BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

-----------

ĐOÀN THỊ CẨM VÂN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC

LÀM DÀNH CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT TẠI

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh

Mã ngành : 60340102

TP. HCM, tháng 10 năm 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

-----------

ĐOÀN THỊ CẨM VÂN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM

DÀNH CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT TẠI

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh

Mã ngành : 60340102

HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRƢƠNG QUANG DŨNG

TP. HCM, tháng 10 năm 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ

công trình nào khác.

Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này

đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn

gốc.

Học viên thực hiện Luận văn

ĐOÀN THỊ CẨM VÂN

i

LỜI CÁM ƠN

Qua quá trình học tập và nghiên cứu, được sự tận tình giúp đỡ của các thầy cô

giáo, các nhà quản lý tại Ủy Ban Nhân Dân Quận 12, tôi đã hoàn thành chương trình

học tập và nghiên cứu luận văn vớiđềtài: “Một số giải pháp giải quyết việc làm

dành cho người khuyết tật tại Tp. Hồ Chí Minh”.

Tôi xin chân thành cảm ơn TS.Trương Quang Dũng đã tạo mọi điều kiện và

tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài. Tôi xin chân

thành cảm ơn các nhà quản lý trong nghiên cứu phát triển năng lực người khuyết tật tại

Hồ Chí Minh đã góp ý cho tôi hoàn thiện đề tài.

Tôi xin chân thành cảm ơn các anh, chị Phòng Tổng hợp - Cục Thống kê

thành phố Hồ Chí Minh, đã cung cấp tài liệu thống kê, hướng dẫn tôi cách xử lý

thông tin.

Tôi xin chân thành cảm ơn các anh, chị đang công tác tại một số doanh nghiệp

và trung tâm nơi tôi đến điều tra, phỏng vấn đã cung cấp nhiều thông tin quý báu và

đóng góp ý kiến cho tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài.

Học Viên

ĐOÀN THỊ CẨM VÂN

ii

TÓM TẮT LUẬN VĂN

Theo thống kê của Trung tâm nghiên cứu phát triển năng lực người khuyết tật

tại TP.HCM (DRD) năm 2014, có khoảng 44.352 người khuyết tậttrong đó người

người khuyết tật có nhu cầu học nghề chiếm khoảng 14%, tỷ lệ người khuyết tật sau

đào tạo nghề tìm được việc làm còn rất thấp và chủ yếu là tự tạo việc làm, số có thể

tìm được việc làm trong các doanh nghiệp lớn hầu như không đáng kể.

Vấn đề cơ hội việc làm cho người khuyết tật ngoài các yếu tố chính sách và

thực thi của nhà nước,một số các yếu tố khác cần được xem xét như: cách nhìn xã

hội trong đó có người tuyển dụng lao động về người khuyết tật; trình độ và khả

năng làm việc của người khuyết tật; kênh thông tin tiếp cận của người khuyết tật đối

với cơ hội nghề nghiệp… Trên cơ sở các yếu tố trên tác giả muốn tìm ra những giải

pháp hiệu quả trong việc giải quyết việc làm cho người khuyết tật hiện nay tác giả

chọn đề tài: “Một số giải pháp giải quyết việc làm dành cho ngƣời khuyết tật tại

Tp. Hồ Chí Minh” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.

Bằng phương pháp định tính sử dụng kết quả nghiên cứu và số liệu thứ cấp từ các

hiệp hội, tổ chức, đơn vị có liên quan và từ các công trình khoa học đã công bố có liên

quan đến người khuyết tật (NKT) ở TP.HCM, tác giả tập trung vào những lý thuyết

liên quan đến NKT. Bắt đầu từ khái niệm NKT đến các tổ chức liên quan NKT.

Bằng phương pháp thống kê và phân tích, tác giả đánh giá được: Thực trạng cung

ứng việc làm nói chung và dành riêng cho người khuyết tật. Thực trạng của các chính

sách hỗ trợ NKT, mối liên kết giữa doanh nghiệp và NKT. Đặc biệt là nghị lực vươn

lên của chính bản thân NKT. Tuy có thể nói là vượt hẳn so với cả nước nhưng vẫn còn

nhiều khó khăn chưa giải quyết bao gồm 6 vấn đề:

+ NKT phải được nhìn nhận ở một góc độ khác góc độ y tế là góc độ xã hội

+ NKT chưa thể tiếp cận triệt để các dịch vụ hỗ trợ

+ Hoạt động truyền thông chưa sâu rộng

+ Công tác đào tạo nhân lực hỗ trợ NKT còn nhiều bất cập

iii

+ Tính liên kết giữa các cơ quan quản lý, các tổ chức tuyển dụng và người

khuyết tật còn hạn chế

+ Chưa có xây dựng mô hình đào tạo NKT;

Vấn đề còn nhiều, thách thức lớn, nhưng cơ hội, tiềm năng cho NKT hòa nhập cộng

đồng góp phần vào phát triển xã hội một cách bền vững cũng rất lớn. Việc chỉ ra

những vấn đề bất cập trong việc giải quyết việc làm cho NKT là cơ sở quan trọng để

đưa ra các giải pháp khắc phuc, phát triển xã hội.

Nắm bắt được thực trạng trên, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm giải

quyết việc làm cho NKT dựa trên phương hướng phát triển kinh tế xã hội của

Tp.HCM trong thời gian tới. Luận văn đã giải quyết các vấn đề:

Thứ nhất: Phương hướng phát triển kinh tế-xã hội chung trên TP.HCM

Thứ hai: Phương hướng phát triển thị trường việc làm cho NKT đến năm

2020

Thứ ba: Đưa ra các giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho NKT:

+ Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ

hợp pháp của người khuyết tật

+ Các giải pháp hỗ trợ việc làm

+ Giải pháp hoàn thiện quy trình truyền thông hai chiều từ các đơn vị tìm

kiếm việc làm đến với những người khuyết tật

+ Xây dựng mô hình liên kết thông tin và đào tạo lao động khuyết tật có trình

độ

Tuy nhiên, để NKT có công việc ở định lâu dài thì thành phố cần triển khai

đồng bộ các giải pháp như qui hoạch, liên kết, đầu tư..., đồng thời các cấp, các Hội

cần có sự quan tâm hỗ trợ tích cực, hiệu quả trên nhiều phương diện cần thiết, cũng

như bản thân các doanh nghiệp và địa phương phải chủ động trong việc phối hợp

hỗ trợ NKT. Có vậy, việc tạo công ăn việc làm cho NKT của thành phố mới thuận

lợi và đạt kết quả mong muốn.

iv

According to the Center for Research Capacity Development in HCMC

Disability DRD, in 2014, around 44,352 disabled people and disabled people

who need vocational training for about 14%, the proportion of disabled people

after training to find jobs is very low and mainly self-employment, some may

find employment in large enterprises is almost negligible.

Issues of employment opportunities for disabled people, beside factors

and enforcement policies of the state, a number of other factors need to be

considered such as social perspective including the employment of persons

with disabilities; qualifications and the ability to work of persons with

disabilities; media access of persons with disabilities to career opportunities ...

Based on these factors, the author wanted to find effective solutions to create

jobs for disabled people present, so the author I chose the theme of the thesis:

"A number of measures to create jobs for the disabled in Tp. Ho Chi Minh

City ".

By using qualitative methods of research results and secondary data

from the association, organization or unit concerned and the scientific works

were published relating to the disabled in Ho Chi Minh City, the author

focuses on the theories related to the disabled. This starts from the concept of

disabled organizations relating to the disabled.

By statistical methods and analyzes, the author assessed: Food supply

situation in general and employment for the disabled; situation of policies

supporting the disabled, the link between business and the disabled, especially

overcoming difficulties of the disabled themselves. Although it can be said

that the result in Ho Chi Minh City is the higher than the other areas, there are

still many unresolved problems, including 6 issues:

+ The disabled must be recognized societally beside medical aspect.

ABSTRACT

v

+ The disabled have been accessible supporting services yet.

+ Communication activities are less extensive

+ The training of manpower to support the disabled is inadequate

+ The link between the disabled and the organizations recruiting is

limited

+ Building model to train the disabled has not carried yet.

The problem was much greater challenge, but an opportunity, the

potential for The disabled integrate into the community contribute to social

development in a sustainable way is also very large. Pointing out the

shortcomings in the creation of jobs for the disabled is an important basis to

make remedies, social development.

Foreseeing this situation, the author offer a number of solutions in

order to create jobs for the disabled based on the direction of social-economic

development of HCMC‟s strong future. The thesis has solved the problems:

First: The direction of economic development in the whole city.

Second: Developed policies of the job market for the disabled in 2020.

Third: Providing solutions in order to create jobs for the disabled:

+ Improving the system of legal documents on the rights and legal

obligations of the disabled.

+ Solutions to support employment.

+ Solution finishing two-way communication process from the search

unit to work with the disabled.

+ Building the model to train the qualified disabled workers.

However, the disabled can work in the long term, the city needs to

deploy synchronization solutions such as planning, cooperation, investment ...

while all levels and needs the assistance attention active and effective in many

ways necessary, as well as themselves and local businesses to be proactive in

vi

coordinating support the disabled. Therefore, creating jobs for the disabled in

the city can get desired results.

vii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .....................................................................................................i

LỜI CÁM ƠN............... .......................................................................................... ii

TÓM TẮT LUẬN VĂN ........................................................................................ iii

ABSTRACT.......... ................................................................................................... v

DANH MỤC CÁC BẢNG ...................................................................................... xi

DANH MỤC BIỂU ĐỒ ........................................................................................ xii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .............................................................................. xiii

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... xiv

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM DÀNH CHO NGƢỜI

KHUYẾT TẬT ..........................................................................................................1

1.1 Ngƣời khuyết tật ................................................................................................ 1

1.1.1 Khái niệm ......................................................................................................... 1

1.1.2 Đặc điểm .......................................................................................................... 2

1.2 Việc làm .............................................................................................................. 6

1.3 Các nhân tố ảnh hƣởng đến giải quyết việc làm cho ngƣời khuyết tật .......... 8

1.3.1 Nhà nước và các tổ chức xã hội ........................................................................ 8

1.3.2 Các tổ chức của người khuyết tật tại Việt Nam .............................................. 12

1.3.3 Doanh nghiệp ................................................................................................. 14

1.3.4 Các sự kết nối giữa các tổ chức nhằm giải quyết việc làm cho người khuyết tật

................................................................................................................................ 15

1.3.5 Đào tạo ........................................................................................................... 16

1.3.6 Tâm lý người khuyết tật ................................................................................. 19

1.4 Tầm quan trọng của việc giải quyết việc làm cho ngƣời khuyết tật ............ 22

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CỦA NGƢỜI

KHUYẾT TẬT TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .......................................... 26

2.1 Tổng quan về NKT tại Thành phố Hồ Chí Minh .......................................... 26

2.1.1 Tổng quan về Thành phố Hồ Chí Minh .......................................................... 26

2.1.2. Tổng quan về người khuyết tật tại TP.HCM .................................................. 31

viii

2.2 Tổng quanvề đào tạo và việc làm tại TP.HCM ............................................. 40

2.2.1 Trình độ nguồn nhân lực ................................................................................ 40

2.2.2 Cung nhân lực ................................................................................................ 42

2.2.3 Nhu cầu tìm việc làm ...................................................................................... 43

2.2.4 Nhu cầu tuyển dụng nhân lực ......................................................................... 47

2.3 Thực trạng việc làm của ngƣời khuyết tật tại TP. Hồ Chí Minh ................. 50

2.3.1 Thực trạng chủ trương và các chính sách dành cho người khuyết tật ............. 50

2.3.2Thực trạng sự kết nối tìm việc làm giữa NKT với các cơ sở tuyển dụng ......... 57

2.3.3Thực trạng đào tạo nghề cho người khuyết tật ................................................. 60

2.3.4Thực trạng sự cố gắng của NKT nâng cao trình độ, tay nghề và tìm kiếm việc

làm........................................................................................................................... 66

2.4 Đánh giá chung ................................................................................................ 68

2.4.1 Ưu điểm .......................................................................................................... 68

2.4.2 Những khuyết điểmvà tồn tại ......................................................................... 70

Tổng kết chƣơng 2 ................................................................................................. 77

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI

KHUYẾT TẬT TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .......................................... 78

3.1 Hƣớng phát triển kinh tế xã hội và hoạt động giải quyết việc làm cho ngƣời

khuyết tật trong thời gian tới tại TP. Hồ Chí Minh ............................................ 78

3.1.1 Tổng quát phƣơng hƣớng phát triển chung ............................................... 78

3.1.2 Phƣơng hƣớng phát triển thị trƣờng việc làm cho ngƣời lao động khuyết

tật..............................................................................................................................80

3.2 Một số giải pháp giải quyết việc làm cho ngƣời khuyết tật tại TP.HCM .... 82

3.2.1 Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ hợp

pháp của người khuyết tật ....................................................................................... 82

3.2.2 Các biện pháp hỗ trợ việc làm ........................................................................ 85

3.2.3Giải pháp hoàn thiện quy trình truyền thông hai chiều từ các đơn vị tìm kiếm

việc làm đến với những người khuyết tật ................................................................ 88

ix

3.2.4 Xây dựng mô hình liên kết thông tin và đào tạo lao động khuyết tật có trình độ

................................................................................................................................ 92

3.2.5 Các giải pháp khác ......................................................................................... 96

KẾT LUẬN............................................................................................................100

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 101

PHỤ LỤC...............................................................................................................1

x

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1. 1 Phân biệt giữa khiếm khuyết, khuyết tật và tàn tật .................................... 3

Bảng 1.2 Bảng thể hiện mức độ khó khăn của các dạng khuyết tật ......................... 23

Bảng 2.1 Đánh giá về dịch vụ y tế ........................................................................... 33

Bảng 2.2 Tiếp cận giáo dục ..................................................................................... 37

Bảng 2.3 Đánh giá về văn hóa thể thao ................................................................... 39

Bảng 2.4 Đánh giá về giao thông ............................................................................ 39

Bảng 2. 5 Cơ cấu lực lượng lao động thành phố Hồ Chí Minh 2014 (Đơn vị: %) ... 41

Bảng 2. 6 Trình độ chuyên môn khả năng của LLLĐ thành phố Hồ Chí Minh từ

năm 2011 - 2014 (%) ............................................................................................... 41

Bảng 2. 7 Nhu cầu tìm việc theo kinh nghiệm năm 2014 ........................................ 44

Bảng 2.8 Cơ cấu mức lương yêu cầu của người lao động ....................................... 45

Bảng 2.9 Cơ cấu của LLLĐ đang làm việc chia theo khu vực kinh tế ..................... 46

Bảng 2.10 Cơ cấu của LLLĐ đang làm việc trên địa bàn TPHCM chia theo trình

độ................................ ............................................................................................. 47

Bảng 2.11 Tiếp cận quyền và chính sách liên quan dến NKT ................................. 56

Bảng 2.12 Cách tiếp cận việc làm ........................................................................... 59

Bảng 2.13 Cơ sở vật chất nơi đào đạo ..................................................................... 64

Bảng 2.14 Đánh giá về đào đạo ............................................................................... 65

Bảng 2.15 Đánh giá về nhân lực cho công tác xã hội .............................................. 66

Bảng 2.16 Đánh giá về bản thân .............................................................................. 67

xi

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện mức sống của người khuyết tật năm 2014 ................ 33

Biểu đồ 2. 2 Biểu đồ thể hiện trình độ của lực lượng lao động tại TP Hồ Chí Minh

năm 2014.......... .......................................................................................................42

Biểu đồ 2. 3 Biểu đồ so sánh nhu cầu tìm việc theo trình độ giữa các quý năm

2014................................ ......................................................................................... 43

Biểu đồ 2. 4 Biểu đồ thể hiện nhu cầu tìm việc theo kinh nghiệm ........................... 44

Biểu đồ 2. 5 Biểu đồ thể hiện nhóm ngành nghề tuyền dụng cao trong năm

2014.................................... ..................................................................................... 48

Biểu đồ 2. 6 Biểu đồ thể hiện nhu cầu tuyển dụng nhân lực theo trình độ đào tạo

năm 2014................ ................................................................................................. 48

Biểu đồ 2. 7 Biểu đồ thể hiện nhu cầu tuyển dụng lao động theo kinh nghiệm làm

việc năm 2014.............. ........................................................................................... 49

Biểu đồ 2.8 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ người khuyết tật có việc làm ............................. 61

Biểu đồ 2. 9 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ người khuyết tật được đào tạo nghề ................. 62

Biểu đồ 2. 10 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ tạo ra thy nhập của người khuyết tật .............. 62

xii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Viết tắt

1 Người khuyết tật NKT

2 Giải quyết việc làm Gqvl

3 Lực lượng lao động LLLĐ

4 Chuyên môn kỹ thuật CMKT

5 Ủy ban nhân dân UBND

6 Hợp tác xã HTX

7 Hội liên hiệp phụ nữ HLHPN

8 Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Đoàn TNCS

9 Thương Binh Xã Hội TBXH

BREC 10 Blue Ribbon Employer Council – hội đồng Dải Băng Xanh

PDSP (USAID) 11 Persons with Disabilities Support Program – chương trình hỗ trợ NKT

xiii

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào chứng minh được tại sao lại có những

người sinh ra được hưởng cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần trong khi lại có

những người không được như vậy. Đặc biệt một trong số những người không may

mắn khi ra đời trong một cơ thể khiếm khuyết và sự khiếm khuyết này theo học đến

hết cuộc đời; và cũng trong số những người may mắn ấy cũng sẽ có những người vì

một lý do nào đó họ không còn giữ được cơ thể lành lặn của mình như trước đây; bị

mất đi một phần thân thể hoặc không còn kiểm soát được hành vi của mình như một

người bình thường, đó là người khuyết tật. Nhiều người trong số đó đã sống một

cuộc sống tự ti với biết bao khó khăn phải đối phó trong sinh hoạt, công việc và đời

sống gia đình.

Đã là con người thì bản năng luôn hướng thiện. Nói cách khác là con người

ai cũng muốn sống tử tế, muốn giúp đỡ lẫn nhau. Vì thế một người mạnh khỏe giúp

đỡ một người khuyết tật thì âu cũng là điều bình thường, nhỏ bé. Các chính phủ

cũng có nhiệm vụ hỗ trợ, giúp đỡ những người gặp khó khăn trong đó có người

khuyết tật. Lý thuyết là vậy nhưng trong thực tế họ chưa nhận được đầy đủ như thế .

Những người khuyết tật không nhận được bao nhiêu từ đồng loại, từ các tổ chức xã

hội, từ chính phủ của mình. Câu hỏi đặt ra là ai cũng muốn giúp đỡ những người

khuyết tật, những người gặp khó khăn trong cuộc sống nhưng họ thực hiện được

bao nhiêu.

Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất cả nước, dân số đông nên

người khuyết tật cũng nhiều. Trong thời gian qua, chính quyền và các tổ chức xã hội

cùng người dân thành phố; nổi tiếng với tấm lòng nhân hậu đã có nhiều nỗ lực, cố

gắng, giúp đỡ hỗ trợ cho người khuyết tật. Tuy nhiên thực tế vẫn còn rất nhiều

người khuyết tật chưa nhận được những sự hỗ trợ, giúp đỡ đó.

Bản thân tôi đã làm những công việc có liên quan đến đời sống, việc làm

của người khuyết tật. Tôi nhận ra rằng, dù đã nhận được nhiều hỗ trợ của chính

phủ, các tổ chức đoàn thể, người dân thành phố nhưng sự giúp đỡ đó là chưa đủ,

xiv

chưa thật sự hiệu quả và còn có nhiều bất cập vì thế tôi chọn đề tài “Một số giải

pháp giải quyết việc làm dành cho người khuyết tật tại Tp. Hồ Chí Minh”. Làm

luận văn tốt nghiệp với hy vọng mình sẽ đề xuất một số giải pháp ít nhất cũng có

hữu ích trong công việc của họ.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người khuyết tật trên địa bàn

TP.HCM.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Tình hình lao động và tìm kiếm việc làm của người lao

động khuyết tật

- Phạm vi nghiên cứu:

Không gian: Người khuyết tật trong khu vực TP. Hồ Chí Minh và đề tài chỉ

tập trung nghiên cứu: Người khuyết tật vận động, khiếm thính và mù.

Thời gian:Số liệu được sử dụng để phân tích trong đề tài từ năm 2010- 2014.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phƣơng pháp tổng hợp: là phương pháp trọng tâm được tác giả sử dụng

để tổng hợp các vấn đề về người khuyết tật, việc làm của người khuyết tật.

Phƣơng pháp phân tích, thống kê: tác giả sử dụng các số liệu thống kê để

phục vụ cho quá trình phân tích thực tiễn việc làm của người khuyết tật tại

TP.HCM.

Phƣơng pháp so sánh và đối chiếu: tác giả sử dụng phương pháp này để

so sánh vấn đề giải quyết việc làm tại Tp.HCM với các tỉnh khác trong cả nước, từ

đó rút ra một số một số bài học kinh nghiệm nhằm giải quyết hiệu quả việc làm

cho người khuyết tật.

Phƣơng pháp khảo sát thực tiễntác giả tiến hành khảo sát 100 người

khuyết tật để phân tích và đánh giá hiệu quả việc làm cho người khuyết tật trên địa

bàn thành phố.

xv

5.Bố cục đề tài

Chương 1: Cơ sở lý luận về việc làm dành cho người khuyết tật

Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm cho người khuyết tật ở TP.HCM

Chương 3: Một số giải pháp giải quyết việc làm cho người khuyết tật tại TP.HCM

xvi

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM DÀNH CHO NGƢỜI

KHUYẾT TẬT

1.1 Ngƣời khuyết tật

1.1.1 Khái niệm

Theo quan điểm quốc tế:

- Góc nhìn y học:

Cho rằng khuyết tật là do hạn chế cá nhân, ở chính con người đó, rất ít hoặc

không để ý đến các yếu tố về môi trường xung quanh người khuyết tật. Quan niệm

này cho rằng có thể sử dụng các biện pháp, phát minh y học và thuốc điều trị để hỗ

trợ và cải thiện cuộc sống của người khuyết tật. Nhìn chung quan niệm này nhấn

mạnh người khuyết tật là người có vấn đề về thể chất và cần điều trị. Quan niệm

này đẩy người khuyết tật vào thế bị động. Một số quốc gia sử dụng quan niệm này:

Trung Quốc, Ấn Độ…

- Góc nhìn xã hội:

Trong mô hình xã hội, người khuyết tật được nhìn nhận là hệ quả bị xã hội

loại trừ và phân biệt. Bởi vì xã hội có những nhìn nhận sai lệch dẫn đến người

khuyết tật đối mặt với thái độ phận biệt đối xử, môi trường và thể chế. Góc nhìn này

cho rằng người khuyết tật bị khiếm khuyết theo các cách khác nhau nhưng xã hội

mới là tác nhân chính khiến họ trở thành người khuyết tật. Cách nhìn này cho rằng

xã hội là vấn đề, giải pháp là thay đổi xã hội. Tiêu biểu cho cách nhìn nhận này là

đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA- Americans with

Disabilities Act of 1990), đạo luật này định nghĩa: “Người khuyết tật là người có sự

suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt

động trong cuộc sống”

Quan điểm người khuyết tật ở Việt Nam

Trước năm 2010, quan niệm người khuyết tật ở Việt Nam được nhìn nhận

dưới góc độ “người tàn tật”. Pháp lệnh Người tàn tật năm 1998 định nghĩa “Người

tàn tật không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người bị khiếm khuyết một hay

nhiều bộ phận trên cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau,

1

làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho quá trình lao động, sinh hoạt, học tập

gặp nhiều khó khăn”.

Ngày 17/06/2010, Quốc hội Việt Nam dã thông qua Luật Người khuyết tật,

thay vì sử dụng khái niệm người tàn tật như trước đây. Luật này chính thức có hiệu

lực từ ngày 01/01/2011, phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế giới

về vấn đề khuyết tật.

Theo đó “Người khuyết tật là những người bị khiếm khuyết một hoặc

nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật,

khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”

1.1.2 Đặc điểm

Tình trạng khuyết tật

Theo tổ chức y tế thế giới (WHO-1999), có ba hình thức khác nhau về tình

trạng khuyết tật của người khuyết tật:

- Khiếm khuyết (impairment): Sự mất mát hoặc không bình thường của cấu

trúc cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc/và sinh lý.

- Khuyết tật (disability): Chỉ sự giảm thiểu chức năng hoạt động là hậu quả

của khiếm khuyết

- Tàn tật (handicap): Đề cập đến tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người

mang khiếm khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên trình trạng

khuyết tật của họ

2

Bảng 1. 1 Phân biệt giữa khiếm khuyết, khuyết tật và tàn tật

Khiếm khuyết Khuyết tật Tàn tật

Suy giảm về khả năng trí tuệ Khuyết tật về hành vi, giao Tàn tật về định hướng

Suy giảm về tâm lý tiếp

Suy giảm về ngôn ngữ, từ ngữ

Khiếm thính Khuyết tật trong chăm sóc Tàn tật đối với sự độc

bản thân lập về thể chất

Khiếm thị Khuyết tật về vận động Tàn tật về di chuyển

Khiếm khuyết về bộ phận cơ Khuyết tật về cơ thể, độ Tàn tật về nghề nghiệp

thể khéo léo

Suy giảm về cấu trúc xương Khuyết tật trong hoàn cảnh Tàn tật trong hòa nhập

xã hội

Sẹo và suy giảm về thẩm mỹ Người khuyết tật trong các Tàn tật trong tự chủ

hoạt động cụ thể kinh tế

Khiếm khuyết nói chung, cảm Những hạn chế khác đối với Các loại tàn tật khác

giác và các loại khác khả năng

Nguồn: Sách phân loại Quốc tế về khiếm khuyết, khuyết tật và tàn tật (ICIDH), năm

1980, NXB: Tổ chức y tế thế giới

Bảng trên cho thấy rằng, khiếm khuyết là một sự thực mà cá nhân gặp phải,

là một sự thật. Khuyết tật là phạm vi, chức năng mà người khuyết tật muốn thực

hiện. Mặt khác, tàn tật là sự bất lợi của cá nhân đó đối với các thành viên khác trong

xã hội. Hiểu một cách đơn giản: Người bị khiếm thị, là người có khiếm khuyết về

thị lực, gây nên tình trạng khuyết tật trong giao tiếp và chuyển động, liên quan đến

sự tàn tật trong di chuyển và khuyết tật nghề nghiệp.

Có thể thấy một loại khiếm khuyết có thể gây ra nhiều khuyết tật và bao hàm

nhiều dạng tàn tật. Đối với một người có khiếm khuyết – hiện trạng đã có và khó

hoặc không thể thay đổi, tình trạng khuyết tật phụ thuộc vào hoạt động của người

khuyết tật muốn thực hiện, tàn tật là sự bất lợi của người đó trong quan hệ với các

cá nhân khác trong xã hội.

3

Ví dụ: Một người bị liệt hai chân, họ gặp trở ngại trong việc đá bóng, khuyết

tật về vận động. Nhưng khi họ sử dụng máy tính, hay giao tiếp bằng ngôn ngữ thì

hoàn toàn không gặp trở ngại; Một ví dụ khác, một người khiếm thính không có khả

năng nghe và cảm nhận âm thanh, nhưng họ có khả năng giao tiếp bằng các giác

quan còn lại, họ hoàn toàn có khả năng di chuyển mà không gặp trở ngại.

Phân loại khuyết tật

 Luật người khuyết tật Việt Nam quy định các dạng khuyết tật sau:

- Khuyết tật vận động: là người có cơ quan bị tổn thương, gây khó khăn trong

hoạt động di chuyển, cầm nắm…

- Khuyết tật nghe, nói: là những người khó khăn nghe, nói, hạn chế trong giao

tiếp, đọc viết, tiếp cận thông tin

- Khuyết tật nhìn: Là những người có khuyết tật về mắt khiến học không nhìn

được hoặc nhìn không rõ.

- Khuyết tật trí tuệ: Là những người có chức năng trí tuệ dưới mức trung bình,

chỉ số thông minh dạt gần 70 hoặc dưới 70 trên một lần thực hiện trắc

nghiệm cá nhân. Họ bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất hai trong số

những hành vi thích ứng như giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kỹ

năng xã hội hoặc sử dụng tiện ích trong cộng đồng… Ngoài ra, tật xuất hiện

trước 18 tuổi.

- Khuyết tật khác: rối loạn hành vi cảm xúc, rối loạn ngôn ngữ, người đa tật, tự

kỉ…

 Theo tính chất bệnh (y học)

- Có khả năng vận động: vẫn có thể hoạt động, tham gia làm việc ở những lĩnh

vực có thể - những người khiếm thính, khiếm thị … có khả năng di chuyển,

vận động bình thường vẫn có thể hoạt động ở các lĩnh vực

- Ít khả năng vận động: Hạn chế mức độ vận động – có thể sử dụng những

công cụ hỗ trợ như nạng, xe lăn …

- Bất động: không có khả năng vận động, di chuyển (tình trạng bại liệt) – có

thể làm công việc liên quan đến trí tuệ

4

 Theo khả năng lao động

- Mất khả năng lao động: là người không còn khả năng lao động

- Tạm thời mất khả năng lao động, còn khả năng lao động trong lĩnh vực hạn

chế. Ví dụ: Người mất một chân vẫn có khả năng lao động trong lĩnh vực hạn

chế: giảng dạy, bán hàng, kinh doanh…

- Người khuyết tật còn khả năng lao động trong điều kiện được ưu ái. Ví dụ:

người khiếm thị cần được học ngôn ngữ giao tiếp của người khiếm thị, học

chữ nổi, học nghề; Người khiếm thính cần được dạy ngôn ngữ giao tiếp qua

cử chỉ, học chữ; ….

Đặc điểm về tính cách, tâm lý, hành vi

Quan điểm bình đẳng nhân quyền, người khuyết tật cũng như tất cả người

khác trên thế giới đều có những quyền và lợi ích hợp pháp như nhau. Luật người

khuyết tật dần được hoàn thiện để đảm bảo người khuyết tật có thể hòa nhập vào xã

hội, cuộc sống. Người khuyết tật cũng như các các nhân trong xã hội đều có những

nhu cầu cơ bản như trong thang bậc nhu cầu của Maslow, gồm ba nhu cầu cơ bản:

sinh lý, an toàn, xã hội và hai nhu cầu cấp cao: tự trọng và tự thể hiện. Một số đặc

điểm của người khuyết tật:

- Thiếu hụt về thể chất: Người khuyết tật thiếu hụt về thể chất dẫn đến khả

năng hoạt động các chức năng gặp hạn chế, khó khăn trong sinh hoạt, lao

động và học tập…

- Chức năng cơ thể: Người khuyết tật thiếu sót một chức năng của cơ quan

cảm giác nào đó, thì những cơ quan còn lại rất phát triển, họ nhận thức thế

giới xung quanh qua các giác quan này. Điều này dẫn đến hạn chế lượng

thông tin tiếp cận với người khuyết tật, do kênh thông tin truyền tải hạn chế

- Khó khăn trong giao tiếp và đi lại do đó phạm vi quan hệ xã hội của người

khuyết tật bị thu hẹp, bên cạnh đó khó khăn tiếp xúc với các kênh thông tin

việc làm cơ hội nghề nghiệp của người khuyết tật cũng bị giới hạn.

- Tâm lý người khuyết tật: Người khuyết tật sống nội tâm và nhạy cảm, nhận

thức của xã hội xung quanh về người khuyết tật, sự kỳ thị, ánh nhìn là những

5

yếu tố hình thành lên tâm lý bi quan, tự ti, chán nản của người khuyết tật.

Nhu cầu khẳng định bản thân được tôn trọng và tự thể hiện, tuy nhiên tâm lý

xã hội ăn mòn ý chí phấn đấu của nhiều cá nhân khuyết tật.

1.2 Việc làm

Lao động là một trong những quyền cơ bản của công dân, Điều 55 Hiến pháp

năm 1992 đã quy định: “ Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và

xã hội có kế hoạch ngày càng tạo nhiều việc làm cho người lao động”. Công dân có

sức lao động phải được làm việc để duy trì sự tồn tại của bản thân và góp phần xây

dựng xã hội, thực hiện các nghĩa vụ của họ đối với những người xung quanh trong

cộng đồng. Do đó, hơn bao giờ hết, việc làm có vai trò hết sức quan trọng.

Đứng dưới mỗi góc độ khác nhau, có những cách hiểu khác nhau về việc

làm. Nếu xem xét dưới góc độ kinh tế - xã hội và góc độ pháp lí thì ta có thể tóm tắt

khái niệm việc làm như sau:

Dưới góc độ kinh tế- xã hội: Việc làm là các hoạt động tạo ra, VIỆC

đem lại lợi ích, thu nhập cho NLĐ được xã hội thừa nhận LÀM

Dưới góc độ pháp lí: Việc làm là mọi hoạt động lao động tạo

ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm

Cụ thể:

Dưới góc độ kinh tế - xã hội

Hoạt động kiếm sống của con người được gọi chung là việc làm. Việc làm

trước hết là vấn đề của mỗi cá nhân, xuất phát từ nhu cầu mưu sinh của cá nhân.

Con người vì muốn thỏa mãn các nhu cầu của bản thân nên tiến hành các hoạt động

lao động nhất định. Người có việc làm chính là khái niệm dùng để chỉ những người

hiện đang tham gia các hoạt động đó. Tùy theo mức độ tham gia và thu nhập từ

những hoạt động này mà có thể chia đối tượng này thành hai loại là: người có việc

làm đầy đủ và người có việc làm không đầy đủ.

6

Tuy nhiên, con người không sống đơn lẻ và hoạt động lao động của mỗi cá

nhân cũng không đơn lẻ mà nằm trong tổng thể các hoạt động của sản xuất xã hội.

Do đó, bên cạnh ý nghĩa là vấn đề cá nhân, việc làm còn là vấn đề của cộng đồng,

của xã hội. Điều này đòi hỏi phải có những chính sách và biện pháp nhất định từ

phù hợp từ phĩa nhà nước nhằm tăng số lượng việc làm và chất lượng việc làm, đảm

bảo đời sống dân cư, kiềm chế nạn thất nghiệp và thông qua đó để giải quyết các

vấn đề xã hội khác.

Dưới góc độ pháp lí:

ILO cũng coi việc khuyến nghị và xúc tiến việc làm là một trong những mục

tiêu quan trọng trong tôn chỉ hoạt động của mình thể hiện qua việc ILO đã có nhiều

công ước và khuyến nghị liên quan đến việc làm, trong đó có một số công ước quan

trọng như công ước số 47 về duy trì tuần làm việc 40 giờ, công ước số 88 về tỏ chức

dịch vụ việc làm, Công ước số 122 về chính sách việc làm…Theo quan niệm của

ILO, người có việc làm là những người làm việc gì đó được trả tiền công, lợi nhuận

họăc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động

mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận

tiền công hoặc hiện vật. Còn người thất nghiệp là những người không có việc làm

nhưng đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc.

Ở Việt Nam, trong nền kinh tế hóa tập trung, NLĐ được coi là có việc làm

và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong các đơn vị kinh tế quốc

doanh và tập thể. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, quan niệm về việc làm và các

vấn đề liên quan như thất nghiệp, chính sách việc làm đã có những thay đổi căn bản.

Cùng với việc tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế vào hoàn cảnh Việt Nam,

bộ luật lao động đã quy định“Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không

bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” (Điều 13 Bộ luật lao động) Nếu

như trước đây, trong các văn bản pháp luật vấn đề việc làm chủ yếu được đề cập ở

góc độ cơ chế, chính sách bảo đảm việc làm cho NLĐ thì đây là lần đầu tiên khái

niệm việc làm được ghi nhận trong văn bản pháp luật quan trọng của nhà nước.

7

Luật lao động quy định cho người khuyết tật trong một số lĩnh vực về việc

làm. Những ưu đãi này được phát triển cụ thể trong Nghị định 81/CP ban hành ngày

23/11/1995 và Nghị định 116/2004/NDCP ban hành ngày 23/4/TTLT/BLĐTBXH

ban hành ngày 19/5/2005 của BLĐTBXH, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch Đầu tư.

Những Nghị định nếu trên thiết lập hệ thống hạn ngạch về việc làm cho NKT. Theo

đó tất cả các doanh nghiệp được yêu cầu phải thuê 3% lao động là người khuyết tật

(2% đối với các ngành công nghiệp nặng và nguy hiểm như khai thác than mỏ, dâu

và khí ga). Các công ty không tuân thủ quy định này sẽ bị phạt. Số tiền phạt sẽ được

đưa vào quỹ việc làm cho người khuyết tật của tỉnh và sử dụng cho hoạt động đào

tạo nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật.

Hỗ trợ việc làm đang được thực hiện thông qua mạng lưới các trung tâm dịch

vụ việc làm tại mỗi tỉnh. Các công ty tư nhân giới thiệu việc làm cũng phát triển

mạnh. Trước đây, người khuyết tật rất khó tiếp cận các dịch vụ việc làm đó. Một dự

án với tài trợ của Bộ Lao động Mỹ do BLĐTBXH và chương trình hỗ trợ người tàn

tật của Việt Nam giai đoạn 200-2003 thực hiện đã giúp cải tạo 10 trung tâm dịch vụ

việc làm tại 8 tỉnh nhằm khuyến khích họ đưa người khuyết tật vào các trương trình

đào tạo nghề và dịch vụ bố trí việc làm và phát triển đến ngày hôm nay.

Luật lao động cũng quy định lương và điều kiện làm việc làm việc cho tất cả

mọi người. Theo đó NKT không được phép làm việc quá 7 tiếng/ngày hoặc 42

giờ/tuần, nghiêm cấm không được làm việc ngoài giờ, làm việc ca đêm hoặc làm

những công việc tiếp xúc với các chất nguy hiểm hoặc độc hại. Người bị thương

hoặc bị khuyết tật do tai nạn lao động được điều trị và phục vụ hồi chức năng lao

động kiễn phí, được bố trí quay lại làm việc phù hợp với tình trạng sức khỏe của họ.

1.3 Các nhân tố ảnh hƣởng đến giải quyết việc làm cho ngƣời khuyết tật

1.3.1 Nhà nƣớc và các tổ chức xã hội

Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001), Chính phủ là cơ quan chấp hành

của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam.

8

Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,

văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực

của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp

hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn

hoá của nhân dân.

Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc

hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Chính phủ Việt nam là một hệ thống Đảng, ngoài các Bộ ngành còn bao gồm

một loạt các thiết chế bán nhà nước. Đó là các tổ chức quẩn chúng, tổ chức xã hội

và tổ chức nghề nghiệp.

Các tổ chức quần chúng

Có 6 tổ chức quần chúng: Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) thường được coi là một

tổ chức quần chúng, tuy nhiên MTTQ đồng thời có chức năng như một tổ chức bao

trùm bảo trợ cho 29 tổ chức xã hội-nghề nghiệp khác. Các tổ chức quần chúng khác

gồm Hội Liên Hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam

(TLĐLĐVN), Hội Cựu chiến binh và Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

Các tổ chức quần chúng có liên quan nhiều nhất tới người khuyết tật là Đoàn Thanh niên và Hội cựu chiến binh1. Hội Cựu chiến binh, theo đúng tên gọi của nó,

chỉ liên quan tới nhu cầu và phúc lợi của các cựu chiến binh. Nhiều nười khuyết tật

không phải bị thương do chiến tranh là thành viên của Đoàn Thanh niên. Đoàn

thanh niên cũng hoạt động như một tổ chức bảo trợ cho nhiều tổ chức của người

khuyết tật.

Các tổ chức xã hội và tổ chức nghề nghiệp

Các tổ chức xã hội và tổ chức nghề nghiệp gồm các tổ chức bảo trợ như Liên

HIệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam (VUFO), Hội chữ thập đỏ Việt Nam

1 Lưu ý: Khái niệm cựu chiến binh tại Việt Nam không bao gồm những người lính trong quân độ phía ngụy quyền Sài Gòn Nam Việt Nam trước đây.

9

(HCTĐVN) và các tổ chức nghề nghiệp như Phòng thương mại Công nghiệp Việt

Nam (VCCI), các hiệp hội thể thao và tổ chức nghề nghiệp như Hội Doanh nhân trẻ.

Trong số này có nhiều tổ chức nhận được kinh phí từ nguồn ngân sách quốc gia, và

nhiều tổ chức có cơ cấu đa cấp theo ngành dọc từ trung ương tới địa phương, tuy

nhiên các tổ chức này ít có liên hệ với Đảng, thường tồn tại dưới nhiều hình thức đa

dạng và nhận được nhiều nguồn tại trợ.

Có nhiều tổ chức xã hội nghề nghiệp quan tâm đến người khuyết tật. Những

tổ chức có mạng lưới tổ chức chặt chẽ nhất từ trung ương tới địa phương gồm:

 Hội Chữ thập Đỏ Việt Nam

 Hội người mù Việt Nam

 Hội bảo trợ người tàn tật và tẻ em mồ côi

 Hiệp hội sản xuất kinh doanh của người khuyết tật

 Hiệp hội thể thao người khuyết tật Việt Nam

Các nhóm người khuyết tật đăng ký thành lập các Hội có thể trở thành các

hội độc lập, tuy nhiên họ được yêu cầu phải đăng ký dưới một tổ chức bảo trợ, ví dụ

như Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi hoặc Đoàn thanh niên.

Các tổ chức phi chính phủ Việt Nam

Các tổ chức này thường có quy mô nhỏ, do các cá nhân đứng ra thành lập vì

những mục đích nhất định. Nghiên cứu gần đây về các hình thức của tổ chức phi

chính phủ Việt Nam cho biết các loại hình chủ yếu gồm:

 Các tổ chức cung cáp dịch vụ xã hội cho Chính phủ về y tế hoặc giáo dục,

thường là các tổ chức từ thiện;

 Các tổ chức phi chính phủ làm công tác nghiên cứu (chủ yếu ở Miền Bắc)

 Các tổ chức thực hiện các chương trình hoạt động xã hội (Đặc biệt là ở Miền

Nam Việt Nam);

 Các tổ chức hoạt động để giúp đỡ các nhóm bị đẩy sang lề và sử dụng

phương pháp tiếp cận mới;

10

 Các tổ chức hoạt động dưới hình thức các công ty tư vấn cho Chính phủ hoặc

nhà tài trợ để hỗ trợ thực hiện, ví dụ thực hiện đánh giá mức độ tham gia của các khu vực nông thôn, lập các chương trình, dự án…2

Các tổ chức phi chính phủ Việt Nam (TCPCPVN) không nhận kinh phí từ

ngân sách Nhà nước, tuy nhiên nhiều trong số họ liên kết chặt chẽ với các dự án của

Chính phủ, các nhà tài trợ hoặc các tổ chức phi chính phủ quốc tế, và qua đó nhận

hỗ trợ tải chính. Họ có tư cách pháp nhân độc lập, do đó có thể xin tài trợ từ các đơn

vị tư nhân hoặc nhà nước.

Nhiều TCPCPVN quan tâm đến các vấn đề của người khuyết tật. Các tổ chức

này thường hoạt động ở cấp địa phương. Trong số đó, nhiều tổ chức hoạt động vì

mục đích từ thiện hoặc phúc lợi, chứ không theo quan điểm hoạt động xuất phát từ

quyền cảu người khuyết tật. Tuy nhiên, hoạt động của họ giúp bù đắp những mảng

mà các cơ quan nhà nước chưa đáp ứng được. Rất ít trong số các tổ chức này có hỗ

trợ cho phát triển kỹ năng nghề, tiếp cận việc làm hoặc phát triển doanh nghiệp cho

người khuyết tật.

Các tổ chức cộng đồng

Ngoài những tổ chức nói trên, còn một số rất lớn các tổ chức phi chính thức

của cộng đồng như các nhóm giúp nhau về nước sinh hoạt, các nhóm thanh niên,

nhóm người cao tuổi, nhóm tôn giáo tín ngưỡng, nhóm giúp việc công quả nhà chùa

hoặc tổ chức lễ hội…. Ước tính năm 2014 có trên 200.000 nhóm như vậy trong cả

nước.Những nhóm như vậy không có tư cách pháp nhân độc lập, tuy nhiên có

quyền đăng ký thành lập theo Luật Dân sự hoặc trực thuộc một tổ chức nào đó,

thường là một tổ chức quần chúng hoặc tổ chức xã hội nghề nghiệp. Những nhóm

này không nhận bất cứ khoản tiền nào từ ngân sách Nhà nước, tuy nhiên có thể phối

hợp với một dự án của nhà nước, nhà tài trợ hay tổ chức phi chính phủ của quốc tế,

và được nhận tài trợ. Tự các tổ chức này rất khó đứng ra xin tài trợ vì họ không có

tư cách pháp nhân.

2 Norlund, 2007, trang 12

11

Trước khi đăng ký chính thức thành lập hội, các nhóm tường trợ lẫn nhau

của người khuyết tật mặc nhiên đã thuộc loại hình tổ chức cộng đồng. Dường như

rất nhiều tổ chức cộng đồng quan tâm đến vấn đề người khuyết tật, tuy nhiên không

có nhiều thông tin về những tổ chức này bởi vì tính phi chính thức của họ.

1.3.2 Các tổ chức của ngƣời khuyết tật tại Việt Nam

Khái niệm xã hội dân sự còn tương đối mới đói với Việt Nam. Kể từ khi

thành lập nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam coi các tổ chức quần chúng

và tổ chức xã hội nghề nghiệp là những tổ chức xã hội dân sự duy nhất phù hợp và

cần thiết. Nghiên cứu Norlund về xã hội dân sự tại Việt Nam cho thấy mặc dù xã

hội dân sự tại Việt Nam hiện nay rất đa dạng và phổ biến rộng rãi với sự tham gia

rất tích cực của mọi công dân, song các tổ chức này thường rất yếu kém và có ít ảnh hưởng đến chính sách công3. Các tổ chức của người khuyết tật được thành lập muộn

hơn so với các tổ chức xã hội dân sự khác, do đó các tổ chức này thậm chí còn yếu

kém và hạn chế hơn về mặt ảnh hưởng đối với các chính sách công so với các tổ

chức dân sự khác.

Hiện nay có hơn 80 nhóm người khuyết tật tại Việt Nam. Hầu hết các nhóm

này đều được chính thức đăng ký với Chính phủ dưới một số hình thức (thường là

thành viên của hội, tuy nhiên nhiều nhóm lại thuộc các tổ chức bảo trợ như Đoàn Thanh niên)4. Có nhiều hiệp hội được thành lập để bảo vệ quyền lợi của người

khuyết tật, phá bỏ rào cản của người khuyết tật với xã hội và giúp người khuyết tật

hòa nhập với cộng đồng.

- Một số tổ chức hiệp hội của người khuyết tật Việt Nam:

 Liên hiệp hội người khuyết tật Việt Nam (tập hợp các hiệp hội về NKT)

 Hội người mù Việt Nam

 Hiệp hội doanh nghiệp của thương binh và người khuyết tật Việt Nam

(VABED)

3 Norlund, 2007, trang 2 4 HĐVPTHN, tháng 1 năm 2008, „Danh bạ các tổ chức của người khuyết tật tại Việt Nam‟

12

 Hiệp hội thể thao người khuyết tật Việt Nam

- Tổ chức vì người khuyết tật:

 Diễn đàn người khuyết tật

 Các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế

 Hội bảo vệ người khuyết tật và trẻ mồ cô Việt Nam

LIÊN HIỆP HỘI VỀ NGƢỜI KHUYẾT TẬT VIỆT NAM (Quyết định số

1538/QĐ-BNV ngày 02 tháng 8 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ) thành lập năm

2011. Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam là tổ chức xã hội, phi lợi nhuận,

tập hợp các hội, tổ chức hợp pháp của người khuyết tật và vì người khuyết tật, các

cá nhân tự nguyện tham gia Liên hiệp vì mục đích bảo vệ, hỗ trợ người khuyết tật

thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Liên kết, tập hợp sức mạnh của các tổ chức, cá nhân người khuyết tật và vì

người khuyết tật; điều hòa phối hợp với các hội, tổ chức thành viên, hội viên của

Liên hiệp nâng cao năng lực, tạo điều kiện cho cộng đồng và người khuyết tật hỗ trợ

nhau trong sinh hoạt, học tập và làm việc theo hướng hòa nhập.

Liên hiệp tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước đối với người khuyết tật, Công ước quốc tế về quyền của

người khuyết tật, nâng cao vị thế, vai trò của người khuyết tật, đại diện cho các tổ

chức của người khuyết tật và vì người khuyết tật Việt Nam tham gia các hoạt động

quốc tế.

HỘI NGƢỜI MÙ VIỆT NAM là tổ chức xã hội đặc thù, được thành lập để góp

phần cùng toàn dân thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội của Đảng và Nhà nước

đồng thời tập hợp, động viên người mù chăm lo, giúp đỡ nhau về xã hội, văn hoá và

nghề nghiệp, tạo môi trường để người mù phấn đấu vươn lên, góp phần thực hiện

mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

HIỆP HỘI THỂ THAO NGƢỜI KHUYẾT TẬT VIỆT NAM là tổ chức thể thao

của Người khuyết tật Việt Nam. Chăm lo và tạo mọi điều kiện để người khuyết tật

phục hồi các chức năng bị khiếm khuyết của mình, phục hồi sức khỏe, chủ động hòa

nhập vào cuộc sống của gia đình và xã hội.

13

1.3.3 Doanh nghiệp

Theo Luật doanh nghiệp 2005, Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tên

riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy

định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.

Trong kinh tế vi mô, khái niệm doanh nghiệp được hiểu là người sản xuất

hay nhà cung cấp.

Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế vị lợi, mặc dù thực tế một số tổ chức doanh

nghiệp có các hoạt động không hoàn toàn nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Hiện nay dưới hình thức pháp lý của các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam

bao gồm: Công ty trách nhiệm hữu hạn,Công ty cổ phần,Công ty hợp danh,Doanh

nghiệp tư nhân,Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong nền kinh tế thị

trường cạnh tranh là một điều kiện và là yếu tố kích thích kinh doanh, là môi trường

động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, tăng năng suất lao động

tạo sự phát triển của xã hội nói chung. Nếu một doanh nghiệp tham gia thị trường

mà không có khả năng cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh yếu hơn các đối thủ của

nó thì sẽ rất khó khăn để tồn tại và phát triển được, quá trình duy trì sức mạnh của

doanh nghiệp phải là quá trình lâu dài và liên tục. Khả năng cạnh tranh của doanh

nghiệp là cơ sở để đảm bảo khả năng duy trì lâu dài sức mạnh cạnh tranh đó. Cũng

theo như lý thuyết cạnh tranh dựa vào sự khác biệt cho rằng lợi thế cạnh tranh của

các doanh nghiệp trong cũng một ngành không thể tồn tại lâu dài vì chúng có thể dễ

dàng bị các đôi thủ cạnh tranh bắt chước, hoặc mua bán trên thị trường đầu vào

(factor markets, Barney 1991; Porter 1981). Vì thế lý thuyết về nguồn lực của

doanh nghiệp (resource-based view of the firm; Wernerfelt 1984) ra đời tập trung

phân tích cạnh tranh dựa vào các yếu tố bên trong-nguồn lực-của doanh nghiệp. Vì

thế, một trong những yếu tố quyết định hoạt động hiệu quả của Doanh nghiệp là

chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực bao gồm cả lao động quản lý và lao

động hoạt động trực tiếp và gián tiếp trong quá trình sản xuất – kinh doanh của các

doanh nghiệp. Nếu được đào tạo cơ bản về kiến thức, giáo dục thường xuyên về đạo

đức, kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động, việc nâng cao năng suất, chất lượng,

14

hiệu quả lao động sẽ được duy trì và phát triển. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng,

người lao động hiểu được bản chất công việc, thành thạo các kỹ năng nghiệp vụ,

làm việc có trách nhiệm, gắn bó với doanh nghiệp và dĩ nhiên hiệu suất lao động

tăng, thu nhập của công nhân ổn định, doanh nghiệp phát triển bền vững.

1.3.4 Các sự kết nối giữa các tổ chức nhằm giải quyết việc làm cho ngƣời

khuyết tật

Sự liên kết giữa địa phương và trung ương, giữa các Bộ với các sở chuyên

ngành, liên kết quản lý ngành và quản lý theo lãnh thổ địa phương được thực thi

trong khung pháp luật quản trị nhà nước và dựa trên các luật như: Luật tổ chức Hội

đồng nhân dân và UBND, Luật tổ chức quốc hội,...Vì người khuyết tật không thể có

khả năng làm mọi việc mình muốn. Mặc dù họ có quyền tự chủ, tuy nhiên vẫn phải

có sự trợ giúp từ gia đình, chính quyền, xã hội... Ví dụ: Một yếu tố không kém phần

quan trọng trong việc tạo việc làm cho người khuyết tật đó chính là sự đóng góp

thiết thực và hiệu quả của cơ quan truyền thông. Chính truyền thông có vai trò quan

trọng trong việc làm thay đổi nhận thức xã hội và tạo ảnh hưởng đến suy nghĩ và

hành vi của công chúng và tuyên truyền các chính sách của nhà nước, hay là các

thông tin liên quan đến người khuyết tật. Đây cũng chính là cơ hội để nhà tuyển

dụng và người khuyết tật tìm đến với nhau. Giải quyết được việc làm cho người

khuyết tật thông qua truyền thông có một ý nghĩa xã hội rất lớn, đó là một phần rất

quan trọng của chiến lược xóa đói giảm nghèo - một mục tiêu lớn không chỉ ở Việt

Nam mà cả cộng đồng quốc tế đang cùng nỗ lực phấn đấu. Hoặc một ví dụ khác:

Nhiều cơ sở đào tạo nghề cho người khuyết tật được mở ra theo chủ trương, chính

sách hỗ trợ của nhà nước. Tuy nhiên, việc đào tạo nghề cho người khuyết tật chưa

gắn với việc làm. Nếu người khuyết tật đào tạo ra mà không tìm được việc làm thì

dễ dẫn đến tâm lý bế tắc. Do đó, các cơ sở đào tạo nghề cho người khuyết tật cần

phải liên kết với các doanh nghiệp để tìm đầu ra cho người lao động, tạo tâm lý ổn

định, và nâng cao ý chí phấn đấu, nâng cao kỹ năng làm việc của người khuyết tật

ngay sau khi kết thúc các khóa đào đạo.

15

Kết nối thông tin giữa cung và cầu lao động thông qua các hiệp hội, tổ chức

người khuyết tật là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến công việc của người khuyết

tật. Do những thiếu sót, khuyết tật, người khuyết tật khó có thể tiếp xúc được với

những trung tâm việc làm hiện nay. Do đó các hiệp hội, tổ chức người khuyết tật là

cầu nối giữa nhà tuyển dụng và những ứng cử viên khuyết tật thì thị trường lao

động người khuyết tật sẽ đóng góp một phần vô cùng quan trọng đến nhu cầu việc

làm của người lao động khuyết tật hiện nay.

1.3.5 Đào tạo

Đào tạo là các hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động có thể thực

hiện các công việc, nhiệm vụ của mình một cách tốt hơn. Đó chính là quá trình học

tập làm cho người lao động nắm vũng hươn về công việc của mình là những hoạt

động để nâng cao trình độ, kỹ năng của người lao động để thực hiện nhiệm vụ lao

động có hiệu quả hơn. “Nguồn giáo trình quản trị nhân lực, ĐHKTQDxuất bản lần

thứ nhất,tháng 5/1995”

Theo Cac_Mac công tác dạy nghề phải bao gồm các thành phần sau:

Một là: Giáo dục trí tuệ

Hai là: Giáo dục thể lực như trong cá trường Thể dục Thể thao hoặc bằng

cách huấn luyện quân sự.

Ba là: Dạy kỹ thuật nhằm giúp học sinh nắm vững được những nguyên lí cơ

bản của tất cả các quá trình sản xuất, đồng thời biết sử dụng các công cụ sản xuất

đơn giản nhất.

(C.Mác Ph.ăng-ghen. Tuyển tập xuất bản lần 2, tập 16 trang 198)

Theo giáo trình kinh tế lao động của trường ĐH KTQD thì khái niệm nghề là

một dạng xác định của hoạt động trong hệ thống phân công lao động của xã hội, là

toàn bộ kiến thức (hiểu biết) và kỹ năng của người lao động cần có để thực hiện các

hoạt động xã hội nhất định trong một lĩnh vực lao động nhất định. Đồng thời khái

niệm đào tạo nghề cũng được tác giả trình bày là: “đào tạo nguồn nhân lực là quá

trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, để

họ có thể đảm nhận được một số công việc nhất định”.

16

Theo tài liệu của Bộ LĐTB&XH xuất bản năm 2002 thì khái niệm đào tạo

nghề được hiểu: “Đào tạo nghề là hoạt động nhằm trang bị cho người lao động

những kiến thức, kỹ năng và thái độ lao động để người lao động sau khi hoàn thành

khóa học hành được một nghề trong xã hội”.

Trong 10 năm trở lại đây, hệ thống trường nghề tại Việt Nam đã được Nhà

nước và xã hội quan tâm nhiều hơn, bằng chứng là có cả những khích lệ về vật chất

lẫn tinh thần, sự đầu tư về tài chính, cải cách về chất lượng giáo dục, đầu tư về quy

mô, khích lệ bằng các giải thưởng “ Nhất Nghệ tinh”,… điều này chứng tỏ rằng

trường nghề đang là nguồn nhân lực quan trọng để vận hành tốt guồng máy của nền

kinh tế Việt Nam hiện nay và trong cả tương lai. Theo số liệu của Tổng cục dạy

nghề, Việt Nam có một hệ thống các trung tâm dạy nghề khá đầy đủ, gồm 175

trường Cao đẳng và 290 trường trung cấp kỹ thuật tham gia vào hoạt động đào tạo

nghề; 1293 trung tâm dạy nghề và 301 trung tâm dịch vụ dạy nghề và việc làm. Có

đến 16 nghề thuộc nhóm nông nghiệp và một số nghề có nhu cầu lao động cao

thuộc nhóm nghề công nghệ kỹ thuật cơ khí như: Nghề nguội chế tạo; Nghề nguội

lắp ráp cơ khí, rèn, dập và một số nghề thuộc nhóm nghề công nghệ dầu khí và khai

thác….Các ngành nghề sản xuất và phục vụ nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng,

đánh bắt thủy hải sản cũng chưa được chú trọng đào tạo, trong khi những sản phẩm

xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu thuộc các lĩnh vực này.

Tại TP.Hồ Chí Minh có các tổ chức và trung tâm riêng biệt cho NKT chủ

yếu gồm:

(1) Trung tâm bảo trợ và Dạy nghề người tàn tật TP.HCM tổ chức dạy nghề

trong nhiều lĩnh vực gồm: may, làm đầu, in lụa, sữa chữa đồ điện và điện tử, điện

thêu, vẽ biển quảng cáo, sửa chữa xe máy, thiết kế đồ họa (bằng máy tính), tin học

văn phòng cơ bản và kế toán. Hầu hết các khóa học đều kéo dài 6 tháng, tuy nhiên

một số khóa học cso thời gian đào tạo tới 12 tháng. Tất cả các khóa học đều được

cấp chứng chỉ quốc gia do Tổng cục Dạy nghề thuộc Bộ LĐTBXN cấp.

(2) Trung tâm đào tạo Kỹ thuật Thủ Đức. Các ngành nghề đào tạo gồm: may,

sữa chữa ô tô, xa máy, điện tử, điện và tin học văn phòng cơ bản. Các khóa đào tạo

17

được cấp chứng chỉ cấp quốc gia, do Tổng Cục Dạy nghề cấp. Hiện nay trung tâm

này đã trở thành trung tâm hòa nhập, gồm các học viên là những người khuyết tật,

học viên nghèo, trẻ mồ côi và con em cựu chiến binh.

(3) Các Trung tâm bảo trợ xã hội. Trên cả nước hầu hết các tỉnh đều có ít

nhất một Trung tấm Bảo trợ xã hội là nơi thường trú của những NKT, trẻ mồ côi,

cựu chiến binh và người già không nơi nương tựa. Một số trung tâm cũng cung cấp

dịch vụ đào tạo nghề, tuy nhiên nhìn chung chỉ giới hạn ở một số khu vực tay nghề

thấp và số lượng chỗ cũng hạn chế. Do các trung tâm này là nơi cư trú nên học viên

sau khi tốt nghiệp thường không có cơ hội tiếp cận các cơ hội việc làm mà chỉ làm

việc tại các cơ sở được bảo trợ của các Trung tâm bảo trợ xã hội

(4) Hội người Mù. Là nhà cung cấp dịch vụ đào tạo lớn nhất cho người mù

và người khiếm thị. Hội Người Mù nhận kinh phí từ Chính phủ để dạy nghề miễn

phí về làm tăm tre, chổi quét, chiếu, mát xa, tại một số tỉnh còn dạy thêm tin học

căn bản. Chi nhánh Hội người mù TP.HCM, phần lớn học viên sau khi tốt nghiệp

đều làm việc trong các cơ sở của Hội, mở các cơ sở kinh doanh tại nhà quy mô nhỏ

hoặc lập nhằm các doanh nghiệp nhỏ kinh doanh mát xa hoặc sản xuất đồ tre.

(5) Hội kinh doanh NKT Việt Nam và các thành viên của Hội là những nhà

cung cấp chính về đào tạo nghề cho người khuyết tật tại Việt nam. Chi nhánh tại

TP.HCM có các khóa đào tạo như: kỹ năng sử dụng máy tính, ngôn ngữ, đan, thêu,

thủ công mỹ nghệ. Những người khuyết tật được đào tạo tại đây là: vận động, mù

và khiếm thị, điếc và khiếm thính.

Pháp lệnh về người khuyết tật có quy định người khuyết tật được học miễn

phí tại các trung tâm đào tạo nghề, và được hưởng một số khoản trợ cấp xã hội. Các

cơ sở đào tạo nghề và giới thiệu việc làm, thuê đất tại những khu vực phù hợp và

nhận tài trợ Chính phủ để xây dựng trường, lớp học và mua sắm trang thiết bị. Theo

pháp lệnh NKT thì các trung tâm dịch vụ việc làm của nhà nước phải miễn phí cho

các dịch vụ tư vấn việc làm và các dịch vụ khác cho NKT.

Ngày 29/11/2006, Chính phủ Việt Nam đã ban hành bộ luật mới về đào tạo

nghề, trong đó có một chương về đào tạo nghề cho người khuyết tật. Luật này cấp

18

trợ cấp, trang thiết bị chuyên dụng và đào tạo nhân viên phù hợp cho NKT. Luật

đào tạo nghề không quy định về vấn đề đào tạo nghề hòa nhập. Điều 70 của Chương

VII quy định việc thành lập các trung tâm đào tạo nghề riêng cho NKT, đồng thời

khuyến khích các trung tâm đào tạo nghề nói chung tuyển các học viên là người

khuyết tật. Tuy nhiên, ngân sách ưu đãi cụ thể, thuê đất, thiết bị và chương trình đào

tạo dành riêng chỉ được cấp cho một số trung tâm dạy nghề dành riêng cho người

khuyết tật.

1.3.6 Tâm lý ngƣời khuyết tật

Khái niệm Người khuyết tật đã chỉ ra rằng “Người khuyết tật là những người

bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được

biểu hiện dưới dạng tật, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. Theo

đó Người khuyết tật không mất đi hoàn toàn khả năng lao động mà gặp khó khăn

trong quá trình lao động, sinh hoạt và học tập. Người khuyết tật thiếu sót một số

chức năng, bộ phận trên cơ thể nhưng có thể làm việc trên những cơ quan chức

năng khác.

Ngày nay nhờ công nghệ tiên tiến, nhận thức đổi mới, người khuyết tật đã và

đang bước ra khỏi vỏ bọc và thể hiện được năng lực của mình. Ở những ngành nghề

phù hợp, người khuyết tật chứng tỏ năng lực của họ không thua kém bất cứ ai, thậm

trí còn vượt trội. Như công nghệ thông tin đặc biệt phù hợp với NKT, vì đòi hỏi trí

tuệ nhiều hơn sức khoẻ. NKT ý thức được những thiệt thòi của mình nên họ chuyên

tâm vào chuyên môn và không ngừng trau dồi tri thức theo các phương thức:

- Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục chủ yếu đối với Người khuyết

tật.

- Giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt được thực hiện trong trường

hợp chưa đủ điều kiện để người khuyết tật học tập theo phương thức giáo dục bán

hòa nhập.

- Người khuyết tật, cha, mẹ hoặc người giám hộ người khuyết tật lựa chọn

phương thức giáo dục phù hợp với sự phát triển của cá nhân Người khuyết tật. Gia

19

đình có trách nhiệm tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi để người khuyết tật được học

tập và phát triển theo khả năng của cá nhân.

Người khuyết tật có ba mức độ khả năng làm việc dưới đây:

 Mức độ 1: Mất khả năng lao động – Là những người không còn khả năng lao

động, không sử dụng được năng lực hành vi trong công việc do yếu tố sức

khỏe, mức độ khuyết tật, suy giảm chức năng và trí tuệ.

 Mức độ 2: Tạm thời mất khả năng lao động hoặc còn khả năng lao động

trong lĩnh vực hạn chế.

 Mức độ 3: Còn khả năng lao động trong những điều kiện được ưu ái

- Hoạt động :

Tùy đặc điểm của người khuyết tật mà có những ngành nghề và những công

việc phù hợp với khả năng của từng người, họ có thể làm tốt trong hầu hết các lĩnh

vực: kinh tế, giáo dục, công nghệ, nghiên cứu, sản xuất…

Một số công việc thường thấy của người khuyết tật:

 Tự kinh doanh: nuôi, trồng, kinh doanh hộ gia đình…

 Công nghệ thông tin

 Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, điêu khắc, dệt may…

- Rèn luyện kỹ năng:

Dù cuộc sống của người khuyết tật còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại, song

cũng như tất cả mọi người khuyết tật Viêt Nam luôn nỗ lực và có ý chí vươn lên,

vượt qua khó khăn, lao đông chăm chỉ và sáng tạo, đóng góp tích cực vào phát triển

kinh tế - xã hội. Những công việc về thủ công mỹ nghệ, điêu khắc… đòi hỏi sự tỷ

mỷ, rèn luyện kỹ năng.

- Trình độ

Cơ hội nghề nghiệp đối với NKT thường rất mỏng. Họ chỉ có thể làm một số

công việc đặc thù phù hợp với dạng tật của mình mà thôi. Vì vậy ngay từ khi chọn

ngành nghề học, họ đã phải tính toán kỹ lưỡng đến khả năng có việc làm sau khi tốt

nghiệp. Tiếp đó là sự trau dồi về ngoại ngữ, tin học và những kỹ năng khác. NKT

khó xin được việc làm.

20

- Khách quan: Tuy nhiên, bên cạnh đó còn yếu tố quan trọng khác, đó là

NKT chưa được quan tâm đúng mức, chưa có sự liên kết giữa 3 bên: NKT - doanh

nghiệp - Trung tâm dạy nghề, chưa có nơi tư vấn nghề nghiệp cho NKT.Khó khăn

về việc tiếp cận dành cho người khuyết tật, bao gồm tiếp cận thông tin về các chính

sách, tiếp cận giao thông và tiếp cận cơ sở vật chất. Người khuyết tật muốn tham

gia vào các hoạt động của xã hội nhưng họ lại không thể tiếp cận giao thông. Người

khiếm thị không thể tiếp cận trường lớp vì thiếu giáo trình (phần mềm đọc chữ, chữ

nổi,..) và chưa có phương pháp giảng dạy phù hợp.

- Chủ quan: Khả năng học hỏi và trình độ của người khuyết tật: Người khuyết

tật với sự giới hạn của mình đặc biệt là người khuyết tật về trí tuệ khả năng tiếp thu

tri thức khá khó khăn, những người khuyết tật vận động thì ảnh hưởng ít hơn. Tùy

vào đặc điểm của từng loại khuyết tật mà mức độ tư duy, học hỏi của người khuyết

tật cũng khác nhau, trình độ tri thức và phương thức đào tạo cũng khác nhau. Nằm

trong chính nội lực của người khuyết tật khi nhiều người khuyết tật còn chưa thực

sự cố gắng để vượt qua khiếm khuyết, hoà nhập cộng đồng và khẳng định bản thân.

- Người khuyết tật vận động, có khả năng tư duy bình thường, do đó cần cố

gắng trao dồi về tri thức

- Người khuyết tật về trí tuệ hoặc các cơ quan cảm giác được nhà nước, các tổ

chức khuyết tật đào tạo những kỹ năng và kiến thức cơ bản phục vụ cho công việc.

Khả năng đáp ứng công việc: Khả năng đáp ứng công việc phụ thuộc vào sức

khỏe của người lao động khuyết tật. Người khuyết tật có những giới hạn nhất định

về sức khỏe, do đó những công việc người khuyết tật tìm kiếm phải phù hợp với

tình trạng sức khỏe của họ.

Đặc điểm tâm sinh lý: Muốn giải quyết và tháo đỡ khó khăn cho người

khuyết tật, cần hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của họ. Người khuyết tật thường

nhạy cảm và sống khép kín, do đó đặc điểm tâm lý ảnh hưởng nhiều đến cách lựa

chọn công việc của người khuyết tật.

21

1.4 Tầm quan trọng của việc giải quyết việc làm cho ngƣời khuyết tật

Khái niệm việc làm được ghi nhận chính thức về mặt pháp lý trong bộ luật

lao động (BLLĐ). Tại điều 13 BLLĐ quy định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra

nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Việc làm

có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi các nhân, xã hội và đất nước. Việc làm

tạo ra nguồn thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình người lao động, tạo ra của cải

vật chất, từ đó giúp ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, giải quyết

việc làm luôn là một chính sách quan trọng của mỗi quốc gia.

Việt Nam có hơn 6.7 triệu người khuyết tật trong đó có 1.6 triệu người có

khả năng lao động. Tạo việc làm bền vững cho đối tượng lao động này là một trong

những vấn đề quan trọng giúp người khuyết tật nâng cao chất lượng cuộc sống, hòa

nhập với cộng đồng và khẳng định khả năng, thể hiện bản thân và vị thế trong xã

hội.

Tuy nhiên hiện nay số lượng người khuyết tật được tạo việc làm không đáng

kể, đa số là tự tạo việc làm cho bản thân. Những người khuyết tật phần lớn ở nông

thôn, trình độ văn hóa và tay nghề thấp, công việc đa phần có mức thu nhập thấp,

cuộc sống khó khăn. Bên cạnh đó, người khuyết tật không tiếp cận được với thông

tin việc làm, không có tay nghề, sự làm lơ của nhiều nhà tuyển dụng với những

nhận định sai lầm về khả năng của người khuyết tật như: không chịu được áp lực

công việc cao, trí tuệ không bằng người bình thường, sức khỏe yếu,… những rào

cản trên khiến người khuyết tật không tìm kiếm được những việc làm như ý muốn

(bảng 1.2).

22

Bảng 1.2 Bảng thể hiện mức độ khó khăn của các dạng khuyết tật

Mức độ khó khăn

Dạng khuyết tật Khó khăn trở lên Rất khó khăn trở lên Không thể thực hiện được

27,1 3,8 0 Nhìn

12,5 2,3 0,3 Nghe

20,3 5,7 0,8 Vận động

16,6 2,4 0,5 Tập trung/ ghi nhớ

4,5 1,5 0,5 Giao tiếp

38,4 9,6 1,2 Ít nhất 1 trong 4 dạng

23 4,1 0,9 Đa khuyết tật

(Nguồn: Trung tâm nghiên cứu phát triển năng lực NKT)

Việc người khuyết tật gặp nhiều cản trở trong việc tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục,

học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông, dẫn đến khó khăn trong cuộc

sống và hoà nhập với cộng đồng. Công tác tuyên truyền phổ biến Pháp lệnh và

chính sách liên quan đến người khuyết tật cũng còn hạn chế. Theo đánh giá của Uỷ

ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2010, mới chỉ có 22,9% người biết Pháp

lệnh về người khuyết tật, còn tới 77,1% số người không biết. Trong số biết chỉ có

6,4% biết rõ, 16,5% mới chỉ nghe và biết tên. Hiểu biết ít nên các hoạt động chăm

sóc, hỗ trợ người khuyết tật ở cộng đồng chưa được thực hiện tốt. Người khuyết tật

thường tự ti trong cuộc sống, chưa thấy được quyền và trách nhiệm của mình.

Tạo điều kiện và tạo công ăn việc làm cho người khuyết tật là yếu tố thúc

đẩy sự hòa nhập của người khuyết tật với cộng đồng, xã hội và không bị phân biệt

đối xử về mặt thái độ. Hiện thực hóa quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết

tật.Có thể thấy lực lượng lao động khuyết tật là một lực lượng không nhỏ trong xã

hội, tạo việc làm cho người khuyết tật cũng làm tăng mức sống của xã hội, là một

23

trong những yếu tố giải quyết được vấn đề “xóa đói giảm nghèo”, đồng thời tạo

động lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Để thực hiện tốt chính sách giả giải quyết việc làm đòi hỏi sự tham gia nỗ lực của

Nhà nước, các tổ chức xã hội, người sử dụng lao động và sự nổ lực của người lao

động.

24

Kết luận chƣơng 1:

Chương một tác giả đề cập đến cơ sở lý luận về vấn đề người khuyết tật, đặc

điểm của người khuyết tật và khả năng lao động của họ, đào tạo nghề, việc làm và

tầm quan trọng của việc tạo công ăn việc làm trong việc cải thiện cuộc sống của

người khuyết tật, việc làm, thị trường lao động.

Bên cạnh đó tác giả cũng đề cập tới những yếu tố giúp người khuyết tật tìm

việc làm: cung cầu lao động và tính chất công việc; khả năng của người khuyết tật;

kênh tiếp xúc thông tin; sự hỗ trợ từ phía nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp… Là

tiền đề để phát triển các chương sau.

25

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CỦA NGƢỜI

KHUYẾT TẬT TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1 Tổng quan về NKT tại Thành phố Hồ Chí Minh

2.1.1 Tổng quan về Thành phố Hồ Chí Minh

Địa hình

Thành phố Hồ Chí Minh có địa hình phần lớn bằng phẳng, có ít đồi núi ở

phía Bắc và Đông Bắc, với độ cao giảm dần theo hướng Đông Nam. Nhìn chung có

thể chia địa hình thành phố Hồ Chí Minh thành 4 dạng chính có liên quan đến chọn

độ cao bố trí các công trình xây dựng:

- Dạng đất gò cao lượn sóng (độ cao thay đổi từ 4 đến 32 mét, trong đó 4 – 10

mét chiếm khoảng 19% tổng diện tích. Phần cao trên 10 m chiếm 11%, phân bố

phần lớn ở huyện Củ Chi, Hóc Môn, một phần ở Thủ Đức, Bình Chánh)

- Dạng đất bằng phẳng thấp (độ cao xấp xỉ 2 đến 4 mét, điều kiện tiêu thoát

nước tương đối thuận lợi, phân bố ở nội thành, phần đất của Thủ Đức và Hóc Môn

nằm dọc theo sông Sài Gòn và nam Bình Chánh chiếm 15% diện tích)

- Dạng trũng thấp, đầm lầy phía tây nam (độ cao phổ biến từ 1 đến 2 mét,

chiếm khoảng 34% diện tích)

- Dạng trũng thấp đầm lầy mới hình thành ven biển (độ cao phổ biến khoảng 0

đến 1 mét, nhiều nơi dưới 0 mét, đa số chịu ảnh hưởng của thuỷ triều hàng ngày,

chiếm khoảng 21% diện tích).

Khí hậu

Thành phố nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, mang tính chất cận xích đạo. Lượng bức xạ dồi dào, trung bình khoảng 140 kcal/cm2/năm, nắng trung bình 6,8 giờ/ngày. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 27,5oC. Biên độ trung bình giữa các

tháng trong năm thấp là điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng và phát triển quanh

năm của động thực vật. Ngoài ra, thành phố có thuận lợi là không trực tiếp chịu tác

động của bão lụt.

Nằm ở hạ lưu của hệ thống song Đồng Nai – Sài Gòn với địa hình tương đối

bằng phẳng, chế độ thuỷ văn, thuỷ lực của kênh rạch và sôngngòi không những chịu

26

ảnh hưởng mạnh của thuỷ triều biển Đông mà còn chịu tác động rất rõ nét của việc

khai thác các bậc thang hồ chứa ở thượng lưu hiện nay và trong tương lai (như các

hồ chức Trị An, Dầu Tiếng, Thác Mơ…).

Thành phố nằm giữa hai con sônglớn là: song Sài Gòn, song Vàm Cỏ Đông

và chịu ảnh hưởng lớn của song Đồng Nai, song Sài Gòn là sông có độ dốc nhỏ,

lòng dẫn hẹp nhưng sâu, ít khu chứa nên thuỷ triều truyền vào rất sâu và mạnh. Chế

độ thuỷ văn, thuỷ lực của kênh rạch trong thành phố chịu ảnh hưởng chủ yếu của

sông Sài Gòn. Sông Vàm Cỏ Đông rất sâu, nhưng lại nghèo về nguồn nước do vậy

vào mùa khô mặn thường xâm nhập sâu vào đất.

Kinh tế xã hội

Phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh gắn liền với

tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam và cả

nước. Là thành phố với mạng lưới cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, xã hội đồng bộ;

Là nơi kết nối giao thông đường bộ, đường thủy, đường hàng không với khu vực

Đông Nam Á, liên thông vào mạng lưới giao thông châu Á và thế giới.

Đóng vai trò là trung tâm của khu vực Nam Bộ, nối liền đồng bằng Sông

Cửu Long và khu vực Đông Nam Bộ. Với vị trí trọng điểm đối với khu vực kinh tế

trọng điểm phía Nam, miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên

và cả nước, TP. Hồ Chí Minh thể hiện rõ rệt vai trò quan trọng trong việc phát triển

kinh tế trong những năm qua, đã và đang đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng gia tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ, phát triển kinh tế hướng mạnh về xuất

khẩu.

Theo thống kê, hiện nay tốc độ phát triển kinh tế của thành phố gấp 1,6 – 1,7

lần cả nước. Tổng sản phẩm quốc nội chiến 21% và đóng góp hơn 30% ngân sách

cả nước. Số hộ nghèo theo tiêu chuẩn của thành phố (thu nhập dưới 16 triệu đồng/

người/ năm) chỉ còn dưới 1% dân số, hộ cận nghèo chiếm 2,7% dân số TP. Hồ Chí

Minh.

27

Năm 2014, tổng sản phẩm nội địa trên địa bàn TPHCM đạt 852.523 tỷ đồng,

tăng 9,6%, trong đó, dịch vụ chiếm 59,6%, công nghiệp và xây dựng 39,4%, nông

nghiệp 1%.

Số liệu do UBND TPHCM công bố tại Hội nghị triển khai Nghị quyết của Chính

phủ năm 2014:

- GDP bình quân đầu người đạt 5.131 USD, tăng 12,89% (năm 2013 đạt 4.545

USD).

- Tăng trưởng biểu hiện rõ nét qua các chỉ tiêu đạt được như sức mua của thị

trường tiếp tục có sự gia tăng khá cao. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch

vụ trong năm đạt 655.365,5 tỷ đồng, tăng 12,5% (cùng kỳ tăng 10,7%).

- Chỉ số phát triển công nghiệp tăng 7% (cùng kỳ tăng 6,35%). Quy mô công

nghiệp tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, tỷ trọng ngành

khai khoáng giảm dần. Năm 2014, ngành cơ khí chế tạo có mức tăng trưởng cao

nhất, lên đến 16,6% (cùng kỳ tăng 6,6%); điện tử tăng 8,3% (cùng kỳ tăng 2,7%)...

- Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả năm ước đạt 32,083 tỷ USD, tăng 8,8%

(cùng kỳ giảm 6%). Hàng hóa xuất tới 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó xuất

sang khu vực Đông Bắc Á có mức tăng mạnh nhất (tăng 32,5%); thị trường Hàn

Quốc tăng tới 105%, Hong Kong tăng 98%, Nhật Bản tăng 9,5%, Trung Quốc tăng

4,5%... Nhóm hàng công nghệ, hàng qua chế biến, chế tạo hiện đã chiếm tới 69,4%

(vượt mục tiêu đề ra cho năm 2020 là 62%, riêng khu Công nghệ cao đạt giá trị xuất

khẩu 3 tỷ USD).

Năm 2015, TPHCM đặt ra 25 chỉ tiêu chủ yếu để tập trung nguồn lực phát

triển, theo đó:

- Phấn đấu GDP tăng từ 9,5% trở lên

- Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội chiếm 30% GDP

- Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng thấp hơn cả nước

- Kim ngạch xuất khẩu tăng 8-10%

- Thu ngân sách nhà nước đạt 265.776 tỷ đồng

- Tạo việc làm mới cho 120.000 người

28

- Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 1%

- Phấn đấu để 100% các hộ dân trên địa bàn được sử dụng sạch hoặc nước hợp

vệ sinh...

Năm 2014 thành phố Hồ Chí Minh vẫn duy trì đà phục hồi kinh tế, đóng góp

tích cực vào sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của khu vực phía

Nam và cả nước.

Năm 2014, thành phố tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm giải quyết hàng

tồn kho, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy kinh doanh phát triển, mở

rộng thị trường xuất khẩu trên cơ sở tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại,

phát triển du lịch dịch vụ, bên cạnh đó thực hiện 6 chương trình đột phá với việc ưu

tiên phát triển khoa học công nghệ, đẩy mạnh xuất khẩu và thực hiện có hiệu quả

công tác an sinh xã hội. Với việc đẩy mạnh thực hiện các giải pháp thúc đẩy phát

triển kinh tế năm 2014 chỉ số phát triển đều tăng ở cả 03 khu vực kinh tế Công

nghiệp – Xây dựng, Nông – Lâm nghiệp – Thủy sản, Dịch vụ.

Đến cuối tháng 10 năm 2014 thành phố đã có 19.486 doanh nghiệp được cấp

phép thành lập mới, tổng số doanh nghiệp hiện nay đang hoạt động có 228.546 đơn

vị.

Thị trường lao động thành phố năm 2014

Năm 2014 thành phố đã có 19.486 doanh nghiệp được cấp phép thành lập

mới; tổng số doanh nghiệp hiện nay đang hoạt động có 228.546 đơn vị. Kinh tế

thành phố tăng trưởng tạo điều kiện thị trường lao động thành phố phát triển ổn

định, biến động dịch chuyển lao động giữa các doanh nghiệp giảm, mức bình quân

biến động dịch chuyển lao động dưới 10% thấp hơn so năm 2013- 2014 (15% –

10%). Quá trình tái cấu trúc bộ máy nhân sự của nhiều doanh nghiệp làm tăng nhu

cầu nhân lực chất lượng cao. Nhu cầu tìm việc của người lao động có xu hướng gia

tăng ở người có trình độ đại học và có kinh nghiệm.

Thị trường lao động thành phố luôn thể hiện sự đa dạng về việc làm theo các

thành phần kinh tế và khu vực kinh tế, theo số liệu của Phòng Việc làm – Sở Lao

động – TBXH thành phố năm 2014 thành phố giải quyết việc làm cho 290.035

29

người (trong đó 141.856 nữ) đạt 109,4% chỉ tiêu kế hoạch năm 2014, số chỗ làm

việc mới tạo ra là 121.381. Tỷ lệ thất nghiệp của thành phố vào thời điểm tháng

10/2014 là 4,67%.

Một số nhóm ngành nghề có nhu cầu nhiều về số lượng lao động:

- Dệt may – Da giày, Chế biến thực phẩm, Cơ khí , Điện – Điện lạnh

- Marketing, bán hàng, tiếp thị sản phẩm, nghiên cứu thị trường

- Dịch vụ du lịch, Nhà hàng – Khách sạn, thư ký văn phòng

- Người dẫn chương trình, Xây dựng, Sửa chữa điện, Cơ khí

- Dịch vụ giúp việc nhà, giao hàng, nhân viên bảo vệ, dàn dựng, thi công sân

khấu, lao động thời vụ thời vụ vệ sinh công nghiệp, chăm sóc, bảo dưỡng sân golf..

Nhu cầu nhân lực tập trung nhiều vào tuyển dụng lao động có kinh nghiệm

cho các vị trí ổn định, phát triển doanh nghiệp và nhu cầu cao trong tuyển dụng lao

động thời vụ. Xu hướng tuyển dụng với yêu cầu gay gắt hơn dẫn đến tình trạng

sinh viên, học sinh tốt nghiệp ra trường, nhất là các sinh viên từ các tỉnh, thành phố

khác không tìm được việc làm hoặc khó tìm được việc làm tại thành phố Hồ Chí

Minh rất phổ biến.

Tình hình sử dụng lao động ở thành phố Hồ Chí Minh

Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị có nguồn nhân lực lớn nhất cả nước với

khoảng 4,7 triệu người lao động trong độ tuổi lao động, tổng số có việc làm vào

khoảng 3,2 triệu người. Đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có trình độ chuyên môn

cao trên địa bàn chiếm 30% so với cả nước. Số lao động đã qua đào tạo tăng từ 40%

năm 2005 đến 55% năm 2013. Kinh tế thành phố tăng trưởng tạo điều kiện thị

trường lao động thành phố phát triển ổn định, biến động dịch chuyển lao động giữa

các doanh nghiệp giảm, mức bình quân biến động dịch chuyển lao động dưới 10%

thấp hơn so năm 2013- 2014 (15% – 10%). Quá trình tái cấu trúc bộ máy nhân sự

của nhiều doanh nghiệp làm tăng nhu cầu nhân lực chất lượng cao. Nhu cầu tìm

việc của người lao động có xu hướng gia tăng ở người có trình độ đại học và có

kinh nghiệm.

30

Theo báo cáo của Sở LĐTB&XH TPHCM, trong năm 2014, TPHCM đã

tuyển mới dạy nghề 443.535 lượt học sinh, sinh viên, đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo

nghề là 69,93% so với tổng lao động của thành phố. Ngoài ra, TPHCM còn bồi

dưỡng nâng cao tay nghề cho 2.565 công nhân và người lao động trong doanh

nghiệp; hỗ trợ đào tạo nghề cho 7.500 lao động nông thôn; hỗ trợ đào tạo nghề cho

2.000 lao động nghèo; đào tạo nghề cho 1.090 người khuyết tật và 611 thanh niên

dân tộc thiểu số.

2.1.2. Tổng quan về ngƣời khuyết tật tại TP.HCM

Tại Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, những dịch vụ

xã hội cơ bản dành cho người khuyết tật như: y tế,giáo dục, sinh kế và việc làm đã

được tiến hành trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, với rấtnhiều nguời khuyết tật thì

tiếp cận với các dịch vụ này không hề dễ dàng. Những rào cảnvề: thông tin, sự kỳ

thị, thiếu những dịch vụ ở cấp độ cá nhân…đã làm cho nhiều ngườikhuyết tật không

được hưởng những dịch vụ xã hội có chất lượng. Với số lượng người tậthiện nay ở

là hơn 45 nghìn người, những dịch vụ xã hội để đáp ứng nhu cầu đa dạng của họ

thậtkhông dễ thiết lập và thực hiện trong khi nguồn lực dành cho các dịch vụ xã hội

vẫn cònnhiều hạn chế như hiện nay. Mặc dù Nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong

và ngoàinước đã có nhiều nỗ lực để cải thiện tình trạng này, nhưng việc cung cấp

dịch vụ xã hộicho người khuyết tật vẫn còn nhiều vướng mắc: (1) Thiếu kinh phí để

thiết lập các dịchvụ xã hội có chất lượng; (2) thiếu nguồn nhân lực có chất lượng

trong hệ thống dịch vụcông và tư nhân; (3) Nhận thức về Người khuyết tật còn khá

hạn chế, đặc biệt quan niệmNgười khuyết tật là đối tượng cần chăm sóc còn phổ

biến ở nhiều cơ quan cung cấp dịchvụ và người dân tại cộng đồng; (4) dịch vụ xã

hội với đặc thù là không sinh nhiều lợinhuận và phải đầu tư lâu dài nên không hấp

dẫn các nhà đầu tư tư nhân....

Theo thống kê của Sở lao động thương binh và xã hội TP.HCM năm 2014,

trên địa bàn thành phố có khoảng 44.352 người khuyết tật, trong đó tại các quận –

huyện trên địa bàn có khoảng 36.314 hộ dân trong đó có 40.826 người khuyết tật;

tại các trung tâm bảo trợ có khoảng 3.526 người khuyết tật (Phụ lục 1).

31

Hiện nay, thành phố có nhiều Hội người khuyết tật, câu lạc bộ người khuyết

tật (được thành lập theo pháp luật qui định) và các nhóm khuyết tật (tự sinh hoạt

chung với nhau) với hàng ngàn Hội viên hiện đang thực hiện chức năng chăm sóc

và trợ giúp người khuyết tật trên địa bàn thành phố là :

- Hội Nạn nhân chất độc Da cam/Dioxin thành phố;

- Hội bảo trợ bệnh nhân nghèo thành phố;

- Hội Cứu trợ Trẻ em tàn tật thành phố;

- Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi thành phố;

- Hội Thanh niên khuyết tật thành phố

- Câu lạc bộ khuyết tật trẻ;

- Và khoảng 20 Nhóm người khuyết tật tự phát như Nhóm khuyết tật Bình

triệu, nhóm khuyết tật Thiên Linh, Nhóm khuyết tật cuộc sống mới…

Kinh tế của người khuyết tật

Theo Trung tâm nghiên cứu phát triển năng lực NKT (DRD) có tới 85%

người khuyết tật ở thành thị và 25% người khuyết tật đến từ các vùng khác. Do

những hạn chế từ khuyết tật, và trình độ năng lực nên đa phần người khuyết tật có ít

nguồn thu nhập, thu nhập không ổn định và chưa đủ để trang trải cuộc sống. Số

người khuyết tật có thể tự lập được cuộc sống và nhà ở ổn định chỉ vào khoảng 11%

trong tổng số người khuyết tật. Gần 24% hộ gia đình có người khuyết tật phải sống

trong điều kiện nhà tạm, 65% sống trong những ngôi nhà bán kiên cố.

32

Biểu đồ 2.1Biểu đồ thể hiện mức sống của người khuyết tật năm 2014

(Nguồn: Trung tâm nghiên cứu phát triển năng lực NKT)

Chăm sóc sức khỏe, chỉnh hình, phục hồi chức năng

Đến nay các địa phương đã cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người khuyết tật thuộc

chính sách bảo trợ xã hội và thuộc hộ gia đình nghèo, thực hiện chỉnh hình phục hồi

chức năng và cấp dụng cụ chỉnh hình miễn phí cho khoảng hàng ngàn người khuyết

tật; cung cấp phương tiện trợ giúp như xe lăn, xe đẩy, chân tay giả; phẫu thuật chỉnh

hình và trợ giúp phục hồi chức năng cho hàng ngàn người khuyết tật. Khoảng 50%

người khuyết tật được hỏi cho biết họ gặp khó khăntrong việc tiếp cận các dịch vụ y

tế. Những khó này chủ yếu do nguyên nhân: không có dịch vụ y tế phù hợp.

Bảng 2.1 Đánh giá về dịch vụ y tế

Dịch vụ y tế Tỷ lệ (%)

Không có dịch vụ y tế phù hợp 20%

Chi phí dịch vụ y tế cao đối với họ 10%

Kỳ thị và phân biệt đối xử 10%

Xa nhà và không có phương tiện đi lại phù hợp cho người khuyết tật 8%

Khác 2%

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cuộc khảo sát

33

Với xu thế mở nhiều bệnh viện phục hồi chức năng như hiện nay thì Người

khuyết tật sẽ ngày càng phụ thuộc hơn vào các nhân viên y tế và mất dần đi triết lý

cơ bản của chương trình Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng đó là sự tham gia

của gia đình và chính người khuyết tật trong tiến trình phục hồi chức năng cho

người khuyết tật. Trong việc khám và chữa bệnh, với bình quân chi phí khám chữa

bệnh do gia đình chi trả bằng 16% tổng thu nhập và với 59% người khuyết tật là

người nghèo thì rất khó để người khuyết tật tiếp cận được dịch vụ khám, chữa bệnh

có chất lượng.

Chăm sóc đời sống người khuyết tật

Thực hiện Luật người khuyết tật, thành phố đã thực hiện trợ cấp xã hội

thường xuyên hàng tháng và cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho 20.520 người

khuyết tật theo Nghị định 67/NĐCP và Nghị định 13/NĐ 13 của Chính phủ, nuôi

dưỡng tập trung 1.234 người khuyết tật trong 08 cơ sở bảo trợ xã hội công lập và

719 người khuyết tật tại 20 cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập.

Các chế độ trợ giúp cũng đã được điều chỉnh tăng từ 180.000 đồng/hệ số

theo quy định tăng lên mức 240.000 đồng/hệ số. Chính sách trợ giúp xã hội đã góp

phần quan trọng trong việc ổn định đời sống vật chất và tinh thần của người khuyết

tật.

Ngoài ra còn có 16.436 người khuyết tật là thương binh, người hưởng chính

sách như thương binh, bệnh binh, quân nhân bị tai nạn lao động, quân nhân bị bệnh

nghề nghiệp, 4.260 người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị hậu quả chất

độc hóa học đang hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng theo quy định của Pháp lệnh

người có công với cách mạng.

Bên cạnh đó TP.HCM cũng tiến hành thực hiện các chương trình bảo trợ từ

nước ngoài. Gần đây nhất là “Chương trình trợ giúp người khuyết tật PDSP

(USAID)”. Với các giải pháp nhằm giải quyết nhu cầu và cải thiện đời sống cho

người khuyết tật. Bằng cách triển khai các dự án hỗ trợ địa phương nâng cao cơ sở

hạ tầng, triển khai mô hình dịch vụ cho người khuyết tật ở một số tỉnh và thành phố

trọng điểm trong cả nước. Chính phủ Hoa Kỳ cung cấp trên 60 triệu đô la hỗ trợ

34

người khuyết tật Việt Nam và trong cuộc gặp vào tháng 07 năm 2013 với Chủ tịch

nước Việt Nam Trương Tấn Sang, Tổng thống Hoa Kỳ Obama đã khẳng định cam

kết của Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ chăm sóc y tế và các hình thức chăm sóc và hỗ trợ

khác cho người khuyết tật bất kể nguyên nhân.

Các hoạt động hỗ trợ của Hoa Kỳ bao gồm:

- Giúp xây dựng luật pháp và chính sách đến hỗ trợ cung cấp dịch vụ trực tiếp

cho người khuyết tật tại Việt Nam.

- USAID giúp người khuyết tật hòa nhập vào xã hội thông qua việc cải thiện

khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục và việc làm.

- Hỗ trợ chính quyền các địa phương trong việc đảm bảo các cơ hội bình đẳng

cho người khuyết tật và tác động đến các chính sách có ảnh hưởng tới cuộc

sống của người khuyết tật.

- Hỗ trợ cung cấp các dịch vụ phục hồi chức năng cho hàng nghìn người

khuyết tật

- Cung cấp các dịch vụ giáo dục và đào tạo hướng nghiệp, trong đó có đào tạo

công nghệ thông tin, hỗ trợ tìm việc làm

- Hỗ trợ các hội phụ huynh tăng cường vận động cho các vấn đề người khuyết

tật

- Hỗ trợ xây dựng các quy định luật pháp bao gồm các quy chuẩn và tiêu

chuẩn để tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật ra vào các tòa nhà.

USAID đang hỗ trợ cải thiện năng lực của Việt Nam trong việc bảo vệ sức

khỏe cộng đồng và phúc lợi, một yếu tố không thể thiếu để Việt Nam trở thành một

đối tác có sự tham gia nhiều hơn của mọi thành phần và đảm bảo tính bền vững của

các chương trình phát triển. Hỗ trợ của Hoa Kỳ trong lĩnh vực này cũng được công

nhận rộng rãi là đã đóng góp cho sự hợp tác thành công giữa Hoa Kỳ và Việt Nam

trong việc vượt qua quá khứ đau thương mà hai nước cùng chia sẻ.

Một số thành tựu mà TP.HCM đạt được:

- 337 người khuyết tật được khám bệnh và hơn 100 người được vật lý trị liệu

và nhận các thiết bị hỗ trợ.

35

- 151 học bổng được trao cho sinh viên khuyết tật,14 thành viên khuyết tật

tham gia vào chương trình “Từ nhà trường tới công sở”

- 15 người khuyết tật được đào tạo về quản lý doanh nghiệp nhỏ, trong đó 7

người được nhận tài trợ để khởi nghiệp; 06 người khuyết tật tham gia các

khóa đào tạo dạy nghề, 6 người khuyết tật được nhận vốn vay từ ngân hàng

địa phương từ các hoạt động liên kết của dự án

- Cung cấp thiết bị và các khóa đào tạo cho nhân viên tại các cơ sở phục hồi

chức năng cho trẻ khuyết tật

- Cung cấp các khoản tài trợ cho 8 tổ chức địa phương, trong đó có 2 tổ chức

người khuyết tật để năng cao năng lực và tăng cường việc cung cấp dịch vụ.

Học văn hoá đối với người khuyết tật

Thực hiện Luật giáo dục, Luật người khuyết tật, Ủy ban nhân dân thành phố

và các Sở-ngành, địa phương đã có nhiều quan tâm tạo điều kiện để người khuyết

tật tiếp cận dịch vụ giáo dục. Kể từ khi thực hiện Pháp lệnh về người khuyết tật đến

giai đoạn hiện nay, Số lượng các trường chuyên biệt, giáo dục hòa nhập gia tăng

đáng kể. Công tác tuyên truyền, vận động gia đình có con em là người khuyết tật

được tăng cường và đạt hiệu quả, số lượng học sinh, sinh viên là người khuyết tật

ngày càng gia tăng. Người khuyết tật đi học không chỉ tập trung ở bậc mầm non,

tiểu học mà còn ở bậc trung học và một số đang học ở bậc trung cấp, cao đẳng, có

nhiều học sinh khuyết tật đã đạt kết quả cao.

Tuy nhiên, vẫn còn phần lớn người khuyết tật chưa tiếp cận được với dịch vụ

giáo dục, nhất là ở các vùng nông thôn. Nguyên nhân chính là do điều kiện kinh tế

gia đình khó khăn, nhận thức của gia đình và cộng đồng, và ngay bản thân người

khuyết tật không đủ tự tin để hòa nhập cộng đồng.

36

Bảng 2.2 Tiếp cận giáo dục

Tiếp cận giáo dục Tỷ lệ (%)

10% Không muốn đi học

20% Không tự tin khi đi học

40% Kinh tế gia đình quá khó khăn

30% Nhận thức của gia đình trong việc đưa người khuyết tật tới trường còn hạn chế

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cuộc khảo sát

Học nghề và tạo việc làm của người khuyết tật

Hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về dạy nghề từ Trung ương đến địa

phương đã được kiện toàn, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dạy nghề cũng

đã quy định: các cơ sở dạy nghề dành riêng cho người khuyết tật được ưu tiên cấp

địa điểm thuận lợi, hỗ trợ vốn, cấp kinh phí đào tạo, miễn giảm thuế, được vay vốn

với lãi xuất ưu đãi; các cơ sở dạy nghề khác nhận người khuyết tật vào học nghề,

nâng cao trình độ tay nghề được ưu tiên đầu tư, bảo đảm định mức kinh phí đào tạo.

Người khuyết tật học nghề được xem xét cấp học bổng và trợ cấp xã hội, được miễn

hoặc giảm học phí căn cứ mức độ khuyết tật và mức độ suy giảm khả năng lao

động.

Thành phố hiện có 02 trung tâm thường xuyên dạy nghề cho trên 700 người

khuyết tật các nghề phù hợp như nghề may công nghiệp, tin học, làm hoa lụa, sửa

chữa xe máy, cơ khí… gồm: Trung tâm Bảo trợ Dạy nghề và tạo việc làm cho

người khuyết tật thành phố (thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội) và

Trường Dạy nghề cho người khuyết tật và trẻ mồ côi thành phố (thuộc Hội bảo trợ

người khuyết tật và trẻ mồ côi thành phố) thực hiện công tác dạy nghề, tạo việc làm

thông qua liên kết, hợp tác với các trường dạy nghề, các trung tâm giới thiệu việc

làm cấp thành phố, quận huyện.

Trong năm 2013, đã tổ chức các chương trình đồng hành cùng người lao

động khuyết tật tại các quận 8, 10 và 12, thông qua Trung tâm Bảo trợ Dạy nghề và

37

Giới thiệu việc làm cho người tàn tật thành phố phối hợp với UBND các phường

xuống tận nơi ở của người khuyết tật để tìm hiểu, nắm bắt tình hình, giúp họ tiếp

cận với nhu cầu việc làm, học nghề và học văn hóa. Hiệu quả của chương trình

đồng hành đã gia tăng lượng nhu cầu tuyển dụng người khuyết tật và làm tăng số

người khuyết tật ổn định việc làm trong năm .

Bên cạnh việc dạy nghề cho các học viên là người khuyết tật tại các cơ sở

bảo trợ, các cơ sở có sử dụng lao động là người khuyết tật, nhằm tạo thêm thu nhập

cho người khuyết tật có sản phẩm cần tiêu thụ, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ

sở, đơn vị có sử dụng lao động khuyết tật có địa điểm để ký gửi bán sản phẩm.

Thành phố có nhiều gian hàng trưng bày và bán sản phẩm của người khuyết tật như:

tranh thêu chữ thập, tranh sơn dầu, tranh kết cườm, mẫu và nguyên phụ liệu thêu,

dép len, nghệ thuật tạo hình hoa đất, cùng các sản phẩm thủ công khác… gồm cửa

hàng Hoa Lê (thuộc Trung tâm Bảo trợ Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật

thành phố), gian hàng trưng bày sản phẩm người khuyết tật của cơ sở An Phúc tại

Bảo tàng chứng tích chiến tranh thành phố…

Ngoài ra thành phố còn hỗ trợ cấp đất cho Trung tâm Dạy nghề cho người

khuyết tật và trẻ mồ côi thành phố để mở rộng cơ sở hiện hữu, tăng thêm số lượng

xưởng dạy nghề cho người khuyết tật và trẻ mồ côi và Hội Nạn nhân chất độc Da

cam/Dioxin thành phố xây dựng cơ sở điều trị, dạy nghề cho nạn nhân chất độc Da

cam/Dioxin thành phố tại Huyện Hóc Môn .

Tiếp cận văn hóa, thể thao và công trình công cộng

Trong những năm qua nhiều hoạt động văn hóa, thể thao đã được tổ chức

nhận các ngày người khuyết tật Việt Nam (18/4/) và ngày Quốc tế người khuyết tật

(3/12). Các hoạt động văn hoá, thể thao, giải trí của người khuyết tật ngày càng

được quan tâm, nhiều cuộc thi đấu thể thao cấp tỉnh, thành phố và ở cơ sở được tổ

chức để người khuyết tật được tham gia hoạt động góp phần tăng cường sức khỏe,

cải thiện đời sống tinh thần người khuyết tật xóa bỏ mặc cảm, thông qua đó giúp

người khuyết tật hòa nhập cộng đồng.

38

Phong trào thể dục thể thao dành cho người khuyết tật tại các địa phương

trong những năm qua đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng người tập cũng như về

số môn thể thao được đưa vào hoạt động ... Tuy nhiên, mới chỉ phát triển bước đầu

và chủ yếu ở khu vực các quận trung tâm, còn khu vực còn lại chưa được quan tâm

đúng mức.

Thực hiện quy định pháp luật, trong những năm qua các Sở, ngành địa

phương đã có cố gắng trong việc bảo đảm điều kiện tiếp cận công trình công cộng

đối với người khuyết tật, như: ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng công trình

công cộng bảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận; cải tạo, sửa chữa các công trình

công cộng chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận... Trên thực tế với số liệu tác giả thu tập

từ cuộc khảo sát cho thấy người khuyết tật như sau:

Bảng 2.3 Đánh giá về văn hóa thể thao

Đánh giá về văn hóa thể thao Tỷ lệ (%)

45% Thiếu những công trình văn hóa thể thao mà người khuyết tật tiếp cận được

Thiếu người tập huấn/ hướng dẫn riêng cho người khuyết tật 30%

Kỳ thị người khuyết tật tham gia hoạt động này 25%

Khác 0%

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cuộc khảo sát

Khoảng 40% người khuyết tật được hỏi cho biết họ gặp khó khăntrong việc

tiếp cận các phương tiện giao thông. Những khó này chủ yếu do nguyên nhân:

không có lối đi dành cho người khuyết tật và bị lê thuộc vào gia đình.

Bảng 2.4 Đánh giá về giao thông

Đánh giá về giao thông Tỷ lệ (%)

Thiếu xe buýt hỗ trợ người khuyết tật 5%

Không có lối đi dành cho người khuyết tật 19%

Bị phụ thuộc vào gia đình chở mỗi khi đi ra ngoài 16%

Không có xe đi riêng 10%

Khác 0%

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cuộc khảo sát

39

Theo quy chuẩn phục vụ cho người khuyết tật.Bộ Giao thông đã chỉ đạo cho

các ngành hàng không, đường sắt giảm giá vé cho ngườikhuyết tật khi tham gia

giao thông, TP.HCM đã miến phí xe buýt cho người khuyết tật. Tuy nhiên, với nhu

cầu giao thông rất lớn của hàng triệu người khuyết tật thì tiếp cận giao thông còn

phải cải thiện nhiều hơn nữa, nỗ lực hơn nữa mới đáp ứng được nhu cầu của họ.

Nhất là việc tiếp cận các công trình giao thông, cơ quan hành chính nhà nước, bệnh

viện, trường học... Nguyên nhân chính là do nhận thức và quan tâm của xã hội đối

với người khuyết tật còn hạn chế, do thiếu nguồn lực để đầu tư, cải tạo sửa chữa các

công trình, thiếu chế tài xử phạt và sự giám sát của các cơ quan thực thi pháp luật.

2.2 Tổng quanvề đào tạo và việc làm tại TP.HCM

2.2.1 Trình độ nguồn nhân lực

Theo số liệu của Cục thống kê TP.HCM về Lao động – Việc làm năm 2013

tổng số dân số của TP. Hồ Chí Minh là 7.939.752 người. Trong đó 47,63% là nam

và 52,07% là nữ. Năm 2014 nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động

TP.HCM dân số thành phố Hồ Chí Minh khoảng 8.149.645 người (bảng 2.1).

Theo đó:

- Cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động có khoảng 5.810.565 người chiếm

70,36% so tổng dân số.

- Lực lượng lao động có khoảng 4.197.272 người chiếm 72,24% so tổng dân

số trong độ tuổi lao động.

Lao động đang làm việc khoảng 4.089.251 người chiếm 96,6% so lực lượng

lao động và chiếm 49,67% so tổng dân số.

40

Chỉ tiêu

2013

2014

Dân số

7.939.752

8.149.645

Tổng số dân trong độ tuổi lao động

5.734.206

5.810.565

Lực lượng lao động

4.122.300

4.190.525

Tổng số lao động có việc làm

4.024.000

4.048.000

Lao động cần giải quyết việc làm

293.228

290.035

Bảng 2. 5Cơ cấu lực lượng lao động thành phố Hồ Chí Minh 2014 (Đơn vị: %)

Nguồn: Cục thống kê TP.HCM về Lao động – Việc làm

Theo trình độ chuyên môn (bảng 2.2),trình độ lao động trên địa bàn

TP.HCM ngày càng cải thiện hơn, người lao động ý thức được phải có trình độ kiến

thức mới kiếm được việc như năm 2011 lao động chưa qua đào tạo từ 71,2 % đã

giảm xuống còn 65,1% năm 2014.

Bảng 2. 6 Trình độ chuyên môn khả năng của LLLĐ thành phố Hồ Chí Minh từ

năm 2011 - 2014 (%)

STT Cấp trình độ 2011 2012 2013 2014

Chưa qua đào tạo 71,2 71,7 68,6 65,1 1

Dạy nghề 6,1 5,8 7,6 9,9 2

Trung cấp 3 3,2 3,4 3,6 3

Cao đẳng 2,7 2,4 2,6 2,8 4

17 Đại học trở lên 16,9 17,8 18,6 5

Tổng 4.000.900 4.086.400 4.122.300 4.190.525

Nguồn: Nguồn: Cục thống kê TP.HCM về Lao động – Việc làm

41

Biểu đồ 2. 2 Biểu đồ thể hiện trình độ của lực lượng lao động tại TP Hồ Chí Minh

năm 2014

Nguồn: Cục thống kê TP.HCM về Lao động – Việc làm

Năm 2014 trên địa bàn TP.HCM có tỷ lệ lao động có trình độ đại học chiếm

18,6%, trình độ cao đẳng chiếm 2,8%, trình độ trung cấp chiếm 3,6%, dạy nghề

chiếm 9,9% trong tổng số lực lượng lao động (biểu đồ 2.2).

2.2.2 Cung nhân lực

Theo thống kê khảo sát Cung nhân lực của Cục Việc làm và Sở Lao động –

TBXH thành phố năm 2014, tỷ lệ lao động qua đào tạo tại thành phố Hồ Chí Minh

(bao gồm có bằng và không bằng hoặc chỉ có chứng chỉ nghề ngắn hạn) chiếm tỷ

trọng 69,83% so tổng số lực lượng lao động thành phố.

Năm 2014, Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao

động TP. Hồ Chí Minh thường xuyên khảo sát, cập nhật cung – cầu thị trường lao

động thành phố tại 18 sàn giao dịch, ngày hội việc làm; 85 đợt hướng nghiệp tại các

Trường trung học phổ thông; nhu cầu tìm việc – tuyển dụng tại các Trung tâm giới

thiệu việc làm, các Trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp, trường Nghề; các kênh

thông tin của doanh nghiệp về tuyển dụng lao động; các kênh phương tiện truyền

thông đài, báo. Nhu cầu nhân lực của 17.663 doanh nghiệp, với 208.688 chỗ làm

việc (trong đó 105.000 chỗ làm việc mới)

42

2.2.3 Nhu cầu tìm việc làm

Tỷ lệ sinh viên, người lao động từ các tỉnh, thành phố khác đến thành phố Hồ

Chí Minh học nghề và tìm việc làm tiếp tục chiếm tỷ lệ cao trong tổng số người tìm

việc thường xuyên (khoảng trên 40%), tuy vậy có giảm so với những năm trước, do

các tỉnh, thành phố trong khu vực đều phát triển về kinh tế tạo được nhiều chỗ làm

việc; mặt khác tình hình vật giá, mức sống tại thành phố Hồ Chí Minh khá cao, tình

trạng người lao động khó kiếm được việc làm ổn định phải quay về quê tăng. Điều

này một phần cũng làm giảm áp lực thị trường lao động thành phố năm 2014, tuy

nhiên trong năm 2015 và nhiều năm tới thị trường lao động thành phố vẫn tiếp tục

là địa điểm hấp dẫn nhiều người lao động từ các tỉnh, thành phố khác, nhất là người

có trình độ chuyên môn cao, đại học – cao đẳng – trung cấp…

Một số ngành nghề có nhu cầu tìm việc cao như: Kế toán – Kiểm toán

(22,16%); Hành chánh văn phòng (8,54%), Kinh doanh – Bán hàng (8,15%); Công

nghệ thông tin (5,86%), Kiến trúc – Kỹ thuật công trình xây dựng (5,41%), Quản lý

điều hành (4,79%); Marketing – Quan hệ công chúng (4,22%), Cơ khí Tự động hóa

(4,05%)…

Biểu đồ 2. 3 Biểu đồ so sánh nhu cầu tìm việc theo trình độ giữa các quý năm 2014

Nguồn: Nguồn: Cục thống kê TP.HCM về Lao động – Việc làm

Thị trường lao động thành phố thể hiện có sự cạnh tranh khá gay gắt giữa lực

lượng lao động có kinh nghiệm – trình độ chuyên môn kỹ thuật và học sinh, sinh

viên tốt nghiệp ra trường. Nhu cầu tìm việc của người lao động có kinh nghiệm

43

trong năm 2014 chiếm 85% trong tổng số lao động có nhu cầu tìm việc, tăng 40%

so với năm 2013. Người tìm việc có kinh nghiệm từ 2-5 năm chiếm tỷ lệ 46,4%

tăng 20,8% so với năm 2013, trên 05 năm kinh nghiệm chiếm 21,6% và 01 năm

kinh nghiệm chiếm tỷ lệ 17%.

Bảng 2. 7 Nhu cầu tìm việc theo kinh nghiệm năm 2014

Không có kinh nghiệm 15,0

1 Năm

17,0

2 - 5 Năm

46,4

Trên 5 năm

21,6

Kinh nghiệm Tỷ lệ (%)

Nguồn: Số liệu điều tra lao động việc làm của Tổng cục thống kê và tính toán của

Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM.

Biểu đồ 2. 4 Biểu đồ thể hiện nhu cầu tìm việc theo kinh nghiệm

Nguồn: Số liệu điều tra lao động việc làm của Tổng cục thống kê và tính toán của

Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM.

Đối với lực lượng lao động là sinh viên mới tốt nghiệp sẽ có sự cạnh tranh

không cân sức trong thị trường lao động khi thiếu kinh nghiệm làm việc, kiến thức

chuyên ngành thực tế, thiếu về kỹ năng nghề.

44

Yêu cầu về mức lương của người tìm việc trong năm 2014 như sau: Đối với mức

lương từ dao động từ 3 triệu đến 8 triệu chiếm 69,2 % tổng lực lượng lao động có

nhu cầu tìm việc thường xuyên.

Bảng 2.8Cơ cấu mức lương yêu cầu của người lao động

Mức lương Tỷ lệ (%)

Dưới 3 triệu 12,35

3 - 5 triệu 35,77

5 - 8 triệu 33,46

8 - 10 triệu 7,74

10 - 15 triệu 5,61

Trên 15 triệu 5,07

Nguồn: Số liệu điều tra lao động việc làm của Tổng cục thống kê và tính toán của

Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM.

Về trình độ người lao động: Lao động tìm việc có trình độ Đại học chiếm

(59,40%) tăng 7,44% so với năm 2013, Trên đại học (3,45%), Cao đẳng – cao đẳng

nghề chiếm (22,36%), Trung cấp chiếm (10,42%), lực lượng lao động phổ thông –

Sơ cấp nghề - Công nhân kỹ thuật chiếm (4,37%).

Phân tích cầu việc làm:

- Có 45.000 nhu cầu lao động thời vụ

- Có 130.286 người có nhu cầu học nghề, tìm việc làm, (bao gồm 34.760 học

sinh THPT; 95.526 sinh viên và người lao động ).

45

Bảng 2.9 Cơ cấu của LLLĐ đang làm việc chia theo khu vực kinh tế

Ngành kinh tế Đơn vị 2013 2014

Tổng Người 4.024.000 4.048.000

Người 104.624 105.248 Nông, lâm, ngư nghiệp 2,6 2,6 %

Người 1.327.920 1.283.216 Công nghiệp & xây dựng 33 31,7 %

Người 2.591.456 2.659.536 Dịch vụ 64,4 65,7 %

Nguồn: Số liệu điều tra lao động việc làm của Tổng cục thống kê và tính toán của

Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM.

Theo số liệu, có thể nhận định khu vực khu vực Dịch vụ có tỷ lệ lực lượng

lao động tham gia làm việc ngày càng cao chiếm tỷ lệ 65,7%, và là khu vực kinh tế

thu hút nhiều lao động nhất tại thành phố. Sự tham gia ngày càng nhiều của lực

lượng lao động vào khu vực dịch vụ cũng một phần khẳng định được sự phát triển

của khu vực kinh tế này. Mỗi năm khu vực dịch vụ luôn là khu vực kinh tế dẫn đầu

trong đóng góp vào GDP của thành phố.

Lực lượng lao động tham gia làm việc trong Khu vực Công nghiệp – Xây

dựng chiếm tỷ lệ 31,7% tổng lực lượng lao động đang làm việc. So với năm 2013,

tỷ lệ lao động trong khu vực kinh tế này giảm 3,4% cho thấy thành phố đang dần

chuyển dịch sản xuất công nghiệp theo hướng hiện đại hóa .

Tỷ lệ lực lượng lao động làm việc trong khu vực kinh tế Nông – Lâm – Ngư

nghiệp chiếm tỷ lệ 2,6% tổng lực lượng lao động đang làm việc. So năm 2013, tỷ lệ

lao động trong khu vực kinh tế này tăng 0,6%, cho thấy khu vực kinh tế Nông –

Lâm – Ngư nghiệp đang tiếp tục phát triển theo hướng chuyên môn hóa cao. Vì vậy

trong những năm sắp tới khu vực kinh tế Nông – Lâm – Ngư nghiệp sẽ có nhu cầu

lao động tập trung nguồn lao động có chuyên môn trình độ cao.

46

Bảng 2.10 Cơ cấu của LLLĐ đang làm việc trên địa bàn TPHCM chia theo trình độ

STT Trình độ chuyên môn kỹ thuật 2013 Ước tính 2014

1 Chưa qua đào tạo 32,41 30,29

2 Sơ cấp nghề - Công nhân kỹ thuật 35,89 33,94

3 Trung cấp nghề - Cao đẳng nghề 7,80 10,36

4 Trung cấp 3,50 3,77

5 Cao đẳng 2,50 2,73

6 Đại học trở lên 17,90 18,91

Nguồn: Số liệu điều tra lao động việc làm của Tổng cục thống kê và tính toán của

Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM

2.2.4 Nhu cầu tuyển dụng nhân lực

Về cơ cấu trình độ chuyên môn, nhu cầu tuyển dụng lao động chưa qua đào

tạo trong năm 2014 chiếm (32,64%), đối với nhu cầu lao động có trình độ Trên đại

học – Đại học – Cao đẳng chiếm (32,12%), nhu cầu tuyển dụng đối với lao động có

trình độ Sơ cấp nghề - CNKT- Trung cấp chiếm (35,24%).

Nhu cầu tuyển dụng lao động có trình độ năm 2014 tập trung ở các nhóm

ngành nghề như: Công nghệ thông tin, Cơ khí tự động hóa, Kiến trúc – Kỹ thuật

công trình xây dựng, Kế toán – Kiểm toán, Điện – Điện lạnh – Điện công nghiệp,

Kinh doanh tài sản – Bất động sản, Marketing – Quan hệ công chúng - Quản lý điều

hành …

Năm 2014 các nhóm ngành nghề có nhu cầu tuyển dụng cao như: Kinh

doanh bán hàng (23,88%), Dịch vụ phục vụ (16,01%), Công nghệ thông tin

(7,65%), Dịch vụ du lịch- Nhà hàng – Khách sạn (5,47%), Kinh doanh tài sản – Bất

động sản (4,88%), Vận tải – Kho bãi – Xuất nhập khẩu (4,42%), Dệt may – Giày da

(4,36%).

47

Biểu đồ 2. 5 Biểu đồ thể hiện nhóm ngành nghề tuyền dụng cao trong năm 2014

Nguồn: Số liệu điều tra lao động việc làm của Tổng cục thống kê và tính toán của

Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM

Biểu đồ 2. 6 Biểu đồ thể hiện nhu cầu tuyển dụng nhân lực theo trình độ đào tạo

năm 2014

Nguồn: Số liệu điều tra lao động việc làm của Tổng cục thống kê và tính toán của

Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM

Về ngành nghề đào tạo, năm 2014 nhu cầu tuyển dụng lao động qua đào tạo

tăng 1,46% so năm 2013. Thống kê theo 9 nhóm ngành đào tạo năm 2014 nhu cầu

nhân lực tăng ở các nhóm ngành Sư phạm - Quản lý giáo dục (20,63%), Kinh tế -

Tài chính - Ngân hàng - Pháp luật - Hành chính (10,25%), Nghệ thuật - Thể dục -

48

Thể thao (72,18%) và giảm ở các nhóm ngành Khoa học tự nhiên, Nông – Lâm –

Ngư, Kỹ thuật công nghệ, Khoa học xã hội – Nhân văn, Y – Dược. Nhu cầu nhân

lực trình độ sơ cấp nghề tăng 1,25% so năm 2013 trong các nhóm ngành Kỹ thuật

công nghệ và Kinh tế - Tài chính - Ngân hàng - Pháp luật - Hành chính.

Về kinh nghiệm làm việc: Có 46,60% nhu cầu tuyển dụng lao động là lao

động không có kinh nghiệm, tập trung chủ yếu trong các nhóm ngành nghề như:

Dịch vụ phục vụ (giúp việc nhà, bảo vệ...), Nhân viên kinh doanh - Bán hàng, Dịch

vụ du lịch - Nhà hàng - Khách sạn, Vận tải - Kho bãi - Xuất nhập khẩu, Dịch vụ

thông tin tư vấn - Chăm sóc khách hàng, Marketing - Quan hệ công chúng, Dệt may

- Giày da, Công nghệ thông tin, Điện tử - Cơ điện tử, Kinh doanh tài sản - Bất động

sản, Tài chính - Tín dụng - Ngân hàng… Nhu cầu tuyển dụng lao động có kinh

nghiệm trên 01 năm chiếm 53,40% tập trung chủ yếu trong các nhóm ngành nghề

như: Cơ khí - Tự động hóa, Công nghệ thông tin, Kiến trúc - Kỹ thuật công trình

xây dựng, Nhân viên kinh doanh - Bán hàng, Dịch vụ du lịch - Nhà hàng - Khách

sạn, Quản lý điều hành – Nhân sự, Điện - Điện lạnh - Điện công nghiệp, Điện tử -

Cơ điện tử…

Biểu đồ 2.7 Biểu đồ thể hiện nhu cầu tuyển dụng lao động theo kinh nghiệm làm

việc năm 2014

Nguồn: Số liệu điều tra lao động việc làm của Tổng cục thống kê và tính toán của

Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM

49

2.3 Thực trạng việc làm của ngƣời khuyết tật tại TP. Hồ Chí Minh

2.3.1 Thực trạng chủ trƣơng và các chính sách dành cho ngƣời khuyết tật

Hệ thống các chính sách về việc làm đối với người khuyết tật hiện nay, bao gồm:

- Luật người khuyết tật; một số điều của Bộ Luật Lao động

- Nghị định số 116/2004/NĐ-CP ngày 23 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/CP ngày 23 tháng 11 năm 1995

- Thông tư liên tịch số 19 /2005/TT LT/BLĐTBXH – BTC – BKHĐT của liên

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài Chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư

hướng dẫn thi hành Nghị định số 81/CP ngày 23 tháng 11 năm 1995

- Nghị định số 116/2004/NĐ-CP ngày 23 tháng 4 năm 2004.

Ngoài các văn bản trên, người khuyết tật còn là đối tượng ưu tiên trong trong thực

hiện các chính sách có liên quan khác như:

- Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ

về chính sách tín dụng học sinh, sinh viên

- Quyết định số 1956/2007/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt đề án " Dạy nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020"

- Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ về miễn, giảm

học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục

thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 -2011 đến năm 2014-2015.

Chính sách hỗ trợ của TP.HCM

- Quyết định số 87/2010/QĐ-UBND ngày 22 tháng 12 năm 2010 của Ủy ban

nhân dân Thành phố về việc điều chỉnh, bổ sung một số chế độ cho đối tượng bảo

trợ xã hội và cai nghiện ma túy, mại dâm; cán bộ, nhân viên đang công tác tại các

đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và Lực lượng Thanh

niên xung phong Thành phố.

- Cấp đất cho Trung tâm Dạy nghề cho người khuyết tật và trẻ mồ côi thành

phố để mở rộng cơ sở hiện hữu, tăng thêm số lượng xưởng dạy nghề cho người

khuyết tật và trẻ mồ côi.

50

- Cấp đất cho Hội Nạn nhân chất độc Da cam/Dioxin thành phố tại Huyện Hóc

Môn xây dựng cơ sở điều trị, dạy nghề cho nạn nhân chất độc Da cam/Dioxin thành

phố.

- Dạy văn hóa, dạy nghề miễn phí cho người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ

Dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật thành phố (thuộc Sở Lao động –

Thương binh và Xã hội) và Trường Dạy nghề cho người khuyết tật và trẻ mồ côi

thành phố (thuộc Hội bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi thành phố).

Đối với hệ thống pháp luật liên quan đến người khuyết tật: Từng bước hoàn

thiện trên các lĩnh vực: giáo dục và đào tạo; chăm sóc sức khỏe; lao động và dạy

nghề; an sinh xã hội; hoạt động thể dục thể thao và văn hóa; giao thông; thành lập tổ

chức “tự lực” của người tàn tật và những hiệp hội phụ huynh và gia đình của người

tàn tật; thông tin và truyền thông. Đặc biệt Luật người khuyết tật số 51/2010/QH12

được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7

thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010 và có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2011.

Luật Người khuyết tật đã được ban hành vào năm 2010, là cơ sở pháp lý

vững chắc để người khuyết tật vươn lên ổn định cuộc sống. Luật đã quy định chi tiết

về quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật; trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và

xã hội đối với người khuyết tật…

Cùng với Luật Người khuyết tật là các Nghị định của Chính phủ về thực hiện

các chính sách ưu đãi cho người khuyết tật. So với Nghị định 67 và Nghị định 13

của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội trước khi ban

hành Luật Người khuyết tật, thì Nghị định 28/2012/NĐ-CP của Chính phủ đã mở

rộng đối tượng người khuyết tật được hưởng các chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà

nước, không chỉ những người không có khả năng lao động, người mắc bệnh tâm

thần mãn tính… được hưởng, mà cả người chăm sóc người khuyết tật cũng được

hưởng chính sách; đồng thời nâng mức trợ cấp và được hưởng nhiều chính sách ưu

đãi khác.

Theo đó, người khuyết tật được hưởng chế độ trợ cấp xã hội gồm người

khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật nặng. Việc xác định mức độ khuyết tật

51

dựa vào hội đồng xét duyệt cấp xã, nếu hội đồng xét duyệt cấp xã không làm được

thì sẽ được giám định y khoa.

Theo Nghị định, người khuyết tật nặng được hưởng hỗ trợ hệ số 1,5 - tương

đương mức 270.000 đồng/tháng; nếu là trẻ em hoặc người cao tuổi, hệ số hỗ trợ sẽ

là 2,0. Đối với người khuyết tật đặc biệt nặng, hệ số hỗ trợ là 2,0 - tương đương

360.000 đồng/tháng và hệ số 2,5 đối với người khuyết tật đặc biệt nặng là trẻ em

hoặc người cao tuổi. Ngoài ra, người chăm sóc người khuyết tật cũng được hỗ trợ

kinh phí hàng tháng.

Cùng với sự hỗ trợ về vật chất, người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết

tật nặng được miễn giá vé, giá dịch vụ khi tham gia các phương tiện giao thông và

giảm giá vé khi người khuyết tật sử dụng các dịch vụ văn hóa, thể thao, giải trí và

du lịch. Các đơn vị ở các lĩnh vực giao thông, văn hóa, thể thao, giải trí và du lịch

có trách nhiệm bố trí thiết bị, công cụ và nhân viên để trợ giúp người khuyết tật

tham gia vào các dịch vụ của mình.

Nếu người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình tạo việc làm cho người

khuyết tật sẽ được vay vốn với lãi suất ưu đãi, được hỗ trợ chuyển giao công nghệ,

hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm. Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30%

tổng số lao động là người khuyết tật trở lên sẽ được hỗ trợ kinh phí cải tạo môi

trường làm việc phù hợp với người khuyết tật, được miễn thuế thu nhập doanh

nghiệp theo quy định của pháp luật.

Chăm lo cho người khuyết tật, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu

đãi. Có điều, chính sách ưu đãi chỉ là tiền đề, còn việc thực hiện mục tiêu nâng cao

chất lượng cuộc sống người khuyết tật rất cần sự cộng đồng trách nhiệm của xã hội

và nỗ lực của chính người khuyết tật.

Theo số liệu thống kê của DRD, số lượng cơ sở sản xuất, kinh doanh của

người khuyết tật và số lao động là người khuyết tật tham gia vào các loại hình sản

xuất tại TP.HCM đã tăng lên đáng kể. Từ77 cơ sở với 1.821 lao động (năm 2000)

đến nay đã có hơn 150 cơ sở và khoảng6.000 lao động người khuyết tật. Tại hầu hết

các cơ sở này, cơ sở hạ tầng, việc trang bị các kiến thức về an toàn, vệ sinh lao động

52

còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng này một mặt, là do doanh nghiệp

còn xem nhẹ vấn đề an toàn vệ sinh lao động, chưa chú trọng đến việc mua sắm

trang thiết bị bảo hộ lao động, huấn luyện an toàn vệ sinh lao động và khám sức

khoẻ định kỳ cho lao động là người khuyết tật. Mặt khác do trình độ văn hóa của

người khuyết tật còn thấp nên việc hiểu biết về an toàn vệ sinh lao động rất hạn chế,

mơ hồ, nhiều khi bảo hộ lao động được phát nhưng không sử dụng, việc hướng dẫn

quy tắc an toàn phải lặp lại nhiều lần….

Người khuyết tật đã chịu nhiều thiệt thòi về điều kiện sức khỏe, khiếm

khuyết cơ thể. Việc họ tham gia vào hoạt động học nghề, lao động, sản xuất đóng

góp cho xã hội rất cần được khuyến khích, động viên và phải đảm bảo cho họ được

học nghề, làm nghề một cách thuận lợi, an toàn tuyệt đối. Muốn làm tốt điều này,

cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, cơ quan, đoàn thể trong công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật, công tác tập huấn, công tác thanh, kiểm tra và xử lý vi

phạm về bảo hộ lao động, an toàn vệ sinh lao động đồng thời có hình thức khen

thưởng, khích lệ nhưng đơn vị nhiệt tâm, nhiệt tình trong lĩnh vực này. Có như vậy

mới đem lại sự an toàn cũng như thành công trong sản xuất kinh doanh của các

doanh nghiệp và đem lại hạnh phúc cho lao động là người khuyết tật

Đối với chủ trương giải quyết việc làm cho người khuyết tật:

Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày 05/8/2012 của Thủ tướng Chính phủ về

việc phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020, trong đó có

những quy định về ngành nghề và công tác đào tạo nghề cho người khuyết tật. Việc

hỗ trợ của nhà nước đối với các chính sách dành cho người khuyết tật có vai trò rất

quan trọng, bên cạnh việc ra những quyết định, nhà nước cần đưa ra những chương

trình thực thi hợp lý, và theo dõi tình hình thực thi các chính sách dành cho người

khuyết tật.

Bước phát triển so với Đề án trợ giúp NKT giai đoạn 2006 - 2010, Đề án giai

đoạn này đã đưa ra những nội dung “gần hơn” với nhu cầu của NKT, trong đó có

những nội dung mới, đó là tiếp cận phương tiện giao thông, trợ giúp pháp lý và tập

huấn kỹ năng. Đây là những vấn đề thực tiễn NKT còn gặp nhiều khó khăn, rất cần

53

sự quan tâm tháo gỡ để góp phần mở rộng cánh cửa hòa nhập. Bên cạnh những nội

dung tiếp nối thành quả của Đề án giai đoạn trước, những nội dung mới được đưa

vào Đề án thực sự làm thỏa lòng mong mỏi của NKT và những người hoạt động

trong lĩnh vực trợ giúp NKT.

Tuy nhiên, nhìn vào những con số chỉ tiêu đề ra, dễ dàng nhận thấy Đề án có

nội dung khó và là một thách thức không nhỏ như chỉ tiêu dạy nghề và tạo việc làm

cho 250.000 NKT trong 5 năm đầu và 5 năm sau tăng lên 300.000 người. Bởi thực

tiễn thực hiện Đề án giai đoạn 2006 - 2010 với chỉ tiêu dạy nghề, tạo việc làm cho

80.000 NKT đã không đạt kết quả như mong muốn. Ngoài ra, các chỉ tiêu về giáo

dục, tiếp cận công trình xây dựng, tiếp cận phương tiện giao thông, trợ giúp pháp

lý… cũng là những chỉ tiêu “khó”, bởi NKT còn gặp nhiều rào cản trong các lĩnh

vực này mà để tháo gỡ phải có sự vào cuộc mạnh mẽ, đồng lòng của tất cả các Bộ,

ngành liên quan, các tổ chức và toàn xã hội.

Theo Ông Nguyễn Đình Liêu - Hội Bảo trợ ngƣời tàn tật và trẻ mồ côi

Việt Nam: Chỉ tiêu 250.000 có thể nói là không cao, nhưng để đạt được mức đó thì

có thể nói rất khó bởi do nhiều nguyên nhân. Nếu nói về chỉ tiêu thời gian thì từ

năm 2011-2015 mới đúng 5 năm. Nhưng quyết định 1019 của Thủ tướng chính phủ

ban hành vào cuối năm 2011, vì vậy từ năm 2012-2015 thì chưa bắt tay vào làm kịp,

thứ hai là khi đề án ban hành thì địa phương phải căn cứ đề án của Thủ tướng chính

phủ để đề ra đề án của địa phương trong 5 năm. Vậy trong 5 năm đó phải dành bao

nhiêu kinh phí, khảo sát bao nhiêu đối tượng, tổ chức cái gì, có khi năm 2012 chưa

triển khai được. Bởi vì đến năm 2012 thì ngân sách đã xong năm 2011. Vậy khi

năm 2012 mới bắt đầu xây dựng kế hoạch thì tôi cho rằng chưa triển khai được bao

nhiêu. Như vậy, chúng ta mới chỉ có ba năm thực hiện. Chúng ta tổ chức dạy nghề

để có việc làm, mạng lưới và điều kiện cho NKT cũng chưa được bao nhiêu. Cho

đến 2015 cũng chỉ đạt được khoảng 30%. Vì theo thống kê của Bộ, một năm cũng

trên dưới 10.000 đến 12.000 người được dạy nghề. Nếu như thế tôi cho rằng là

khoảng 60 – 70 ngàn là cố gắng lắm. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến chỉ tiêu

chúng ta đạt cũng khó khăn. Riêng hội chúng tôi, mỗi một năm dạy trung bình trên

54

dưới 7.000 lao động NKT trong hệ thống của Hội. Riêng Hội chúng tôi đề ra, nếu

đảm bảo dạy nghề thì Hội cố gắng phấn đấu trên dưới một ngàn lao động khuyết tật.

Kế hoạch này trong 5 năm tới khả dĩ hơn.

(Nguồn: Báo người lao động)

Mỗi hoạt động có những nội dung cụ thể riêng, trong đó ở hoạt động dạy

nghề, tạo việc làm có điểm mới quan trọng là “Kinh phí dạy nghề cho NKT được bố

trí trong Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề với mức hỗ trợ tối

đa 6 triệu đồng/người/khoá học”. Đây là cơ sở pháp lý tạo điều kiện thuận lợi động

viên khuyến khích NKT học nghề đạt kết quả cao hơn, bởi hiện nay, mức hỗ trợ cho

người không khuyết tật lại áp dụng đối với NKT là không hợp lý. Quy định ở Đề án

về mức hỗ trợ dạy nghề này đã tháo gỡ nhiều khó khăn cho các đơn vị tổ chức dạy

nghề cho NKT, trong đó có Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam.

Đầu tháng 12 năm 2014, Chính phủ đã phê duyệt Công ước quốc tế về hiện

thực hóa quyền lợi của người khuyết tật, có nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp

sử dụng lao động khuyết tật. Điều này mở ra nhiều cơ hội việc làm cho người

khuyết tật. Các chính sách về dạy nghề, giải quyết việc làm cho người khuyết tật tập

trung vào các nội dung sau:

- Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người tàn tật thực hiện bình đẳng

các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để

ổn định cuộc sống, hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội.

- Khuyến khích các doanh nghiệp tiếp nhận và tạo việc làm cho người khuyết

tật; chính sách dạy nghề miễn phí, miễn, giảm học phí và hỗ trợ kinh phí trong quá

trình đào tạo nghề.

- Quy định các ưu đãi đối với cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dành

riêng cho người khuyết tật (được hỗ trợ giúp đỡ cơ sở vật chất ban đầu về đất đai,

nhà xưởng, trang thiết bị và được miễn một số loại thuế, được vay vốn với lãi suất

ưu đãi)

Ngày 05/3/2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành

Quyết định số 1029/QĐ-UBND ban hành Kế hoạch thực hiện Quyết định số

55

1019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc “Phê duyệt Đề án trợ giúp người

khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn

2014 – 2020. Qua đó hỗ trợ người khuyết tật trong nhiều lĩnh vực:

- Cải thiện cơ sở vật chất, phương tiện công cộng hỗ trợ người khuyết tật tham

gia vào cộng đồng. Một số dự án được thông qua và thực hiện như “Bản đồ

tiếp cận cho người khuyết tật”, “Câu lạc bộ người khuyết tật”…

- Giúp người khuyết tật tiếp cận với giao thông

- Tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch

- Hiểu biết luật pháp, luật người khuyết tật

- Giúp người khuyết tật tham gia vào các hoạt động giáo dục, đào tạo, giải trí

Bảng 2.11 Tiếp cận quyền và chính sách liên quan dến NKT

Quyền và chính sách liên quan đến NKT Tỷ lệ (%)

Tự tìm hiểu các quyền vàchính sách về NKT của Nhà nước 15%

Tự tìm hiểu nhưng rất ít các quyền vàchính sách về NKT của Nhà nước 20%

Chỉ khi các trung tâm hoặc cơ sở đào tạo tuyên truyền thì mới biết 40%

Biết, nhờ vào sự hỗ trợ của gia đình 25%

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cuộc khảo sát

Theo kết quả khảo sát cho thấy vai trò của công tác tuyên truyền từ các trung

tâm hay tại cơ sở đào tạo NKT hết sức quan trọng chiếm tỷ lệ 40%.Hiện nay các

hoạt động trên vẫn và đang được thành phố Hồ Chí Minh tiến hành thực hiện, và

đưa ra các biện pháp thực hiện. Tuy nhiên còn nhiều hạn chế về nhân lực và nguồn

ngân sách cho người khuyết tât. Những công tác về cải thiện cơ sở vật chất hạ tầng

mới chỉ lên phương án và thử nghiệm ở một số quận, chưa được đồng bộ hóa và có

các phương án phát triển tối ưu. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực hỗ trợ người khuyết

tật chủ yếu từ các tổ chức tình nguyện như: mạng lưới vì cộng đồng Việt Nam,

thành Đoàn thành phố, người Việt trẻ và một số tổ chức tự phát của sinh viên… Do

đó không hoạt động được thường xuyên, trở ngại nhiều trong quá trình thực thi kế

hoạch.

56

2.3.2 Thực trạng sự kết nối tìm việc làm giữa NKT với các cơ sở tuyển dụng

Tại các sàn giao dịch việc làm, ngày hội nghề nghiệp trên địa bàn TP HCM

luôn thiếu sự góp mặt của lao động khuyết tật. Nguyên nhân là do các doanh

nghiệp doanh nghiệp hầu như không có nhu cầu tuyển dụng đối tượng này hoặc rao

tuyển với số lượng rất ít. Bên cạnh đó số lượng NKT ứng tuyển cũng như doanh

nghiệp rao tuyển lao động khuyết tật tại các sàn giao dịch, hoạt động nghề nghiệp

tại TP là rất ít. Nhiều doanh nghiệp đưa nhu cầu tuyển NKT và trong quá trình thử

việc, do không được giao công việc phù hợp nên nhiều NKT không theo kịp tốc độ

làm việc của đồng nghiệp, dẫn đến bỏ việc giữa chừng. Mặc dù có chương trình hỗ

trợ từ nhà nước, tuy nhiên cho đến nay người khuyết tật và các tổ chức người

khuyết tật hầu như tự vận động, tự tạo việc làm cho bản thân thông qua việc thành

lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Sự trợ giúp theo quy định của pháp luật là có,

tuy nhiên rất hạn chế.

Anh Lê Ðức Hiền – Chủ cơ sở sản xuất và kinh doanh Người Tàn Tật,

Hội Tương trợ Vươn Lên cho biết: Hiện nay Hội Tương trợ Vươn Lên do tôi làm

chủ có hai cơ sở ở Ðồng Nai và TPHCM, chuyên kinh doanh kim khí- điện máy, mỹ

nghệ gỗ, nhựa, tạo việc làm cho 163 người, trong đó có 84 NTT. Tôi tự hào vì

những gì mình làm được cho đến ngày hôm nay. Tôi luôn sống lạc quan, hòa nhập

cộng đồng, biết cái gì làm cái đó, học hỏi mày mò để tạo thêm nghề mà tự lập... Nói

cho cùng, NTT cũng như người bình thường đều muốn làm việc bằng chính sức

mình. Nên, hãy trao cho NTT cái cần câu chứ không chỉ cho con cá. Việc trợ cấp

hàng tháng hay đưa vào trung tâm bảo trợ không chưa đủ, mà phải giúp họ học

nghề, làm việc. Doanh nghiệp chưa quan tâm đến NTT, thậm chí núp bóng NTT để

hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thay đổi nhận thức từ phía doanh nghiệp

là rất quan trọng.

Theo quy định của pháp luật, tỷ lệ người lao động là người khuyết tật trong

các công ty, doanh nghiệp là 2-3% tùy ngành nghề. Tuy nhiên thực tế quy định này

khó áp dụng trong các doanh nghiệp, rất ít doanh nghiệp thực hiện đúng quy định

trên.

57

Bà Lê Thiên Hương, nguyên Thứ trưởng Bộ LÐ-TB-XH, đại diện Văn

phòng Ðiều phối các hoạt động hỗ trợ NTT Việt Nam (NCCD) tại TPHCM, cho

hay mặc dù Nhà nước có chính sách ưu đãi như miễn giảm thuế, cho vay vốn lãi

suất ưu đãi... những năm gần đây, ngoại trừ tỉnh Ninh Bình, gần như chưa có địa

phương nào thực hiện tốt quy định về thu nhận 2% - 3% NTT vào làm việc theo

đúng tinh thần của BLLÐ, Pháp lệnh về NTT. Ngay cả TPHCM có mạng lưới

doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh nhiều nhất nước nhưng số cơ sở nhận

NKT vào làm việc chỉ đếm trên đầu ngón tay. Cũng theo bà Lê Thiên Hương, thay

vào đó, các doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận nộp lệ phí bồi hoàn cho quỹ hỗ trợ

việc làm NKT, nếu không thu nhận NKT. Nhưng điều trớ trêu là những năm qua kể

từ khi Pháp lệnh về NKT, hầu hết các tỉnh, thành, trong đó có TPHCM, chưa có

doanh nghiệp nào nộp phí bồi hoàn. Nguyên nhân: Không có biện pháp chế tài.

(Nguồn: Báo người lao động)

Việc sử dụng tỷ lệ bắt buộc là người khuyết tật gặp khó khăn do các nguyên

nhân:

- Việc quy định một tỷ lệ khác nhau đối với một số ngành nghề cũng chưa

hợp lý. Những ngành: luyện kim, hóa chất, dầu khí, xây dựng cơ bản, vận tải…

không phù hợp với sức khỏe và khả năng của người khuyết tật, lại đòi hỏi trình độ

chuyên mn nhất định. Việc quy định tỷ lệ đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực

này chỉ là hình thức mà không có giá trị thực tiễn.

- Việc áp dụng tỷ lệ này chỉ có ý nghĩa đối với doanh nghiệp có lực lượng

nhân công lớn (từ 50 người trở lên). Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ không

phải thực hiện nghĩa vụ hoặc chỉ phải đóng tiền thay thế, do đó không thể khuyến

khích họ nhận người khuyết tật và làm việc.

- Một doanh nghiệp nhận nhiều lao động là người khuyết tật nhưng không

được trợ giúp từ phía nhà nước.

Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật và chính sách về việc

làm cho người khuyết tật cũng chưa được thực hiện tốt. Hầu hết thể hiện trong văn

58

bản quy phạm pháp luật khác nhau gây rối. Nhận thức bản thân xã hội đối với người

khuyết tật là gánh nặng chứ không phải là một nhận tố quý giá cần khai thác.

Bên cạnh đó, tỷ lệ người khuyết tật được đào tạo bài bản trên cả nước không

cao. Trên toàn quốc mới chỉ có 10 tỉnh thực hiện việc lập Quỹ việc làm cho người

khuyết tật: Bắc Ninh, Bình Dương, Gia lai, Đồng Nai, Thái Nguyên, Quảng Ninh,

Ninh Bình, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Bình Định. Quỹ này sử dụng cho việc đào tạo nghề

và tạo việc làm cho người khuyết tật. Nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ trọng việc

thành lập Quỹ là nguồn lực chủ yếu tạo Quỹ thuộc ngân sách địa phương, hầu hết

các địa phương khó khăn trong việc tạo được quỹ này. Các doanh nghiệp TPHCM

sẵn sàng nhận lao động có trình độ phù hợp vào làm việc cho đơn vị mình, tuy

nhiên do không có ngân quỹ cho đào tạo người khuyết tật nên lao động có trình độ

không đủ để đáp ứng cho nhu cầu của doanh nghiệp. Không tạo được cầu nối giữa

doanh nghiệp và người khuyết tật. Theo kết quả khảo sát bảng 2.12, việc hỗ trợ tìm

việc làm cho người khuyết tật được thực hiện thông qua các trung tâm dịch vụ việc

làm, hiện nay các đơn vị hỗ trợ việc làm tư nhân cũng lớn mạnh. Tuy nhiên thực tế

người khuyết tật rất khó tiếp cận với loại dịch vụ việc làm này, bên cạnh đó những

chương trình giới thiệu việc là cũng không thành công do những công việc không

ổn định và phương pháp thực hiện chưa mang tính hệ thống. Những trung tâm giới

thiệu việc làm không kết hợp với đào tạo nghề cho người khuyết tật. Trong khi

NKT lại có cách tiếp cận việc làm bằng những cách khác nhau như nhờ vào sự quen

biết của gia đình, tự làm kinh doanh nhỏ tại gia đình....

Bảng 2.12 Cách tiếp cận việc làm

Tiếp cận việc làm Tỷ lệ (%)

Tự xin việc làm 15%

Qua trung tâm giới thiệu việc làm 5%

Làm việc tại cơ sở đào tạo 25%

Được nhà trường giới thiệu 20%

Khác 35%

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cuộc khảo sát

59

Cũng theo bảng trên, NKT là việc tại cơ sở đào tạo chiếm 25%, những cơ sở

hay trung tâm bảo trợ vừa đạo tạo nghề và vừa tạo công ăn việc làm cho NKT sau

khi ra trường, loại hình này mới chỉ có ở các trường đào đạo chuyên biệt.Việc làm

chủ yếu của người khuyết tật tập trung ở những ngành nghề:

- Thủ công truyền thống: đan lát mây tre, làm chổi, dệt may, bện thừng, vót

tăm…

- Nghề nông: trồng rau, chăn nuôi gia súc, gia cầm…

- Nhiều nơi người khuyết tật được tập trung thành tổ sản xuất, sản xuất kinh

doanh do người khuyết tật tự thành lập có sự hỗ trợ cho vay vốn của nhà

nước.

- Một phần người khuyết tật nhận việc tại nhà

- Công nghệ thông tin, phần mềm

Từ thực tế này, hầu hết người khuyết tật cảm thấy khó khăn sau khi đã bỏ

nhiều thời gian, công sức cũng như kỳ vọng vào nghề mình đã học, họ có thể lại đối

diện với thực tế không biết làm gì để mưu sinh. Thực tế không phải NKT không

làm được việc mà vì doanh nghiệp không muốn bỏ nhiều công sức, chi phí để

nghiên cứu những công việc phù hợp có thể bố trí lao động là NKT. Họ có thể bỏ

tiền làm từ thiện nhưng không muốn bỏ tiền nghiên cứu 1 vị trí mà NKT có thể đảm

nhận trong quy trình làm việc của đơn vị mình.

Trong khi đó, có những đơn vị nghiên cứu tuyển NKT vào những vị trí hết

sức phù hợp như các doanh nghiệp dịch vụ tư vấn tuyển nhân viên tư vấn qua điện

thoại, chat trực tuyến… Nhiều NKT dạng liệt chi, khiếm thị đã làm rất tốt công việc

này.

2.3.3 Thực trạng đào tạo nghề cho ngƣời khuyết tật

Học nghề là một nhu cầu quan trọng đối với người khuyết tật, bởi nghề

nghiệp là điều kiện quan trọng để họ có thể tiếp cận với việc làm, tạo thu nhập đảm

bảo cuộc sống. Nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy nghề cho người khuyết

tật, chính quyền thành phố đã có nhiều chính sách hỗ trợ họ trong việc giúp họ tiếp

cận với việc học nghề. Một điều kiện thuận lợi là trên địa bàn thành phố có có 164

60

trường đào tạo nghề, 137 trường cao đẳng và trường trung cấp kỹ thuật tham gia

vào hoạt động đào tạo nghề, 148 trung tâm dạy nghề và hơn 150 trung tâm dịch vụ

dạy nghề và việc làm... là điều kiện thuận lợi để người khuyết tật có thể tiếp cận với

việc học nghề. Tuy nhiên, những trường nghề này có những đòi hỏi nhất định về

học vấn, sức khoẻ và tài chính nên không phải người khuyết tật nào cũng có khả

năng theo học những trường đó mặc dù nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ về

học phí và vay ưu đãi cho người khuyết tật.

Báo cáo của Trung tâm nghiên cứu phát triển năng lực người khuyết tật

(DRD) cho biết, tại thời điểm năm 2014 TPHCM có 44.325 người khuyết tật

(NKT), trong đó có 38.041 NKT thường trú và 5.714 NKT tạm trú (diện KT3,

KT4). Trong số này chỉ có khoảng 6.000 người có việc làm chính thức.

Biểu đồ 2.8Biểu đồ thể hiện tỷ lệ người khuyết tật có việc làm

Nguồn: Trung tâm nghiên cứu phát triển năng lực người khuyết tật năm 2014

Cũng theo báo cáo, chỉ gần 6% NKT học hết THPT, hơn 20% có trình độ

THCS. Và có 93,5% NKT không có trình độ chuyên môn và chỉ 6,5% NKT có

chứng chỉ đào tạo nghề. Không có tay nghề cộng với hoạt động xúc tiến việc làm

dành cho NKT còn hạn chế nên cơ hội việc làm đối với NKT ngày càng bó hẹp.

61

Biểu đồ 2. 9 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ người khuyết tật được đào tạo nghề

Nguồn: Trung tâm nghiên cứu phát triển năng lực người khuyết tật năm 2014

Không chỉ thiếu cơ hội ráp nối với doanh nghiệp, lao động khuyết tật còn

chịu nhiều thiệt thòi khi họ chưa thực sự với tới các chính sách việc làm. Hiện nay

có 70% NKT đang trong độ tuổi lao động nhưng chỉ 30% trong số đó có thu nhập

ổn định. Điều này cho thấy NKT vẫn còn nằm ngoài hệ thống việc làm, dễ lâm vào

tình cảnh đói nghèo.

Biểu đồ 2. 10 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ tạo ra thy nhập của người khuyết tật

Nguồn: Trung tâm nghiên cứu phát triển năng lực người khuyết tật năm 2014

Do thiệt thòi về tâm sinh lý, sức khỏe, ngoại hình... nên NKT khó hòa nhập

với thị trường lao động. Khi tuyển lao động khuyết tật, DN phải bỏ công sức và thời

gian dài đào tạo, hướng dẫn nghiệp vụ. Vì vậy, nhiều DN có tâm lý e ngại ứng viên

khuyết tật. Nếu được giao công việc phù hợp với bản thân, NKT có khả năng làm

tốt. Đời sống vật chất, tinh thần của người khuyết tật còn nhiều khó khăn. Tuy

62

nhiên thực tế đa số người khuyết tật có trình độ văn hóa thấp và chưa qua đào tạo

nghề. Một số lĩnh vực công việc như: sản xuất nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ….

Pháp lệnh về người khuyết tật quy định người khuyết tật được học miễn phí tại các

trung tâm đào tạo nghề, và được hưởng một số khoản trợ cấp xã hội.

Theo Pháp lệnh về người khuyết tật thì các trung tâm dịch vụ việc làm của

nhà nước phải miễn phí dịch vụ tư vấn việc làm, giới thiệu việc làm và các dịch vụ

khác cho người khuyết tật. Song rất ít người khuyết tật có thể tiếp xúc với các dịch

vụ này do rào cản sức khỏe, tâm lý, giao tiếp. Trong thực tế nhân viên tư vấn không

có đủ kỹ năng, trình độ để có thể cung cấp dịch vụ cho người khuyết tật.

Theo Sở Lao động & Thương binh xã hội TP.HCM, tính đến tháng 12-2014,

đã dạy nghề cho khoảng hơn 9000 NKT thông qua các chương trình Mục tiêu quốc

gia về dạy nghề và giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Từ

tranh khắc gỗ, may thủ công, thêu tranh, vẽ tranh, làm hoa đất cho tới nghề vi tính

văn phòng, kế toán…Tất cả các chi phí sinh hoạt và học nghề trong thời hạn khóa

học của học viên đều được miễn phí hoàn toàn.

Thông thường, các nghề này đối với người bình thường thì chỉ mất khoảng

2-3 năm nhưng với người khuyết tật, thời gian phải chừng 4-5 năm vì rào cản sức

khỏe. Sau khi học xong nghề, các học viên cũng được Trung tâm giới thiệu đến các

doanh nghiệp, công ty, trung tâm việc làm để làm việc tự kiếm sống. Hầu hết những

sản phẩm của những học viên ở đây đều được tiêu thụ bằng hình thức mua bán, trao

đổi dựa vào những mối quan hệ của Trung tâm với thị trường bên ngoài. Vì thế,

việc tiêu thụ khá khó khăn. Ngoài ra, việc ký gửi những sản phẩm này ở các cửa

hàng khu du lịch hay những nhà sách… cũng không đem lại hiệu quả bởi thực tế,

sản phẩm của người khuyết tật không thể cạnh tranh với sản phẩm của người bình

thường khác khi đưa ra thị trường.

Người khuyết tật là đối tượng nhạy cảm nhất với những biến đổi trong cuộc

sống. Để tạo điều kiện cho những người không may mắc khuyết tật, Đảng và Nhà

nước đã có nhiều chính sách ưu đãi nhằm tạo điều kiện để họ vượt qua mặc cảm,

vươn lên trong cuộc sống.

63

Một số vấn đề trong công tác đào tạo người khuyết tật hiện nay vẫn còn hạn chế:

Cơ sở vật chất:Theo bảng 2.13, cơ sở vật chất hiện nay còn nhiều điều bất

cập và không phù hợp với người khuyết tật, để người khuyết tật có thể có khả năng

hòa nhập nhanh với cộng đồng, cần hỗ trợ những dự án và thực hiện dự án, xây

dựng các công trình phù hợp với đặc điểm di chuyển, giao tiếp của người khuyết tật.

Ở Việt Nam hiện nay cũng có một số dự án hỗ trợ người khuyết tật như: Dự án Bản

đồ tiếp cận, theo đó một loạt các mô hình xây dựng và thực thi được đưa ra, đề xuất

thực hiện. Tuy nhiên quá trình thực hiện còn nhiều hạn chế, do nguồn kinh phí và

nhân lực.

Bảng 2.13 Cơ sở vật chất nơi đào đạo

Cơ sở vật chất Tỷ lệ (%)

Các trang thiết bị dạy và học không phù hợp với người khuyết tật 40%

25% Các trang thiết bị dạy và học phù hợp nhưng thiếu cho người khuyết tật

Các trang thiết bị dạy và học phù hợp với người khuyết tật 10%

10% Các trang thiết bị dạy và học phù hợp và đầy đủ cho người khuyết tật

15% Các dịch vụ hỗ trợ như ăn uống, y tế, thể dục thể thao, giữ xe, website Nhà trường…tốt

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cuộc khảo sát

Đào tạo: Chất lượng đào tạo cho người khuyết tật đóng vai trò rất quan trọng

trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao động là người khuyết tật. Quá trình

đào tạo giúp người khuyết tật tự tin và có trình độ nhất định tham gia vào thị trường

tuyển dụng lao động. Bảng 2.13, cho thấy tình trạng thiếu giáo viên giảng dạy cho

NKT chiếm 45%, đồng thời các giáo trình giảng dạy còn nghèo nàn và đơn giản.

64

Bảng 2.14 Đánh giá về đào đạo

Đào Tạo Tỷ lệ (%)

Chương trình đào tạo được cập nhật đáp ứng thực tiễn 10%

Chương trình giảng dạy nghèo nàn 35%

Thiếu đội ngũ giáo viên 45%

Khác 10%

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cuộc khảo sát

Đơn vị công tác xã hội: Mặc dù đã có rất nhiều chính sách hỗ trợ dành cho

nhóm đối tượng đặc biệt này, nhưng trên thực tế, có một vấn đề NKT đang gặp

phải, điển hình là sự biệt đối xử; hơn nữa, số đông NKT chưa biết hoặc chưa có

điều kiện, khả năng tiếp cận, hiểu biết về những chính sách ưu đãi dành cho họ...,

điều đó đã dẫn đến khả năng hòa nhập và phát triển của NKT bị hạn chế. Do vậy,

rất cần sự giúp đỡ của đội ngũ nhân viên công tác xã hội (CTXH), giúp họ tiếp cận

với các nguồn lực, tư vấn cho họ phát huy khả năng, trình độ để trở nên mạnh mẽ

hơn, tự tin sống độc lập, hòa nhập cộng đồng và tham gia bình đẳng vào các hoạt

động xã hội, có cơ hội được lao động, học tập như những người bình thường. Nói

cách khác, nhân viên CTXH có vai trò và trách nhiệm quan trọng trong việc tạo ra

sự thay đổi tích cực đối với đời sống của NKT, thúc đẩy môi trường xã hội, bao

gồm chính sách, pháp luật, cộng đồng thân thiện để NKT dễ dàng hòa nhập; tư vấn,

giới thiệu những chính sách an sinh xã hội mà NKT được hưởng…Tuy nhiên theo

bảng 2.14thì đa số nhân viên CTXH còn rất ít kinh nghiệm và kiến thức chuyên

môn để hỗ trợ NKT và tình trạng phân biệt đối xử vẫn còn tồn tại.

65

Bảng 2.15 Đánh giá về nhân lực cho công tác xã hội

Nhân lực cho công tác xã hội Tỷ lệ (%)

15% Nhiệt tình hỗ trợ tư vấn

20% Thờ ơ và phân biệt đối xử

10% Tuyên truyền các chính sách và vận động giúp đỡ người khuyết tật

15% Có kiến thức chuyên môn

40% Ít kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cuộc khảo sát

2.3.4 Thực trạng sự cố gắng của NKT nâng cao trình độ, tay nghề và tìm kiếm

việc làm

Như Anh Đức Hiền phát biểu: “Tôi đã nhận ra là NTT không nghèo, mà còn

phát hiện là chúng tôi có nhiều tiềm năng để trở nên rất giàu, bởi chúng ta còn có

quá nhiều nguồn lực đã, đang và sẽ tiếp sức cho chúng ta, từ các cộng sự, từ cộng

đồng, từ chính sách v.v… Mà một nguồn lực mới, cụ thể nhất đó chính là nội lực

bản thân NTT, là những tài sản quý giá nhất.”

Em Huỳnh Hồ Hoàng Yến- Nhân viên của công ty tâm sự: Khi mà bị như vậy

thì mới đầu em cũng buồn lắm, nhưng khi tiếp xúc với những người đồng cảnh với

mình thì cũng cảm thấy bình thường thôi; với lại cũng có nhiều người còn thiếu may

mắn hơn mình. Giờ thì chưa biết sao nhưng em nghĩ cứ sống tốt như chính bản thân

con người hiện tại của mình thôi.

Em Vũ Văn Bình- cũng là Nhân viên của công ty, chia sẻ:Em không muốn

làm gánh nặng cho gia đình và xã hội. Em muốn bản thân em tự lập và hòa nhập

với cộng đồng nên em chọn nghề này.Tuy số tiền kiếm được mỗi tháng không phải

nhiều nhưng em cảm thấy tự tin hơn vào cuộc sống và cảm thấy mình không còn là

gánh nặng của người thân.

Đối với người khuyết tật, việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi nó

không những tạo ra thu nhập để đáp ứng nhu cầu của bản thân và gia đình người

66

khuyết tật mà còn giúp cho người khuyết tật phục hồi chức năng, có cơ hội giao tiếp

xã hội, hòa nhập cộng đồng, đảm bảo quyền công dân của người khuyết tật. Tiềm

ẩn trong mỗi người khuyết tật là một ý chí vươn lên, khát khao được học tập, làm

việc theo khả năng của mình. Vì vậy, việc NKT hiện nay thay vì chờ đợi sự may

mắm đến, luôn nỗ lực không ngừng để cải thiện nâng cao trình độ, tay nghề nhằm

tìm kiếm được một công việc có thể đảm bảo cho bản thân và thể hiện được mình.

Bảng 2.16 Đánh giá về bản thân

Nhân lực cho công tác xã hội Tỷ lệ (%)

Luôn cố gắng hòa nhập vào cuộc sống bình thường 35%

Luôn học hỏi để nâng cao trình độ 40%

Tự ti và ngại giao tiếp 15%

Khác 10%

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cuộc khảo sát

Bảng 2.15 cho thấy NKT luôn học hỏi để nâng cao trình độ và cố gắng để

hòa nhập vào cuộc sống bình thường. Đồng thời, chúng ta, những người tự xưng là

bình thường này! Tại sao lại phải phân biệt như vậy? Tại sao cứ phải "Người

Khuyết Tật" với "Người Bình Thường"? Mọi người có nghĩ rằng sự kỳ thị của mọi

người, chính là lưỡi dao giết chết ý chí vươn lên của người khuyết tật hay không ?

Làm như thế, vô tình chúng ta đã đẩy họ vào hoàn cảnh tự hạ thấp khả năng và giá

trị bản thân họ.Sự phân biệt này là những bức tường vô hình chung đã đưa họ tới

những mặc cảm, tự ti, bi quan trong cuôc sống. Đưa họ vào tình thế là gánh nặng

của gia đình và xã hội.Đó là những rào cản ngăn cách tình yêu thương. Đó là sự ích

kỷ, là vòng lẩn quẩn của phân biệt đối xử. Mỗi người chúng ta nên biết, người

khuyết tật cần lắm những vòng tay, sự quan tâm chia sẻ, để thắp sáng lên niềm tin

yêu cuộc sống, chứ không phải là mong cầu "sự thương hại". Mỗi người chúng ta

cần phải gỡ bỏ những rào cản này. Có như vậy thì tình thương yêu giữa con người

với nhau mới được kết chặt. Khi đó, nơi nơi sẽ đầy ấp những nụ cười, hoa yêu

thương, lòng nhân ái, niềm tin yêu,... và hạnh phúc.

67

Cuộc sống không phải bao giờ cũng như mong muốn bởi xung quanh chúng

ta vẫn còn đó không ít những mảnh đời bất hạnh - và họ là những người khuyết tật.

Thế nhưng cũng chính trong cuộc sống này vẫn còn có một điều quan trọng mà từ

lâu hình như chúng ta đã dần quên lãng, đó là sự đồng cảm và ghi nhận nghị lực

vươn lên của người khác; và chỉ cần chúng ta để ý một chút, biết lắng nghe một

chút, thậm chí đôi lúc đặt mình vào vị trí, hoàn cảnh của người khác thì sẽ có được

những đồng cảm, sẻ chia.

Như cây xương rồng trên cát, dù trong điều kiện sống khắc nghiệt nhất vẫn

mạnh mẽ vươn lên và nở hoa, những người khuyết tật đã và đang từng ngày vượt

lên bóng tối, thắp sáng cho cuộc sống bằng chính nghị lực của mình. Họ đã và đang

vượt lên bệnh tật, vượt lên cảnh ngộ khó khăn để tạo lập hạnh phúc, họ đã biến

những điều không thể thành có thể, biến tuyệt vọng thành hy vọng để làm cho cuộc

sống này mỗi ngày thêm tươi đẹp hơn .

2.4 Đánh giá chung

2.4.1 Ƣu điểm

Đến nay hệ thống văn bản pháp luật về người khuyết tật tương đối đầy đủ và

cơ bản đã thể chế hoá được các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối

với người khuyết tật; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để các cơ quan, tổ chức, gia

đình và cá nhân tham gia tích cực vào việc chăm lo, trợ giúp người khuyết tật và tạo

điều kiện, môi trường thuận lợi để người khuyết tiếp khắc phục khó khăn hoà nhập

cộng đồng xã hội. So sánh với Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật và

pháp luật của một số nước cho thấy các quy định pháp luật về người khuyết tật của

Việt Nam về cơ bản đã có sự tương đồng. Cũng phải thừa nhận rằng, so với trước

đây, nhận thức của xã hội, cộng đồng về người khuyết tật đã có rất nhiều chuyển

biến, người ta không còn gọi những người khuyết tật bằng những từ ngữ miệt thị.

Nhưng để có được sự chuyển biến thực sự, nhìn nhận đúng khả năng của người

khuyết tật, phát huy và sử dụng những thế mạnh của họ còn cần một quá trình. Bởi

thay đổi nhận thức phải có thời gian, sự quan tâm không chỉ của Nhà nước mà còn

các cấp, ngành, của cả cộng đồng.

68

Theo quy định của Nhà nước, một cơ sở được công nhận là cơ sở dạy nghề

cho người khuyết tật ngoài những điều kiện của cơ sở dạy nghề nói chung, còn phải

đảm bảo có cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề, giáo trình, phương pháp và thời gian

dạy nghề phù hợp với người khuyết tật. Giáo viên có chuyên môn, nghiệp vụ, kĩ

năng giảng dạy cho người khuyết tật. Các công trình xây dựng phục vụ cho người

khuyết tật học nghề phải đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định của Bộ Xây dựng…Với

các chính sách trên, trong những năm gần đây, số lượng cơ sở dạy nghề (đặc biệt là

cơ sở dạy nghề dành cho người khuyết tật) đã tăng lên đáng kể. Công tác dạy nghề

cho người khuyết tật đã từng bước được xã hội hoá với sự tham gia ngày càng nhiều

của khu vực tư nhân . Đối với người khuyết tật, để khuyến khích và hỗ trợ cho

người khuyết tật học nghề, Nhà nước đã có các chính sách để người khuyết tật được

tư vấn học nghề miễn phí, lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực bình đẳng

như những người khác (Điều 32 Luật Người khuyết tật). Người khuyết tật tham gia

học nghề được miễn phí, được hỗ trợ tiền ăn, được tạo điều kiện sắp xếp việc làm

phù hợp,... Có thể nói chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong lĩnh vực dạy nghề cho

người khuyết tật đã tạo điều kiện cho người khuyết tật được tiếp cận với cơ hội học

nghề và tìm kiếm việc làm.

Những năm gần đây, Trung tâm bảo trợ - Dạy nghề và đào tạo việc làm cho

người tàn tật TPHCM, tổ chức ngày hội việc làm ưu tiên cho người khuyết tật. Qua

các hoạt động đó, Hội mong muốn để người khuyết tật tự thể hiện những khả năng

của mình, thể hiện cho cộng đồng thấy rằng những thành quả mà họ đã làm được

không phải người bình thường nào cũng làm được. Thông qua đó để cộng đồng thay

đổi cách nhìn nhận đối với người khuyết tật. Chính những việc làm của người

khuyết tật đã mang một thông điệp không chỉ đến với những người đồng cảnh về sự

tự tin, nỗ lực, phấn đấu vươn lên hòa nhập cộng đồng, mà còn như một lời kêu gọi

đối với cả xã hội hãy nhìn nhận họ một cách bình đẳng.

Chính sách chế độ hỗ trợ người khuyết tật ban hành trong 10 năm qua đã tạo

khung pháp lý về chăm sóc người khuyết tật, xác định rõ trách nhiệm của các cơ

quan chức năng từ Trung ương đến cơ sở cũng như tạo môi trường thuận lợi cho

69

người khuyết tật tiếp cận học nghề, việc làm và các dịch vụ xã hội cơ bản. Nhờ vậy,

những năm qua đời sống vật chất, tinh thần và vị thế của người khuyết tật trong xã

hội được cải thiện một bước. Tuy nhiên quá trình thực hiện cho thấy hệ thống các

văn bản chưa thật sự đồng bộ, tính khả thi của một số chính sách chưa cao, công tác

tuyên truyền, kiểm tra giám sát thực hiện chưa thường xuyên, nguồn lực về tài

chính và nhân lực cũng chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn.

2.4.2 Những khuyết điểmvà tồn tại

Hiện nay các hoạt động hỗ trợ cho người khuyết tật ngày càng được đẩy

mạnh, theo đó giúp người khuyết tật dễ dàng tiếp cận với hoạt động trợ giúp hơn

trước đây. Bên cạnh những kết quả đạt được cũng có những vướng mắc cần tháo

gỡ.

* Về luật pháp và chính sách liên quan đến người khuyết tật

Trước đây, khái niệm về người khuyết tật được nhìn nhận ở góc độ y tế là

chủ yếu. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, có thể thấy rằng cần phải đặt vấn đề

của họ vào góc độ xã hội. Đây là vấn đề người khuyết tật rất quan tâm. Những năm

qua, người khuyết tật đã được sự quan tâm của Nhà nước, được trợ giúp và tạo điều

kiện, tuy nhiên việc đánh giá khả năng thực tế của họ lâu nay chưa được quan tâm.

Điều này thể hiện sự chưa công bằng với người khuyết tật trong xã hội. Tuy khuyết

tật, nhưng họ vẫn có năng lực như người bình thường, nhưng tại sao họ vẫn chưa

thâm nhập được vào xã hội. Chính sách về việc làm ban hành còn tản mạn ở nhiều

văn bản gây chồng chéo. Các quy định của chính sách việc làm mang tính quy phạm

chưa cao, chính sách chủ yếu hướng vào hỗ trợ, khuyến khích chưa rõ trách nhiệm

của các đối tượng điều chỉnh của chính sách. Một số chính sách hỗ trợ việc làm

chưa được hướng dẫn cụ thể như: chính sách miễn giảm thuế để khuyến khích các

doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị và cá nhân tạo việc làm cho nhiều người lao động

khuyết tật.

Để tạo được việc làm và khuyến khích người khuyết tật làm việc rất cần các

chính sách xã hội, pháp luật của Nhà nước dành riêng cho vấn đề này. Trong Luật

Lao động, có nhiều điều khoản ưu tiên cho lao động khuyết tật như bố trí công việc

70

phù hợp dựa trên tính chất, thể trạng, khả năng lao động; tỷ lệ lao động là người

khuyết tật mà doanh nghiệp phải tuyển dụng. Tuy nhiên, cơ hội việc làm cho người

khuyết tật khá hiếm hoi. Nguyên nhân là do chưa có chế tài, cơ chế giám sát thỏa

đáng nhằm bảo vệ quyền lợi của lao động khuyết tật nên nhiều doanh nghiệp chưa

quan tâm đến đối tượng này. Mặt khác, do cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp tuyển

dụng chưa đảm bảo để người lao động khuyết tật làm việc một cách thuận tiện nên

giữa nhà tuyển dụng và người khuyết tật vẫn chưa có được tiếng nói chung, cơ hội

việc làm cho người khuyết tật vẫn là một rào cản. Một nguyên nhân khác là chính

sách hỗ trợ cho các cơ sở có nhiều người lao động khuyết tật chưa thoả đáng. Theo

quy định: sau 6 tháng kể từ ngày bắt đầu hoạt động, cơ sở sản xuất kinh doanh dành

riêng cho người tàn tật được hưởng các chính sách như được vay vốn từ ngân hàng

chính sách xã hội để duy trì, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm và thu

hút thêm người tàn tật vào làm việc... Tuy nhiên, khi cần vốn để phát triển vì nhiều

lý do khách quan, các cơ sở này khó tiếp cận được nguồn vốn. Trong khi tuyển

dụng người khuyết tật vào làm việc tại doanh nghiệp, phía doanh nghiệp cũng đã

phải tính đến các chi phí riêng để tạo điều kiện cho người khuyết tật làm việc thuận

tiện và được thụ hưởng chính sách như những lao động khác. Vì thế việc tuyển

dụng lao động là người khuyết tật vào làm việc vẫn chủ yếu bắt đầu từ tình thương

của nhà tuyển dụng, chưa thực sự là nhu cầu thực của doanh nghiệp.

* Về công tác đào tạo

Theo quy định của Nhà nước, một cơ sở được công nhận là cơ sở dạy nghề

cho người khuyết tật ngoài những điều kiện của cơ sở dạy nghề nói chung, còn phải

đảm bảo có cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề, giáo trình, phương pháp và thời gian

dạy nghề phù hợp với người khuyết tật. Giáo viên có chuyên môn, nghiệp vụ, kĩ

năng giảng dạy cho người khuyết tật. Các công trình xây dựng phục vụ cho người

khuyết tật học nghề phải đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định của Bộ Xây

dựng…Thực tế, rất ít cơ sở dạy nghề muốn dạy nghề cho người khuyết tật vì sẽ phải

đầu tư nhiều hơn về cơ sở vật chất cũng như những khó khăn trong quá trình dạy và

tiếp thu do tình trạng khuyết tật, trình độ văn hóa, nhận thức còn hạn chế của học

71

viên. Người khuyết tật được coi là đối tượng đặc thù, dạy nghề cho người khuyết tật

cũng đòi hỏi phải có những phương pháp dạy nghề phù hợp. Để thực hiện mục tiêu

dạy nghề cho người khuyết tật, Nhà nước đã có chính sách đào tạo bồi dưỡng về

chuyên môn, kĩ năng, phương pháp đối với giáo viên dạy nghề cho người khuyết

tật. Giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật ngoài các quyền lợi chung còn được

hưởng phụ cấp đặc thù cho việc giảng dạy người khuyết tật. Đối với giáo viên

chuyên trách dạy nghề trong các cơ sở, các lớp dạy nghề dành riêng cho người

khuyết tật, giáo viên chuyên trách dạy nghề ở các lớp hoà nhập cho người khuyết tật

được hưởng phụ cấp đặc thù, phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt

khung (nếu có).Việc dạy nghề cho người khuyết tật rất vất vả và khó khăn nên

chính sách ưu đãi này sẽ không chỉ bù đắp được những công sức của giáo viên dạy

nghề cho người khuyết tật mà còn khuyến khích các giáo viên khác tham gia vào

công việc này. Tuy nhiên, thực tế cho thấy số lượng giáo viên dạy nghề cho người

khuyết tật còn thiếu rất nhiều so với nhu cầu đào tạo. Các cơ sở dạy nghề cho người

khuyết tật đều thiếu vốn, cơ sở vật chất nghèo nàn, trang thiết bị dạy nghề chưa

đúng quy cách. Bên cạnh đó, giáo viên dạy nghề đa phần đều chưa qua đào tạo

chính quy. Điều này đã gây khó khăn không nhỏ cho các cơ sở dạy nghề dành cho

người khuyết tật cũng như những thiệt thòi cho người khuyết tật. Dù sự quan tâm

của Nhà nước đã được thể hiện qua nhiều chính sách ưu đãi, nhưng thực tế việc dạy

nghề đối với người khuyết tật vẫn còn nhiều vướng mắc. Giữa quy định của pháp

luật và thực tế thực hiện vẫn còn khoảng cách quá xa, số người khuyết tật được học

nghề còn quá ít. Điều này ảnh hưởng đến cơ hội việc làm của người khuyết

tật. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do nhận thức của các cấp chính quyền,

của xã hội về dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật còn chưa đầy đủ, hệ

thống dạy nghề vừa yếu vừa thiếu, chưa đáp ứng công tác dạy nghề cho từng loại

đối tượng khuyết tật. Chương trình cũng như hình thức đào tạo nghề cho người

khuyết tật còn chưa hợp lí. Các ngành nghề đào tạo chưa phù hợp với thị trường lao

động, chủ yếu mới là đào tạo ngắn hạn ở trình độ thấp.Bên cạnh đó, một trong

những khó khăn của việc đào tạo nghề đối với người khuyết tật đó là trình độ của

72

người khuyết tật thấp, điều kiện kinh tế lại quá khó khăn nên không thể tham gia

đào tạo nghề.

* Về tính liên kết giữa các tổ chức, các tổ chức tuyển dụng và người khuyết tật

Hoạt động của người khuyết tật tại TP.HCM còn rất yếu và chưa hình thành

được phong trào. Nhận thức chính trị của người khuyết tật nhìn chung còn thấp.

Không có nhiều người khuyết tật hiểu rõ về quyền hạn và trách nhiệm của mình,

hoặc dường như không nhận thức được họ là một phần lực lượng chính trị có tiềm

năng, hoặc rằng các tổ chức của người khuyết tật có thể đóng góp vào quá trình phát

triển của xã hội. Ngay cả những người khuyết tật có trình độ học vấn cao cũng ít

hiểu biết về các khái niệm trong Công Ước. Các tổ chức của người khuyết tật còn

non yếu, thiếu chiến lược, phương pháp điều hành,kế hoạch tài chính và quản lý, kỹ

năng tư vấn kém hiệu quả, và không có được sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức.

Nhiều tổ chức thiếu kỹ năng lãnh đạo và khuyến khích sự tham gia hiệu quả của

thành viên. Do đó, rất ít tổ chức mở rộng được hoạt động và tham gia vận động và

biện hộ cho người khuyết tật. Nếu các tổ chức này muốn đại diện của người khuyết

tật để tham gia vào việc thực hiện tốt các chính sách về người khuyết tật của nhà

nước, và trước hết họ phải trở thành tổ chức hoạt động hiệu quả. Họ cũng rất cần

được trang bị các kỹ năng phối hợp hoạt động, giao tiếp, và liên kết để tạo được

những chuyển biến tích cực đối với người khuyết tật. Bên cạnh đó nhà tuyển dụng

cũng không tìm được thông tin ứng tuyển của những ứng cử viên khuyết tật.

Mặc khác không thể không nhắc đến nhân lực cho để thực hiện cầu nối giữa

doanh nghiệp và NKT. Nghề công tác xã hội đang phát triển nhanh chóng trong

những năm gần đây ởViệt Nam. Giá trị và chuyên môn công tác xã hội đã được

khẳng định tại các nước phát triển. Những lĩnh vực nhân viên xã hội tham gia làm

việc khá rộng và hầu hết trong khuvực dịch vụ xã hội. Tuy nhiên tại Việt Nam nói

chung và TP.HCM nói riêng, những dữ liệu và quan sát thực tế cho thấy nhân viên

xã hội thực hiện việc cung cấp các dịch vụ xã hội cho người khuyết tật cònnhiều

hạn chế. Ví dụ, trong hơn 20 cơ sở giáo dục trẻ khuyết tật (tư nhân) trên địa bàn

TP.HCM chỉ có 3 cơ sở nhận nhân viên xã hội nhưng họ không được làm những

73

việc phù hợp với chuyên môn mà phải làm những việc như phụ giúp giáo dục trẻ

hoặc dạy trẻ (nhưng hưởng lương thâp hơn giáo viên giáo dục đặc biệt cùng vị trí và

thâm niên làm việc). Sinh viên ngành công tác xã hội sau khi ra trường cũng khó

xin việc hơn tại các cơ sở nhà nước và tư nhân, những nơi đang trực tiếp cung cấp

các dịch vụ xã hội trong đó có những dịch vụ dành cho người khuyết tật. Nhiều cơ

sở cung cấp dịch vụ xã hội không thể tuyển nhân viên xã hội vì bản than họ thiếu

kiến thức và kỹ năng làm việc với người khuyết tật. Ví dụ như vị trí tư vấn chogia

đình trẻ khuyết tật, vị trí này tuy không khó vì nhân viên xã hội đã được học những

kỹ năng tư vấn/tham vấn. Nhưng trên thực tế, nhân viên xã hội muốn làm được vị

trí nàythì cần có những hiểu biết sâu về các dạng khuyết tật và cách thức can thiệp

chủ yếu, một việc dường như quá sức đối với những sinh viên mới ra trường. Một

trường hợp khác làviệc ứng tuyển vào vị trí cán bộ dự án làm việc với người khuyết

tật. Bản thân nhân viên xã hội có thể cạnh tranh nhiều nhất trong dịch vụ này, tuy

nhiên bản thân họ cũng không đáp ứng được những điều kiện dự tuyển: (1) tiếng

Anh, (2) khả năng tổ chức triển khaicác hoạt động của dự án và (3) giao tiếp với đối

tác địa phương. Điều này cho thấy sự thiếu hụt trong đào tạo và thực tiễn làm việc

của nhân viên xã hội còn nhiều vấn đề màcho đến thời điểm này chưa thể giải quyết

triệt để được.

Thị trường lao động người khuyết tật đóng góp một phần vô cùng quan trọng

đến nhu cầu việc làm của người lao động khuyết tật hiện nay. Tuy nhiên hiện nay

chưa có một mô hình kết nối rõ ràng giữa NKT và các tổ chức tuyển dụng người

khuyết tật cụ thể, chủ yếu thông qua các hiệp hội, tổ chức người khuyết tật.

Nhiều người khuyết tật chưa thực sự hiểu biết được quyền và các chính sách

hỗ trợ tạo việc làm cho người khuyết tật. Hoặc biết nhưng chưa thể tiếp cận với dịch

vụ này do hoạt động truyền thông chưa sâu rộng, phương pháp truyền thông chưa

có hiệu quả đối với các dạng tật khác nhau nên thông tin không đến đông đảo người

khuyết tật. Đối với những người bị các dạng tật phức tạp, và cũng do quanh năm

người khuyết tật tiếp xúc với môi trường hạn hẹp, giao tiếp tối thiểu nên khó tiếp

cận, phổ biến thông tin việc làm và đào tạo việc làm cho nười khuyết tật.

74

Hiện nay, vấn đề tiếp cận công trình công cộng đối với người khuyết tật vẫn

còn rất nhiều khó khăn. Chưa nói đến các địa phương, mà ở ngay ở Tp.HCM, điều

kiện tiếp cận của người khuyết tật còn thiếu và cực kỳ khó khăn. Không phủ nhận

có những nơi làm rất tốt như xe buýt đã thực hiện cải tạo lối lên xuống thuận tiện

cho hành khách là người khuyết tật sử dụng... Tuy nhiên, phát huy hiệu quả sử dụng

thì còn rất hạn chế. Vì không phải là hệ thống tự động hoàn toàn nên cần cung cấp

thông tin và tập huấn cho các nhân viên bán vé tại các xe, bến xe biết về các chính

sách ưu tiên cho người khuyết tật khi tham gia giao thông. Ngoài ra, cũng cần có sự

chia sẻ của người hướng dẫn bán vé cho người khuyết tật khi tham gia giao thông.

Hiện có nhiều cán bộ, nhân viên hướng dẫn và bán vé xe hay tàu xe vẫn chưa nắm

được cụ thể các chính sách ưu tiên cho người khuyết tật. Các nước trên thế giới đã

có nhiều chính sách về đào tạo lái xe cho người khuyết tật, bãi đậu xe cho người

khuyết tật khi tham gia giao thông, trong khi đó Việt Nam nói chung và TP.HCM

vấn đề này chưa được quan tâm.

Đội ngũ hỗ trợ công tác đào tạo cho người khuyết tật còn hạn chế về số

lượng và chất lượng, nguồn nhân lực có trình độ trong công tác đào tạo người

khuyết tật đa số là tình nguyện và có mức hỗ trợ kinh tế chưa cao. Do đó, việc giữ

họ lại trung thành với nghề khá khó khăn

* Về sự cố gắng và năng lực của người khuyết tật

Vươn lên hoà nhập cộng đồng là ước ao, mong mỏi của tất cả người khuyết

tật. Việc khiếm khuyết đi một phần về thể chất không làm mất đi giá trị cũng như

năng lực của người khuyết tật nhưng do những rào cản vô hình như sự phận biệt đối

xử từ cộng đồng cũng như bản thân sự mặc cảm của nhiều người khuyết tật, việc

hoà nhập cộng đồng của nhiều người khuyết tật gặp khó khăn.

Khó khăn đầu tiên mà người khuyết tật gặp phải là sự cảm thông của xã hội

về tình trạng khuyết tật của họ. Nhiều trẻ em khuyết tật không thể đi học cũng do

gia đình, cha mẹ các em và chính bản thân các em sợ sẽ bị bạn bè trêu chọc. Nhiều

người khuyết tật không dám đến các nơi công cộng vì sợ bị nhiều ánh mắt để ý

khiến họ cảm thấy tự ti. Ngay tại các doanh nghiệp, người khuyết tật tưởng như

75

được nhiều ưu đãi nhưng thực chất họ lại gặp nhiều khó khăn không mong đợi như

cơ sở vật chất, thời gian làm, công việc làm..., Nhiều người khuyết tật sau khi ra

trường không thể tìm cho mình một công việc phù hợp do nhiều nhà tuyển dụng ái

ngại về khả năng lao động của người khuyết tật.

Khó khăn về việc tiếp cận dành cho người khuyết tật, bao gồm tiếp cận thông

tin về các chính sách, tiếp cận giao thông và tiếp cận cơ sở vật chất. Người khuyết

tật muốn tham gia vào các hoạt động của xã hội nhưng họ lại không thể tiếp cận

giao thông. Người khiếm thị không thể tiếp cận trường lớp vì thiếu giáo trình (phần

mềm đọc chữ, chữ nổi ..) và chưa có phương pháp giảng dạy phù hợp.

Ngoài ra, khó khăn nằm trong chính nội lực của người khuyết tật khi nhiều

người khuyết tật còn chưa thực sự cố gắng để vượt qua khiếm khuyết, hoà nhập

cộng đồng và khẳng định bản thân.

76

Tổng kết chƣơng 2

Chương 2 giới thiệu một cách khái quát về tình hình kinh tế, xã hội của thành

phố Hồ Chí Minh. Đi sâu vào phân tích thị trường lao động và việc làm ở TP. Hồ

Chí Minh, và một số yếu tố tác động đến công tác tìm kiếm việc làm cho người

khuyết tật.

Yếu tố nguồn cầu lao động từ thị trường, nhu cầu tuyển dụng lao động khuyết

tật của nhà tuyển dụng còn không nhiều. Người khuyết tật chưa thực sự tìm được

công việc phù hợp với bản thân, chủ yếu thông qua trung tâm hoặc tự kinh doanh tại

gia.

65% người khuyết tật chưa được qua đào tạo, kinh doanh tại gia và làm những

công việc đơn giản, chưa khai thác được khả năng của người khuyết tật. Bên cạnh

đó những người khuyết tật được đào tại những trung tâm đào tạo nghề đã được

thành lập và nhân rộng trên thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên chất lượng đào tạo

vẫn chưa kiểm soát được, ngành nghề đào tạo còn bó hẹp trong một số lĩnh vực thủ

công. Do đó trình độ người khuyết tật được đào tạo không cao, ảnh hưởng đển công

tác tìm việc làm của người khuyết tật.

Nội dung chương phản ánh thực chất về thị trường việc làm và tình hình việc

làm cho người lao động là người khuyết tật hiện nay. Qua đó làm cơ sở để đề ra

những giải pháp giải quyết ở chương tiếp theo.

77

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƢỜI

KHUYẾT TẬT TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1 Hƣớng phát triển kinh tế xã hội và hoạt động giải quyết việc làm cho ngƣời

khuyết tật trong thời gian tới tại TP. Hồ Chí Minh

3.1.1 Tổng quát phƣơng hƣớng phát triển chung

Thành phố Hồ Chí Minh sẽ tập trung phát triển những ngành, lĩnh vực có lợi

thế, hướng đến nâng cao chất lượng tăng trưởng và kinh tế tri thức; cơ cấu kinh tế

chuyển dịch mạnh sang khu vực dịch vụ, theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông

nghiệp. Trong đó:

- Về dịch vụ, Thành phố tập trung phát triển chín nhóm ngành dịch vụ tài

chính - ngân hàng - tín dụng - bảo hiểm, thương mại, vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng,

bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin-truyền thông, kinh doanh tài sản-bất

động sản…

- Về công nghiệp, thành phố tập trung vào những ngành có hàm lượng giá trị

gia tăng cao; phát triển bốn nhóm ngành cơ khí, điện tử - công nghệ thông tin,

lương thực thực phẩm, hóa dược - cao su, ngoài ra thành phố cũng sẽ chú trọng vào

các ngành công nghiệp sinh học, công nghiệp sạch, tiết kiệm năng lượng, tiếp tục

phát triển các khu công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ…

Theo quyết định 252/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch phát

triển kinh tế xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020, định hướng

đến năm 2030, đến năm 2020, Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế tổng

hợp đa chức năng với hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đồng bộ ngang tầm

với các quốc gia trong khu vực.

Đến năm 2030, Thành phố là trung tâm kinh tế tổng hợp đa chức năng với hệ

thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại đồng bộ, có hệ thống các cơ sở văn hóa giáo

dục-đào tạo, khoa học công nghệ, y tế và thể dục thể thao ở trình độ cao so với khu

vực và cả nước. Mục tiêu này cũng được đặt ra trong Quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 2631/QĐ-TTg. Theo đó:

78

- Tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2016-2020 sẽ đạt từ 9,5-10%/năm

(so với giai đoạn 2011-2015 là từ 10-10,5%/năm), và giai đoạn 2021-2025 đạt từ

8,5-9%/năm.

- GDP bình quân đầu người đến năm 2015 đạt từ 4.856-4.967 USD, năm 2020

đạt từ 8.430-8.822 USD và đến năm 2025 đạt từ 13.340-14.285 USD. GDP bình

quân thời kỳ 2011-2020 cao hơn 1,5 lần mức tăng trưởng bình quân của cả nước.

- Quy mô dân số TPHCM đến năm 2015 đạt 8,2 triệu người; đến năm 2020 đạt

9,2 triệu người và đến năm 2025 đạt 10 triệu người (không kể khách vãng lai và

người tạm trú dưới 6 tháng)

Về phương hướng phát triển không gian đô thị

Thành phố sẽ tập trung phát triển theo mô hình tập trung - đa cực, khu vực

trung tâm là khu vực nội thành với bán kính 15 km và 4 cực (hai hướng chính và hai

hướng phụ) phát triển

Cụ thể, sẽ phát triển Thành phố theo hướng đa tâm với trung tâm tổng hợp

tại khu vực nội thành cũ và các trung tâm cấp Thành phố tại 4 hướng phát triển với

hai hướng chính là Đông và Nam, hai hướng phụ là Tây - Bắc và Tây, Tây- Nam.

Trong đó hướng chính phía Đông (quận 2, 9 và Thủ Đức) có hành lang phát triển là

tuyến cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, và dọc tuyến xa lộ

Hà Nội phát triển các khu đô thị mới có mật độ xây dựng cao, đồng bộ về hạ tầng

xã hội và kỹ thuật đô thị.

Về cơ cấu kinh tế

Thành phố sẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ- công nghiệp-

nông nghiệp. Theo đó, đến 2025, các khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng 58-60%, khu

vực công nghiệp - xây dựng chiếm 39-41% và nông nghiệp chiếm 0,61-0,66%.

Xây dựng 15 đô thị vệ tinh

Theo Quy hoạch, dự kiến sẽ có 15 đô thị vệ tinh được phát triển từ nay đến

năm 2030 để tạo sự liên kết cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (gồm các địa

phương: TPHCM, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng

Tàu, Long An, Tiền Giang).

79

Các đô thị vệ tinh sắp được xây dựng gồm: Nhơn Trạch, Long Thành, Tam

Phước, Hiệp Phước, Củ Chi, Đức Hòa, Trảng Bom, An Lạc, Nhà Bè, Cần Giờ, Dĩ

An-Thuận An, Tân An, Gò Công, Bến Lức, Cần Giuộc.

Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam sẽ hình thành theo hướng đa trung tâm nhằm tạo

động lực để phát triển các vùng xung quanh, giảm áp lực cho khu vực trung tâm

TPHCM.

Ngoài 15 đô thị vệ tinh, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020 sẽ

hoàn thành khoảng 580 km đường bộ cao tốc, nâng cấp 80% đường giao thông

nông thôn, hoàn thành việc nâng cấp, cải tạo tuyến đường sắt Bắc- Nam và khu đầu

mối TPHCM, xây dựng đường sắt kết nối với các cảng biển, khu kinh tế lớn.

Các trục cao tốc qua vùng kinh tế trọng điểm phía Nam sẽ bao gồm TPHCM-Long

Thành -Dầu Giây; TPHCM - Thủ Dầu Một - Chơn Thành; TPHCM - Trung Lương

(mở rộng); Biên Hòa - Vũng Tàu; Bến Lức- Nhơn Trạch- Long Thành.

Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội TPHCM đến năm 2020, tầm

nhìn đến năm 2025 có ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ đối với TPHCM mà

còn đối với cả vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và của cả nước. Việc cụ thể hóa

những mục tiêu, nhiệm vụ và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội sẽ góp phần tập

trung nguồn lực, qua đó thực hiện thành công các mục tiêu trọng điểm.

3.1.2 Phƣơng hƣớng phát triển thị trƣờng việc làm cho ngƣời lao động khuyết

tật

Thực tiễn trên đây đặt ra yêu cầu phải tăng cường hơn nữa công tác trợ giúp

người khuyết tật cho giai đoạn 2012-2020. Công tác trợ giúp người khuyết tật cần

tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau đây:

Về mục tiêu: Tăng cường khả năng tiếp cận các chính sách và các dịch vụ

cho người khuyết tật thông qua việc đánh giá lại các quy định và luật pháp liên

quan, đồng thời tăng cường khả năng thực hiện và thực thi Luật tại Việt Nam; góp

phần giúp người khuyết tật thoát nghèo, hòa nhập cộng đồng, xã hội.

Một số mục tiêu cụ thể:

80

- 90% gia đình, cộng đồng xã hội và người khuyết tật được nâng cao nhận

thức và thay đổi hành vi về trợ giúp người khuyết tật.

- 100% người khuyết tật đặc biệt nặng và nặng được hưởng chính sách trợ

giúp xã hội

- 100% người khuyết tật được cấp giấy xác nhận khuyết tật

- 15.000 người khuyết tật được phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng và

cung cấp dụng cụ trợ giúp; 100% cơ sở y tế tuyến trung ương; 70% cơ sở y tế tuyến

tỉnh và 70% cơ sở y tế tuyến huyện có đủ năng lực thực hiện các dịch vụ phát hiện

sớm các khiếm khuyết ở trẻ sơ sinh; 90% số tỉnh, thành phố, 70% số huyện/quận,

60% số xã/phương trong cả nước triển khai công tác phục hồi chức năng dựa vào

cộng đồng.

- 45.000 người khuyết tật được dạy nghề và tạo việc làm dưới các hình thức.

- 90% trẻ em khuyết tật được tiếp cận giáo dục dưới mọi hình thức; Mỗi

tỉnh/thành phố có ít nhất 01 trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập cấp tỉnh

(hoặc cấp huyện)

- 100% sinh viên các trường đại học, cao đẳng sư phạm được đào tạo về nội

dung giáo dục khuyết tật

- 90% giáo viên trong các cơ sở giáo dục khuyết tật và giáo dục hòa nhập được

bồi dưỡng, nâng cao trình độ về giáo dục khuyết tật.

- 80% phụ nữ khuyết tật được học tập, nâng cao các kiến thức, kỹ năng cần

thiết và được học nghề, vay vốn, tạo việc làm phù hợp, cải thiện đời sống, hòa nhập

cộng đồng.

- 100% các công trình trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước các xã, phường,

thị trấn và tương đương; công trình văn hóa, thể dục, thể theo; trung tâm thương

mại; khách sạn, nhà nghỉ

- 100% nhà ga, bến xe, bến tàu tại các tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước;

đường, hè phố, các tiện nghi đường phố tại khu vực trung tâm các tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương

- 40% người khuyết tật được tiếp cận với Internet và các dịch vụ liên quan.

81

- 100% tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập được tổ chức tự lực

của người khuyết tật.

- 70% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng và đưa vào hoạt động

có hiệu quả hệ thống cung cấp dịch vụ trợ giúp người khuyết tật.

- 80% đội ngũ cán bộ, nhân viên thuộc các cơ quan tổ chức hoạt động trong

lĩnh vực trợ giúp người khuyết tật được đào tạo nâng cao năng lực, kiến thức cơ bản

về xây dựng và kỹ năng thực hiện các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật.

Mục tiêu đề ra năm 2012, đến nay đã được gần nửa chặng đường thực hiện,

tuy nhiên kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó cần có những giải pháp cụ

thể, sát với thực tiễn và kiểm tra định kỳ việc thực hiện.

3.2 Một số giải pháp giải quyết việc làm cho ngƣời khuyết tật tại TP.HCM

3.2.1 Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật quy định về quyền và nghĩa

vụ hợp pháp của ngƣời khuyết tật

Cần sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của

người khuyết tật để tương thích với công ước của người khuyết tật, như bình đẳng

và không phân biệt đối xử, khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục và an sinh

xã hội. Trong thời gian qua Luật Người Khuyết Tật ngày càng được cải thiện và có

những bước đi tiền trạm, mở đầu cho những hướng đi mới, bền vững trong công

cuộc giải quyết những khó khăn trong cuộc sống, tạo công ăn việc làm cho người

khuyết tật.

Nhà nước đã và đang triển khai chương trình hỗ trợ đào tạo và tìm kiếm việc

làm cho người khuyết tật. Nhưng luật lao động và chính sách cho người khuyết tật

cần được sửa đổi và bổ sung một cách hợp lý và thấu đáo như:

Phạm vi điều chỉnh của luật người khuyết tật

Ngày càng nhiều quốc gia quy định chống phân biệt đối xử vì lý do khuyết

tật, đặc biệt trong lĩnh vực việc làm, thông qua luật pháp chung điều chỉnh toàn bộ

các nhóm đối tượng trong toàn dân, hoặc thông qua luật pháp điều chỉnh các vấn đề

có liên quan đến người khuyết tật. Luật người khuyết tật của Việt Nam (năm 2010)

có khoản 2 và 3 điều 2 định nghĩa rất rõ “Kỳ thị người khuyết tật là thái độ khinh

82

thường hoặc thiếu tôn trọng người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó. Phân

biệt đối xử người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có

thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người

đó”. Luật người khuyết tật cũng nhấn mạnh đến việc thông tin, tuyên truyền, giáo

dục để “chống kỳ thị phân biệt đối xử người khuyết tật” [điều 13]. Đặc biệt khoản 1

điều 14 có ghi rõ “kỳ thị phân biệt đối xử người khuyết tật” là một hành vi bị

nghiêm cấm. Tuy nhiên, Luật người khuyết tật không nói rõ việc nghiêm cấm các

hành vi kỳ thị và phân biệt đối xử trong nhà trường, trong việc làm, mà chỉ tập trung

vào việc “tạo điều kiện, giúp đỡ, và đảm bảo” cho người khuyết tật.Thực tế này

phản ánh mọi người ngày càng nhận thức được rằng tình trạng khuyết tật thường

được coi là nguyên nhân khiến họ bị tách tách biệt khỏi cuộc sống và bị từ chối có

hội làm việc bình đẳng, dù đây là những lý do không chính đáng trong nhiều hoàn

cảnh nhất định. Mục tiêu của luật pháp nói trên là chống lại sự kỳ thị và từ chối cơ

hội bình đẳng dành cho những người có đặc thù khác biệt so với người khác.Với

mục tiêu bảo vệ NKT, luật pháp phải mở rộng phạm vi điều chỉnh để ngăn cấm

những hành vi phân biệt đối xử và trừng phạt người vi phạm các quy định này.

Ngoài ra, Nhà nước phải có quy định về việc tổ chức dịch vụ việc làm cho

lao động là NKT, với mục tiêu tư vấn, hướng nghiệp, giới thiệu việc làm và kết nối

cung - cầu lao động, đồng thời có sự tham gia của các thành phần kinh tế, các tổ

chức, cá nhân… trong việc cung cấp các dịch vụ việc làm là cần thiết. Luật cần quy

định điều kiện cụ thể để cấp phép đối với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm

và nghiên cứu để cho phép doanh nghiệp này tham gia thực hiện một số chính sách

bảo hiểm thất nghiệp như dạy nghề, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng

nghề cho người lao động, cũng như tham gia thực hiện một số chương trình, dự án

về việc làm để vừa quản lý chặt chẽ, vừa khuyến khích sự tham gia nhiều hơn của

các doanh nghiệp này.

Môi trường làm việc phù hợp

Điều chỉnh môi trường làm việc phù hợp là một biện pháp mang tính áp dụng

theo nhu cầu của từng cá nhân và không nhất thiết chỉ mang tính tạm thời – trên

83

thực tế, những điều chỉnh này có thể áp dụng cho cá nhân đó trong suốt giai đoạn

được tuyển dụng. Cần phân biệt biện pháp này với biện pháp việc làm ưu đãi nhằm

tạo lợi thế cho những nhóm người nhất định. Không nên nhầm lẫn giữa nghĩa vụ

thực hiện sự điều chỉnh môi trường làm việc phù hợp với nghĩa vụ tuân thủ các quy

định về tạo tiếp cận, về vệ sinh và an toàn lao động.

Đôi khi tình trạng khuyết tật có thể gây ảnh hưởng đến năng lực làm việc của

một cá nhân theo cách thức thông thường hoặc theo thói quen của từng cá nhân. Các

văn bản luật về chống phân biệt đối xử phải nêu ra chi tiết các quy định bắt buộc tạo

điều kiện thuận lợi hoặc hợp lý cho NKT, hoặc nêu quyền được tạo điều kiên thuận

lợi hoặc hợp lý cho NKT. Luật pháp về chống phân biệt đối xử phải ngày càng có

những yêu cầu gắt gao về người sử dụng lao động và các đối tượng khác phải nổ lực

quan tâm đến nhu cầu của người lao động và các ứng viên xin việc làm là NKT.

Trách nhiệm này được gọi là môi trường làm việc phù hợp. Ví dụ như một chiếc

ghế văn phòng có thể điều chỉnh được (dành cho người khuyết tật ở lưng), giờ làm

việc linh động (cho người trong tình trạng y tế đòi hỏi phải nghỉ giữa giờ), một bàn

phím máy tính với hệ thống chữa nổi Braille (cho người mù) hoặc cử một người

chịu trách nhiệm hướng dẫn công việc ( cho một người lao động về trí tuệ). Việc tạo

một môi trường như vậy để hỗ trợ NKT đang gặp khó khăn trong khi tham gia vào

thị trường lao động.

Chính sách phạt định mức

Theo chính sách hiện nay buộc các doanh nghiệp phải tuyển dụng NKT hoặc

nộp một khoản tiền vào một quỹ theo quy định. Nhưng trong những năm qua chính

sách này đã bộc lộ một điểm đáng chú ý về xu hướng hiện nay là nhiều doanh

nghiệp thà chịu nộp tiền chứ không tuyển dụng NKT. Mục tiêu của chính sách phạt

định mức là làm sao cho NKT đến được với việc làm nhiều hơn. Theo chính sách

phạt định mức, một tỉ lệ định mức được ban hành và mọi doanh nghiệp không thực

hiện đầy đủ nghĩa vụ sẽ phải nộp phạt. Nếu quy định về nộp phạt cho trường hợp

không hoàn thành định mức là chưa đủ. Cần có cả quy định về các biện pháp thu

84

tiền phạt. Ngoài ra có thêm quy định các doanh nghiệp còn phải bị phạt vì lý do nộp

phạt định mức muộn.

Cơ chế phạt được đánh giá là hiệu quả vì nó có khả năng tăng nguồn thu và

tiền được chuyển vào mục đích hỗ trợ việc làm cho NKT, cũng như đóng góp của

chính sách này vào thúc đẩy việc làm nói chung. Nếu người sử dụng lao động chỉ

muốn nộp phạt hơn là tuyền dụng người lao động khuyết tật, thì cách thức thực hiện

và tính hiệu quả của chính sách cần phải được xem lại. Vì thế phải có phương án

khác ngoài tuyển dụng và nộp phạt. Có thể tính đến việc cung cấp các khóa đào tạo

tại chỗ, học nghề, xây dựng kế hoạch tuyển dụng và đào tạo lao động khuyết tật và

thực hiện những điều chỉnh cần thiết tại nơi làm việc cho phù hợp với NKT.

3.2.2 Các biện pháp hỗ trợ việc làm

Các biện pháp hỗ trợ việc làm có thể được áp dụng cho doanh nghiệp hoặc

cho NKT, hoặc cho cả hai.

Cung cấp thiết bị chuyên dụng

Trong một số trường hợp một NKT cần được trang bị những thiết bị chuyên

dụng để có thể tiến hành công việc hoặc tham gia tập huấn như:

Một người mù cần có một máy tính có phần chữ nổi Braille thì mới sử dụng

được máy tính này hoặc có một người bị khiếm thính có thể cần những thiết bị hỗ

trợ nghe để có thể làm việc trong các công ty gia công sản phẩm. Đôi khi thiết bị

này có thể chế tạo hoặc chỉnh sửa tại chỗ và không tốn kém nhiều và việc tạo ra

những thiết bị này không gặp trở ngại gì lớn. Tuy nhiên trong một số trường hợp,

việc chi phí cho thiết bị là một việc khó khăn đối cả người lao động và doanh

nghiệp. trong những trường hợp như vậy, các cơ quan nhà nước cần đóng một vai

trò quan trọng giúp họ có được những thiết bị đó, có thể thông qua cho vay hoặc

cho hẳn. Thiết bị này có thể được cấp cho NKT hoặc doanh nghiệp. nếu là cấp cho

NKT, người đó có thể đem theo mình thiết bị này khi thay đổi công việc.Cơ quan

nhà nước có thể thu thập các thông tin liên quan đến những thiết bị chuyên dụng

vào một đầu mối. Cũng có thể tạo đầu mối mua sắm những thiết bị như vậy để tạo

85

điều kiện tiết kiệm và có thể nhận được những ưu đãi do việc mua với số lượng

lướn đem lại mà nếu mua nhỏ sẽ không được hưởng.

Các cơ sở dịch vụ việc làm phải định kỳ tổ chức cho các cá nhân tham gia

chương trình Chuẩn bị cho công việc, tùy theo điều kiện của từng cá nhân nhằm

giúp NKT kiếm việc làm. Chương trình này đáp ứng những nhu cầu liên quan đến

việc làm có tính đến tình trạng khuyết tật của cá nhân và không để cho họ vào việc

hoặc tham gia đào tạo cho những loại việc chỉ phù hợp với những người không có

tình trạng khuyết tật như họ. Hoặc có thể tổ chức một chương trình khác mang tên

Tiếp cận chương trình việc làm, được xây dựng nhằm tư vấn về những vấn đề cụ

thể giúp NKT vượt qua những trở ngại trong công việc mà NKT thường gặp phải.

Chương trình này cũng cấp kinh phí giúp trang trải những phụ phí công việc, thiết

bị để làm việc...., còn có cả một cán bộ thông tin giúp họ trong việc phỏng vấn xin

việc.

Cung cấp thiết bị cho sinh hoạt hàng ngày

Nhiếu người khuyết tật cần có những thiết bị đặc biệt để có thể tự độc lập

đến một mức độ nào đó trong cuộc sống hàng ngày và để tăng khả năng hoạt động.

Ví dụ như xe lăn, dụng cụ trợ thính…Nếu không có những thiết bị này, NKT sẽ rất

khó có thể tụ lo liệu mọi thứ cho mình và rất khó có thể tìm được và duy trì việc

làm. Với những lý do nêu trên việc cung cấp những thiết bị cơ bản này rất cần thiết

cho mọi sự hoạt động trong lĩnh vực cuộc sống có thể đóng vai trò sống còn trong

việc tạo khả năng cho NKT có việc làm. Trên cơ sở những dụng cụ này không phải

chỉ phục vụ việc làm mà còn cho cả hoạt động trong lĩnh vực khác, việc trông chờ

vào doanh nghiệp cấp là không chính đáng. Như vậy cần có sự hợp tác của cơ quan

nhà nước.

Cung cấp phương tiện đi lại

Hiện trên địa bàn TP.HCM, ngoài được ưu tiên xe buýt thì NKT (trừ người

đi xe lăn) vẫn phải gặp khó khăn với vấn đề giao thông. Trong khi đó nhiều không

đủ khả năng có xe riêng hoặc đi taxi. Có nhiều biện pháp có thể áp dụng để khuyến

khích đi lại an toàn và phù hợp cho NKT để đi và về từ công sở:

86

- Người khuyết tật có thể được hỗ trợ về tài chính để có thể tự lo lấy phương

tiện đi lại cho mình. Số tiền này có thể dùng để bù vào cho việc mua hoặc cải tiến

xe máy hoặc để trả tiền cho người chở họ đến công sở.

- Có thể xây dựng những hệ thống vận tải riêng và đặc thù cho NKT đi làm.

Những hệ thống này bao gồm xe buýt cỡ nhỏ được cải tiến để người đi xe lăn tiếp

cận được, hoặc cung cấp xe đưa rước nhân viên đặc thù phù hợp với NKT.

Trợ giúp tài chính

- Cho người khuyết tật:

 Khi nhận việc, NKT có thể sẽ không còn được hưởng những chính sách bảo

trợ xã hội nữa mà những chính sách này đối với họ là nguồn thu nhập đảm bảo và

đều đặn. Như vậy quyết định nhận việc là một việc khó khăn vì có việc đồng nghĩ

với việc chấp nhận một tương lai không ổn định. Vì thế hệ thống chính sách

không được tạo trở ngại khi NKT có việc làm, có nghĩa là vẫn cho phép NKT

được hưởng chính sách bảo trợ một khi vì một lý do nào đó họ không duy trì được

công việc. Quyền này có thể được bảo lưu trong một thời hạn nhất định, có thể là

trong vòng một năm. Hoặc có thể dùng chính sách bắt cầu, tức là NKT được

quyền tạo thu nhập đến một mức độ nào đó đồng thời vẫn được hưởng đầy đủ

chính sách trợ cấp. Khi mức thu nhập cao hơn mức quy định thì chế độ bảo trợ

được hưởng cũng được giảm theo tỉ lệ phù hợp và sẽ thôi hưởng khi thu nhập vượt

qua mức trần quy định.

 Nhiều người khuyết tật chỉ có thể tìm được việc có thu nhập thấp. Dưới góc

độ tài chính thì tình trạng của họ không khá gì hơn khi ngồi nhà và nhận trợ cấp.

Một chế độ khuyết khích vật chất để bù vào phần thu nhập thấp có thể góp phần

khuyến khích những người này nhận công việc dù đó là những việc làm có thu

nhập thấp.

 Một lý do nữa là những người bắt đầu đi làm một công việc mới thường

phải trang trải những chi phí nhất định. Những chi phí này thường dùng vào việc

như mua sắm quần áo mới, thiết bị chuyên dụng hoặc chi phí đào tạo hoặc đi lại.

Có thể dành cho NKT không đủ điều kiện kinh tế một khoản chi một lần để trang

87

trải những chi phí nói trên và tránh việc những chi phí như vậy có thể ngăn cản họ

nhận việc làm.

- Cho doanh nghiệp:

 Hỗ trợ tài chính, các cơ quan nhà nước có thể cấp kinh phí hỗ trợ cho các

doanh nghiệp dưới hình thức khoản tiền trợ cấp hoặc khuyến khích về thuế để

trang trải cho khoản phát sinh thêm liên quan việc tuyển dụng NKT. Nhằm mục

đích tránh khả năng những chi phí gây nản cho doanh nghiệp hoặc để họ lấy đó

làm lý do không tuyển dụng NKT, cơ quan chức năng có thể giúp chi trả toàn bộ

hoặc một phần chi phí đó.

 Thưởng tiền nhằm khuyến khích tuyển dụng, các doanh nghiệp nhận được

một khoản tiền thưởng dưới hình thức tiền trợ cấp, tiền bù lương hoặc ưu đãi thuế,

để khuyến khích họ sử dụng lao động là NKT. Khác với khoản tiền trợ cấp bù nói

trên, giá trị của phần tiền thưởng này không tính cộng vào hoặc có liên quan gì đến

những chi phí phát sinh thêm mà doanh nghiệp phải chịu do tuyển dụng NKT. Tiền

thưởng nhằm mục đích khuyến khích doanh nghiệp nhận NKT và có tác dụng kêu

gọi doanh nghiệp sử dụng lao động là NKT có những khó khăn đặc biệt khi tìm

việc. Trị giá tiền thưởng có thể được định đoạt dựa trên các tính toán về mức độ

khó khăn doanh nghiệp phải gánh chịu khi thu nhận NKT hoặc dựa trên hiệu suất

bị thu hẹp của người lao động đó. Khi áp dụng chính sách tiền thưởng này có thể

yêu cầu doanh nghiệp cam kết giữ lao động trong một thời gian nhất định sau khi

doanh nnghieepj hết được hưởng chế độ thưởng tránh trường hợp doanh nghiệp có

thể cho NKT thôi việc ngày lập tức và lại nhận một lao động có khuyết tật khác để

dược hưởng tiền thưởng.

3.2.3 Giải pháp hoàn thiện quy trình truyền thông hai chiều từ các đơn vị tìm

kiếm việc làm đến với những ngƣời khuyết tật

Các chiến dịch truyền thông thường đóng một vai trò quan trọng trong việc

thực thi pháp luật nhằm khuyến khích tạo việc làm cho NKT và áp dụng những mô

hình tốt. Ví dụ, các chiến dịch này giúp mọi người nhận thức được rằng một môi

trường làm việc đa dạng sẽ góp phần đem lại lợi ích cho doanh nghiệp và hạn chế tư

88

tưởng kỳ thị thường hay bị gán cho những người mang tật nguyền thông qua việc

làm nổi bật khả năng làm việc của NKT cũng với những nhận xét của chủ doanh

nghiệp về những công nhân là NKT rằng họ đã làm việc tốt và trở thành vốn quý

của doanh nghiệp. Trên thục tế, có sự tắc nghẽn hai chiều giữa cung và cầu lao

động khuyết tật là vấn đề nhức nhối đã và vẫn đang tồn tại. Có nhiều cách làm khác

nhau như chiến dịch truyền thông chung qua đài, báo và quảng cáo trên truyền hình,

những chiến dịch nhằm vào một nhóm mục tiêu nào đó với sự tham gia của những

người có liên quan (như doanh nghiệp hoặc chính bản thân NKT). Có thể sử dụng

những phương pháp sau để trợ giúp tiếp cận và sử dụng công nghệ thông tin và

truyền thông:

- Trợ giúp người khuyết tật tiếp cận và sử dụng các phương tiện công nghệ

thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức, phục vụ đời sống văn hóa tinh thần và

công việc hằng ngày;

- Phát triển các công nghệ hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin

và truyền thông;

- Phát triển và tổ chức sản xuất các công cụ tiện ích hỗ trợ người khuyết tật

tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông;

- Duy trì, phát triển, nâng cấp các cổng/trang tin điện tử hỗ trợ người khuyết

tật;

- Đào tạo, hướng nghiệp theo các hình thức đào tạo mới cho người khuyết tật

dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông;

- Vận động, khuyến khích các đơn vị viễn thông phục vụ miễn hoặc giảm phí

cho người khuyết tật.

Đơn vị phối hợp thực hiện:

- Cơ quan báo chí, truyền thông

- Đơn vị viễn thông

- Trang mạng điện tử, báo điện tử

- Các cơ quan chức năng có liên quan

89

Đề hoàn thiện mô hình nâng cao năng lực hoạt động phân tích và dự báo

cung – cầu nhân lực toàn diện 03 góc độ: Ngành đào tạo, ngành kinh tế và việc làm

(gắn với nghề nghiệp) tạo cơ sở khoa học cho việc định hướng đào tạo theo nhu cầu

xã hội, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề và các kỹ năng của nhân lực được đào tạo,

hạn chế mất cân đối, thừa thiếu trong các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế,

thành phần kinh tế. Vì thể phải tăng cường quản lý nhà nước về cung – cầu lao

động, xây dựng kho dữ liệu thị trường lao động thành phố; thực hiện cập nhật cung

– cầu lao động, biến động lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo, tỷ lệ lao động thất

nghiệp theo định kỳ 06 tháng/1lần. Đồng thời xây dựng hệ thống thông tin thị

trường lao động thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam

để hỗ trợ học nghề, tìm việc làm của thanh niên, người lao động phù hợp với yêu

cầu thực tế từng Tỉnh, Thành và Khu vực.

Trợ giúp pháp lý:

- Truyền thông về trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật thông qua các hoạt

động thích hợp;

- Tập huấn bồi dưỡng cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý và các

thành viên Ban chủ nhiệm câu lạc bộ trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật;

- Thực hiện trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật;

- Vận động các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài ủng hộ, trợ giúp

người khuyết tật; đồng thời giúp người khuyết tật hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và phát

huy vai trò trách nhiệm của mình trong việc hòa nhập vào đời sống xã hội.

Bên cạnh đó, một trong những thực trạng đã ăn sâu vào tiềm thức của người

dân, là nhận thức sai lệch về khả năng lao động và làm việc của người khuyết tật,

qua đó có những nhận định không đúng đắn. Điều này dẫn đến sự e ngại của người

tuyển dụng trong quyết định tuyển dụng nhân viên là người khuyết tật.

Việc thay đổi nhận thức là một quá trình lâu dài và cực kỳ quan trọng trong

giải pháp tìm kiếm việc làm cho người lao động. Tác động của yếu tố truyền thông

là động lực, tiền đề và nòng súng thay đổi ý thức của người dân. Để truyền thông

mang hiệu quả tích cực cần tiến hành song song ba khía cạnh truyền thông sau:

90

- Truyền thông theo khu vực

- Truyền thông truyền miệng

- Truyền thông qua báo chí

Thành phố Hồ Chí Minh có lợi thế phương tiện truyền thông đa dạng, thông

điệp dễ dàng truyền đến người dân, tuy nhiên việc thay đổi nhận thức vẫn là một

vấn đề khó khăn, thường trực. Do tư tưởng và định kiến về người khuyết tật có

nhiều sai lệch đã đước biết đến từ lâu, và hình thành một khái niệm khó thay đổi.

Để thay đổi suy nghĩ và tâm lý này cần tác động đến các giác quan: thính

giác, xúc giác, cảm giác, thị giác, khứu giác và vị giác… Trực tiếp cảm nhận hàng

ngày, tiếp xúc hàng này, nghe hàng ngày, nói chuyện hàng ngày mang lại hiệu quả

truyền thông tốt nhất.

Công tác tuyên truyền, giáo dục:

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước về người khuyết tật, làm chuyển biến một

cách cơ bản nhận thức của xã hội, gia đình và bản thân người khuyết tật về

vấn đề khuyết tật và người khuyết tật; đồng thời giúp người khuyết tật hiểu

rõ quyền, nghĩa vụ và phát huy vai trò, trách nhiệm của mình với gia đình và

xã hội;

- Tổ chức tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng; phát

hành các loại ấn phẩm (tờ rơi, áp phích...), tổ chức truyền thông trực tiếp,

thông qua hệ thống văn bản, cuộc họp, hội nghị...về người khuyết tật và các

loại hình dịch vụ đối với khuyết tật; phòng chống phân biệt đối xử đối với

người khuyết tật;

- Tổ chức đào tạo tập huấn nâng cao nhận thức cho cấp lãnh đạo, chính quyền,

hội, đoàn thể, đội ngũ cán bộ xã hội về thái độ, cách ứng xử, làm việc với

người khuyết tật và các phương pháp trợ giúp người khuyết tật;

- Tổ chức các hội nghị, hội thảo giữa các tổ chức, cá nhân và gia đình người

khuyết tật để chia sẻ kinh nghiệm, chăm sóc, hỗ trợ người khuyết tật;

91

- Tổ chức các hoạt động kỷ niệm Ngày người khuyết tật Việt Nam 18/4 và

Ngày Quốc tế người khuyết tật 3/12 hàng năm;

- Tổ chức hội nghị tuyên dương các tập thể, cá nhân, người bảo trợ có thành

tích xuất sắc trong việc trợ giúp người khuyết tật và những người khuyết tật

vượt khó trong học tập, lao động, tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ,

thể dục - thể thao.

3.2.4 Xây dựng mô hình liên kết thông tin và đào tạo lao động khuyết tật có

trình độ

Công tác đào tạo cho người khuyết tật

Thực trạng khao khát được học nghề, được làm việc phù hợp với sức khỏe,

khả năng của bản thân, đang là vấn đề cần giải quyết trước hết. Người khuyết tật

bẩm sinh cần được học tập và đào tạo ngay từ nhỏ, phối hợp với truyền thông không

phân biệt đối xử và hòa đồng với NKT cần được tiến hành song song, nhằm đảm

bảo môi trường mà NKT phát huy được sở trường ngay từ nhỏ. Cần: Đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ giáo viên dạy nghề và tư vấn viên hướng nghiệp, việc làm đáp ứng

nhu cầu của người khuyết tật; Nghiên cứu xây dựng và nhân rộng mô hình dạy, học

nghề gắn với tạo việc làm phù hợp cho người khuyết tật; Xây dựng chương trình,

giáo trình, trang thiết bị dạy nghề phù hợp với người khuyết tật;

- Đẩy mạnh hoạt động dạy nghề và tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết

tật có cơ hội tiếp cận việc làm nhằm đảm bảo cuộc sống và hòa nhập cộng đồng; tư

vấn học nghề, việc làm theo khả năng của người khuyết tật; kinh phí dạy nghề cho

người khuyết tật được bố trí trong Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và

dạy nghề với mức hỗ trợ tối đa 6 triệu đồng/người/khóa học;

- Đầu tư thiết bị dạy nghề, đào tạo, tập huấn kỹ năng tìm việc làm, khởi sự

doanh nghiệp, quản lý tài chính, đồng thời bồi dưỡng kỹ năng cho người khuyết tật;

- Tổ chức các chương trình “Tọa đàm giữa doanh nghiệp với người lao động

khuyết tật”; chương trình “Đồng hành cùng người khuyết tật”; “Hội chợ việc làm

cho người khuyết tật” và sàn giao dịch việc làm cho người khuyết tật định kỳ hàng

năm;

92

- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân thành lập cơ sở dạy nghề cho người

khuyết tật và thực hiện các chính sách ưu đãi hỗ trợ theo quy định của Luật Người

khuyết tật và các văn bản hướng dẫn.

Mô hình đào tạo và tìm việc thông qua kênh thông tin lao động cho người khuyết

tật

Đặc điểm mô hình:

Mô hình nhấn mạnh vào vấn đề đào tạo lao động có tay nghề, theo đó doanh

nghiệp là người đào tạo, cũng là người sử dụng lao động. Bên cạnh đó, mô hình là

nơi giao thoa giữa cung và cầu lao động, kết hợp lao động khuyết tật được đào tạo

qua các cơ sở nghề và các doanh nghiệp có nhu cầu. Đồng thời có thể phát huy

đúng khả năng và sở trường của người lao động khuyết tật.

Sơ đồ mô hình:

Thị trƣờng lao động

Kênh trung gian Doanh nghiệp Ngƣời khuyết tật

Cung lao động từ các nguồn Có nhu cầu sử dụng lao động

Sơ đồ 3. 1 Mô hình tìm kiếm việc làm cho người lao động ở TP. Hồ Chí Minh

Mô tả:

Một kênh kết nối giữa người lao động khuyết tật và doanh nghiệp được thành lập.

Kênh trung gian này do Hiệp, hội của Người khuyết tật đảm nhận. Đặc điểm của

kênh:

- Là trung gian cung và cầu lao động khuyết tật

- Nắm số liệu lao động khuyết tật, khả năng lao động trong các lĩnh vực liên

quan, có nhu cầu lao động và mức thu nhập kỳ vọng

- Truyền thông thông tin đến doanh nghiệp về sự tồn tại của kênh, truyền

thông về khả năng lao động của người khuyết tật, tạo động lực để doanh

93

nghiệp đầu tư đào tạo người khuyết tật.

Giải pháp thực hiện và đánh giá mô hình:

Để mô hình tồn tại và đi đúng hướng, ngay ban đầu cần có sự kết hợp từ

nhiều phía: Cơ quan chức năng, cơ sở đào tạo lao động, đơn vị truyền thông và

người lao động khuyết tật. Một số công việc cần thực hiện:

- Thành lập kênh: Kênh thông tin tuyển dụng riêng dành cho người khuyết

tật trước nay chưa từng có một đơn vị chính thức nào. Có những đơn vị, và những

chương trình kết nối doanh nghiệp và người lao động khuyết tật, nhưng đa số là

trong phạm vi hẹp và trong một khoảng thời gian ngắn. Do đó hiệu quả chưa thực

sự cao, nhất là việc chỉ kết nối được người lao động mà không gắn kết được. Vì thế

cần có website việc làm cho NKT trên địa bàn TP.HCM.

- Lên phương án truyền thông: Như đã đề cập ở trên, truyền thông là kênh

thông tin quyền lực thứ tư, là tiếng nói tác động mạnh mẽ lên phản ứng của xã hội.

Hiệu quả truyền thông tốt sẽ gây hiệu ứng mạnh mẽ. Đó là lý do truyền thông xã hội

cần được chú ý, ưu tiên. Nhất là công tác báo đài, cơ quan thông tấn…

- Tiến hành lập cơ sở dữ liệu người khuyết tật: Cơ sở dữ liệu người khuyết

tật không được cập nhật liên tục, chỉ được biết thông qua các cuộc tổng điều tra dân

số. Do đó số lượng người khuyết tật, tình trạng khuyết tật không được cập nhật

chính xác, gây sai lệch về thông tin. Cần xây dựng cơ sở dữ liệu người khuyết tật,

đó là vấn đề tất yếu khi muốn xây dựng kệ thống cung cấp và tạo việc làm cho

người khuyết tật. Xây dựng cơ sở dữ liệu là thách thức rất lớn, tuy nhiên cần phải

thực hiện, vì thông qua cơ sở dữ liệu về người khuyết tật, có thể tìm kiếm được các

thông tin cần thiết:

o Thông tin số người khuyết tật trong độ tuổi lao động

o Số người khuyết tật có việc làm, thu nhập hiện tại

o Những người khuyết tật mới, trẻ em khuyết tật để có những biện pháp giúp đỡ,

đào tạo phù hợp

- Lập cơ sở dữ liệu doanh nghiệp: Cơ sở dữ liệu doanh nghiệp được quản lý

bởi Sở Kế Hoạch Đầu Tư thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên cơ sở dữ liệu doanh

94

nghiệp đề cập chỉ bao gồm những doanh nghiệp: có nhu cầu tuyển dụng người lao

động khuyết tật và những doanh nghiệp tiềm năng nằm trong các lĩnh vực tiềm

năng. Cần xây dựng chương trình truyền thông để các doanh nghiệp biết tới sự tồn

tại của kênh thông tin thị trường này.

- Tuyển dụng nhân sự cần thiết: Vấn đề nhân sự là vấn đề cấp thiết, nhân sự

đòi hỏi không chỉ trình độ mà tâm huyết. Đề ra những tiêu chuẩn chung trong quá

trình tuyển dụng, để nhân sự gắn bó lâu dài. Cần xác định quá trình triển khai kênh

là một định hướng phát triển lâu dài và bền vững.

Đánh giá thường xuyên tiến độ thực hiện theo tuần, tháng và kỳ trong năm.

Quá trình đánh giá thường xuyên sẽ định hướng quá trình thực hiện triển khai kênh

đi đúng hướng. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động nguồn lực cho hoạt động

trợ giúp tìm kiếm việc làm và trong công tác đào tạo nghề cho người khuyết tật.

Ngoài ra, thông qua mô hình này, với sự hỗ trợ kết nối từ Hiệp, hội người

khuyết tật được doanh nghiệp trước tiên nhận vào để dạy nghề và được nhận hỗ trợ

đào tạo, ăn, ở… từ nguồn mà Hội đã được Nhà nước giao cho. Sau khi hoàn thành

khóa học, NKT có nghề sẽ được chính doanh nghiệp đó sử dụng làm công nhân sản

xuất và được trả thù lao, tiền công, bồi dưỡng.

Ưu điểm: Vấn đề công ăn việc làm của người lao động được giải quyết, vấn

đề thiếu hụt lao động của một số doanh nghiệp cũng không còn.

Hạn chế: Để thực hiện yêu cầu trên đòi hỏi doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí

đào tạo ban đầu, do đó đây là một nhiệm vụ khá nặng nề đối với các doanh

nghiệp.Thêm vào đó sau thời gian đào tạo quyết định công việc phụ thuộc vào

doanh nghiệp đánh giá khả năng của người lao động ra sao, và người lao động có

tiếp nhập công việc hay không. Rủi ro vẫn có thể xảy ra, trường hợp cung và cầu

lao động gặp nhau nhưng không phù hợp. Vì vậy quá trình gạn lọc lao động và kết

hợp với nhu cầu tuyển dụng lao động của doanh nghiệp ban đầu cần kỹ càng, cẩn

thận. Điều đó lại phát sinh thêm vấn đề nhu cầu nhân lực có trách nhiệm và khả

năng nhân sự trong kênh.

95

3.2.5 Các giải pháp khác

Hoàn thiện cơ sở vật chất hạ tầng

Xây dựng các dự án với mục tiêu: Xây dựng mô hình các phương tiện giao

thông vận tải, phương tiện công cộng, vị trí lắp đặt, vị trí sử dụng, thiết kế phù hợp

cho người khuyết tật sử dụng. Giúp người khuyết tật có thể tiếp cận độc lập, hòa

nhập với xã hội nhanh chóng.

Một số công tác hoàn thiện cơ sở hạ tầng cầng thiết, trợ giúp tiếp cận và sử

dụng các công trình xây dựng:

- Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định, quy chuẩn kỹ

thuật quốc gia về xây dựng công trình đảm bảo người khuyết tật tiếp cận sử dụng

trong thiết kế mới hoặc cải tạo các công trình công cộng theo quy định;

- Đào tạo, tập huấn kỹ năng thiết kế các công trình tiếp cận cho các kiến trúc

sư, kỹ sư xây dựng và các đối tượng hành nghề hoạt động trong lĩnh vực xây dựng;

- Xây dựng một số mô hình thí điểm về tiếp cận, sử dụng các công trình xây

dựng để phổ biến nhân rộng. Cụ thể: Năm 2014 tại Cơ quan Sở Lao động - Thương

binh Xã hội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và 02 phường thuộc Quận 1 và Quận

3 đảm bảo có đường cho người khuyết tật sử dung xe lăn, bố trí phòng ở tầng trệt

khi người khuyết tật đến liên hệ và có phòng vệ sinh cho người khuyết tật;Năm

2014 trở đi nhân rộng thực hiện tại các cơ quan Sở, ngành, quận, huyện có đường

cho người khuyết tật sử dung xe lăn, bố trí phòng ở tầng trệt khi người khuyết tật

đến liên hệ và có phòng vệ sinh cho người khuyết tật.

Trợ giúp người khuyết tật trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch:

Các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật tham gia các lĩnh vực văn hóa, thể

thao và du lịch còn nhiều hạn chế. Đòi hỏi đề ra các giải pháp cụ thể có thể thực thi.

Một số mục tiêu và hoạt động trong văn hóa, thể thao, du lịch như sau:

- Hỗ trợ và tạo điều kiện cho người khuyết tật tham gia các hoạt động văn hóa,

văn nghệ thể thao và vui chơi, giải trí nhằm nâng cao sức khỏe về thể chất và tinh

thần;

96

- Tạo điều kiện cho người khuyết tật có nhu cầu tham gia luyện tập thể dục,

thể thao tại Trung tâm Văn hóa - Thể thao quận, huyện và các khu thể thao phường,

xã;

- Đầu tư cải tạo, sửa chữa các công trình văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí

công cộng chưa có lối dành riêng cho người khuyết tật;

- Tổ chức các hội thao, hội diễn văn nghệ cho người khuyết tật tại Thành phố,

hỗ trợ và tạo điều kiện cho người khuyết tật tham gia các hội thao, hội diễn văn

nghệ toàn quốc và quốc tế;

- Phát triển các môn thể thao dành cho người khuyết tật tập luyện, thi đấu;

- Hướng dẫn việc miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ văn hóa, thể thao, giải trí và

du lịch cho người khuyết tật trên địa bàn Thành phố; đặc biệt miễn phí các dịch vụ

vui chơi, giải trí có thu phí cho người khuyết tật nhân các ngày Người khuyết tật

Việt Nam 18/4 và ngày Quốc tế người khuyết tật 3/12;

- Tăng số lượng đầu sách chữ nổi tại thư viện Khoa học tổng hợp Thành phố

phục vụ cho người khiếm thị;

- Tạo điều kiện và hỗ trợ cho người khuyết tật tiếp cận du lịch;

- Hướng dẫn các khách sạn, bảo tàng, điểm du lịch, vui chơi, giải trí... có

khách nước ngoài thường xuyên đến thăm, viếng, tùy theo điều kiện của đơn vị hỗ

trợ gian hàng miễn phí để giới thiệu và bán sản phẩm của người khuyết tật.

Trợ giúp phụ nữ khuyết tật:

- Hội Phụ nữ các cấp có kế hoạch, chương trình tổ chức chăm lo cho phụ nữ

khuyết tật, đặc biệt trong các dịp lễ, tết; chú trọng đến đối tượng là phụ nữ khuyết

tật nghèo, neo đơn;

- Tổ chức truyền thông cho phụ nữ khuyết tật về bình đẳng giới, Luật Phòng

chống bạo lực gia đình, chống phân biệt đối xử với phụ nữ khuyết tật;

- Tổ chức tuyên dương và tặng quà cho phụ nữ khuyết tật vượt khó phát triển

kinh tế gia đình và cải thiện cuộc sống;

- Xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức trợ vốn cho phụ nữ khuyết tật để

tạo việc làm, nâng cao đời sống, xây dựng mái ấm tình thương, trao tặng xe lăn...

97

- Tạo điều kiện cho phụ nữ khuyết tật trên địa bàn học tập, nâng cao các kiến

thức, kỹ năng cần thiết và được học nghề, vay vốn, tạo việc làm phù hợp, cải thiện

đời sống, hòa nhập cộng đồng;

- Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ khuyết tật tham gia vào

các tổ chức “Tự lực” của người khuyết tật và các tổ chức xã hội khác.

Các hoạt động hỗ trợ khác:

- Về chính sách:

o Tiếp tục rà soát các chính sách đối với người khuyết tật, đảm bảo thực

hiện đúng, kịp thời và đầy đủ. Lồng ghép các chương trình hỗ trợ

người khuyết tật nghèo vào chương trình giảm nghèo tăng hộ khá của

Thành phố, chương trình giải quyết việc làm, vay vốn và các chương

trình an sinh xã hội...;

o Hỗ trợ gia đình người khuyết tật có điều kiện kinh tế khó khăn đang ở

nhà tạm (có đất ở ổn định) như: xây dựng nhà Đại đoàn kết, nâng cấp

sửa chữa chống dột nhà, nhà vệ sinh, điện, nước phù hợp;

o Hàng năm, tổ chức thăm hỏi người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn

nhân Ngày người khuyết tật Việt Nam 18/4 hoặc Ngày Quốc tế người

khuyết tật 3/12 (100 người/năm).

- Xây dựng dữ liệu về người khuyết tật:

o Hàng năm tổ chức cập nhật biến động người khuyết tật trên địa

bàn Thành phố;

o Cung cấp, đầu tư trang thiết bị công nghệ thông tin duy trì hoạt động

hệ thống quản lý người khuyết tật cho các đơn vị có liên quan tại

quận, huyện, phường, xã, thị trấn.

- Xã hội hóa:

o Tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động hỗ trợ

cho người khuyết tật;

o Có chính sách hỗ trợ đối với các tổ chức tham gia hoạt động hỗ trợ

cho người khuyết tật.

98

- Kiểm tra, đánh giá:

o Tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách trợ giúp đối với

người khuyết tật tại các Sở - ngành, quận - huyện;

o Kiểm tra, giám sát đánh giá thực hiện Đề án, Kế hoạch trợ giúp người

khuyết tật giai đoạn 2014 - 2020;

- Hàng năm, tổ chức tọa đàm, diễn đàn, giao lưu giữa người khuyết tật với

doanh nghiệp, các tổ chức chính quyền, các tổ chức đoàn thể về chính sách,

về việc làm...

99

KẾT LUẬN

Vấn đề việc làm và tìm kiếm việc làm cho người khuyết tật vẫn luôn là vấn

đề cần thiết phải giải quyết, giúp NKT có được những quyền lợi phải có và nhanh

chóng hòa nhập với xã hội, có mức thu nhập ổn định, và dần dần là một lực lượng

có tiếng nói, tầm quan trọng trong xã hội. Qua đó người khuyết tật có thể thể hiện

khả năng của bản thân, đồng thời hưởng được những quyền lợi, thực hiện nghĩa vụ

và khẳng định vai trò đối với xã hội.

Luận văn đã trình bày về vấn đề việc làm, thực trạng việc làm và các giải

pháp việc làm cho người khuyết tật. Giải pháp đề ra dựa trên những số liệu của cục

thống kê, sở thương binh xã hội và những dữ liệu thực tế khảo sát, chắc chắn mô

hình đưa ra còn nhiều thiếu sót và các vấn đề cần bàn luận. Tuy nhiên qua đề tài

này, tác giả muốn phần nào định hình một hướng đi tích cực và có hiệu quả hơn

trong vấn đề tạo và tìm kiếm việc làm cho người khuyết tật.

100

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách ngoại văn

Từ điển kinh tế MIT - Từ điển kinh tế học hiện đại (Tên đầy đủ “The MIT

Dictionary of Modern Economics”), tác giả David W. Pearce, xuất bản năm 2007.

Sách trong nước

Quản trị nguồn nhân lực, tác giả: PGS.TS Trần Kim Dung, NXB tổng hợp TP. Hồ

Chí Minh, xuất bản quý II/2015.

Văn bản luật

Luật lao động năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành

Luật người khuyết tật năm 2010

Pháp lệnh Người tàn tật năm 1998

Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày 05/8/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê

duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020

Báo và tạp chí

Báo người lao động

Báo mạng và các trang web trực tuyến

Sở Lao Động và Thương Binh Xã Hội http://sldtbxh.hochiminhcity.gov.vn/

Cục bảo trợ xã hội http://btxh.gov.vn/

Trung tâm bảo trợ, dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật tại TP. Hồ Chí

Minh http://ttbtntt.com.vn/

101

PHỤ LỤC

Phụ lục 1:

Bảng 2. Bảng tổng hợp tình trạng của người khuyết tật tại TP.HCM năm 2014

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Phụ lục 2: DANH SÁCH MÁI ẤM, ĐƠN VỊ BẢO TRỢ VÀ ĐÀO TẠO NGHỀ

CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT TRÊN PHẠM VI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ

MINH

Quận 1

1. Đoàn từ thiện Minh Tâm - Chi hội bảo trợ bệnh nhân nghèo TP.HCM. Địa

chỉ: 106C, Nguyễn Văn Cừ, Phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, Sài Gòn -

TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3920 0862 Website:

www.tuthienminhtam.org

2. Hội Bảo Trợ Người Tàn Tật & Trẻ Mồ Côi TP.HCM. Địa chỉ: 33B, Phùng

Khắc Khoan, Phường Ða Kao, Quận 1, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam.

Phone: (08) 3827 3045

3. Hội Bảo Trợ Người Tàn Tật & Trẻ Mồ Côi Việt Nam - Văn Phòng 2. Địa

chỉ: 223 Lý Tự Trọng, Phường Bình Thạnh, Quận 1, Sài Gòn - TP HCM,

Việt Nam. Phone: (08) 3822 0202

4. Hội Chữ Thập Đỏ Việt Nam - Red Cross Vietnam. Địa chỉ: 201 Nguyễn Thị

Minh Khai, Quận 1, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone:(08) 3839 1271.

Website: www.redcross.org.vn

5. Mái Ấm Hướng Dương. Địa chỉ: 184 Phan Văn Khỏe, Phường 5, Quận 1,

Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3960 1109

6. Mái Ấm Trẻ Xanh. Địa chỉ: 40/ 34 Calmette, Phường NTB, Quận 1, Sài Gòn

- TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3821 0199

7. Quán Cơm Xã hội Cầu Ông Lãnh. Địa chỉ: 156X Bến Chương Dương,

Phường Cầu Ông Lãnh, Quận 1, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08)

3837 1918

8. Trại trẻ em tàn tật - Disable children house. Địa chỉ: 284 Cống Quỳnh,

Phuờng Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08)

3839 2722

9. Trung Tâm Bảo Trợ Trẻ Em Mồ Côi & Bụi Ðời Khánh Hội (CEPORER)

Địa chỉ: 82 Nguyễn Du, Phường Bến Nghé, Quận 1, Sài Gòn - TP HCM,

Việt Nam. Phone: (08) 3823 8160

10. Trung Tâm Phát Huy. Địa chỉ: 27A/ 1 Nguyễn Văn Nguyễn, Phường TĐ,

Quận 1, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3848 3573

11. Trường Tương Lai. Địa chỉ: 27A2 Trần Nhật Duật, Quận 1, Sài Gòn - TP

HCM, Việt Nam. Phone:(08) 3845 3589

12. Trường vừa học vừa làm 15 Tháng 5 - The 15 May School . Địa chỉ: 245

Nguyễn Trãi, Phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, Sài Gòn - TP HCM, Việt

Nam. Phone: (08) 3837 7591 Fax(08) 3920 4757

13. UNICEF Viet Nam. Địa chỉ: Unit 1406, Suh Wah Tower, Quận 1, Sài Gòn -

TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3821 9413Fax(08) 821 9415.

Website: www.unicef.org/vietnam

Quận 2

1. Hiệp Hội Asia - Eurasia Địa chỉ: 216/10 Nguyễn Văn Hưởng, Quận 2, Sài

Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3832 5803 Website:

hiephoiasia.eqs.vn

2. Nhà Tình Thương Chùa Diệu Giác. Địa chỉ: 177 Trần Não, Phường Bình An,

Quận 2, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam, Phone: (08) 3740 0530 Fax(08) 3740

0640 Website: www.orphaned.org

3. Trường chuyên biệt Thảo Điền - Specialized School. Địa chỉ: 91 Thảo Điền,

Phường Thảo Điền, Quận 2, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08)

3512 4592

Quận 3

1. Gia đình Tình thương Tê Phan. Địa chỉ: 359/ 51F Lê Văn Sĩ, Phường 12,

Quận 3, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3935 1660

2. Bác Ái Phanxicô - Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam. Địa

chỉ: 38 Kỳ Đồng, Phường 9, Quận 3, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone:

(08) 3931

632.Website: www.trungtammucvudcct.com/web/bacaiphanxico.php

3. Câu Lạc Bộ Trẻ Em Ga Sài Gòn. Địa chỉ: 16/99 - 16/101 Kỳ Đồng, Phường

9, Quận 3, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3931 1673

4. Dự án Tương Lai Thầy chủ nhiệm: Trần Minh Hải (Di động 0989 393 246).

Địa chỉ: 280/10 Cách mạng Tháng 8, Phường 10, Quận 3, Sài Gòn - TP

HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3824 9497 - Fax: (08) 3824 9497

5. Hiệp Hội Bảo trợ Trẻ em Christina Noble - Christina Noble Children's

Foundation Địa chỉ: 38 Tú Xương, Phường 7, Quận 3, Sài Gòn - TP HCM,

Việt Nam. Phone: (08) 3932 6484.

Website: www.cncf.org/vietnam/aboutvietnam.asp

6. Hội Bảo Trợ Bệnh Nhân Nghèo TP HCM - Association Pour L'Assistance

Aux Indigents Malades. Địa chỉ: 24 đường Nguyễn Thị Diệu, Quận 3, Sài

Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3930 9696 - Fax: (08) 3930 9458

7. Lớp học tình thương Dục Đức. Địa chỉ: 210/18/2 Cách mạng Tháng 8,

Phường 10, Quận 3, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3935 0112

8. Mái Ấm Ánh Sáng. Địa chỉ: 80/ 76 Trần Quang Diệu, Phường14, Quận 3,

Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3931 3837

9. Mái Ấm Nhị Xuân 1. Địa chỉ: 373/14 Cách Mạng Tháng 8, Phường 13, Quận

3, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3885 3719

10. Quán cơm từ thiện Thiện Tâm. Địa chỉ: chân cầu Lê Văn Sỹ, Quận 3, Sài

Gòn - TP HCM, Việt Nam

11. Quỹ Từ thiện VinaGame - VinaGame Foundation Địa chỉ: 459B Nguyễn

Đình Chiểu, Quận 3, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3832 8426

Ext 217.

Website: www.vinagame.com.vn/vng/tintuc/chitiet.73.1.hangngay.html

12. Saigon Children's Charity Địa chỉ: 59 Trần Quốc Thảo, Ward 7, Quận 3, Sài

Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3930 3502 - Fax: (08) 3930 3503.

Website: www.saigonchildren.com

13. Tổ Chức Từ Thiện Đông Tây Hội Ngộ - East Meets West Foundation

(EMW) Địa chỉ: 57F Tu Xuong Street, Quận 3, Sài Gòn - TP HCM, Việt

Nam. Phone: (08) 3290 7374 - Fax: (08) 3932 1502.

Website: www.eastmeetswest.org

14. Trung Tâm Bảo Trợ Dạy Nghề, Tạo Việc Làm cho Người Tàn Tật. Địa chỉ:

215 Võ Thị Sáu, Phường 7, Quận 3, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone:

(08) 3932 6944

15. Trung Tâm Phục Hồi Chức Năng & Trợ Giúp Trẻ Tàn Tật. Địa chỉ: 38 Tú

Xương, Phường 7, Quận 3, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3932

5786

16. Trường Tương Lai. Địa chỉ: 290/14 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3,

TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3848 2760

Quận 4

1. Mái Ấm Bình Minh. Địa chỉ: 108 Đường số 6, Phường 4, Quận 4, Sài Gòn -

TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3940 1316

2. Trung Tâm Bảo Trợ Khuyết Tật - Disable Sponsoring Center. Địa chỉ: 91

Nguyễn Khoái, Phường 1, Quận 4, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone:

(08) 3940 1282

3. Trường Vừa Học Vừa Làm 1/6 - 1st June vocational school

Địa chỉ: 107 Tôn Thất Thuyết, Phường 15, Quận 4, Sài Gòn - TP HCM, Việt

Nam

Phone: (08) 3940 457

Quận 5

1. Hội Bảo Trợ Giáo Dục Hoa Văn Địa chỉ: 66 Hải Thượng Lãn Ông, Phường

10, Quận 5, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3855 1442

2. Nhóm Người Đồng Hành. Địa chỉ: 27 Nguyễn Ngọc Thạch, Phường 4, Quận

5, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone 08) 3855 0406

3. Trường Khuyết Tật Tương Lai. Địa chỉ: 27-29 Ngô Quyền, Phường 10, Quận

5, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 355 2429 - Fax: (08) 3950

7590

4. Trường Tương Lai. Địa chỉ: 28 Trần Xuân Hòa, Phường 7, Quận 5, Sài Gòn

- TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3950 9159

Quận 6

1. Nhà Tình Thương. Địa chỉ: 156 Chu Văn An, Phường 2, Quận 6, Sài Gòn -

TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3857 2978

2. Trường Hy Vọng Quận 6

3. Địa chỉ: 241/44/ 75A Nguyễn Văn Luông, Phường 11, Quận 6, Sài Gòn - TP

HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3751 0015

Quận 7

1. Mái Ấm Hoa Hồng Nhỏ. Địa chỉ: 55/ 2 Lâm Văn Bền, Phường Tân Kiếng,

Quận 7, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3872 0308

2. Quỹ Hỗ trợ Cộng Đồng Lawrence Sting. Địa chỉ: 801 Nguyễn Văn Linh,

Phường Tân Phú, Quận 7, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3411

3949

3. Quỹ từ thiện Nâng bước Tuổi Thơ. Hỗ trợ phẫu thuật cho các trẻ em nghèo

bất hạnh. Địa chỉ: 6 Nguyễn Lương Bằng, Phường Tân Phú, Quận 7, Sài Gòn

- TP HCM, Việt Nam. Phone: 0903 035 030

4. Trường Nuôi Dạy Trẻ Mồ Côi Long Hoa. Địa chỉ: 1250/ 41 Huỳnh Tấn Phát,

Phường Phú Mỹ, Quận 7, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3785

1881

Quận 8

1. Chùa Lâm Quang Nuôi Dưỡng Người Già Cơ Cực bị Con Cháu Hắt Hủi.

Ngôi nhà chung của những mảnh đời cơ cực, gần đất xa trời, bị con cháu hắt

hủi, ghẻ lạnh đều được cưu mang. Địa chỉ: 301-117H/ 70 Bến Bình Đông,

Phường 14, Quận 8, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3854 9467

2. Mái Ấm Quận 8. Địa chỉ: 73/ 10 Dương Bá Trạc, Phường 1, Quận 8, Sài Gòn

- TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3850 2088

3. Nhà Mở Niềm Tin. Địa chỉ: 122 Bến Cần Giuộc, Phường 11, Quận 8, Sài

Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3854 7363

4. Nhà nuôi người già - The elderly keeping house. Đại chỉ: 71 Liên Tỉnh 5,

Phường 5, Quận 8, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3850 4622

5. Từ Thiện Phật Giáo - Chùa Thường Quang. Địa chỉ: 2A Bến Phú Định,

Phường 16, Quận 8, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3876 1620

Quận 9

1. US - Vietnam People to People Entre Aid Mission Foundation. Địa chỉ: 32

Quang Trung, Phường Hiệp Phú, Quận 9, TP. Hồ Chí Minh. Phone: (08)

3730 8718. Website: www.usvnp2p.com

Quận 10

1. Mái Ấm Bừng Sáng. Địa chỉ: 266/5 Nguyễn Tri Phương, Phường 4, Quận

10, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone (08) 3927 0537

2. Mái ấm Cô Đơn (mồ côi) - Lonely home (orphanage). Địa chỉ: 57B/500 Lê

Hồng Phong, Phường 1, Quận 10, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone:

(08) 3832 3669

3. SCVNLive - Vì Tuổi Thơ Việt Nam. Địa chỉ: 269 Trần nhân Tôn, Phường 2,

Quận 10, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: 0903 981 120.

Website: www.scvnlive.net

4. Tổ ấm ánh sáng nữ - Female Light home. Địa chỉ: H1 ter Bạch Mã, Cư xá

Bắc Hải, Phường 15, Quận 10, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08)

3865 9135

5. Tổ chức Từ Thiện của nước Bỉ cho người tàn tật - Hadicap International

Belgium. Địa chỉ: 133/ 5 Hòa Hưng, Phường 4, Quận 10, Sài Gòn - TP

HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3863 3227. Website: www.hivietnam.org

6. Trường Khiếm Thị - Nguyễn Đình Chiểu. Địa chỉ: 184 Nguyễn Chí Thanh,

Quận 10, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam

7. Trường Khiếm Thị - Nguyễn Tri Phương. Địa chỉ: 266/227 Nguyễn Tri

Phương, Quận 10, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam

Quận 11

1. Trường Dạy Trẻ Em Khuyết Tật Quận 11. Địa chỉ: 275/6/7 Lý Thường Kiệt,

Phường 15, Quận 11, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3863 8254

2. Trường Vì Ngày Mai. Địa chỉ: 218 Phó Cơ Điền, Phường 6, Quận 11, Sài

Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3854 6918

Quận 12

1. Tỳ Kheo Thích Trí Anh - Chùa Thiên Linh Nuôi Chú Tiểu Mồ Côi. Địa chỉ:

18/4 Ðường Hà Huy Giáp, Khu Phố 3, Phường Thạnh Xuân, Quận 12, Sài

Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3712 409

2. Phòng Khám Bệnh miễn phí Chùa Tường Quang. Địa chỉ: 19/9 Phan Văn

Hớn, Tân Quới, Quận 12, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3883

3751

3. Trung Tâm Dưỡng Lão, Bảo Trợ Người Già Tàn Tật. Địa chỉ: 3E, Ấp 5,

Phường Thanh Xuân, Quận 12, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08)

3891 9007

4. Trung Tâm Nuôi Dưỡng, Bảo Trợ Người Già & Tàn tật Thanh Lộc.

Địa chỉ: 3E, Khu Phố 2, Phường Thạnh Xuân, Quận 12, Sài Gòn - TP HCM,

Việt Nam

5. Trường nuôi dạy trẻ khuyết tật - Disable children school. Địa chỉ: 37 Tô Lý -

Khu phố 3, Phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12, Sài Gòn - TP HCM, Việt

Nam. Phone: (08) 3716 9219

Quận Bình Tân

1. Nhà May Mắn - Maison Chance. Địa chỉ: 06/17 đường Tân Kỳ Tân Quý,

Khu phố 4, Phường Bình Hưng Hòa A, Bình Tân, Sài Gòn - TP HCM, Việt

Nam. Phone: (08) 3875 5171 - Fax: (08) 3875 5171.

Website: www.maison-chance.org

2. Trung Tâm Chắp Cánh - Take Wings Center. Địa chỉ: 19A đường số 1, khu

phố 9, Phường Bình Hưng Hòa, Bình Tân, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam.

Phone: (08) 3265 9566 - Fax: (08) 3767 0434

3. Mái Ấm Huynh Đệ Như Nghĩa. Địa chỉ: 276/4 Nguyễn Thị Tú, Bình Tân,

Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3425 1376

4. Nhóm Chung Một Tấm Lòng. Nhóm trưởng: Nguyễn Thanh Vân. Di Động

0958 060 358. Địa chỉ: 392/1 Khu Phố 1, Phường An Lạc, Bình Tân, Sài

Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3752 1178

5. Nuôi Mồ Côi. Địa chỉ: 6/52/1 Tổ 113, Khu Phố 6, Phường Bình Hưng Hòa,

Bình Tân, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3705 4225

Quận Tân Bình

1. Chương Trình Ai Là Anh Em Tôi. Giúp đỡ người bệnh phong người nghèo

khổ, bệnh tật. Phụ Trách: LM Vincent Nguyễn Bá Quý, Tu Viện Đắc Lộ. Địa

chỉ: 97 Trường Chinh, Phường 12, Tân Bình, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam.

Phone: (08) 3949 0713

2. Mái Ấm Tân Bình. Địa chỉ: 261/ 1A Đồng Đen, Phường 14, Tân Bình, Sài

Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3849 2950

3. Nhà Hưu Dưỡng Linh Mục Chí Hòa. Địa chỉ: 245/ 45 Bành Văn Trân,

Phường 7, Tân Bình, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3864 0349

4. Nhà Tình Thương (trẻ mồ côi, bại liệt) - Mercy home (orphants & paralysed

children). Địa chỉ: 310/48 Lạc Long quân, Phường 8, Tân Bình, Sài Gòn - TP

HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3861 6073

5. Nhóm Miss Chút Xíu Team. Nhóm trưởng Bùi Quốc Cường 0909 762 300.

Địa chỉ: 1007/72 Lạc Long Quân, Phường 11, Tân Bình, Sài Gòn - TP HCM,

Việt Nam. Phone: 0909 762 300

6. Trường Bình Minh (trè em chậm phát triền, bệnh Down) - Sunrise school

(underdeveloped & Down children). Địa chỉ: 4/3A Nguyễn Thái Học,

Phường 17, Tân Bình, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3812 7203

Quận Tân Phú

1. Trung Tâm Nhân Đạo Quê Hương (Văn Phòng) - Que Huong Charity

Center. Địa chỉ: 17/15/11 Gò Dầu, Phường Tân Quý, Quận Tân Phú, Sài Gòn

- TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3847 3025 - Fax: (08) 3847 3767.

2. Mái Ấm Thiên Ân (trẻ khiếm thị) - Thien An home (blind children). Địa chỉ:

122 Nguyễn Ngọc Nhựt, Phường Tân Quý, Tân Phú, Sài Gòn - TP HCM,

Việt Nam. Phone: (08) 3847 2406

Quận Thủ Đức

1. Bếp Ăn Từ Thiện (Quán Vợ Thằng Đậu). Địa chỉ: 40 Đặng văn Bi, phường

Bình Thọ, Thủ Đức, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3897 8820

2. Hội Bạn Người Cùi - Nhà Thờ Dòng Tu Đa Minh. Địa chỉ: 22 Đường Dân

Chủ, Khu số 4, Bình Thọ, Thủ Đức, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam

3. Làng Trẻ Mồ Côi Picasso - Picasso Orphanage. Địa chỉ: 18 Võ Văn Ngân,

Thủ Đức, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3988 6563

4. Nhà Dưỡng lão Nhân Ái. Địa chỉ: 24/7 đường số 1, KP.1 Phường Tam Đình,

Thủ Đức, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 896 4821

5. Trung tâm Nuôi dưỡng bảo trợ trẻ em Tam Bình. Địa chỉ: 273 Quốc Lộ 1A,

Phường Bình Chiểu, Thủ Đức, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08)

3897 4196

6. Trung Tâm Phát Huy Bình Thọ. Địa chỉ: 20 Dân Chủ, F.Bình Thọ, Thủ Đức

Số ĐT: 8960284

7. Trung Tâm Thiên Ân: Tỉnh lộ 43 - đường số 8, Phú Châu – Tam Phú, quận

Thủ Đức. Tel: (08) 8971548

Quận Bình Thạnh

1. Mái ấm chùa Diệu Pháp. Trụ trì chùa Diệu Pháp: Đại đức Thích Nguyên

Pháp. Địa chỉ: 188 Nơ Trang Long (nối dài),Phường 13 (cầu Bình Lợi),

Quận Bình Thạnh, Tp.Hồ Chí Minh. Phone: 08.5533267.

Email: chuadieuphap188@yahoo.com

2. Chương trình Truyền Thông. Do thầy Phạm Thanh Vân chủ nhiệm (Di động

0908 531 351). Địa chỉ: 54/3 Lê Quang Định Phường 14, Bình Thạnh, Sài

Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3841 6158

3. Hội Bảo Trợ Trẻ Em TP HCM. Địa chỉ: 85/ 65 Phạm Viết Chánh, Phường

19, Bình Thạnh, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3840 1406

4. Lớp học Tình Thương. Địa chỉ: 39/5 Xô Viết Nghệ Tỉnh, Phường 21, Bình

Thạnh, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3840 4298

5. Lớp học tình thương Bình Lợi (khuyết tật) - Bình Lợi establishment (disable

children). Địa chỉ: 414/12/36 Nơ Trang Long, Phường 13, Bình Thạnh, Sài

Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3805 5179

6. Mái Ấm Bà Chiểu. Địa chỉ: 149/ 1 Nguyễn Văn Đậu, Phường 11, Bình

Thạnh, Sài Gòn - TP HCMv, Việt Nam. Phone: (08) 3515 0556

7. Mái Ấm Thanh Xuân. Địa chỉ: 107/39A Hoàng Hoa Thám, Phường 6, Bình

Thạnh, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3841 1272

8. Nhà mở Nhị Xuân 3. Địa chỉ: 26/8 Hùynh Đình Hai, Phường 24, Bình

Thạnh, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3888 8317

9. Trung Tâm Nuôi Dưỡng Bảo Trợ Trẻ Mồ Côi Tàn Tật Thị Nghè Địa chỉ: 153

Xô Viết Nghệ Tĩnh, Bình Thạnh, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08)

3899 6563

10. Trường Câm Điếc Hy Vọng - Hope Dumb and Deaf school. Địa chỉ: 25

Nguyễn Văn Lạc, Phường 21, Bình Thạnh, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam.

Phone: (08) 3899 5822

11. Trường Khiếm Thị Nhật Hồng Do Soeur Lê thị Vân Nga phụ trách. Địa chỉ:

3-5 Phan Văn Hân (phần sau), Phường 19, Bình Thạnh, Sài Gòn - TP HCM,

Việt Nam. Phone: (08) 3840 0207

12. Trường Khiếm Thính Anh Minh. Do Ma Sơ Lê thị Huệ thành lập nhằm mục

đích nuôi nấng và giúp các trẻ em tàn tật, mồ côi không nơi nương tựa chủ

yếu là các em câm điếc khuyết tật bẩm sinh. Địa chỉ: 155 Xô Viết Nghệ

Tỉnh, Phường 17, Bình Thạnh, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08)

3840 1249

13. Trường khuyết tật Gia Định (nhà thờ Gia Định) - Gia Định disable school

(Gia Dinh church). Địa chỉ: 280 Bùi Hữu Nghĩa, Phường 2, Bình Thạnh, Sài

Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3803 0056

14. Trường mái ấm Mai Liên. Địa chỉ: 107/39A Hoàng Hoa Thám, Phường 6,

Bình Thạnh, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3841 1272

Quận Gò Vấp

1. An Dưỡng Viện Phát Diệm. Địa chỉ: 212 Lê Ðức Thọ, Phường 15, Gò Vấp,

Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone(08) 3894 7706

2. Chùa Kỳ Quang 1. Địa chỉ: 92 Nguyễn Oanh, Phường 17, Gò Vấp, Sài Gòn -

TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3894 0884

3. Chùa Kỳ Quang 2. Nuôi trẻ em mồ côi. Địa chỉ: Lê Ðức Thụ, Phường 16, Gò

Vấp, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3894 8729

4. Làng Trẻ Em SOS - TP HCM. Địa chỉ: (không có số nhà, gần hãng xe hơi

Isuzu) Quang Trung, Phường 12, Gò Vấp, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam.

Phone: (08) 3895 8504. Website: http://www.thegioituthien.com

5. Lớp Tin Học Miễn Phí Nhân Hòa của người Khuyết tật và cho người Khuyết

tật. Địa chỉ: T29, căn cứ 26, đường số 9, Phường 17, Gò Vấp, Sài Gòn - TP

HCM, Việt Nam

6. Trung Tâm Nuôi Dưỡng Bảo Trợ Trẻ Em Gò Vấp. Địa chỉ: 45 Nguyễn Văn

Bảo, Phường 4, Gò Vấp, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3894

1880 (08) 895 5581

7. Trường Nuôi Dạy Thanh Thiếu Niên Khiếm Thị và Khuyết Tật, Chùa Kỳ

Quang 2. Địa chỉ: 154/4A Lê Hoàng Phái, Phường 17, Gò Vấp, Sài Gòn - TP

HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3895 1014 (08) 894 1442

8. Trường nuôi trẻ khuyết tật Hoàng Mai - Hoang Mai disable children keeping

school. Địa chỉ: 23/470B Đường 26/3, Phường 16, Gò Vấp, Sài Gòn - TP

HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3894 7961

9. Trường Tương Lai Gò Vấp (dạy trẻ chậm triển) - Go Vap Future school

(underdeveloped children). Địa chỉ: 96 Nguyễn Thượng Hiền, Phường 5, Gò

Vấp, Sài Gòn - TP HCM, Việt Nam. Phone: (08) 3812 7203

Hóc môn

1. Lớp Tình Thương Đông Thạnh. Địa chỉ: 223 tổ 1, Ấp 7, xã Đông Thạnh,

Hóc Môn. Số ĐT: 7110463.

2. Mái Ấm Thành Đạt. Địa chỉ: 2/10 Ấp Tam Đông, xã Thới Tam Thôn, Hóc

Môn. Số ĐT: 7101574.

Bình Chánh

1. Trung Tâm Phát Huy Phạm Văn Hai. Địa chỉ: 1 A/203 Ấp 1 , xã Phạm Văn

Hai, huyện Bình Chánh. Số ĐT: 7661446

2. Trung Tâm Phát Huy Lê Minh Xuân. Địa chỉ: A 1/11 Ấp 11, xã Lê Minh

Xuân, huyện Bình Chánh. Số ĐT: 8773438. Chùa Bình An: B7/10 ấp 2 xã

Tân tạo Huyện Bình Chánh. Tel : 7505017

3. Trung Tâm Phát Huy Bình Hưng. Địa chỉ: 24/9 QL 50, xã Bình Hưng, huyện

Bình Chánh. Số ĐT: 9810972

Cần Giờ

1. Nhà Mở Tam Thông Hiệp. Địa chỉ: Xã Tam Thông Hiệp, Huyện Cần Giờ,

TP.HCM. Số ĐT: 8740384

2. Trường nuôi dạy trẻ em khuyết tật H. Cần Giờ. Ấp Phong Thạnh, TT Cần

Thạnh, H. Cần Giờ. Tel: 874.0071

Phụ lục 3: BẢNG KHẢO SÁT

Họ và tên :................................................................

Địa chỉ:.....................................................................

Trình trạng khuyết tật:

Khuyết tật vận động

Khuyết tật khiếm thính

Khuyết tật mù

Bạn đã và đang theo môi trƣờng giáo dục:

Giáo dục hòa nhập Giáo dục bán hòa nhập

Giáo dục chuyên biệt

1. Đánh giá về dịch vụ y tế hiện nay

Bạn có gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế hiện nay?

Có Không

Nếu có, vì nguyên nhân:

a. Không có dịch vụ y tế phù hợp

b. Chi phí dịch vụ y tế cao đối với họ

c. Kỳ thị và phân biệt đối xử

d. Xa nhà và không có phương tiện đi lại phù hợp cho người khuyết tật

e. Khác

2. Đánh giá về văn hóa thể thao

a. Thiếu những công trình văn hóa thể thao mà người khuyết tật tiếp cận được

b. Thiếu người tập huấn/ hướng dẫn riêng cho người khuyết tật

c. Kỳ thị người khuyết tật tham gia hoạt động này

d. Khác

3. Đánh giá về tiếp cận giao thông

Bạn có gặp khó khăn trong việc tiếp cận các phương tiện giao thông hiện nay?

Có Không

Nếu có, vì nguyên nhân:

a. Thiếu xe buýt hỗ trợ người khuyết tật

b. Không có lối đi dành cho người khuyết tật

c. Bị phụ thuộc vào gia đình chở mỗi khi đi ra ngoài

d. Không có xe đi riêng

e. Khác

4. Cách tiếp cận giáo dục

Bạn có gặp khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục hiện nay?

Có Không

Nếu có, vì nguyên nhân:

a. Không muốn đi học

b. Không tự tin khi đi học

c. Kinh tế gia đình quá khó khăn

d. Nhận thức của gia đình trong việc đưa người khuyết tật tới trường còn hạn chế

6. Cơ sở vật chất tại nơi đào tạo

a. Các trang thiết bị dạy và học không phù hợp với người khuyết tật

b.Các trang thiết bị dạy và học phù hợp nhưng thiếu cho người khuyết tật

c. Các trang thiết bị dạy và học phù hợp với người khuyết tật

d.Các trang thiết bị dạy và học phù hợp và đầy đủ cho người khuyết tật

e. Các dịch vụ hỗ trợ như ăn uống, y tế, thể dục thể thao, giữ xe, website Nhà

trường tốt

7. Đánh giá về đào tạo

a. Chương trình đào tạo được cập nhật đáp ứng thực tiễn

b. Chương trình giảng dạy nghèo nàn

c. Thiếu đội ngũ giáo viên

d. Khác

8. Cung cấp dịch vụ xã hội

a. Thiếu kinh phí để thiết lập các dịchvụ có chất lượng;

b. Thiếu nguồn nhân lực có chất lượng trong hệ thống dịch vụcông và tư nhân;

c. Nhận thức về người khuyết tật còn khá hạn chế, đặc biệt quan niệm người khuyết

tật là đối tượng cần chăm sóc còn phổ biến ở nhiều cơ quan cung cấp dịchvụ và

người dân tại cộng đồng;

d. Dịch vụ xã hội với đặc thù là không sinh nhiều lợi nhuận và phải đầu tư lâu dài

nên không hấp dẫn các nhà đầu tư tư nhân.

9. Tiếp cận quyền và chính sách liên quan đến ngƣời khuyết tật

a. Tự tìm hiểu các quyền vàchính sách về người khuyết tật của Nhà nước

b. Tự tìm hiểu nhưng rất ít các quyền vàchính sách về người khuyết tật của Nhà

nước

c. Chỉ khi các trung tâm hoặc cơ sở đào tạo tuyên truyền thì mới biết

d. Biết, nhờ vào sự hỗ trợ của gia đình

10. Cách tiếp cận việc làm

a. Tự xin việc làm

b. Qua trung tâm giới thiệu việc làm

c. Làm việc tại cơ sở đào tạo

d. Được nhà trường giới thiệu

e. Khác

11. Đánh giá về nhân lực cho công tác xã hội

a. Nhiệt tình hỗ trợ tư vấn

b. Thờ ơ và phân biệt đối xử

c. Tuyên truyền các chính sách và vận động giúp đỡ người khuyết tật

d. Có kiến thức chuyên môn

e. Ít kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn

12. Đánh giá về bản thân

a. Luôn cố gắng hòa nhập vào cuộc sống bình thường

b. Luôn học hỏi để nâng cao trình độ

c. Tự ti và ngại giao tiếp

d. Khác

Phụ lục 4: BÀI PHỎNG VẤN

Công ty TNHH của người tàn tật Đức Hiền (Duc Hien., ltd) (hội viên của

Hiệp hội VABED) được thành lập trên cơ sở sáp nhập 02 đơn vị là "Doanh nghiệp

Điện máy Đức Hiền" (thành lập năm 1990) và "Cơ sở Mỹ nghệ vươn lên" (thành

lập năm 2001) trên tinh thần tương trợ để cùng vươn lên, với phương châm: "NKT

nhưng sản phẩm không khuyết tật" và "Tạo điều kiện cho tài năng phát triển để các

bên đều có lợi, xã hội cùng hưởng lợi".

Lê Đức Hiền, Giám đốc Công ty TNHH của NTT Đức Hiền: Rào cản lớn

nhất đối với NKT vẫn là sự mặc cảm và cơ hội tiếp cận

Ở đây, tôi xin nêu ra một số khó khăn thực tế mà trong quá trình "tự phấn

đấu, vươn lên vượt qua số phận" của một người bị khuyết tật từ nhỏ, với gần 20

năm làm công tác "Tư vấn, hướng nghiệp, truyền nghề, dạy nghề, tìm và tạo việc

làm cho chính bản thân, cũng như đã và đang giúp cho nhiều NKT khác cùng có cơ

hội vươn lên"... Đó là những b ăn khoăn, trăn trở của chúng tôi bấy lâu nay:

Một là, khó khăn từ chính bản thân và tâm lý của NKT: do tình trạng sức

khỏe của tật bệnh, hoàn cảnh gia đình, điều kiện và phương tiện đi lại khó khăn…

nhất là trình độ học vấn và kỹ năng chuyên môn, tay nghề, đặc biệt là với những

NKT ở vùng nông thôn thường rất chênh lệch và yếu kém, thậm chí khác biệt nhau.

Đặc biệt, tâm lý chung của phần đông NKT, nhất là với những người ít được ra

ngoài tiếp xúc xã hội, nên quen sống thụ động "co ro trong vỏ ốc" và thường có tính

tự ti, mặc cảm, hoặc là tự ái thái quá, tính khí rất thất thường hoặc ỷ lại, phó mặc

cho số phận, thường bi quan, than thở, kém ý chí phấn đấu tự vươn lên… Ngược

lại, với những người đang khỏe mạnh bỗng bị khuyết tật do tai nạn hoặc tai biến

di chứng của bệnh thì họ thường có thái độ phản ứng cực đoan và "xù lông nhím"

trước những cử chỉ quan tâm đến họ. Do thất vọng và lo sợ, họ hay có những phản

ứng bất thường, tiêu cực, thậm chí sẵn sàng gây thêm đổ vỡ, làm tổn thương thêm

cho họ và cho những người chung quanh.

Hai là, khó khăn về vấn đề nhận thức của xã hội và chủ sử dụng lao động

đối với lao động là NKT: Mặc dù xã hội ta đã tiến bộ và thay đổi rất nhiều về quan

niệm với NKT, song vẫn còn không ít những nhận thức, quan điểm của chủ sử dụng

lao động chưa đúng đắn về NKT nói chung và NKT tham gia lao động, sản xuất nói

riêng. Họ thường ái ngại, xa lánh, thiếu tin tưởng vào kỹ năng và năng suất của

NKT. Họ thường có thái độ lạnh nhạt, bề trên, "ban ơn, làm phước" khi nhận vào

người khuyết tật vào làm việc.

Ba là, Khó khăn về tiếp cận, trang bị điều kiện thuận lợi và thời gian cho lao

động là NKT: Đây cũng là một trong những lý do ảnh hưởng đến quyết định nhận

hay không nhận lao động là NKT vào làm việc, bởi giới chủ doanh nghiệp thường

ngại và cảm thấy không thoải mái với lý do vừa thêm tốn kém, vừa phiền phức do

không đồng bộ cho thiết bị, dây chuyền sản xuất, hoặc "nhỡ" sắm sửa trang bị rồi lại

không có NKT thích hợp vào làm hoặc làm không lâu bền thì sao?... Do vậy, đa số

NKT thường khó có cơ hội được nhận vào làm ngay khi mới đến xin việc so với

người mạnh khỏe bình thường, nhất là với những việc cần đến sức lực của cơ bắp.

Trong thực tế hiện nay, ít có cơ sở nào chịu chú ý trang bị tiếp cận cho lao động là

NKT, hoặc tạo điều kiện thuận lợi để NKT làm việc và sinh hoạt, dù chỉ cần lưu ý

quan tâm thêm một chút là có thể được.

Bốn là, NKT thường ít được ký hợp đồng lao động dài hạn, làm công nhân

chính thức. Sự thiếu công bằng trong vấn đề lương, thưởng vàphân công việc làm,

cũng như cơ hội thăng tiến cho lao động là NKT. Đây là vấn đề rất thực tế bức xúc.

Mặc dù cũng cùng một công việc và có năng suất như nhau, nhưng NKT thường ít

được phân công hoặc bị trả lương thấp hơn là người không bị tật.

Năm là, Khó khăn về tài chính và nguồn vốn: Đây là một vấn đề rất thiết

thực và khó khăn nhất của những tổ chức hoặc cá nhân NKT muốn tự tạo việc

làm trong thời kinh tế thị trường hiện nay. Đó là vấn đề thiếu vốn ban đầu hoặc vốn

đầu tư chuyển đổi phát triển, bởi NKT rất khó tiếp cận được ngân hàng như các hộ

cá nhân, hoặc doanh nghiệp của người khỏe mạnh khác!

Sáu là, Cần tích cực hơn nữa trong việc phổ biến và thực hiện các chính sách,

văn bản pháp luật về NKT của Chính Phủ đã ban hành mau chóng đi vào cuộc sống

để phát huy hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho đúng đối tượng đang mong

Cần hơn bao giờ hết những tấm lòng vàng và sự bình đẳng, cơ hội, nhất là cơ hội

tiếp cận và sự hỗ trợ tiếp sức cụ thể của xã hội, nhất là gia đình và bạn hữu dành

cho NKT.

Phụ lục 4: BÀI BÁO

* Xin ông cho biết trong thời gian qua Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ

côi Việt Nam đã có những chăm lo như thế nào dành cho người khuyết tật và trẻ mồ

côi trong cả nước và làm cách nào để người khuyết tật có được cuộc sống ổn định

lâu dài?

Ông Nguyễn Đình Liêu: Riêng năm 2014, trong hệ thống Hội bảo trợ người

khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam, qua các chương trình chúng tôi tổ chức và phát

động, được các tổ chức cá nhân ủng hộ trên 350 tỷ đồng. Với số tiền đó, chúng tôi

tổ chức các chương trình cấp xe lăn, phẫu thuật cho người khuyết tật, phẫu thuật

mắt thay thủy tinh thể cho người mù nghèo, chương trình dạy nghề tạo việc làm cho

người khuyết tật (NKT).

Ngoài ra, chương trình sinh kế cho người khuyết tật và trẻ mồ côi, trong đó

đặc biệt chú ý đến xã nông thôn mới: hỗ trợ kinh tế, bò giống, heo, gà, vườn cây rau

sạch cung cấp cho khu đô thị, cung cấp giống, vốn. Có nơi chúng tôi hướng dẫn cho

họ những việc bình thường trong gia đình. Ví dụ như một cửa hàng tạp hóa nho nhỏ

để họ bán hàng. Dạy nghề cho NKT trên địa bàn, động viên doanh nghiệp thu hút

NKT vào làm việc. Chúng tôi cũng trợ giúp được khoảng trên hai triệu NKT.

* Hiện nay những sản phẩm do NKT làm ra rất khó tiêu thụ, vậy hội có

những giải pháp gì để giải quyết vấn đề này, thưa ông?

Ông Nguyễn Đình Liêu: Theo quy định của Luật NKT thì các gia đình có

NKT, anh em khuyết tật làm ra sản phẩm thì nhà nước có chính sách hỗ trợ sản

phẩm cho họ. Thế nhưng trong thực tế còn khó khăn. Về phía chúng tôi xây dựng

các mô hình tiêu thụ sản phẩm của NKT bằng cách động viên Ủy ban nhân dân

huyện phát động tiêu thụ sản phẩm cho NKT, nhưng sản phẩm phải đạt chất lượng

tốt. Ví dụ NKT làm chổi đót, mà chổi đót thì ai cũng cần để sử dụng nên NKT làm

ra sẽ được tiêu thụ hết. Hoặc những vùng tạo cho anh em nghề mộc, mỹ nghệ …vẫn

đảm bảo chất lượng không thay đổi.

* Thưa ông, được biết mục tiêu của đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn

2012-2020 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trước mắt đến 2015 hỗ trợ 250.000

người khuyết tật trong độ tuổi lao động còn khả năng lao động được học nghề và

tạo việc làm phù hợp, đến nay đã thực hiện hoàn thành chỉ tiêu của đề án chưa?

Ông Nguyễn Đình Liêu: Chỉ tiêu 250.000 có thể nói là không cao, nhưng để

đạt được mức đó thì có thể nói rất khó bởi do nhiều nguyên nhân. Nếu nói về chỉ

tiêu thời gian thì từ năm 2011-2015 mới đúng 5 năm. Nhưng quyết định 1019 của

Thủ tướng chính phủ ban hành vào cuối năm 2011, vì vậy từ năm 2012-2015 thì

chưa bắt tay vào làm kịp, thứ hai là khi đề án ban hành thì địa phương phải căn cứ

đề án của Thủ tướng chính phủ để đề ra đề án của địa phương trong 5 năm. Vậy

trong 5 năm đó phải dành bao nhiêu kinh phí, khảo sát bao nhiêu đối tượng, tổ chức

cái gì, có khi năm 2012 chưa triển khai được. Bởi vì đến năm 2012 thì ngân sách đã

xong năm 2011. Vậy khi năm 2012 mới bắt đầu xây dựng kế hoạch thì tôi cho rằng

chưa triển khai được bao nhiêu. Như vậy, chúng ta mới chỉ có ba năm thực hiện.

Chúng ta tổ chức dạy nghề để có việc làm, mạng lưới và điều kiện cho NKT cũng

chưa được bao nhiêu. Cho đến 2015 cũng chỉ đạt được khoảng 30%. Vì theo thống

kê của Bộ, một năm cũng trên dưới 10.000 đến 12.000 người được dạy nghề. Nếu

như thế tôi cho rằng là khoảng 60 – 70 ngàn là cố gắng lắm. Đó cũng là nguyên

nhân dẫn đến chỉ tiêu chúng ta đạt cũng khó khăn. Riêng hội chúng tôi, mỗi một

năm dạy trung bình trên dưới 7.000 lao động NKT trong hệ thống của Hội. Riêng

Hội chúng tôi đề ra, nếu đảm bảo dạy nghề thì Hội cố gắng phấn đấu trên dưới một

ngàn lao động khuyết tật. Kế hoạch này trong 5 năm tới khả dĩ hơn.

* Thưa ông, từ trước tới nay chúng ta chỉ chăm lo trực tiếp về mặt sức khỏe,

vật chất và tinh thần, tuy nhiên chưa chú trọng đến việc tập huấn làm sao để NKT

có thể tự chủ động trong việc phòng ngừa thảm họa, rủi ro khi có thiên tai, ông

nghĩ sao về vấn đề này?

Ông Nguyễn Đình Liêu: Hiện nay Luật cũng quy định là tập huấn cho gia

đình và cho bản thân NKT về cách phòng ngừa và các lĩnh vực khác, nhưng hiện

nay chúng ta chưa có điều kiện để có thể tập huấn đào tạo và giáo dục cho những

điều kiện như thế.

Bên cạnh việc tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ, cộng với các chính

sách về lĩnh vực như đề án đã nêu, thì rõ ràng hiện nay chúng ta vẫn tiếp tục đẩy

mạnh hơn nữa việc trang bị cho gia đình, bản thân người khuyết tật. Bởi có những

trường hợp khuyết tật mà chúng ta không cẩn thận thì người ta lại trở thành khuyết

tật lần thứ 2, vì thế phải tập huấn cho học cách phòng tránh và cách xử lý khi thảm

họa xảy ra.

Ngoài ra, phải trang bị cho NKT có thể giải quyết được vấn đề của họ, vì vậy

chúng ta nên mở rộng mạng lưới, mở rộng nhiều trung tâm phục hồi chức năng

thông qua các tổ chức chi hội để các tổ chức trên trang bị lại cho NKT. Mỗi dạng

khuyết tật đòi hỏi những kỹ năng khác nhau và họ tự giải quyết được vấn đề nếu

được đào tạo. Về vấn đề này chúng ta phải đào tạo và bồi dưỡng trong thời gian

sớm nhất.

* Thưa ông, để chăm lo hơn nữa cho người khuyết tật và trẻ mồ côi thì trong

thời gian tới Hội có những kế hoạch gì?.

Ông Nguyễn Đình Liêu: Hiện Hội chúng tôi đang có chiến lược phát triển

đến năm 2017, ngoài việc thực hiện các chương trình, các đề án đã làm, thì chúng

tôi sẽ tạo ra những điều kiện mới cho NKT qua những việc mà họ tham gia được.

Cụ thể, chương trình một trái tim một thế giới của chúng tôi, tức là những người

khuyết tật có thể tham gia vào cơ quan lập pháp của nhà nước như quốc hội hay

NKT khiếm thị trở thành giáo viên dạy nhạc. Những việc kể trên chúng tôi muốn

khơi lên để tiếp tục phát huy họ trong cuộc sống và để tiến tới NKT tham gia bình

đẳng vào các hoạt động xã hội khác.

Xin cám ơn ông.

(Nguồn: Báo người lao động)