêm 22,63 308,74 1057,07 1451,35
4. Tổng chi phí 55,98 564,18 2329,05 2385,06
5. Lợi nhuận 19,46 248,29 845,34 1070,54
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả)
Quan khảo sát về tình hình sử dụng ruộng đất các chủ thể đánh giá kết quả
sản xuất bình quân trên một đơn vị chủ thể như sau:
- Hộ sản xuất với quy mô sản xuất nhỏ manh mún nên tổng giá trị đạt được
rất thấp hơn so với các chủ thể kia. Tổng giá trị sản xuất đạt được 75,44 triệu đồng,
giá trị tăng thêm là 22,63 triệu đồng và lợi nhuận thu được gần 20 triệu đồng.
55
- Trang trại sản xuất với quy mô lớn hơn nên giá trị sản xuất đạt trên 800
triệu đồng, giá trị gia tăng đạt hơn 300 triệu đồng, lợi nhuận mỗi năm trang trại thu
được gần 250 triệu đồng.
- HTX sản xuất với quy mô lớn, giá trị sản xuất đạt trên trên 3 tỷ đồng, giá trị
gia tăng đạt trên 2,12 tỷ đồng, lợi nhuận mỗi năm HTX thu được gần 845 triệu đồng.
- Doanh nghiệp với quy mô lớn nhất nên giá trị sản xuất đạt 3,456 tỷ đồng, giá
trị gia tăng đạt hơn 2 tỷ đồng, lợi nhuận mỗi năm trang trại thu được trên 1 tỷ đồng.
3.2.5. Hiệu quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp của các nhóm được khảo sát
Bảng 3.12: Hiệu quả sản xuất bình quân trên chủ thể sản xuất
ở huyện Nho Quan năm 2018
ĐVT: lần
Chỉ tiêu Hộ sản xuất Trang trại HTX Doanh nghiệp
1. Giá trị SX/DT 132,98 249,68 472,38 163,00
2. GTSX/TC 1,35 1,44 1,36 1,45
3. GTSX/VA 3,33 2,63 3,00 2,38
4. VA/TC 0,40 0,55 0,45 0,61
5. VA/DT 39,89 94,88 157,30 68,46
6. Lợi nhuận/DT 34,30 76,30 125,79 50,50
7. Lợi nhuận/TC 0,35 0,44 0,36 0,45
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả)
Qua kết quả khảo sát được ta thấy mỗi chủ thể có quy mô sản xuất khác
nhau, đạt được kết quả sát khác nhau, để đánh giá hiệu quả kinh tế thì mô hình HTX
và trang đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, sau là doanh nghiệp, còn đối với hộ sản xuất
với quy mô nhỏ lẻ, manh mún, giá cả thị trường sản phẩm bấp bênh, chi phí tốn
kém nên hiệu quả kinh tế thấp hơn so với 3 loại hình chủ thể kia. Do vậy các hộ dân
gần có hướng tích tụ ruộng đất để chuyển đổi loại hình sản xuất mang tính hàng hóa
và tiết kiệm chi phí sản xuất.
3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tích tụ ruộng đất của huyện Nho Quan
3.3.1. Lịch sử sở hữu ruộng đất huyện
Số liệu ở bảng 3.5 về nguồn gốc các mảnh đất trồng cây hàng năm 2018 đã
chứng minh ở Nho Quan nguồn gốc đất nhiều nhất là giao khoán và thừa kế, còn tỷ
lệ mua bán trao đổi chiếm tỷ lệ rất thấp.
56
Qua kết quả khảo sát về diện tích đất đai và nguồn gốc đất của các chủ thể
sản xuất cho thấy: Giữa các chủ thể sản xuất có nguồn gốc tích tụ đất khác nhau.
Tích tụ đất chính là Nhà nước giao quyền sử dụng lâu dài cụ thể như: hộ sản xuất là
4,6%, HTX là 4,8%, trang trại là 3,3%; doanh nghiệp là không có. Đối với doanh
nghiệp thì nguồn gốc tích tụ đất là thuê diện tích đất của Nhà nước và một số thuê
mua của người dân, Chính lịch sử và những đặc điểm nguồn gốc ruộng đất đã tác
động đến tâm lý mong muốn sở hữu riêng và là một trong những động lực tích tụ
ruộng đất của người dân huyện Nho Quan.
3.3.2. Thị trường ruộng đất Nho Quan
Hiện nay thị trường đất đai của huyên Nho Quan Với thị trường chuyển
nhượng đất đai dễ dàng và sôi nổi, một mặt vừa thể hiện hoạt động tích tụ ruộng đất
tồn tại và phát triển, mặt khác đây lại là yếu tố tạo cơ hội cho hoạt động tích tụ
ruộng đất khả thi hơn. Nhưng chủ yếu là thị trường đất ở và kinh doanh, còn trao
đổi ruộng đất để phục sản xuất có nhưng chiếm tỷ lệ không cao, chỉ giao dịch tập
trung cho 6 doanh nghiệp là chính, còn đối với người dân có nhưng không đáng kể.
3.3.3. Thị trường nông sản của huyện
Một trong những động cơ thôi thúc người nông dân tích tụ ruộng đất mở rộng sản
xuất đó chính là tình hình cung cầu nông sản và giá cả nông sản trên thị trường.
Nhiều hộ nông dân được đề tài phỏng vấn cũng cho biết thời kỳ trước đây
khoảng trước năm 2015 trồng những loại rau màu hoặc cây ăn quả có quy mô có lời
hơn thì đó cũng là thời kỳ việc mua ruộng đất mạnh mẽ nhất, nhiều hộ gia đình đã
tích tụ được khá nhiều ruộng đất. Hiện nay, để sản xuất nông nghiệp hữu cơ hướng
tới suất khẩu nâng cao giá trị sản lượng sản phẩm nông nghiệp mang lại lợi nhuận
cao. Chính vì vậy các chủ thể sản xuất nói chung và các hộ dân nhỏ lẻ nói riêng
đang hướng tới thuê mướn lại ruộng đất để sản xuất.
3.3.4. Chính sách
Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động về đất đai nói chung và
tích tụ ruộng đất nói riêng.
Ngay sau ngày đất nước thống nhất, với chính sách về xây dựng kinh tế tập
thể trên phạm vi cả nước được kêu gọi vào làm ăn tập thể trong các tổ sản xuất, tập
57
đoàn sản xuất và hợp tác xã. Lúc này ruộng đất tích tụ tập trung chủ yếu trong các
tập đoàn sản xuất, tuy vẫn còn một số hộ nông dân nằm ngoài các tập đoàn. Nhưng
chỉ sang đến những năm 1980, nhiều tập đoàn sản xuất chỉ còn là hình thức, hộ
nông dân đã ruộng đất của ai người đó làm. Do đó, dù có thể coi giai đoạn này có
tích tụ ruộng đất theo chính sách của nhà nước nhưng thực sự không đem lại hiệu
quả kinh tế và đã chấm dứt trong một thời gian ngắn.
Chính sách của Nhà nước lại tiếp tục tác động đến tích tụ ruộng đất ở Việt
Nam khi năm 1988 các tập đoàn sản xuất, hợp tác xã giải thể hoàn toàn, hình thành
các hình thức hợp tác xã mới, hộ nông dân chính thức được coi là đơn vị kinh tế tự
chủ, được giao ruộng đất canh tác lâu dài. Từ đây đến trước khi luật đất đai đầu tiên
được ban hành năm 1993 (có quy định về hạn điền), một xu hướng tích tụ đất đai đã
hình thành, ruộng đất được các hộ gia đình có điều kiện khai khoang, mua thêm từ
các hộ không có khả năng canh tác, làm ăn thua lỗ hoặc gặp hoàn cảnh khó khăn,
đáp ứng mong muốn tư hữu ruộng đất của người nông dân.
Luật đất đai năm 1993 chính thức giao đất cho hộ gia đình, được công nhận
năm quyền sử dụng bao gồm quyền chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê, thừa kế và
thế chấp. Tiếp theo luật đất đai sửa đổi năm 2003 cho phép thêm quyền chuyển đổi,
cho thuê lại, tặng cho, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Những quy định
đã tạo điều kiện cho việc tích tụ ruộng đất qua chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn…
Tuy nhiên, những quy định như hạn điền 3 ha, thời hạn giao đất 20 năm cũng như
hạn mức chuyển quyền sử dụng đất 6 ha đối với đất nông nghiệp đã làm cản trở
việc tích tụ ruộng đất vì việc vượt hạn điền phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp,
thời hạn giao đất ngắn, người nông dân ngại đầu tư, không thể đứng tên chính thức
và thế chấp vay vốn với ruộng đất vượt hạn điền. Ông Đinh Văn Mạnh xã Xích Thổ
huyện Nho Quan kể về trường hợp của gia đình mình và một số trường hợp khác
mà ông biết: “Đối với việc đi vay thế chấp ruộng thì các ngân hàng cũng không xét
vay đối với diện tích vượt hạn điền trong sổ”. Còn Ông Nguyễn Văn Phương cùng
xã thì nói: “Nên cho hạn điền là 20 mẫu. Ủng hộ tự do mua bán đất vì mua bán vượt
hạn điền thì hồi đầu không sang tên, nhưng sau đó từ từ cũng sang tên được bằng
cách này cách khác”.
58
Không chỉ người dân và cán bộ địa phương cũng cho biết tình hình chung về
những trở ngại trong việc tích tụ ruộng đất từ chính sách. Cán bộ phòng Nông
nghiệp - Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của huyện nói: “Địa bàn huyện
nhiều hộ nông dân có từ mấy chục ha đất đều nhờ người đứng tên đất vượt hạn
điền, và hiện chưa có hướng giải quyết vấn đề này vì đứng tên giùm nguy hiểm và
gây tranh chấp”. Ngoài ra, theo ông này thì quản lý bằng hạn điền cũng không phải
dễ vì: “Người ta mua huyện này vài ha, huyện kia hoặc tỉnh khác vài ha cũng không
biết được hạn điền”. Cán bộ quản lý trực tiếp về nông nghiệp đất đai địa bàn xã Cúc
Phương cũng cho hay: “Ở đây muốn làm ăn có lãi, làm giàu phải từ 5 ha trở lên,
nhưng vướng hạn điền, nên cho người ta nhiều đất”.
Luật đất đai 2013 đã có những điểm mới, thời hạn giao đất là 50 năm và cho
phép hộ gia đình, cá nhân nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp không quá
10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp, nhưng hạn điền vẫn là 3 ha. Một lần nữa tích
tụ ruộng đất vẫn bị hạn điền ràng buộc, khi mà chỉ xét riêng về mặt kinh tế theo
Nghị quyết số 55/2010/QH12 được thực hiện từ ngày 1/1/2011 đến hết ngày
31/12/2020 thời hạn miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp chỉ đất trong hạn
điền mới được miễn thuế.
3.3.5. Tập quán, lối sống của người dân của huyện Nho Quan
Dân tộc của người dân huyện Nho Quan chiếm chủ yếu là dân tộc kinh và
dân tộc mường, còn dân tộc khác chiếm tỷ lệ không đáng kể. Nhưng quan niệm của
người dân vẫn có khái niệm còn đất còn của. Nên ở một số xã các hộ dân hiếm lao
động sản xuất nông nghiệp họ không có nhu cầu sử dụng ruộng đất để sản xuất,
nhưng họ vẫn giữ đất không thuê và cũng không bán, mà nếu có điều kiện họ còn
mua thêm. Còn một số hộ dân khác hay chủ trang trại muốn mở rộng quy mô sản
xuất để có thể áp dụng được những tiến bộ khoa học vào san xuất thì lại không có
đất để mở rộng.
Ông Đặng Văn Minh (sinh năm 1971), xã Cúc Phương nói rằng ông luôn
muốn mở rộng sản xuất vì “ham ruộng” và luôn muốn mua thêm ruộng: “mình có 5
mẫu thì muốn làm 6 mẫu thành ra tiền không bao giờ đủ”.
Ông Nguyễn Văn Ngọc (sinh năm 1963), xã Văn Phong tâm sự: “Nếu không
còn đủ sức để làm thì giữ lại cho con làm, nếu không thì cho thuê chứ không bán đất”.
59
Bà Nguyễn Thị Như (sinh năm 1967), xã Văn Phong chia sẻ “Có công
chuyện, bệnh đau mới bán đất, còn nếu không có sức khoẻ để làm nữa thì cho thuê
chứ không bán hết đất. Người nông dân rất yêu ruộng, vì vậy không dám cho con
cái nhiều ruộng vì sợ con bán hết”.
Khảo sát có 90% số hộ trong mẫu khảo sát đồng ý với ý kiến cho rằng dù
khó khăn đến đâu họ cũng phải giữ lấy ruộng đất, và 100% các chủ thể muốn mở
rộng thêm quy mô ruộng đất.
Điều này đặt ra câu hỏi làm thế nào để người dân có thể rời bỏ ruộng đất khi
không có khả năng canh tác hay không thể làm giàu, như vậy mới có cơ sở để đất
đai tập trung vào cá nhân hay doanh nghiệp muốn làm ăn lớn.
3.3.6. Hoàn cảnh gia đình
Hoàn cảnh kinh tế của hộ gia đình khác nhau sẽ có những ứng xử khác nhau
đối với ruộng đất của mình.
Đối với hộ có điều kiện kinh tế, đủ năng lực tài chính sẽ mua hoặc thuê thêm
ruộng đất, tích tụ ngày càng nhiều. Ông Đinh Văn Cửu thuộc xã Cúc Phương có đủ
năng lực mua và thuê đất, ông cho hay với giá đất hiện nay khoảng 400 triệu/mẫu
ruộng thì: “Với hiệu quả kinh tế hàng năm trên 20 mẫu ruộng, chủ hộ vài năm có
thể mua thêm ruộng. Điều kiện gia đình có thể thuê thêm ruộng đất nhưng hiện nay
trong xã cũng không có hộ nào cho thuê, hầu như mọi người đều trực tiếp làm”.
Ông cũng là người mua được nhiều ruộng đất nhờ có điều kiện kinh tế: “Số lần mua
thêm ruộng khoảng 5-6 lần, thường 1,5 năm đến 2 năm lại mua được ruộng. Con
cái đều được cho ăn học đầy đủ, không có ai vì lý do kinh tế gia đình khó khăn mà
phải nghỉ học. Có 2 người con học cao nhất là đại học”.
Đối với hộ gia đình không đủ năng lực tài chính dù muốn mua thêm ruộng
đất để tích tụ cũng không thể thực hiện được. Ông Phạm Minh Dũng, xã Xích Thổ
bày tỏ: “Hai vợ chồng có thể làm được 10 mẫu ruộng. Muốn mua thêm đất nhưng
không có khả năng tài chính”. Ông Trần Xuân Dương, xã Gia Lâm cũng cho hay:
“Muốn mở rộng diện tích canh tác nên mua thêm đất. Bây giờ nếu có khả năng sẽ
mua thêm 2 mẫu nữa”. Ông Nguyễn Mạnh Phúc, xã Gia Lâm nói: “Không có mua
thêm đất do không đủ năng lực tài chính”.
60
Còn với hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn, làm ăn thua lỗ, ốm đau… thì có
thể phải bán ruộng đất. Những hộ này tham gia vào quá trình tích tụ ruộng đất ở
khía cạnh tạo cơ hội cho những hộ có điều kiện mua ruộng đất. Hoàn cảnh gia đình
họ đôi khi được hé lộ thông qua những người mua đất. Ông Đinh Văn Cửu, xã Cúc
Phương cho biết: “Khoảng năm 1990 mua đất lần đầu tiên được 2,4 mẫu, người bán
là người chị trong họ hàng, do bị bệnh thiếu tiền nên bán. Lần mua đất gần đây nhất
là năm 2009, được 2,4 mẫu ruộng. Người bán là em bên vợ do vay mượn Nhà nước
làm ăn thua lỗ phải bán ruộng trả”. Ông Nguyễn Trọng Hiếu, xã Gia Lâm chia sẻ
năm 2010 mua được 1 ha, giá là 8 cây, không cần đi vay mượn, riêng năm 2008,
cho người ta cầm cố 2,5 ha đất, giá 6 cây. Người cầm đất là do làm ăn thua lỗ, tự
người ta tìm đến ông để cầm”.
Ở khía cạnh chính sách thì hoàn cảnh gia đình khác nhau sẽ cần đến những
chính sách khác nhau. Với hộ gia đình khó khăn có thể hỗ trợ sinh kế thay thế sinh
kế nông nghiệp, ngược lại với hộ có điều kiện thì nên hỗ trợ về mặt thủ tục pháp lý,
thuế, vốn, khoa học kỹ thuật... để thúc đẩy tích tụ ruộng đất có hiệu quả.
Nghiên cứu về đất đai và tích tụ ruộng đất từ trước đến nay đã chứng minh
những yếu tố ảnh hưởng đến tích tụ ruộng đất rất đa dạng. Ở nghiên cứu này, ngoài
những kết quả tương đồng còn tìm ra được một số yếu tố khác ảnh hưởng đến tích
tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan, có thể khái quá thành tám nhóm yếu tố ảnh hưởng
đến tích tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan như sau:
- Đặc điểm nhân khẩu học hộ gia đình (tuổi chủ hộ)
- Nguồn lực sản xuất hộ gia đình (thu nhập và tài sản cố định của hộ gia
đình, vốn vay cho hoạt động sản xuất, hoàn cảnh hộ gia đình)
- Sinh kế hộ gia đình (tỷ lệ thu nhập phi nông nghiệp của hộ gia đình, cơ hội
việc làm phi nông nghiệp)
- Điều kiện sinh thái (độ màu mỡ của đất đai)
- Cơ sở hạ tầng (giao thông bộ, giao thông thủy)
- Chính sách (luật đất đai, thuế và các quy định liên quan)
- Thị trường đất đai và nông sản
- Tập quán, lối sống dân cư Tây Nam Bộ (tập quán di cư và làm thuê; tâm lý
giữ đất)
61
Trong những yếu tố ảnh hưởng đến tích tụ ruộng đất của huyện Nho Quan,
có những yếu tố có ảnh hưởng khá mạnh đó là yếu tố thuộc về nhóm sinh kế hộ gia
đình, thị trường đất đai và chính sách. Nhưng cho dù có trực tiếp liên quan đến
chính sách hay không thì suy cho cùng tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến tích tụ
ruộng đất của huyện vẫn có thể được tác động bởi chính sách.
Nghiên cứu cũng chỉ ra tích tụ ruộng đất đã tác động đến đời sống kinh tế xã
hội của vùng trên nhiều mặt. Ở mặt tích cực, tích tụ ruộng đất đã giúp hộ gia đình
nông thôn cải thiện đời sống kinh tế và làm giàu, đồng thời xét về hiệu quả của
phân bổ nguồn lực nói chung thì tích tụ ruộng đất còn tạo cơ hội cho những hộ gia
đình ít đất sản xuất tìm được việc làm phi nông nghiệp thích hợp hơn. Nhưng ngược
lại, tích tụ ruộng đất cũng gây ra sự bất bình đẳng về đất đai, là một trong những
nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng về thu nhập và tạo ra khoảng cách giàu nghèo.
Hơn nữa, tích tụ ruộng đất còn làm mất đi sinh kế truyền thống của một số hộ gia
đình nông thôn. Mặc dù vậy, tích tụ ruộng đất vẫn được đa số người dân ủng hộ kể
cả người có tích tụ và người không có ruộng đất.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tích tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan. Một số
yếu tố thuộc về khách quan, một số khác thuộc yếu về chủ quan của chủ thể tích tụ.
Những yết tố này có thể tóm lại trong tám nhóm là: Đặc điểm nhân khẩu học hộ gia
đình; Nguồn lực sản xuất hộ gia đình; Sinh kế hộ gia đình; Điều kiện sinh thái; Cơ
sở hạ tầng; Chính sách; Thị trường đất đai và nông sản của huyện Nho Quan; Tập
quán, lối sống dân cư của huyện.
Những thực trạng trên đặt ra câu hỏi về việc ủng hộ thay không ủng hộ tích
tụ ruộng đất. Câu trả lời là cần ủng hộ tích tụ và cần lưu ý giải quyết những tác
động về mặt xã hội mà nó tạo ra. Đặc biệt, đối với huyện Nho Quan xét về lịch sử
và điều kiện tự nhiên, trình độ canh tác và tập quán lối sống của người dân thì tích
tụ ruộng đất vẫn là hình thức phù hợp để phát triển nông nghiệp. Mặt khác, thực
trạng tích tụ ruộng đất hiện nay cũng đòi hỏi cấp bách về chính sách phát triển để
nông nghiệp của huyện có thể vươn lên sản xuất lớn nhằm nâng cao đời sống cho
người dân và đóng góp nhiều hơn vào sự tăng trưởng chung của cả nước.
62
3.4. Thuận lợi và khó khăn trong việc tích tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan
* Thuận lợi
Huyện đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách cụ thể thực hiện tích tụ ruộng
đất để liên kết sản xuất trong nông nghiệp. Trong đó, huyện cho phép UBND cấp xã
ký hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, trên
cơ sở được các hộ gia đình (người sử dụng đất) ủy quyền cho UBND cấp xã ký hợp
đồng cho thuê đất với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu tích tụ đất để phát
triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp hàng hóa
lớn. UBND cấp xã thực hiện việc tích tụ ruộng đất, dồn điền, đổi thửa đất 5% của
xã với nông dân, trên cơ sở vận động và được sự đồng thuận của nông dân nhằm tạo
quỹ đất tập trung cho tổ chức, doanh nghiệp thuê để tổ chức sản xuất.
UBND huyện đã giao phòng kinh tế hạ tầng nông thôn và phòng tài nguyên
môi trường chủ trì phối hợp với các sở, ngành, đơn vị liên quan cân đối nguồn vốn
để tham mưu, đề xuất bố trí đủ nguồn lực thực hiện các chính sách khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn theo quy định hiện hành của trung
ương, của huyện; rà soát, giảm thiểu các thủ tục về cấp phép đầu tư, chấp thuận đầu
tư và hưởng các chính sách hỗ trợ đầu tư của Nhà nước để thu hút doanh nghiệp
tham gia vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất nông
nghiệp hàng hóa.
Hiện nay, việc tích tụ ruộng đất trên địa bàn huyện được thực hiện chủ yếu
thông qua hình thức liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) với các
hộ. Trong đó doanh nghiệp giữ vai trò tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, các hộ
dân thực hiện sản xuất trên đất của mình và cung cấp sản phẩm cho doanh nghiệp.
Đến nay, toàn huyện đã thu hút được 6 doanh nghiệp, 30 HTX tham gia liên kết sản
xuất, tích tụ ruộng đất, hình thành các chuỗi khép kín tiêu thụ các sản phẩm dược
liệu, rau, cây ăn quả. Tổng diện tích đất tích tụ thông qua liên kết sản xuất đạt trên
7.800 ha, với hơn 12.500 hộ nông dân tham gia. Cùng với đó, việc tích tụ ruộng đất
được thực hiện với hình thức thuê đất của nông dân để sản xuất. Tuy nhiên, hình
thức này không được nhiều đất (mới có 100,5 ha) do giá thành thuê đất hiện nay rất
cao, bình quân 40 triệu đồng/ha/năm.
63
* Những hạn chế
Tích tụ ruộng đất để phát triển sản xuất hàng hóa là chủ trương lớn được
Huyện ủy, HĐND, UBND huyện quan tâm, chỉ đạo thực hiện, tuy nhiên, trong tổ
chức thực hiện còn bộc lộ nhiều khó khăn. Theo Luật Đất đai năm 2013, điều kiện
để doanh nghiệp được giao đất, cho thuê đất thực hiện dự án quy mô lớn trong nông
nghiệp rất phức tạp, chưa có quy định về việc hỗ trợ doanh nghiệp thuê lại hoặc
nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp của nông dân, nên khi triển khai
các dự án đầu tư gặp khó khăn. Bên cạnh đó, do các quy định về hạn điền, về
chuyển đổi mục đích sử dụng đất và đặc biệt là khó vận động người dân dồn điền,
đổi thửa, góp đất tham gia sản xuất cũng gây nhiều trở ngại khi thực hiện các mô
hình sản xuất hàng hóa. Chế tài xử lý ruộng đất bị bỏ hoang hóa chưa đủ mạnh, nên
trên địa bàn huyện vẫn diễn ra tình trạng sử dụng đất kém hiệu quả hoặc ngừng
canh tác.
Trên thực tế, phần lớn đất sản xuất nông nghiệp do các hộ gia đình quản lý
và sử dụng, nhưng do đặc điểm địa hình miền núi nên diện tích đất canh tác không
tập trung. Mặt khác, một bộ phận người dân không sản xuất hoặc sản xuất hiệu quả
thấp nhưng vẫn có tư tưởng giữ ruộng, giữ đất vì coi đó là tài sản bảo đảm từ đời
trước đến đời sau. Do vậy, việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đầu tư máy
móc, thiết bị để sản xuất tập trung gặp nhiều khó khăn.
Ví dụ tại xã Cúc Phương, theo báo cáo của Phòng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, tại xã hiện còn nhiều đất có khả năng tích tụ, ... Tuy nhiên, nông dân địa
phương lo ngại rằng hầu hết diện tích gồm các thửa nhỏ, khi doanh nghiệp đầu tư sẽ
dồn điền đổi thửa, tạo mặt bằng lớn, nhưng nếu hoàn trả thì khó xác định lại ranh
giới đất đã cho thuê. Phó Chủ tịch UBND xã Sa Pả, ông Bùi Trọng Thủy cho biết:
Rất khó để hoàn thành kế hoạch tích tụ ruộng đất vì người dân chưa mặn mà với
chủ trương này.
Các xã còn lại trong huyện, việc thực hiện tích tụ ruộng đất cũng gặp vấn đề
tương tự. Ông Nguyễn Xuân Giang, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn khẳng định: Mặc dù ngành chức năng đã tích cực phối hợp với chính quyền địa
phương vận động người dân thực hiện chủ trương của huyện, nhưng thực tế khi
triển khai còn nhiều vướng mắc...
64
Ngoài những bất cập trên, việc đầu tư sản xuất nông nghiệp cũng rủi ro cao,
lợi nhuận thấp nên nhiều doanh nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư lĩnh vực này. Thủ tục
chuyển nhượng, thuê đất còn rườm rà, phức tạp, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Xuân Giang, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhấn
mạnh: Tích tụ ruộng đất đang là hướng đi phù hợp, thúc đẩy nông dân tích cực
chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi, đưa cơ giới hóa vào sản xuất, nâng cao
giá trị sản xuất. Để thúc đẩy tiến trình tích tụ, tập trung ruộng đất tạo vùng phát
triển hàng hóa, cần sự vào cuộc quyết liệt của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ
chức chính trị - xã hội và đặc biệt là các doanh nghiệp, HTX nông nghiệp trên địa
bàn huyện.
3.5. Các giải pháp chủ yếu nhằm khuyến khích tích tụ ruộng đất góp phần dịch
chuyển cơ cấu ngành nông nghiệp ở huyện Nho Quan trong những năm tới
3.5.1. Quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển nông
nghiệp nông thôn và tích tụ ruộng đất
Quá trình đổi mới kinh tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý chính sách đất đai
của Đảng và Nhà nước đã tạo được động lực và đem lại những thành tựu to lớn
trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, bảo đảm an ninh lương thực, ổn định xã
hội, làm bệ đỡ trong điều kiện kinh tế thế giới có nhiều biến động. Việt Nam đã trở
thành một trong những quốc gia hàng đầu về xuất khẩu nông sản, với 10 mặt hàng
xuất khẩu có giá trị trên 1 tỷ USD. Tuy nhiên, dư địa để tiếp tục phát triển đã gặp
trần giới hạn, đặc biệt là giới hạn về đất đai và phương thức sản xuất. Cả nước có 9
triệu héc-ta đất nông nghiệp với 10 triệu hộ nông dân (năm 2015). Diện tích đất
bình quân cho sản xuất nông nghiệp ở nước ta chỉ 0,46ha/hộ, thấp hơn rất nhiều so
với các nước châu Á [32].
Theo số liệu điều tra mức sống của hộ gia đình Việt Nam giai đoạn 1993 -
2017 của Tổng cục Thống kê, diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất mặt nước
bình quân cho hộ nông nghiệp chỉ tăng nhẹ từ 5.408m2 lên 6.748m2, chủ yếu do
tăng diện tích đất lâm nghiệp và đất mặt nước nuôi trồng thủy sản, trong khi diện
tích đất trồng cây hàng năm bình một hộ giảm từ 4.121m2 xuống còn 3.334m2. Tình
trạng phổ biến của đất nông nghiệp là nhỏ lẻ, manh mún kéo dài ảnh hưởng tới năng
65
suất lao động, giá trị gia tăng và hiệu quả, lãng phí thời gian và tăng chi phí trung
gian, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và đời sống của nông dân. Trên danh nghĩa
mọi người dân đều có đất nhưng thu nhập từ đất không đủ sống, một bộ phận lao
động còn trẻ, có trình độ học vấn phải tự phát rời nông thôn đi tìm việc ở thành phố
hoặc xuất khẩu lao động, do thiếu lao động và thiếu vốn nên một bộ phận đất đai bị
bỏ hoang...
Hiện nay, kinh tế nước ta đã hội nhập khá sâu vào nền kinh tế thế giới, ngoài
quan hệ với các tổ chức thương mại đa phương, như Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các
quốc gia Đông nam Á (ASEAN), chúng ta đã và đang liên kết để thực hiện các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới, các rào cản về thương mại sẽ dần được dỡ bỏ,
mang lại nhiều cơ hội và thách thức lớn cho nông nghiệp. Nông sản nước ta phải
cạnh tranh với nông sản thế giới với sự bất cân xứng - một bên là các nông trại quy
mô lớn, công nghệ cao được kết nối chặt chẽ với các tập đoàn có uy tín, một bên là
hộ nông dân nhỏ lẻ tự phát hạn chế về nhiều mặt, thua kém về năng suất, chất lượng
và sức cạnh tranh. Từ những vấn đề trên đây, để phát triển nông nghiệp theo hướng
hiện đại có nhiều việc phải làm, trong đó có vấn đề tích tụ và tập trung đất đai,
nhằm tận dụng lợi thế về quy mô, làm cho đất đai trở thành yếu tố đầu vào của sản
xuất hàng hóa lớn, ứng dụng khoa học - công nghệ, gắn hộ nông dân với doanh
nghiệp và phát triển dịch vụ, giảm mạnh lực lượng lao động trong nông nghiệp, ổn
định nghề nông, hình thành một đội ngũ nông dân chuyên nghiệp.
Các chủ thể tích tụ và tập trung đất đai bao gồm hộ gia đình (trang trại gia
đình), hợp tác xã và doanh nghiệp, trong đó trang trại gia đình là chủ thể quan
trọng. Ở các nước có nền nông nghiệp hiện đại, trang trại gia đình vẫn là chủ thể cơ
bản. Sản xuất nông nghiệp khác với sản xuất công nghiệp và dịch vụ, đối tượng sản
xuất là sinh vật, đặc điểm sinh học đòi hỏi người quản lý và người lao động phải có
khả năng thích ứng và kiểm soát quá trình sản xuất diễn ra trong từng loại cây, con,
từng thửa ruộng, có kỹ năng chăm sóc và trách nhiệm cao trong quản trị, vì vậy quy
mô đất đai phải phù hợp với quản trị sản xuất. Các tình trạng, như quy mô nhỏ,
không tận dụng được lợi thế về quy mô, không bảo đảm cuộc sống và tích lũy, hoặc
vượt quá tầm hạn quản trị sẽ không hiệu quả.
66
Đối với các doanh nghiệp, mặc dù tích tụ đất đai quy mô lớn nhưng vẫn phải
dựa vào trang trại gia đình. Doanh nghiệp không thể làm những khâu sản xuất mang
tính sinh học mà phải giao cho hộ gia đình. Doanh nghiệp chủ yếu làm dịch vụ đầu
vào, đầu ra và trong mô hình liên kết này có hai đối tác tham gia quá trình kinh
doanh nông nghiệp trên cùng một mảnh đất và phân giao trách nhiệm, lợi ích theo
cơ chế thỏa thuận có thể gọi, đây là sự kết hợp giữa tập trung và phân tán. Như vậy,
đối với trang trại gia đình - chủ thể cơ bản, để có hiệu quả cần xác định quy mô tối
ưu. Trên thực tế quy mô tối ưu phụ thuộc vào nhiều yếu tố: ngoài đặc điểm sinh học
còn tùy thuộc vào khả năng quỹ đất, bảo đảm thu nhập đủ sống và khả năng tái đầu
tư phát triển, phù hợp với đặc điểm ngành và sản phẩm: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi
trồng thuỷ sản, trồng và bảo vệ rừng; với vùng địa lý: ven đô, đồng bằng, miền núi,
trình độ công nghệ, phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu. Theo
Ngân hàng Thế giới và Viện Chiến lược và Chính sách phát triển nông nghiệp, nông
thôn, đối với hộ chuyên trồng lúa phải có ít nhất 2ha đất mới có thể vượt qua đói
nghèo, có 3ha: mới đạt ngưỡng thu nhập trung bình.
Để phát triển trang trại gia đình ngoài quy mô đất đai, năng lực quản trị của
chủ hộ, rất cần vai trò của hợp tác xã để hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, giảm chi phí.
Hợp tác xã có vai trò phối hợp liên kết các trang trại gia đình, lo dịch vụ đầu vào,
đầu ra với những hoạt động đa dạng, như cung ứng vật tư (giống, phân bón, thuốc
bảo vệ thực vật, công cụ sản xuất); tiêu thụ sản phẩm, làm đầu mối liên kết giữa các
hộ gia đình với doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng và với chính quyền địa phương,
tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước để giảm các chi phí giao dịch.
Thực tế cho thấy, doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc phát triển
nông nghiệp thành nền sản xuất lớn theo hướng hiện đại thông qua liên kết sản xuất
với một số hình thức thích hợp như sau:
- Một là, liên kết với trang trại gia đình hình thành cánh đồng lớn, chuyên
canh, sản xuất một loại giống xuất khẩu. Doanh nghiệp là nhà đầu tư cung ứng
giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, xây dựng, hướng dẫn, giám sát chất lượng
theo yêu cầu của các tổ chức xuất khẩu, ứng dụng công nghệ sản xuất, chế biến hiện
đại, bảo đảm tiêu thụ sản phẩm, xây dựng và thực hiện các thỏa thuận về lợi ích một
67
cách công khai. Từ năm 2016 đến 2018, Công ty CP giống cây trồng và con nuôi
Ninh Bình liên kết với 200 hộ nông dân để sản xuất cây màu mang lại hiệu quả kinh
tế cao, điều quan trọng là ổn định tiêu thụ nông sản.
- Hai là, nông dân góp vốn vào doanh nghiệp và HTX bằng quyền sử dụng
đất. Ví dụ, các hộ nông dân ở trong huyện đã biết góp đất cho doanh nghiệp và
HTX để sản xuất, ngoài trả công theo lao động, phân chia lợi ích còn theo cổ phần.
Về lý thuyết, đây là một cơ chế tốt có lợi cho doanh nghiệp và nông dân đã thực
hiện thuận lợi trong 3 năm đầu.
- Ba là, doanh nghiệp thuê đất của hộ nông dân sản xuất phục vụ xuất khẩu.
Hình thức này đã được triển khai ở một số địa phương và đã đạt được những kết
quả tích cực: Doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh, nông dân có thu nhập từ
tiền thuê đất và thu nhập từ lao động. Trong huyện đã có doanh nghiệp thuê 140ha
trồng chuối xuất khẩu sang Nhật Bản. Chính quyền xã đứng ra huy động đất đai và
ký hợp đồng với doanh nghiệp... Khác với cơ chế góp vốn bằng quyền sử dụng đất,
các doanh nghiệp thuê đất đã thực hiện khá thành công, nhờ các cam kết bằng hợp
đồng, bảo đảm ổn định tiêu thụ, quản trị chặt chẽ chất lượng trên cơ sở nền tảng của
nông nghiệp hữu cơ (sạch, bảo đảm an toàn thực phẩm), có chỉ dẫn địa lý, bảo đảm
hài hoà về lợi ích giữa doanh nghiệp và hộ nông dân, các doanh nghiệp nhập khẩu
là những đối tác có uy tín bảo đảm ổn định đầu ra.
3.5.2. Quan điểm đề xuất giải pháp
(1) Tích tụ ruộng đất là phù hợp với quan điểm của Đảng và chính sách của
Nhà nước, với xu thế hội nhập và là xu hướng tất yếu của sản xuất với quy mô lớn,
nâng cao năng suất và hiệu quả dựa vào khai thác lợi thế theo quy mô.
(2) Tích tụ ruộng đất phải có những chính sách, giải pháp phù hợp với điều
kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của từng vùng. Do đó các giải pháp đối với
tích tụ ruộng đất ở vùng Tây Nam Bộ cần lưu ý đến khía cạnh này.
(3) Không tích tụ ruộng đất bằng mọi giá mà phải quan tâm đến giải quyết
các vấn đề xã hội mà tích tụ ruộng đất mang lại. Nếu không tiến hành thận trọng,
tích tụ ruộng đất sẽ trở thành bắt bí hộ đói nghèo và có hoàn cảnh khó khăn để mua
được đất giá rẻ, hoặc đầu cơ ruộng đất mà không canh tác đẩy giá ruộng đất lên cao
68
gây kho khăn cho người muốn tích tụ để sản xuất thực sự, hay thu hồi ruộng đất lập
dự án, rồi phân lô bán nền phục vụ “lợi ích nhóm”.
(4) Chính sách của Nhà nước về tích tụ ruộng đất đóng vai trò quan trọng
nhất trong việc thúc đẩy tích tụ ruộng đất. Nông nghiệp vốn là lĩnh vực các nhà đầu
tư còn e ngại, trong khi đó người nông dân xưa nay vẫn là tầng lớp nghèo nhất trong
xã hội, chưa kể đến ruộng đất với người nông dân vẫn như là của để dành, do đó
tích tụ ruộng đất khó hiệu quả trên cả hai mặt kinh tế và xã hội nếu không có sự can
thiệp chính sách của nhà nước mà chỉ để cho thị trường chuyển nhượng, cho thuê tự
vận động đưa đến tích tụ ruộng đất.
(5) Phải kết hợp đồng bộ các chính sách về tích tụ ruộng đất nhưng có ưu
tiên. Tích tụ ruộng đất là một vấn đề lớn, liên quan đến gần 22210 hộ gia đình nông
thôn. Vì vậy cần có sự kết hợp đồng bộ các giải pháp mới mong giải quyết được
vấn đề toàn diện và hiệu quả. Nhưng đồng thời cũng cần ưu tiên một số giải pháp
nhằm thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất mạnh mẽ hơn.
3.5.3. Đề xuất giải pháp
a. Nhóm giải pháp thúc đẩy tích tụ ruộng đất
Qua phân tích cho thấy huyện Nho Quan xét về điều kiện tự nhiên đất đai,
lịch sử ruộng đất, tập quán tâm lý, điều kiện thị trường…có những thuận lợi cho
tích tụ ruộng đất so với cả nước. Vấn đề là chính sách của nhà nước phải làm sao
tạo điều kiện từ hai phía vì nhìn nhận một cách tổng quát để tăng diện tích ruộng đất
của chủ thể này thì buộc phải giảm diện tích của một hay nhiều chủ thể khác.
b. Giải pháp tạo điều kiện cho hoạt động tích tụ ruộng đất
* Điều chỉnh luật đất đai: Mặc dù luật đất đai 2013 chính thức được áp dụng
từ 1/7/2014 đã có nhiều điểm mới khuyến khích tích tụ ruộng đất nhất là về thời hạn
giao đất và hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất. Đối với huyện Nho Quan thời
hạn giao đất là 50 năm và hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất gấp 10 lần hạn
điền đối với đất nông nghiệp. Tuy nhiên, hạn điền vẫn giữ nguyên ở mức 3 ha, đây
vẫn là một cản trở cho tiến trình tích tụ ruộng đất. Để gỡ bỏ cản trở này cần phải
sửa đổi bổ sung về quy định hạn điền. Có thể chỉ tính hạn điền đối với giao đất lần
đầu, còn nhận chuyển quyền sử dụng đất thì không tính hạn điền. Bước tiếp theo là
69
nới lỏng hạn điền hơn nữa, thậm trí xóa bỏ hạn điền. Hạn mức nhận chuyển quyền
sử dụng đất cũng cần được nâng lên và dần dần xóa tiến tới không có hạn mức. Bên
cạnh thay đổi chính sách hạn điền, Nhà nước cần có chính sách đảm bảo ruộng đất
tích tụ cho mục đích sản xuất nông nghiệp. Cần quy định về thời hạn để đất trống
không sản xuất bao lâu thì thu hồi quyết định cấp đất, cho thuê đất (nếu được nhà
nước giao, cho thuê), bắt buộc thực hiện chuyển quyền sử dụng đất (đối với đất
mua). Những biện pháp này để tránh tình trạng đầu cơ đất nông nghiệp theo kiểu
mua để đó chờ giá lên, hoặc chờ dự án, hoặc tìm cách chuyển đổi mục đích sử dụng.
Tình trạng này xảy ra sẽ làm cho những người thật sự muốn tích tụ ruộng đất để sản
xuất thì gặp khó khăn trong việc mua đất do giá cả bị đẩy lên vì nhu cầu mua ruộng
đất đầu cơ.
* Chính sách thuế: Cần điều chỉnh thuế sử dụng đất nông nghiệp để kích
thích tích tụ ruộng đất. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993 quy định hộ sử
dụng đất nông nghiệp vượt quá hạn mức diện tích thì ngoài việc phải nộp thuế theo
quy định còn phải nộp thuế bổ sung đối với phần diện tích vượt hạn mức. Đến năm
2010 Nghị quyết số 55/2010/QH12 về miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp quy
định: Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với diện tích đất nông nghiệp trong
hạn mức giao đất nông nghiệp, giảm 50% số thuế sử dụng đất nông nghiệp ghi thu
hàng năm đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức giao đất nông nghiệp
nhưng không quá hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp đối với hộ
gia đình, cá nhân. Đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức nhận chuyển
quyền sử dụng đất nông nghiệp thì phải nộp 100% thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Và Nghị định này được thực hiện từ ngày 1/1/2011 đến hết ngày 31/12/2020. Về
mặt kinh tế, với những quy định như thế này sẽ không khuyến khích người dân,
doanh nghiệp tích tụ ruộng đất. Khi mà lợi nhuận trong nông nghiệp không cao như
hiện nay, việc đóng thuế với đất đai vượt hạn điền, vượt hạn mức nhận chuyển
nhượng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận và quyết định đầu tư. Về mặt tâm lý
người chủ thể ruộng đất không an tâm với ba chữ “vượt hạn điền”. Đất đai là sở hữu
toàn dân do nhà nước làm đại diện, tâm lý bị vượt hạn điền giống như là một cái gì
đó sai trái, thậm trí thấp thỏm sợ bị thu hồi. Tuy nhiên, cần đánh thuế mạnh vào
70
những đối tượng tích tụ ruộng đất mà không “trực canh” hoặc không được sử dụng
cho sản xuất nông nghiệp. Điều này để tránh hiện tượng đầu cơ đất với các mục
đích khác và thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp dựa trên tích tụ ruộng đất.
* Phát triển thị trường chuyển nhượng và thuê đất:
Phát triển thị trường thuê đất tạo điều kiện cho tích tụ ruộng đất đã được một
số nước thực hiện. Ở Việt Nam, thị trường thuê mướn đất đã hình thành và sôi
động, nhưng ở Thái Bình nói chung và Nho Quan nói riêng thì thị trường thuê
mướn đất vẫn còn hạn chế và thiếu tính chuyên nghiệp trong việc cung cấp các
thông tin về nhu cầu cho thuê và thuê, giá cả, trung gian chứng thực các giao dịch
đảm bảo tính pháp, lý xử lý khi có các tranh chấp. Chủ yếu nhu cầu thuê, hay cho
thuê đều tự người dân tìm hiểu thông tin cho nhau theo hoặc theo một số đầu mối
gọi là “cò đất”.
Để thúc đẩy tích tụ ruộng đất thì việc chuyển nhượng phải, thuê mướn phải
thông thoáng và tạo điều kiện về thủ tục. Hiện nay, giao dịch thuê đất giữa các cá
nhân gần như 100% là viết tay, nhiều các giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cũng viết tay, trong khi đó theo luật đất đai hiện hành việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất bắt buộc phải thông qua chứng nhận của công chứng. Nhà nước
có thể có những chương trình hỗ trợ những hộ đã mua bán đất bằng giấy viết tay
làm sổ đỏ để họ yên tâm hơn trong việc tích tụ đất sản xuất.
Theo Luật Thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH11 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của các luật về thuế số 71/2014/QH13 thì mức thuế chuyển nhượng
quyền sử dụng đất là 2%. Với giá đất nông nghiệp hiện giờ khá cao (theo số liệu thu
thập khảo sát thực địa của đề tài là từ khoảng 300 đến 600 triệu đồng/ha) thì khoản
thuế này khá lớn. Do đó nhà nước có thể miễn hoặc giảm khoản thuế này đối với
giao dịch chuyển nhượng đất để kích thích người dân và các doanh nghiệp tích tụ
ruộng đất, nhưng chỉ áp dụng khi ruộng đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp
(không chuyển đổi mục đích sử dụng đất).
Thị trường chuyển nhượng cũng tương tự như cho thuê, cũng chủ yếu tự phát
và qua “cò” đất. Nên đã xảy ra những hiện tượng như người bán bị ép giá khi gặp
hoàn cảnh khó khăn, hoặc giá cả bị thổi lên bởi những thông tin không chính thức.
71
Ở Hàn Quốc, một hệ thống ngân hàng đất nông nghiệp được thành lập vào
năm 2005 với mục đích giảm thiểu hiện tượng manh mún đất đai và khuyến khích
các hộ trẻ thuần nông nghiệp mở rộng quy mô sản xuất. Nó cung cấp thông tin cho
những người muốn mua hoặc thuê đất và những người muốn bán hoặc cho thuê đất,
và đóng vai trò trung gian trên thị trường đất nông nghiệp (IPSARD, 2009). Nên Việt
Nam có thể áp dụng mô hình. Một số chủ thể sản xuất thuê mướn đất canh tác không
chỉ trong địa bàn xã huyện, mà còn ra cả tỉnh khác. Nhất là các doanh nghiệp muốn
đầu tư sản xuất nông nghiệp thì càng cần thông tin trên không gian lớn. Do đó, nên
hình thành ngân hàng đất nông nghiệp mang tính chất vùng và đặt các phòng giao
dịch tại địa bàn các xã để người dân vừa dễ tiếp cận vừa có thông tin cả vùng.
* Giải pháp nâng cao giá trị nông sản và mở rộng thị trường
Để làm được điều này cần tập hợp lực lượng sản xuất, tập hợp những doanh
nghiệp nhỏ và rất nhỏ thành hệ thống, hình thành nên chuỗi giá trị nông sản. Ở đây,
vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề sẽ là cầu nối để liên kết
doanh nghiệp lại với nhau. Có như vậy người nông dân không lo về vấn đề đầu ra,
doanh nghiệp sẽ chủ động hơn và cũng không còn lo lắng về nguồn nguyên liệu.
Bên cạnh đó, nhà nước cần có sự trợ giúp các doanh nghiệp chế biến và xuất
khẩu để nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản, xây dựng thương hiệu nông sản, liên
kết và nắm bắt thông tin về các quy định thuế, hàng rào kỹ thuật, tình hình thị
trường quốc tế.
* Chính sách đối với các chủ thể tích tụ ruộng đất
- Chính sách đối với hộ gia đình, trang trại và HTX: Ngoài việc cần thay đổi
một số chính sách trong luật đất đai, luật thuế nông nghiệp, hay chính sách hỗ trợ
thị trường chuyển nhượng, thuê mướn đất đai như trên thì hộ gia đình cần hỗ trợ về
vốn để tích tụ ruộng đất. Trước hết, đối với những hộ có điều kiện tích tụ ruộng đất
(khả năng tài chính, lao động, quản lý, kỹ thuật) nhà nước cần có các chương trình
cho vay hỗ trợ lãi suất thông qua ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Hiện nay, chương trình cho vay ưu đãi không thế chấp với nông hộ đã được triển
khai nhưng hạn mức cho vay tối đa chỉ 300 triệu đồng (trên thực tế nhiều ngân hàng
Nông nghiệp chỉ cho vay tối đa 100 triệu đồng) và người dân vẫn phải nộp sổ đỏ
72
cho ngân hàng [33]. Do đó, các chương trình dạng này phải được giám sát thực hiện
nghiêm túc, rõ ràng, minh bạch. Ngoài ra đối với đất ngoài hạn điền, chính quyền
cần đứng ra bảo lãnh để các ngân hàng thương mại cho vay thế chấp cả phần đất
ngoài hạn điền của hộ gia đình.
- Khi hộ gia đình tích tụ đất và có quy mô sản xuất đến mức đủ điều kiện để
thành lập trang trại thì chính quyền địa phương cần hỗ trợ và tạo điều kiện để hộ
đăng ký và hoạt động theo hình thức trang trại. Nhưng chính sách đối với trang trại
cần có sự điều chỉnh và hoàn thiện.
Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/2/2000 về kinh tế trang trại thể hiện
quan điểm chú trọng và tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển của Chính
phủ. Nghị định nêu rõ những ưu đãi của nhà nước đối với trang trại như ưu tiên cho
thuê đất, thời hạn cho thuê, hỗ trợ về vốn, khoa học-công nghệ, hỗ trợ về thị trường,
chế biến, tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kết cấu hạ tầng, miễn thuế thu nhập theo
Nghị định số 51/1999/NĐ-CP, hỗ trợ về đầu tư tín dụng theo quy định tại Quyết
định số 67/1999/QĐ-TTg. Hai điểm hạn chế đang kìm hãm sự phát triển kinh tế
trang trại mà chính Nghị quyết 03 của Chính phủ đã xác định đó là vốn và đất sản
xuất. Để giải quyết hai điểm này lên quan trước hết đến việc cho thuê đất, giao đất,
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận trang trại.
Khó nhất là khi đi vay vốn ngân hàng luôn đòi hỏi có cả hai tấm “vé” là Sổ
đỏ và Giấy chứng nhận trang trại. Rất nhiều trang trại chỉ có được một trong hai tấm
vé này hoặc không có cả hai. Chưa kể khi có cả hai tấm vé thì việc chứng minh
năng lực tài chính để ngân hàng cho vay vốn không hề đơn giản.
Cấp giấy chứng nhận trang trại gặp nhiều khó khăn kể từ khi có chuẩn mới
năm 2011 thực hiện theo Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13 tháng 4 năm
2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Theo đó, các cơ sở sản xuất
nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt tiêu chuẩn kinh tế trang trại phải thỏa mãn điều
kiện sau: (1). Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thủy sản, sản xuất tổng hợp đồng
thời phải đạt: a) Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu: 3,1 ha đối với vùng Đông
Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long; 2,1 ha đối với vùng còn lại. b) Giá trị sản
lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm. (2). Đối với cơ sở chăn nuôi phải đạt giá trị
73
sản lượng hàng hóa từ 1 tỷ đồng/năm trở lên. (3). Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp
phải có diện tích tối thiểu 31 ha và giá trị sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500
triệu đồng/năm trở lên. Cái khó ở chỗ có trang trại đáp ứng được về diện tích thì lại
không đáp ứng về doanh thu và ngược lại có trang trại doanh thu rất lớn nhưng diện
tích không đủ. Đặc biệt doanh thu nông nghiệp thường trồi sụt bất thường phụ thuộc
vào nhiều yếu tố.
Vì vậy cần có quy định tạo điều kiện cho các trang trại chưa được cấp sổ đỏ
do đất khai hoang hoặc giấy tờ chuyển nhượng viết tay. Đối với đất giao khoán,
thuê mướn của nhà nước, cần có thời hạn giao, thuê tương đối dài, ổn định nếu chỉ
quy định thời hạn cho thuê đất nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân không quá
50 năm như hiện nay, nhiều địa phương chỉ áp dụng cho giao, thuê 5 năm, rồi sau 5
năm lại đấu thầu giá thuê, làm cho người sản xuất không yên tâm đầu tư.
Ngoài ra những ưu đãi dành cho trang trại theo như nghị định 03 trên thực tế
ít trang trại được tiếp cận hay được hưởng lợi. Chính sách thì có nhưng triển khai cụ
thể thì còn nhiều bất cập. Do đó để chính sách đối với trang trại kích thích được sự
phát triển của loại hình kinh tế này, cần:
- Thứ nhất, đối với hộ có quy mô “Bán trang trại” cần được đánh giá, lựa
chọn và tiếp tục hỗ trợ để họ có thể phục hồi hoặc phát triển đạt các chuẩn mới về
trang trại để họ có thể tiếp cận được các nguồn lực hỗ trợ trước đây và các chính
sách hỗ trợ kinh tế trang trại theo các chuẩn mới.
- Thứ hai, đất trang trại hiện nay chủ yếu là đất được giao khoán, cho thuê,
cho thuê tạm, đấu thầu… cần phải có quy định về thời hạn tối thiểu khi được giao,
thuê tương ít nhất phải là 20 năm và ổn định để chủ trang trại đầu tư không sợ mất
tài sản. Ngoài ra, chính sách đất đai như đã nói ở phần trên về hạn điền cần nới rộng
để một bộ phận kinh tế hộ có đủ điều kiện phát triển thành kinh tế trang trại.
- Thứ ba, cần sớm điều chỉnh tiêu chí trang trại, theo đó có tiêu chí cụ thể về
diện tích và doanh thu đối với từng loại hình trang trại như trang trại chăn nuôi,
trồng trọt, nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp… và đi kèm với các tiêu chí máy móc
thiết bị, khoa học công nghệ. Đối với mỗi loại hình trang trại chỉ cần đáp ứng một
số tiêu chí nào đó chứ không phải tất cả. Ví dụ trang trại trồng hoa, rau quả công
74
nghệ cao chẳng hạn, thì không thể lấy tiêu chí diện tích đất phải từ 3 ha như hiện
nay mới được công nhận khi mà doanh thu của nó rất cao.
Chính sách đối với doanh nghiệp tích tụ ruộng đất: Doanh nghiệp cũng có
thể tích tụ ruộng đất qua hình thức góp vốn cổ phần bằng đất, xin giao đất, thuê đất
của nhà nước, hay thuê, mua của dân... Tuy nhiên vẫn gặp một số vướng mắc về cơ
chế và thiếu sự hỗ trợ của nhà nước. Giải pháp là đối với các nông trường, lâm
trường quốc doanh hoạt động không hiệu quả cần chuyển đổi, cho thuê đất hoặc bán
cho doanh nghiệp có nhu cầu và khả năng sản xuất kinh doanh nông nghiệp thành
doanh nghiệp. Thêm vào đó, cần có cơ chế, quy định khi doanh nghiệp mua ruộng
đất của dân như việc không được thay đổi mục đích sử dụng đất, cho mua với diện
tích lớn, liền canh (có thể cả một ấp). Ngoài ra nhà nước cần đặc biệt hỗ trợ về mặt
thủ tục, và hỗ trợ vay vốn đối với doanh nghiệp.
75
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Tích tụ ruộng đất đã và vẫn đang là vấn đề còn nhiều tranh luận mặc dù đã được sự ủng hộ về mặt chủ trương và chính sách cũng như những tác động tích cực của nó đã được thực tế khảng định. Tuy nhiên, để phát triển nông nghiệp Việt Nam nói chung, huyện Nho Quan nói riêng trong bối cảnh hội nhập quốc tế thì tích tụ ruộng đất là một trong những hướng đi tất yếu. Vậy đâu là những cơ sở ủng hộ cho việc tích tụ ruộng đất, đồng thời những giải pháp nào để thúc đẩy tích tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan để thỏa mãn cả hai yêu cầu giải pháp kinh tế khuyến khích tích tụ ruộng đất để góp phần dịch chuyển cơ cấu ngành nông nghiệp. Để trả lời câu hỏi đó, luận văn đã tập trung vào những nội dung cơ bản dưới đây:
- Một là, tích tụ ruộng đất có tác động tích cực đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp huyện Nho Quan thể hiện ở việc với quy mô ruộng đất lớn sẽ làm tăng năng suất, sản lượng, giảm chi phí, tăng lợi nhuận và thu nhập hộ gia đình cùng với những lợi ích vật chất khác kèm theo.
- Hai là, tích tụ ruộng đất có tác động đến đời sống kinh tế xã hội nông thôn ở nhiều khía cạnh. Bên cạnh việc góp phần nâng cao sản lượng, năng suất cây trồng, áp dụng kỹ thuật tiên tiến, cơ giới hóa và chuyên môn hóa sản xuất của cả vùng, tích tụ ruộng đất còn cải thiện thu nhập, đời sống, thậm chí làm giàu cho hộ gia đình có tích tụ. Tuy nhiên, tích tụ ruộng đất cũng là một trong các yếu tố góp phần tạo ra chênh lệch giàu nghèo từ việc chênh lệch ruộng đất. Hơn thế nữa, tích tụ ruộng đất cũng là một trong những nguyên nhân của hiện tượng nông dân không đất sản xuất, làm mất đi sinh kế truyền thống, tạo ra tâm lý tiêu cực trong một bộ phận người dân nông thôn. Tuy nhiên, tích tụ ruộng đất đã và đang được sự ủng hộ của người dân và vẫn là phương cách phù hợp cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp ở huyện.
- Ba là, tích tụ ruộng đất ở huyện Nho Quan chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố của tích tụ ruộng đất nói chung và những yếu tố mang tính đặc trưng của địa phương. Những yếu tố này được khái quát thành tám nhóm là: (i) Đặc điểm nhân khẩu học hộ gia đình; (ii) Nguồn lực sản xuất hộ gia đình;
76
(iii) Sinh kế hộ gia đình; (iv) Các điều kiện về sinh thái; (v) Chính sách; (vi) Thị trường ruộng đất và nông sản; (vii) Tập quán, lối sống cư dân;
Cuối cùng, từ các kết quả nghiên cứu, đặt trong bối hội nhập quốc tế, tác giả đã xác định năm quan điểm và hai nhóm giải pháp chính cho vấn đề tích tụ ruộng đất ở huyện, bao gồm: (i) Giải pháp thúc đẩy tích tụ ruộng đất; (ii) Giải pháp đối với các vấn đề xã hội. Trong đó, tập trung ưu tiên thực hiện nhóm các giải pháp thúc đẩy tích tụ ruộng đất.
2. Kiến nghị
Để đạt được mục tiêu tích tụ ruộng đất góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành
nông nghiệp ở huyện Nho Quan luận văn có một số kiến nghị sau:
2.1. Đối với cấp trung ương
- Điều chỉnh, bổ sung các chính sách liên quan đến Dồn điền đổi thửa,
chuyển nhượng đất đai, đặc biệt là các chính sách về giá tạo điều kiện, khuyến
khích người dân tích tụ ruộng đất.
- Ban hành các chính sách về đào tạo nghề, hỗ trợ việc làm song song với
quy hoạch vùng đất sản xuất tập trung, hoặc trước khi có kế hoạch quy đất ở một
nơi nào đó cần có các phương án nhằm giải quyết việc làm cho người dân, có như
vậy mới hạn chế tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng sau khi THĐNN.
- Có chính sách quy hoạch phát triển khu đô thị, dịch vụ liền kề các CCN
nhằm thu hút lao động, tạo việc làm đồng thời tạo điều kiện để các CCN, tổ chức dự
án hoạt động lâu dài.
- Đưa ra những chính sách nhằm đẩy mạnh việc phát triển các làng nghề
truyền thống, và các làng nghề mới, đồng thời khuyến khích người dân phát triển
các ngành nghề dịch vụ để chuyển nhượng đất sản xuất nông nghiệp cho các chủ
thể sản xuất khác có quy mô lớn hơn.
2.2. Đối với các cấp chính quyền địa phương
- Trước khi triển khai kế hoạch quy hoạch những canh đồng mẫu lớn,
chính quyền địa phương nên có những buổi tập huấn nâng cao nhận thức cho
người dân lợi ích của việc dồn điền đổi thửa, có cánh đồng mẫu lớn.
- Nắm bắt được số lao động hiện có trên địa bàn cũng như lực lượng lao
77
động tiềm năng, đặc biệt cần đưa ra dự báo về số lao động sẽ thiếu việc làm khi dồn
thửa để có phương hướng giải quyết.
- Có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ dồn điền đổi thửa chuyển
đổi ngành nghề và hộ mở rộng sản xuất sau sau khi dồn thửa. Mở rộng chương trình
vay vốn, các quỹ tín dụng nhằm giúp các hộ tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi để đầu
tư sản xuất.
- Hợp tác với các doanh nghiệp có kế hoạch đào tạo nguồn lao động phục vụ
trong các khu vực công cộng.
- Có kế hoạch phát triển các ngành nghề truyền thống cũng như nghề mới
nhằm thu hút lao động tại chỗ, tạo việc làm cho lao động sau dồn thửa.
- Phối hợp với cán bộ lãnh đạo các xã, thường xuyên theo dõi tình hình
SXNN của hộ trên diện tích đất tích tụ, hướng dẫn cho các hộ chuyển đổi cơ cấu
cây trồng hợp lý, thâm canh tăng năng suất.
- Phối hợp cùng các cơ quan có thẩm quyền thường xuyên theo dõi tình hình
hoạt động của các chủ thể sử dụng ruộng quy mô diện tích lớn trên địa bàn, tránh
tình trạng các hộ sử dụng sai mục đích.
78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (2008), Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành TW khoá
X đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 về nông nghiệp, nông
thôn, nông dân.
2. Ban Quản lý Các khu công nghiệp và Thu hút đầu tư Vĩnh Phúc (2008), Báo cáo
tổng hợp thu hút đầu tư phát triển công nghiệp Vĩnh Phúc qua các năm 1997-
2008, Kế hoạch phát triển các Khu công nghiệp đến năm 2010 và tầm nhìn
đến năm 2020.
3. Báo Ninh Bình ngày 18.5.2018.
4. Nguyễn Văn Bích và Chu Tiến Quang (1996), Chính sách kinh tế và vai trò của
nó đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (1988), Chỉ thị số 47/CT-TW, ngày 31/08/1988 về việc giải quyết
một số vấn đề cấp bách về ruộng đất.
6. Bộ Chính trị (1988), Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về
đổi mới quản lý kinh tế NN (gọi tắt là Khoán 10).
7. Bộ Tư Pháp (2005), Những điều cần biết về Luật Đất đai, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
8. C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 25, phần II, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
9. Kim Văn Chinh (2012), Tích tụ tập trung và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
tại Việt Nam, trường ĐH khoa học tự nhiên thuộc ĐH Quốc Gia Hà Nội.
10. Chính phủ (2004), Nghị định số 64/CP, ngày 27/9/2003 của Chính phủ quy
định về việc giao đất nông nghiệp đến hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định
lâu dài vào sản xuất nông nghiệp.
11. Trần Tử Cường (2006), Tăng cường vai trò quản lý đất đai của nhà nước trong
quá trình đô thị hoá ở Thành phố Hà Nội, Luận án tiến sỹ, Trường Đại học
KTQD Hà Nội.
12. Bùi Quang Dũng (2011) Một số vấn đề về ruộng đất qua cuộc điều tra nông
dân 2009 - 2010. Tạp chí Khoa học Xã hội số 9(157).
79
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Hoàng Thị Thu Huyền (2015), Những yếu tố ảnh hưởng đến tích tụ ruộng đất ở
vùng Tây Nam Bộ, NxbTạp chí khoa học xã hội, số 6 (202)
17. Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam (1998), Phát triển nông thôn theo hướng
CNH- HĐH, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Nguyễn Đình Kháng - Nguyễn Văn Phúc (2000), Một số vấn đề lý luận của Các
Mác và Lênin về địa tô ruộng đất, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Đình Kháng (2008), Cơ sở lý luận và thực tiễn tiếp tục hoàn thiện
chính sách đất đai ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.
20. Vũ Oanh (1998), Nông nghiệp, nông thôn trên con đường công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, dân chủ hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Phòng Kế hoạch và Đầu tư Vĩnh Phúc (2018), Báo cáo “Kế hoạch tổng thể phát
triển Kinh tế xã hội huyện Nho Quan giai đoạn 2015 đến 2020, tầm nhìn đến
2025”.
22. Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Nho Quan (2018), Báo cáo
tổng hợp kết quả sản xuất nông nghiệp.
23. Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện (2018), Báo cáo tổng hợp kết quả dồn
điền đổi thửa của huyện đến năm 2018.
24. Phòng thống kê huyện Nho Quan (2015-2018).
25. Phùng Hữu Phú - Nguyễn Viết Thông - Bùi Văn Hưng (2018), Vấn đề nông
nghiệp - nông dân- nông thôn- kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung
Quốc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Luật Đất đai
1993, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật Đất đai sửa
đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80
28. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Đất đai năm
2003, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Đầu tư 2005,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật đất đai năm
2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Trần Trọng Sâm (2008), Vấn đề tam nông ở Trung Quốc, Nxb Từ điển bách
khoa, Hà Nội.
Trang web
32. Cục Hợp tác xã & PTNT: www.dcrd.gov.vn;
33. Bản tin tài chính kinh doanh – Đài truyền hình Việt Nam VTV1 ngày 25/9/2015
nghiep-hang-hoa/96040.htm
34. http://baothanhhoa.vn/kinh-te/huyen-hoang-hoa-tich-tu-ruong-dat-de-phat-trien-nong-
35. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2017/46577/Tich -
tu-va-tap-trung-dat-dai-nham-nang-cao-nang-luc.aspx
36. www.kinhtenong thon.com.vn: Báo Điện tử Kinh tế Nông thôn.
37. www.laocai.egov.vn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Lao Cai.
38. www.phutho.egov.vn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Phú Thọ.
39. www.thainguyen.egov.vn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Thái Nguyên.