VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC TRƯỜNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC TRƯỜNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực.

Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất

kỳ công trình khoa học nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG

TÍN DỤNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP

ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG .......................................................................... 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng ................................. 7

1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng ..................... 10

1.3. Nguyên nhân và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

ngân hàng .............................................................................................................. 18

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh

chấp hợp đồng tín dụng bằng Tòa án .................................................................... 28

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TÒA ÁN

NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................. 30

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng . 30

2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án

nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội ....................................................... 48

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI

QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TỪ

THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ THÀNH

PHỐ HÀ NỘI ........................................................................................................... 64

3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

ngân hàng tại Tòa án nhân dân ............................................................................. 64

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

ngân hàng .............................................................................................................. 67

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự

HĐTD

: Hợp đồng tín dụng

KDTM

: Kinh doanh thương mại

TAND

: Tòa án nhân dân

TCTD

: Tổ chức tín dụng

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Số liệu tranh chấp kinh doanh thương mại TAND huyện Phúc

Thọ thành phố Hà Nội thụ lý và giải quyết giai đoạn 2014-2018 .......... 51

Bảng 2.2. Số liệu vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng thụ lý trong giai

đoạn 2014 – 2018 .................................................................................... 52

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhà nước ta đang trong quá trình đổi mới mọi lĩnh vực của nền kinh tế,

chính trị, xã hội và các lĩnh vực khác góp phần tạo nên những bước tiến đáng kể vào

công cuộc cải tiến đất nước. Các giao dịch trong xã hội diễn ra hàng ngày rất đa dạng,

pháp luật khó có thể điều chỉnh được toàn bộ các quan hệ trong cuộc sống. Thông

thường các bên lựa chọn hình thức giao dịch thông qua hợp đồng – hợp đồng ghi nhận

sự thỏa thuận giữa các bên, là cơ sở để pháp luật bảo vệ quyền lợi của các bên khi có

tranh chấp. Trong lĩnh vực ta nhận thấy hợp đồng tín dụng có nhiều trong các giao dịch

với các đối tác cho nhu cầu vay vốn trong phát triển kinh doanh, sản xuất. Bởi hợp

đồng tín dụng chứa nhiều yếu tố phức tạp và nhạy cảm nên nó rất dễ dẫn đến tranh

chấp giữa các bên trong hợp đồng. Khi lợi ích giữa các bên bị ảnh hưởng quyền đến

quyền lợi và lợi ích hợp pháp sẽ làm thủ tục khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài thương

mại để được pháp luật bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng của Tòa án

đóng vai trò rất quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ

chức, các nhân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và đặc biệt góp phần thúc đẩy sự phát

triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong nên kinh tế thị trường hiện nay các giao dịch

dân sự, đặc biệt là giao dịch thông qua hợp đồng tín dụng diễn ra ngày càng nhiều

trên phạm vi rộng, gây nhiều khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp này ở Tòa án.

Trước tình hình đó cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan đến việc

giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình

giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này cũng nhằm đảm quyền và lợi ích của các

bên tham gia hợp đồng.

Trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thì hoạt động cấp tín dụng

trong đó có cấp tín dụng thông qua hợp đồng tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ

yếu và quan trọng nhất. Thông qua hợp đồng tín dụng được xác lập giữa tổ chức tín

dụng và bên vay tiền, quan hệ tín dụng đã được hình thành. Hợp đồng tín dụng phải

tuân thủ chặt chẽ các quy định của Bộ luật dân sự, Luật các tổ chức tín dụng và các

quy định khác của Ngân hàng nhà nước…

Trong thực tế, cùng với sự phức tạp của quan hệ tín dụng nói chung và quan

hệ hợp đồng tín dụng nói riêng, các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quá trình

1

thực hiện hợp đồng tín dụng xảy ra tương đối nhiều. Điều này đã ảnh hưởng lớn tới

sự ổn định của thị trường tín dụng, ảnh hướng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các

tổ chức và cá nhân có liên quan.

Trên cơ sở đó, việc hệ thống pháp luật có những quy định cụ thể về giải

quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng là rất cần thiết. Trong những năm vừa qua, cùng

với sự phát triển của quan hệ này, các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp

hợp đồng tín dụng đã được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam được

thể hiện qua các văn bản nhưng: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung

năm 2011, Bộ luật dân sự năm 2005, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và đặc

biệt gần đây là việc Quốc hội đã ban hành Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự

mới vào năm 2015.

Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng về cơ

bản đã tương đối đầy đủ về hình thức cũng như nội dung. Tuy nhiên, những quy

định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng còn chưa thực sự đồng bộ

giữa Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự với Luật các tổ chức tín dụng, trong khi

BLDS, BLTTDS mới được ban hành mới thì Luật các tổ chức tín dụng 2010 chưa

được sửa đổi, bổ sung. Những quy định đặc thù về giải quyết tranh chấp hợp đồng

tín dụng chưa thực sự cụ thể, còn có sự chồng chéo về chủ thể, quyền hạn giải

quyết… Điều này dẫn đến hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng chưa

thực sự cao, có nhiều vụ việc bị kháng cáo, kháng nghị thậm chí có quyết định giám

đốc thẩm, tái thẩm, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến quyền, lợi ích hợp pháp của các

bên trong quan hệ.

Huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội là một huyện ngoại thành có tốc độ phát

triển kinh tế nhanh, có tình hình kinh tế xã hội phát triển nhanh trên địa bàn thành

phố, quy mô kinh tế ngày một lớn, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.

Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội thì những tranh

chấp phát sinh từ hoạt động tín dụng nói chung và hợp đồng tín dụng nói riêng trên

địa bàn huyện Phúc Thọ ngày một lớn. Các tranh chấp này đã được Tòa án nhân

dân huyện Phúc Thọ thụ lý giải quyết góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền

lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh

chấp hợp đồng tín dụng trên địa bàn còn nhiều hạn chế, tồn tại, cần phải có những

nghiên cứu để góp phàn nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp này hơn nữa.

2

Đó cũng là lý do học viên quyết định chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp

hợp đồng tín dụng ngân hàng từ thực tiễn xét xử sơ thẩm Tòa án nhân dân

huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu, thông qua đó giúp học

viên học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm, nâng cao kiến thức pháp luật của mình về

lĩnh vực hợp đồng tín dụng trên thực tế. Từ đó đề ra những giải pháp nâng cao các

quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng

con đường Tòa án.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Các công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói

chung và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng nói riêng như:

- Tác giả Nguyễn Thị Thu Hồng “Thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng tín

dụng qua thực tiễn xét xử tại Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội,

Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội năm 2013;

- Tác giả Hoàng Văn Bích “Giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản

qua thực tiễn xét xử tại Vĩnh Phúc” Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã

hội, Năm 2014;

- Tác giả Hồ Thị Khuyên “Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại

học Quốc gia Hà Nội, năm 2016.

- Một số bài báo khoa học như:“ Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng tín dụng

và thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng tín dụng”, của Th.s

Nguyễn Quỳnh Chi đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 3/2005; “Một số vấn đề lý luận

và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Như

Phát, TS. Lê Thị Thu Thủy đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2010;

“Tranh chấp hợp đồng và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng” của

TS. Phan Chí Hiếu đăng trên tạp chí Luật học, số 2/2008;

- Một số Sách chuyên khảo như: “Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài

sản của các tổ chức tín dụng” do TS. Lê Thị Thu Thủy làm chủ biên, Nhà Xuất bản

Tư pháp 2006, Cuốn sách “Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Ngân hàng

Thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của TS. Ngô Quốc Kỳ, Nhà

Xuất bản Tư pháp, năm 2005.

Các công trình nghiên cứu này đã góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho

3

việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nói chung

và hợp đồng tín dụng nói riêng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đề tài pháp luật về hợp

đồng tín dụng vẫn còn là cấp thiết, bởi lẽ các quy định pháp luật về vấn đề này vẫn

còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn.

Với luận văn này, tôi mong muốn làm rõ hơn những vấn đề cơ bản về hợp

đồng tín dụng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng, chỉ ra những

bất cập của việc thực hiện các quy định pháp luật trong thực tiễn giải quyết các

tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Từ đó, đề xuất những giải pháp góp phần

hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng

con đường tòa án ở Việt Nam hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Với luận văn này, tôi mong muốn làm rõ hơn những vấn đề cơ bản về hợp

đồng tín dụng ngân hàng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân

hàng, chỉ ra những bất cập của việc thực hiện các quy định pháp luật trong thực tiễn

giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng. Từ đó, đề xuất

những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ

hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng con đường Tòa án ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu trên đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau:

- Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tranh chấp hợp đồng tín dụng và

giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng như khái niệm, đặc điểm; để từ đó xác định khái

niệm, nội dung của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng;

- Nghiên cứu làm sáng tỏ quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam về

giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng để từ đó đánh giá được những hạn chế, tồn

tại trong hệ thống quy định này;

- Phân tích, đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại

các Tòa án nhân dân trên địa bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội, đưa ra được

những hạn chế, bất cập trong thực tiễn giải quyết này;

- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về

giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp

hợp đồng tín dụng.

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ thực trạng giải quyết

tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng con đường tòa án ở Việt

Nam. Qua đó, đề ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về giải

quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án ở Việt Nam

hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các văn bản pháp

luật Việt Nam có quy định về vấn đề nghiên cứu như: Bộ luật dân sự (2005, 2015),

Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Luật thương mại 2005, Luật các tổ chức tín dụng

2010… cùng các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành, sửa đổi, bổ sung, làm rõ các

điều khoản có liên quan. Bên cạnh đó, luận văn còn nghiên cứu các số liệu, báo cáo

thống kê, tổng kết về thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp

đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội .

- Phạm vi không gian: huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.

- Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây

dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp như: phương pháp thống kê, khảo

sát; phương pháp tổng hợp, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về giải

quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án.

6. Ý nghĩa lý luận và những đóng góp mới của đề tài

Đề tài là công trình nghiên cứu toàn diện ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học

về hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ở Việt Nam hiện

này. Đề tài có ý nghĩa lý luận như sau:

- Đưa ra được những phân tích lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp hợp

đồng tín dụng như khái niệm, đặc điểm, nội dung;

5

- Đánh giá được thực trạng quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp

hợp đồng tín dụng và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành

phố Hà Nội;

- Đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải

quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng.

Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu,

giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật, các viện nghiên cứu và các cơ quan thực tiễn

như Tòa án; Viện kiểm sát; Thi hành án…

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết

cấu thành 3 chương cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp hợp đồng tín dụng và pháp

luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

và thực tiễn áp dụng tại các tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội

Chương 3: Quang điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

NGÂN HÀNG

1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng

1.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng ngân hàng

Hợp đồng tín dụng là một dạng cụ thể của hợp đồng vay tài sản đã được quy

định trong BLDS 2015. Tuy nhiên, chỉ gọi là HĐTD trong trường hợp bên cho vay

là các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân hàng. Theo quy định tại điều

463 BLDS 2005: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên

cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên

cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có

thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Hợp đồng tín dụng về bản chất là hợp đồng

cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng

vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có

hoàn trả cả gốc và lãi. Còn những hoạt động cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cầm cố,

chiết khấu giấy tờ có giá được gọi chung là hợp đồng cấp tín dụng.

Hợp đồng tín dụng là một căn cứ pháp lý mà qua đó, ngân hàng thực hiện

hoạt động cho vay. Hoạt động tín dụng luôn giữ một vai trò quan trọng trong đời

sống kinh tế và các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng diễn ra ngày một

nhiều, gây thiệt hại không nhỏ cho các chủ thể, song, cho đến nay vẫn chưa có một

văn bản pháp luật nào của nước ta đưa ra một khái niệm chính thức về hợp đồng tín

dụng mà chỉ liệt kê những nội dung chủ yếu của hợp đồng tín dụng. Việc cho vay

của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng.

Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay,

phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá

trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả

thuận. Như vậy, ngay trong quy chế cho vay của TCTD cũng chỉ qui định việc cho

vay phải xác lập bằng hợp đồng tín dụng.

Từ các phân tích trên, cho thấy pháp luật chuyên ngành chỉ đưa ra quy định

về những nội dung cơ bản HĐTD phải có mà không đưa ra định nghĩa cụ thể về

HĐTD. Quan hệ tín dụng về bản chất là một quan hệ dân sự nên HĐTD cũng là một

7

dạng cụ thể của hợp đồng. Từ khái niệm hợp đồng được quy định theo điều 385

BLDS 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi

hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”, có thể hiểu “HĐTD là sự thỏa thuận bằng

văn bản giữa TCTD (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện luật

định (bên vay), theo đó TCTD chuyển giao một số tiền cho bên vay sử dụng vào

mục đích và trong một thời hạn được xác định, khi đến hạn, bên vay phải trả cả gốc

và lãi được xác định theo lãi suất mà các bên đã thỏa thuận”.

Như vậy, hợp đồng tín dụng ngân hàng là văn bản phản ánh thỏa thuận trực

tiếp của tổ chức tín dụng và khách hàng trong việc xác lập một quan hệ cho vay, xác

lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các bên đó trong việc vay và hoàn trả

vốn vay.

1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng

HĐTD mang những đặc điểm chung của hợp đồng nhưng vẫn có những nét

khác biệt cụ thể như sau:

- Hợp đồng tín dụng ngân hàng phải luôn được ký kết dưới hình thức văn

bản. Sau khi TCTD quyết định cho khách hàng vay vốn, sự thoả thuận cho vay và

vay của TCTD với khách hàng phải thành lập bằng văn bản. Với HĐTD bằng văn

bản, các bên có thể thực hiện hợp đồng trong sự đảm bảo an toàn pháp lý và khi có

tranh chấp xảy ra, HĐTD sẽ là căn cứ xác thực nhất để các cơ quan tài phán giải

quyết tranh chấp. Đa phần các HĐTD là hợp đồng theo mẫu, chủ thể cho vay là

TCTD soạn thảo dựa trên quy định của pháp luật và phù hợp với quy chế cho vay

của TCTD. Bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản trong hợp đồng mà

không phải ai cũng có thể yêu cầu sửa đổi điều khoản theo hướng có lợi hơn cho

mình. Sự tự do ý chí được thể hiện thông qua việc khách hàng chấp nhận những

điều khoản trong đó thì đồng ý giao kết hợp đồng, ngược lại thì không giao kết.

Thực tế cho thấy việc thỏa thuận sửa một số điều khoản trong HĐTD theo mẫu ít

xảy ra và chỉ xảy ra với những tổ chức, cá nhân có uy tín, khoản vay lớn và TCTD

có thể thu được lợi nhuận lớn từ hợp đồng này.

Theo khoản 2, khoản 3 điều 405 BLDS 2015: “Trường hợp hợp đồng theo

mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất

lợi khi giải thích điều khoản đó. Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản

miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại

8

bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ

trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, pháp luật cũng có cơ chế để bảo vệ

khách hàng trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có những điều khoản không rõ

ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó

hoặc điều khoản gây bất lợi cho khách hàng thì điều khoản này không có hiệu lực

khi không có thỏa thuận khác.

Tuy nhiên, hợp đồng tín dụng ngân hàng được ký kết dưới các hình thức

pháp lý là văn bản bao gồm cả văn bản viết và văn bản điện tử dưới dạng thông điệp

dữ liệu. Căn cứ khoản 1 điều 119 BLDS 2015, “Giao dịch dân sự được thể hiện

bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua

phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật

về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản”; và điều 11, 12, 13, 14

Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì dù hợp đồng tín dụng ngân hàng ký kết dưới

hình thức nào trên đây đều có giá trị pháp lý ngang nhau và đều là chứng cứ trong

quá trình giao dịch. Trên thực tế thì hợp đồng tín dụng được ký kết dưới hình thức

văn bản điện tử dạng thông điệp dữ liệu thường ít xảy ra.

- HĐTD có đối tượng là những khoản vốn được thể hiện dưới hình thức tiền

tệ. Vốn tiền tệ trong HĐTD có thể là tiền đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ. Cho vay là

một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng

một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với

nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Nhờ đó, hoạt động cho vay đã trở thành hoạt động

sinh lời chủ yếu của các TCTD và trở thành một hình thức tín dụng phổ biến trong nền

kinh tế thị trường. Về nguyên tắc đối tượng của HĐTD bao giờ cũng là một số tiền

xác định, được các bên thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng.

- Một bên chủ thể của HĐTD bắt buộc là TCTD được thành lập và hoạt động

cho vay theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các

văn bản liên quan; có chức năng hoạt động, kinh doanh tín dụng. TCTD bao gồm

ngân hàng và TCTD phi ngân hàng. Bên cho vay có thể là một hoặc nhiều TCTD

(trường hợp cho vay hợp vốn) thỏa mãn điều kiện luật định.

- HĐTD phải được tuân thủ chặt chẽ về các nội dung bắt buộc, năng lực chủ

thể của các bên tham gia quan hệ tín dụng, mục đích sử dụng vốn vay, giới hạn vốn

vay, lãi suất vay và bảo đảm thực hiện hợp đồng, phương pháp giải quyết tranh

9

chấp. TCTD không được cho vay vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu bị cấm theo quy

định của pháp luật. Tổ chức tín dụng không được cho vay các nhu cầu vốn sau đây:

để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua

bán, chuyển nhượng, chuyển đổi; để thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các

giao dịch mà pháp luật cấm; để đáp ứng các nhu cầu chính của các giao dịch mà

pháp luật cấm”. Tổ chức tín dụng không được cho vay đối với khách hàng trong các

trường hợp sau đây: Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc

(Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng; Cán bộ,

nhân viên của chính tổ chức tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định

cho vay; Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát,

Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc)”. Đối với người vay

là bố, mẹ, vợ, chồng, con của Giám đốc, Phó Giám đốc chi nhánh của tổ chức tín

dụng do tổ chức tín dụng xem xét quyết định”.

Với vai trò đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia vào quan hệ tín

dụng, HĐTD trở nên rất quan trọng. Đặc biệt, các bên phải chú ý đến nội dung của

hợp đồng, hợp đồng với những điều khoản chặt chẽ sẽ ràng buộc các bên thực hiện

đúng trách nhiệm của mình, từ đó cũng góp phần giảm bớt các tranh chấp phát sinh

và thúc đẩy sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của cả TCTD và khách hàng.

1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng

1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng

Cùng với sự tồn tại và phát triển của các HĐTD là những tranh chấp trong

HĐTD phát sinh từ sự mâu thuẫn hay không thống nhất về quyền và nghĩa vụ hoặc

lợi ích trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng của các bên tham gia. Một hợp

đồng tín dụng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về quyền lợi

giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài thông qua những bằng chứng cụ thể và

xác định được. Theo TS. Bùi Ngọc Cường, tranh chấp kinh tế được hiểu là những

mâu thuẫn, xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích kinh tế giữa các bên chủ thể khi

tham gia kinh doanh.

Tranh chấp hợp đồng khác biệt với vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng là

hành vi pháp lý của các bên đã xử sự trái với các điều khoản được cam kết trong

hợp đồng. Còn tranh chấp hợp đồng là ý kiến không thống nhất của các bên về hành

vi vi phạm đó hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ sự vi phạm đó và được

10

thể hiện ra bên ngoài. Cho nên, không phải cứ khi nào vi phạm hợp đồng thì khi đó

có tranh chấp mà đôi khi sự vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng

lại là sự kiện diễn ra sau đó một khoảng thời gian nhất định. Và đôi khi có sự vi phạm

hợp đồng tín dụng nhưng không thể có sự tranh chấp bởi các bên không bày tỏ ra bên

ngoài về sự bất đồng hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau bằng các hành vi phản

kháng cụ thể có giá trị chứng cứ.

Như vậy, tranh chấp HĐTD là những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh từ quyền

và nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên vay

(khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử

lý tài sản đảm bảo, thế chấp…

1.2.2. Đặc điểm tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng

Vì tranh chấp HĐTD ngân hàng cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nói

chung, do đó có đầy đủ những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp đồng. Tuy

nhiên, với bản chất đặc thù của HĐTD, tranh chấp HĐTD mang một số đặc trưng

riêng biệt để có thể phân biệt với các loại tranh chấp hợp đồng khác.

Thứ nhất, giá trị của tranh chấp HĐTD thường có giá trị lớn hoặc thậm chí

là rất lớn.

Khi kí kết HĐTD thì thường là do bên đi vay có nhu cầu về vốn mà không

thể tự mình xoay xở được. Nhu cầu đó thường là để bổ sung vốn kinh doanh đối với

tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia đình. Do đó, số tiền

này không phải là nhỏ và dễ dàng vay được từ các tổ chức, cá nhân ngoài xã hội mà

không phải là ngân hàng.

Về phía bên cho vay là ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung ứng vốn

cho nền kinh tế thì TCTD còn đóng vai trò là người đi vay của các chủ thể khác để

cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các TCTD thường kí kết các HĐTD có

giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại thời điểm cho vay. Do bên vay vốn

dùng khoản vay này phần lớn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh nên nếu

bên vay không tuân thủ các cam kết trong hợp đồng, không trả nợ cho các TCTD sẽ

làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của TCTD đó. Thực tế không hiếm các trường

hợp các TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả do “nợ xấu’. Một khi khách

hàng vay không thể thanh toán được nợ, tranh chấp xảy ra thì TCTD sẽ là chủ thể bị

thiệt hại lớn vì nguồn vốn bị ứ đọng, phải thực hiện các biện pháp khắc phục, mục

11

đích lợi nhuận ban đầu không còn hoặc bị gián đoạn. Đặc biệt, nếu tranh chấp

HĐTD phải khởi kiện tại Tòa án thì càng gây khó khăn cho TCTD khi muốn thu hồi

vốn. Bởi khi đã bị khởi kiện tại Tòa án thì thường là người đi vay không còn có khả

năng trả nợ cho TCTD. Mặt khác, khi tranh chấp HĐTD xảy ra thì TCTD sẽ mất

lòng tin với khách hàng vay vốn, các HĐTD tiếp theo sẽ khó mà thực hiện, kể cả

khi bên đi vay chứng minh lại được khả năng tài chính của mình. Do đó, có thể nói

tranh chấp HĐTD là loại tranh chấp có giá trị thiệt hại lớn, không chỉ ảnh hưởng

đến bên cho vay mà còn cả đối với bên đi vay. Thậm chí nếu tranh chấp xảy ra

nhiều thì ảnh hưởng đó không chỉ ảnh hưởng đến một TCTD mà có thể ảnh hưởng

dây chuyền đến các TCTD khác trong nền kinh tế.

Thứ hai, tranh chấp HĐTD ngân hàng được giải quyết dựa trên nguyên tắc tự do

thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật của các bên tham gia tranh chấp.

Pháp luật Việt Nam tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, cụ thể, Điều 3 Bộ

Luật dân sự 2015 ghi nhận: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt

quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận.

Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã

hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.”

HĐTD về bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ mang tính thỏa

thuận, tự định đoạt giữa các bên. Do đó, kể cả đối với việc giải quyết tranh chấp

phát sinh từ HĐTD thì các bên cũng có quyền thỏa thuận để đạt được hiệu quả tối

ưu nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Việc tôn trọng quyền định đoạt này

có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì quan hệ dân sự giữa các bên mang tính bình đẳng,

không phải là mối quan hệ mệnh lệnh - phục tùng như các quan hệ hành chính nhà

nước khác. Khi các bên tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận được với nhau thì

việc giải quyết tranh chấp sẽ diễn ra nhanh chóng, thuận lợi hơn, đồng thời giảm

thiểu được thiệt hại về thời gian, tiền bạc, công sức của các bên. Về phía các cơ

quan tài phán, thi hành án thì việc thỏa thuận này cũng có ý nghĩa trong việc giảm

nhẹ khối lượng, áp lực công việc trong điều kiện các tranh chấp ngày càng xảy ra

nhiều và phức tạp như hiện nay.

Đặc biệt, vấn đề thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đối với

các TCTD là ngân hàng nước ngoài, ngân hàng nước ngoài có vai trò quan trọng hơn

bao giờ hết. Bởi các chủ thể này khác với các TCTD trong nước, chịu sự điều chỉnh

12

của cả pháp luật nước ngoài lẫn pháp luật Việt Nam và sự khác nhau trong quy định

của pháp luật giữa Việt Nam và nước khác là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, việc

cho phép, tôn trọng quyền tự thỏa thuận của các bên khi có tranh chấp xảy ra sẽ giảm

thiểu tối đa những xung đột pháp luật có thể xảy ra trong quá trình giải quyết các tranh

chấp. Tuy nhiên, nguyên tắc đối với các thỏa thuận này là phải phù hợp với các quy

định của pháp luật Việt Nam.

Nguyên tắc tự do thỏa thuận khi giải quyết tranh chấp giữa các bên cũng

được Bộ Luật tố tụng dân sự thể hiện ở chế định hòa giải. Theo đó, hòa giải là trách

nhiệm của cơ quan tài phán khi có tranh chấp xảy ra và khi đó các bên có thể thỏa

thuận về việc giải quyết vụ án. Ngay cả trước khi diễn ra hoặc tại phiên tòa sơ thẩm,

phúc thẩm các bên cũng vẫn có quyền thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp miễn

sao thỏa thuận đó phù hợp với các quy định của pháp luật.

Thứ ba, tranh chấp HĐTD luôn có sự tham gia của một bên là TCTD và

phần lớn các tranh chấp HĐTD thì nguyên đơn là tổ chức tín dụng cho vay, bị đơn

là bên đi vay.

Với đặc thù của hoạt động tín dụng là sự cung ứng nguồn vốn đến những tổ

chức, cá nhân có nhu cầu về vốn trên cơ sở huy động của các tổ chức, cá nhân có

thừa nguồn vốn trong xã hội nên TCTD luôn đóng vai trò trung gian trong mối quan

hệ này. Sự tham gia của TCTD là một dấu hiệu đặc trưng nhằm phân biệt giữa tranh

chấp HĐTD và tranh chấp hợp đồng vay tài sản thông thường giữa các tổ chức, cá

nhân khác mà không phải là TCTD.

Đồng thời, về mặt lý thuyết, khi tham gia ký kết HĐTD, các TCTD và khách

hàng có địa vị ngang bằng nhau tham gia thỏa thuận. Nhưng với tư cách là chủ thể

có nguồn vốn dồi dào, việc áp đặt các điều kiện cho vay đối với khách hàng là điều

không hiếm xảy ra. Hơn nữa, khi tham gia kí kết hợp đồng thì hợp đồng thường do

bên cho vay là các TCTD soạn thảo với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn về

mặt pháp lý nhất định. Trong khi đó, chủ thể đi vay là khách hàng thường là các tổ

chức, cá nhân, trình độ chuyên môn về mặt pháp lý của họ còn thấp và nhiều khi

không được chú trọng đúng mức. Và như vậy là hợp đồng được kí kết với các điều

khoản chặt chẽ nhằm bảo đảm cho quyền lợi của TCTD khi bên vay không trả nợ

hay trả không đúng nghĩa vụ. Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì TCTD luôn nắm đằng

chuôi với các điều khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ, rõ ràng trong hợp đồng

13

được sự đồng thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì là do bên đi

vay vi phạm, chứ ít khi TCTD lại vi phạm chính những điều khoản do chính mình

soạn thảo.

Mặt khác, trong mối quan hệ HĐTD, các nghĩa vụ chính của bên đi vay

thường phát sinh sau thời điểm giải ngân. Trong khi đó, tại thời điểm hoàn tất việc

giải ngân cho khách hàng thì TCTD đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình. Các

nghĩa vụ khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ hồ sơ tín dụng, nghĩa

vụ thông báo, bảo quản tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản đảm bảo... là ít quan trọng

và là nghĩa vụ phát sinh từ quyền của bên vay. Vì lý do đó nên nếu có tranh chấp

xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm nghĩa vụ của mình, rất hiếm gặp trường

hợp bên đi vay khởi kiện TCTD.

Thứ tư, đa phần các tranh chấp liên quan đến HĐTD ngân hàng chính là các

tranh chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn, lãi của bên vay cho

TCTD, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong HĐTD.

Có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD như: tranh chấp về chủ thể

xác lập, thực hiện HĐTD, tranh chấp liên quan đến bảo lãnh vay vốn, tranh chấp

liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay... Tuy nhiên, tranh chấp xảy ra nhiều nhất

là tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi, về mức lãi suất vay, về vấn

đề bảo đảm. Sở dĩ như vậy là bởi vì những nghĩa vụ này chính là những nghĩa vụ

chính nhất, đóng vai trò nòng cốt trong quá trình thực hiện HĐTD của các bên và

việc thực hiện này có tác động trực tiếp đến quyền lợi của TCTD. Các tranh chấp

khác cũng có tác động đến các TCTD nhưng không phải là cơ bản nên ít xảy ra hơn

so với tranh chấp về nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi hay tranh chấp về lãi suất, về bảo

đảm thực hiện nghĩa vụ.

Thứ năm, tranh chấp HĐTD ngân hàng thường là tiền đề làm phát sinh và

gắn liền với một quan hệ hợp đồng khác: hợp đồng bảo đảm tiền vay thông qua

hình thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba

Các TCTD khi tham gia vào HĐTD đều có mục đích lợi nhuận từ việc cho

vay đó vì bản chất của TCTD là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Để giảm thiểu rủi

ro trong trường hợp bên vay không trả được nợ, thông thường TCTD chỉ đồng ý cho

bên đi vay được vay vốn khi họ có cầm cố, thế chấp bằng tài sản hoặc có bảo lãnh

của bên thứ ba. Các biện pháp bảo đảm này đóng vai trò là phương pháp dự phòng

14

của TCTD khi rủi ro xảy ra. Khi đó, để đảm bảo cho nghĩa vụ được đảm bảo trong

HĐTD thì các bên kí kết hợp đồng bảo đảm cho khoản vay. Tùy trường hợp mà đó

có thể là hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp hay là dưới hình thức chứng thư bảo

lãnh của bên thứ ba. Những điều khoản về quyền và nghĩa vụ trong các hợp đồng

bảo đảm cho nghĩa vụ vay vốn là để bảo đảm cho việc vay vốn, xuất phát từ hợp

đồng tín dụng đã được kí kết và mục đích cuối cùng là bảo đảm cho việc trả nợ của

bên đi vay.

Như vậy, không có trường hợp nào, hợp đồng bảo đảm lại tách rời ra khỏi

HĐTD với tư cách là một hợp đồng độc lập mà giữa chúng luôn có mối quan hệ

mật thiết, gắn bó với nhau. Có thể ví mối quan hệ này như là mối quan hệ giữa hợp

đồng chính và hợp đồng phụ. Sự vô hiệu loại hợp đồng này có ảnh hưởng đến loại

hợp đồng kia tùy trường hợp. “Trong trường hợp hợp đồng có nghĩa vụ được bảo

đảm vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng thì giao dịch bảo đảm chấm dứt,

nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì

giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Ngược

lại, “giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo

đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, có thể khẳng định rằng tranh chấp

HĐTD, với tư cách là hợp đồng chính, luôn gắn liền và làm cơ sở phát sinh tranh chấp

hợp đồng bảo đảm - hợp đồng phụ trong quan hệ tín dụng giữa các bên.

Thứ sáu, tranh chấp HĐTD phát sinh từ sự xung đột về lợi ích giữa các bên

tham gia tranh chấp.

Vì tranh chấp HĐTD cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nên phải xuất

phát từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp đồng. Mặc dù vậy trong quan hệ dân

sự, pháp luật hiện hành quy định một số cơ quan đoàn thể có thể khởi kiện để đảm

bảo quyền lợi cho tổ chức, cá nhân khác mà không phải là lợi ích của chính cơ

quan, đoàn thể đó. Tuy nhiên, đối với tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì chỉ có

chính các bên hay người đại diện hợp pháp của họ mới có quyền khởi kiện để bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên đi vay hay TCTD. Không có trường hợp nào

mà tranh chấp HĐTD phát sinh do tổ chức, cá nhân khác khởi kiện để bảo vệ quyền

lợi cho các bên tham gia HĐTD. Như vậy, tranh chấp phát sinh từ HĐTD chỉ phát

sinh khi các bên khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong

quan hệ tín dụng, hay nói cách khác, tranh chấp HĐTD thường gắn liền với lợi ích

của các bên tranh chấp.

15

1.2.3. Phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng

Khách hàng vay vốn có thể là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh hoặc

không đăng ký kinh doanh và mục đích vay vốn để kinh doanh, sản xuất hoặc tiêu

dùng, sinh hoạt. Vậy, tranh chấp hợp đồng tín dụng có thể là tranh chấp về hợp

đồng dân sự và cũng có thể là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Vậy khi nào

tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hợp đồng dân sự và khi nào là tranh

chấp kinh doanh, thương mại? Để trả lời câu hỏi này, ta cần nhận định rằng bản chất

hợp đồng tín dụng là hợp đồng vay tài sản. Vì vậy, HĐTD ngân hàng là một dạng

đặc biệt của hợp đồng dân sự xuất phát từ hoạt động cho vay của ngân hàng. Nếu

ngân hàng thực hiện cho vay mà bên vay là cá nhân, tổ chức và mục đích vay nhằm

đáp ứng nhu cầu về sinh hoạt và tiêu dùng thì hợp đồng tín dụng ngân hàng mang

tính chất là một hợp đồng dân sự theo đúng nghĩa. Nếu ngân hàng thực hiện cho vay

mà bên vay là các cá nhân, tổ chức hoạt động kinh doanh và mục đích nhằm đáp

ứng cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thương mại thì hợp đồng tín dụng

ngân hàng mang tính chất là hợp đồng kinh doanh, thương mại. Do đó, tuỳ theo đối

tượng và mục đích trong hoạt động cho vay của ngân hàng mà chúng ta nhìn nhận

hợp đồng tín dụng ngân hàng ở gốc độ thích hợp.

Từ phân tích trên tác giả cho rằng tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng

có hai loại:

- Thứ nhất, tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hợp đồng dân sự

khi bên vay vốn là hộ gia đình, cá nhân hay tổ chức không có đăng ký kinh doanh

và không có mục đích lợi nhuận.

- Thứ hai, tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp kinh doanh - thương

mại khi bên vay vốn là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích

lợi nhuận.

* Các dạng tranh chấp hợp đồng tín dụng:

- Tranh chấp do các bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng:

+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên cho vay (ngân hàng) khi HĐTD có hiệu

lực, vì một lý do nào đó bên cho vay đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy

đủ nghĩa vụ giải ngân. Điều này, làm ảnh hưởng xấu tới quyền và lợi ích hợp pháp

của bên vay.

+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ trả gốc và lãi của bên vay. Rõ ràng khi cần tiền

16

để thực hiện kế hoạch, mục tiêu của mình thì khách hàng mới đi vay. Cũng vì lý do

này nên ban đầu thông thường thì khách hàng chấp nhận với lãi suất của ngân hàng

đưa ra nhưng sau một thời gian thực hiện hợp đồng phía khách hàng nhận thấy lãi

suất đó cao quá nên không đồng ý. Đồng thời, quá trình sử dụng vốn vay không

hiệu quả nên dẫn đến mất khả năng thanh toán nợ gốc và lãi. Đây là dạng tranh chấp

xảy ra nhiều nhất trong các tranh chấp HĐTD.

- Tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng. Tranh chấp này trên

thực tế tương đối đa dạng và phức tạp nhất là trong những trường hợp có yếu tố

nước ngoài. Điều này gây không ít khó khăn cho cơ quan giải quyết tranh chấp.

Trong quá trình ký kết hợp đồng tín dụng, việc xem xét tư cách chủ thể của bên vay

vốn là một vấn đề quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của HĐTD. Trên

thực tế, nếu tổ chức tín dụng xem nhẹ vấn đề này, không xác định đúng tư cách chủ

thể (đặc biệt là trường hợp khách hàng vay là tổ chức, doanh nghiệp) dẫn đến việc

ký hợp đồng tín dụng với chủ thể không có thẩm quyền ký kết. Hợp đồng bị tuyên

bố vô hiệu gây thiệt hại nặng nề cho các tổ chức tín dụng.

- Tranh chấp xảy ra từ việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với HĐTD có

bảo đảm bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm.

Chính bởi bản chất hợp đồng tín dụng mang tính rủi ro cao nên các tổ chức

tín dụng coi bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất

(các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Hiện nay, theo quy định của

pháp luật có ba hình thức bảo đảm tín dụng là cầm cố, thế chấp, bảo đảm tài sản

bằng bảo lãnh. Quá trình xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo

đảm được quy định tại Bộ luật Dân sự 2005, Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày

29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày

22/2/2012 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số

163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên,

trong quá trình thực hiện không phải khi nào các bên cũng tuân thủ nghiêm túc

những quy định của pháp luật, nên trên thực tế, các tranh chấp liên quan đến tài sản

bảo đảm tương đối nhiều.

Các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng này chủ yếu liên quan đến việc xử

lý tài sản bảo đảm. Khi thẩm định hồ sơ vay vốn, nếu như nhân viên ngân hàng

thẩm định không kỹ, kết quả thẩm định không chính xác dẫn đến chấp nhận những

17

tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm thì sẽ dẫn

đến những tranh chấp phát sinh khi ngân hàng xử lý tài sản bảo đảm. Chẳng hạn, nếu

không xác định được tài sản bảo đảm thuộc sở hữu chung hay riêng của vợ chồng hoặc

tài sản bảo đảm không thuộc của người cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh thì cũng gây khó

khăn khi xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là tài sản của Hộ gia đình.

- Tranh chấp về pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD : Nếu như khi ký hợp

đồng tín dụng mà các bên đã không thoả thuận lựa chọn cơ quan giải quyết tranh

chấp cũng như luật áp dụng (nếu như có yếu tố nước ngoài) thì sau này có nhiều

khả năng xảy ra việc tranh chấp về luật áp dụng để giải quyết các tranh chấp phát

sinh từ hợp đồng tín dụng. Thực tiễn cho thấy tranh chấp này ít xảy ra.

Hiện nay, khi nền kinh tế Việt Nam ít nhiều chịu sự ảnh hưởng không nhỏ

bởi các cuộc khủng hoảng của các nước trên Thế giới dẫn đến việc xảy ra tranh

chấp trong hợp đồng tín dụng ngày càng nhiều và diễn biến phức tạp. Do đó, việc

tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là hết sức cần thiết. Từ đó, có

những biện pháp, đường lối, chính sách nhằm khắc phục tình trạng tranh chấp để

tiến tới giảm thiểu đáng kể số lượng tranh chấp.

1.3. Nguyên nhân và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng

tín dụng ngân hàng

1.3.1. Nguyên nhân của tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng

Về bản chất, cũng như bất kỳ một tranh chấp thuộc lĩnh vực khác, tranh chấp

HĐTD là sự phản ánh những mâu thuẫn, bất đồng của các chủ thể trong việc thực

hiện quyền, nghĩa vụ theo HĐTD, hay nói cách khác, chỉ khi có sự vi phạm nghĩa

vụ theo hợp đồng của một bên hoặc cả hai bên thì tranh chấp mới phát sinh. Ở đây,

bên cạnh thuật ngữ “tranh chấp HĐTD” còn xuất hiện thuật ngữ “vi phạm HĐTD”.

Hai thuật ngữ này có sự khác biệt về mặt nội dung nhưng lại có mối quan hệ thống

nhất và phụ thuộc lẫn nhau.

“Vi phạm HĐTD” có thể được hiểu là hành vi bất hợp pháp của một hoặc cả

hai bên giao kết không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những điều khoản đã

thỏa thuận trong hợp đồng. “Tranh chấp HĐTD” có thể hiểu là tình trạng pháp lý

phát sinh do một bên hoặc cả hai bên đã có hành vi vi phạm hợp đồng. Như vậy,

trong mối liên hệ giữa hành vi vi phạm hợp đồng với tranh chấp hợp đồng thì vi

phạm HĐTD được coi là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp HĐTD. Theo đó, tranh

18

chấp HĐTD thường bao gồm ba yếu tố: (1) Có quan hệ HĐTD tồn tại giữa các bên

tranh chấp; (2) Có sự vi phạm của một bên làm ảnh hưởng tới lợi ích của bên kia;

(3) Có sự mâu thuẫn, xung đột, bất đồng quan điểm, lợi ích giữa các bên về sự vi

phạm hoặc xử lý hậu quả phát sinh từ sự vi phạm.

Trên thực tế, hầu hết các tranh chấp HĐTD phát sinh đều có nguyên nhân từ

các hành vi vi phạm HĐTD như bên đi vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín

dụng dẫn đến tranh chấp, tổ chức tín dụng không giải ngân theo đúng kế hoạch

trong hợp đồng gây thiệt hại cho khách hàng… Tuy nhiên, nếu khẳng định tất cả

tranh chấp đều phát sinh từ hành vi vi phạm hợp đồng thì sẽ không đầy đủ và thiếu

chính xác vì tranh chấp HĐTD còn có thể xuất phát từ một dạng vi phạm khác, đó

là những vi phạm liên quan đến các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy

định của pháp luật và các bên hoàn toàn có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên

bố hợp đồng vô hiệu để khôi phục lại trình trạng ban đầu. Mặc khác, nhiều khi mâu

thuẫn, bất đồng xảy ra do các bên còn có quan điểm trái ngược nhau về cùng một

vấn đề. Điển hình của loại tranh chấp này là hai bên hiểu không thống nhất về điều

khoản cụ thể nào đó trong hợp đồng và tranh chấp này chỉ đơn thuần là tranh chấp

liên quan đến vấn đề giải thích hợp đồng.

Nguyên nhân gây ra tranh chấp HĐTD rất đa dạng, song có thể khái quát với

những nguyên nhân từ phía bên vay, bên cho vay và cả những hạn chế của quy định

pháp luật.

Về nguyên nhân từ phía bên cho vay: Thông thường phía ngân hàng vi

phạm nghĩa vụ giải ngân cho khách hàng như quy định trong hợp đồng. Các tổ chức

tín dụng không tuân thủ chế độ tín dụng và điều kiện cho vay. Đôi khi ngân hàng

cho vay mà không tiến hành quy trình thẩm định theo nguyên tắc phân tích tín dụng,

điều mà các định chế tài chính quốc tế luôn cảnh báo là: Tính cách người vay, năng

lực trả nợ, dòng tiền mặt, tài sản thế chấp, các điều kiện môi trường, sự kiểm soát

mà ngân hàng lại dựa vào nhận định của các nhân viên của mình. Trên thực tế, khi

tiến hành thẩm định bên cho vay không thể kiểm tra được bên vay có thông qua một

tổ chức tín dụng đen nào hay không. Ở Việt Nam, ngân hàng chưa có chính sách hợp

lý và quy trình cho vay hiệu quả, cơ chế phân tích và quản lý rủi ro còn hạn chế. Việc

đánh giá biện pháp bảo đảm tiền vay còn hạn chế, chưa phân tích, đánh giá các điều

kiện về biện pháp bảo đảm tiền vay. Tổ chức tín dụng đánh giá về biện pháp bảo

19

đảm tiền vay còn dựa vào tài liệu do bên vay xuất trình mà chưa có sự kiểm tra thực

tiễn. Trình độ thẩm định của nhân viên ngân hàng còn chưa cao, nên có những sai

xót và thiếu chặt chẽ - kết quả thẩm định chưa đạt yêu cầu.

Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng còn hạn chế. Trong thực tế bên

ngân hàng không nắm rõ ràng các thông tin chính xác về khách hàng, không biết

chính xác là khách hàng vay vốn và có sử dụng vốn vay đúng mục đích trong hợp

đồng hay không. Một số nhân viên ngân hàng còn thiếu phẩm chất đạo đức cũng

như thiếu năng lực nên trong việc cho vay có đảm bảo nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản

thế chấp mà bên vay vẫn được giữ cả giấy tờ gốc chứng minh tài sản thế chấp của

mình. Điều này dẫn đến có thể bên vay lại đem bán tài sản đã thế chấp ở ngân hàng

cho người thứ ba. Lúc này ngân hàng và người thứ ba có sự tranh chấp về quyền tài

sản – tài sản đã được thế chấp bằng danh nghĩa ở ngân hàng.

Do đó để đảm bảo an toàn tín dụng các ngân hàng cần tuân thủ nghiêm túc

quy trình, điều kiện cho vay, các quy định của pháp luật liên quan, cần nâng cao

hơn nữa đội ngũ nhân viên ngân hàng, xây dựng và nâng cao hệ thống thông tin tín

dụng, có biện pháp để kiểm tra, giám sát hữu hiệu các hoạt động của bên vay theo

những cam kết trong hợp đồng.

Về nguyên nhân từ phía bên vay:

Bên vay không đảm bảo nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ những

nghĩa vụ của mình. Thông thường do hai nguyên nhân: nguyên nhân khách quan

và chủ quan.

Nguyên nhân khách quan: là những nguyên nhân tác động ngoài ý chí, tầm

kiểm soát của khách hàng như: do sự thay đổi của chính sách quản lý kinh tế, do

thiên tai, hoả hoạn, điều chỉnh quy hoạch, do thị trường biến động, quan hệ cung

cầu hàng hoá thay đổi… làm cho hoạt động của bên vay không thực hiện như kế

hoạch đề ra.

Nguyên nhân chủ quan: Cá nhân vay vốn không nắm được thông tin cần

thiết về kế hoạch đầu tư, sản xuất khi vay vốn dẫn đến tình trạng vay vốn về đầu tư

không có hiệu quả. Có thể là do vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp không đáp ứng nhu cầu, năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị

trường và thông tin về các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng tới quá trình sản xuất,

công nghệ chưa được cải thiện nên sản phẩm tạo ra chưa có tính cạnh tranh cao,

20

hiệu quả kinh doanh kém, hậu quả là doanh nghiệp thua lỗ lâm vào tình trạng phá sản.

Cũng có trường hợp do bên vay cố tình đưa ra những thông tin sai sự thật ngay từ khi

vay vốn nên khi về đầu tư hay sử dụng vào mục đích của mình không có hiệu quả.

Nguyên nhân nữa là do bên vay còn thiếu hiểu biết về pháp luật, trình độ

hiểu biết của bên vay còn hạn chế về những kiến thức pháp luật liên quan. Có

trường hợp bên vay ký hợp đồng trong khi bản thân không hiểu rõ về pháp luật nên

khả năng xảy ra những bất lợi cho mình là rất lớn. Đơn cử như trường hợp của ông

Phùng Hữu Phú ở thị trấn Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, năm 2014 ông đã thế chấp

ngôi nhà của mình để vay vốn Ngân hàng nông nghiệp, phát triển nông thôn Việt

Nam chi nhánh Phúc Thọ số tiền 500 triệu đồng để đầu tư cho cơ sở chế biến nông

sản. Nhưng sau đó do không có hiểu biết về những quy định của pháp luật ông Phú

đã ký hợp đồng bán nhà để đảm bảo cho khoản vay mới. Hiện tại, khoản tín dụng

mới không vay được, khoản tín dụng trước thì chưa có khả năng thanh toán và bên

vay còn phải đối mặt với nguy cơ mất nhà do chủ nợ đang khởi kiện ra toà yêu cầu

thực hiện hợp đồng bán nhà trên. Trong tình huống trên, nếu ông Phú có kiến thức

về pháp luật nhất là pháp luật ngân hàng thì sẽ không dẫn đến ký hợp đồng bán nhà

để đảm bảo cho khoản vay. Hiện nay, sự hiểu biết những quy định pháp luật của

một bộ phận người dân còn nhiều hạn chế, sự hạn chế đó không chỉ gây tổn thất cho

chính người vay mà còn ảnh hưởng tới quyền lợi của ngân hàng và đặc biệt là

những hệ lụy về mặt xã hội.

Nguyên nhân từ quy định của pháp luật: Xã hội luôn thay đổi theo nhiều

chiều hướng khác nhau, các mối quan hệ xã hội cũng đổi mới không ngừng kéo

theo các giao dịch trong xã hội cũng có thêm nhiều yếu tố phức tạp và đa dạng hơn.

Trái lại, trên thực tế pháp luật nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, pháp

luật chưa thể dự kiến và điều chỉnh được các mối quan hệ xã hội sắp diễn ra. Một

điều đáng lưu ý là sự hiểu biết về pháp luật của các bên trong hợp đồng còn chưa rõ

ràng, mâu thuẫn với nhau về lợi ích giữa các bên dẫn đến nảy sinh tranh chấp. Pháp

luật nước ta quy định bên cho vay bắt buộc phải đưa ra các căn cứ pháp lý hay

những lý do chính đáng nếu muốn từ chối khách hàng, vấn đề này chưa có văn bản

hướng dẫn cụ thể. Nên bên cho vay cho rằng cho vay là quyền của mình còn bên đi

vay thì có quan điểm ngược lại, điều đó dễ dẫn đến mâu thuẫn.

21

Những HĐTD ngân hàng theo mẫu do ngân hàng đưa ra đa phần là rất chặt

chẽ cả về hình thức và nội dung. Thông thường những hợp đồng theo mẫu này gắn

liền với lợi ích của ngân hàng.

Các quy định của pháp luật còn chưa thống nhất, chồng chéo lẫn nhau đặc

biệt là các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay, hành lang pháp lý cho hoạt

động giao dịch bảo đảm chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và nhiều quy định không

thể thực hiện được trên thực tế. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện phân tán

ở nhiều cơ quan khác nhau tạo kẽ hở trong quản lý. Theo Nghị định số

163/2006/NĐ-CP và Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi nghị định 163/2006/NĐ-

CP của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, cho phép các tổ chức tín dụng

được lựa chọn hình thức xử lý đa dạng như bán tài sản thế chấp, nhận các khoản

tiền và tài sản từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ, phương thức

khác do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên không thoả thuận được phương

thức xử lý tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì các tài sản này

được đem bán đấu giá nhưng để thực hiện được các bên lại phải ký hợp đồng uỷ

quyền tại đơn vị bán đấu giá có thẩm quyền. Điều này thường không thực hiện được

do bên thế chấp không đồng ý và khi đó các tổ chức cho vay không có cơ chế nào

để bảo vệ được quyền lợi của mình.

1.3.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng

Giống như các phương thức giải quyết tranh chấp khác, pháp luật hiện hành

công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng cụ

thể như: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp

kinh doanh các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp thương lượng

với nhau. Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải quyết tranh chấp có

thể được thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua phương thức hòa giải,

trọng tài hoặc tòa án. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng dựa

trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên. Cơ quan Nhà nước và

Trọng tài thương mại chỉ can thiệp theo yêu cầu của các bên tranh chấp.

Để đảm bảo phát triển và duy trì sự phát triển, vấn đề lựa chọn phương thức

giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng được các bên cân nhắc, lựa

chọn phù hợp dựa trên các yếu tố như mục tiêu đạt được, bản chất của tranh chấp,

mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi phí dành cho việc giải quyết tranh

22

chấp. Chính vì vậy, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên cần

hiểu rõ bản chất và cân nhắc các ưu điểm, nhược điểm của một phương thức để có

quyết định hợp lý.

- Đối với phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng

thương lượng:

Phương thức thương lượng là phương thức được các bên tranh chấp lựa chọn

trước tiên và trong thực tiễn phần lớn các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng

được giải quyết bằng phương thức này. Thông qua phương thức này, các bên tranh

chấp cùng nhau bàn bạc, tự tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp

mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kỳ bên thứ ba nào. Nhà nước

khuyến khích áp dụng phương thức tự thương lượng để giải quyết tranh chấp trên tinh

thần hoàn toàn tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên. Chính vì điều này, pháp luật

không đưa ra bất cứ quy định nào cho phương thức giải quyết này.

Phương pháp thương lượng là phương thức được các bên tiến hành đầu tiên

bởi các ưu điểm của nó như: thuận tiện, đơn giản, nhanh chóng, linh hoạt, ít tốn

kém về thời gian, về tiền bạc, không ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý phức tạp,

đảm bảo bí mật, uy tín của các bên. Nếu thương lượng thành công thì ít gây phương

hại đến quan hệ hợp tác vốn có của các bên thậm chí còn được tăng cường về sự

hiểu biết và hợp tác lẫn nhau khi kết thúc cuộc thương lượng.

Tuy vậy, bên cạnh các ưu điểm trên, thương lượng cũng có những nhược

điểm như: thương lượng thành công phụ thuộc vào các bên có thiện chí muốn tìm

giải pháp đối với tranh chấp. Nếu bên vay muốn dùng hình thức thương lượng để

kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ thì thương lượng chỉ làm tốn kém và kéo dài

thời gian giải quyết tranh chấp hơn. Sự thực thi kết quả thương lượng phụ thuộc vào

ý chí tự nguyện thi hành của các bên tham gia. Cũng chính vì, phương thức giải quyết

tranh chấp bằng thương lượng không bị ràng buộc bởi bất kỳ các cơ chế pháp lý nào

nên kết quả thương lượng cũng không được bảo đảm bởi bất kỳ cơ chế pháp lý nào dẫn

đến tính bắt buộc thực hiện không cao. Mặt khác, hình thức giải quyết khép kín, không

công khai có khi lại nảy sinh những tiêu cực, trái pháp luật.

- Đối với phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng hoà giải:

Cũng giống như thương lượng, hoà giải là các bên tranh chấp cùng nhau bàn

bạc, thỏa thuận để giải quyết các vấn đề tranh chấp nhưng khác là hoà giải có sự hỗ

23

trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Người trung gian có thể là cá nhân, tổ chức luật

sư, tư vấn, hoặc các tổ chức khác do các bên thỏa thuận lựa chọn. Bên thứ ba trung

lập chỉ hỗ trợ các bên đưa ra thoả thuận, không có thẩm quyền phán xét, điều này

khác với phương pháp giải quyết bằng Trọng tài thương mại. Kết quả hòa giải phụ

thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của

trung gian hòa giải, quyết định cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp không phải

của trung gian hòa giải mà hoàn toàn phụ thuộc các bên tranh chấp. Trên thực tế,

phương thức hòa giải đã được sử dụng, nhưng phạm vi và hiệu quả áp dụng còn ở

mức khiêm tốn.

Với phương pháp giải quyết tranh chấp bằng hoà giải, chúng ta có thể thấy

các ưu điểm như: thủ tục, thời gian, địa điểm hoà giải có thể được thỏa thuận và

điều chỉnh do các bên tham gia giải quyết tranh chấp, các bên có quyền tự định

đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa giải. Hòa giải mang tính thân

mật nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ kinh doanh vì lợi ích của cả

hai bên. Tính thân mật trong hòa giải được thể thiện qua không gian và môi trường,

phong thái và ngôn ngữ trong hòa giải, hành vi giao tiếp và ứng xử của những người

tham gia. Giá trị của tính thân mật là ở chỗ nó có thể làm cho quá trình trung gian

hòa giải gần gũi và thân thiện với các bên tranh chấp hơn, không tạo ra sự lo lắng và

căng thẳng so với hoạt động xét xử tại Tòa án. Trong hòa giải, các bên tranh chấp

có thể nói chuyện, trao đổi, đàm phán và thảo luận về các giải pháp trong toàn bộ

quá trình. Quá trình hòa giải tạo cơ hội cho mỗi bên bày tỏ quan điểm của mình về

tranh chấp, không dẫn đến tình trạng đối đầu, thắng thua như quá trình kiện tụng tại

tòa án, duy trì được mối quan hệ vốn có của các bên. Do hòa giải xuất phát từ sự tự

nguyện tham gia và tự do thỏa thuận của các bên, nên nội dung thỏa thuận luôn hướng

tới lợi ích của tất cả các bên. Mặt khác, là khi giải quyết bằng con đường này các bên

kiểm soát được những bí mật của mình bởi phiên họp hòa giải được tổ chức kín, trong

khi giải quyết tại Tòa án thì các yêu cầu này không được đảm bảo do tòa án thực hiện

xét xử theo nguyên tắc công khai.

Bên cạnh những ưa điểm trên, giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng

phương pháp hòa giải vẫn còn tồn tại những nhược điểm nhất định: việc hòa giải có

được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất trí của các bên, hòa giải viên không

có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất cứ vấn đề gì đối với các bên

24

tranh chấp thỏa thuận hòa giải, không có tính bắt buộc thi hành như phán quyết của

Trọng tài thương mại hay của Tòa án. Các thỏa thuận, cam kết từ kết quả của quá trình

hòa giải không có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc vào thiện chí, sự

tự nguyện của các bên. Vì vậy, phương pháp này ít được sử dụng nếu các bên không

có sự tin tưởng với nhau.

- Đối với phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng trọng

tài thương mại:

Phương thức giải quyết tranh chấp HĐTD bằng trọng tài thương mại cũng

bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện và được tiến hành theo

quy định của Luật Trọng tài thương mại. Các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn

một Trọng tài phù hợp, chỉ định trọng tài viên để thành lập Hội đồng (hoặc Ủy ban)

Trọng tài giải quyết tranh chấp với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu

thuẫn tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành. Điều này

khác với phương thức thương lượng và hòa giải.

Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng

bằng trọng tài thương mại cho thấy có một số ưu điểm sau: Thứ nhất, phương pháp

trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp có nguyên tắc xử kín nếu các bên

không có thỏa thuận khác. Thoả thuận phương thức giải quyết tranh chấp bằng

trọng tài thương mại thường được sử dụng trong hợp đồng tín dụng mà bên vay là

các doanh nghiệp. Nguyên tắc xử kín trong phương pháp này là một ưu điểm mà

các bên tranh chấp luôn coi trọng bởi các bên không muốn các chi tiết của vụ tranh

chấp bị đem ra công khai trước Tòa án, điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ

trong hoạt động kinh doanh của mình. Việc xét xử tranh chấp bằng trọng tài thương

mại trên thực tế đã làm giảm đáng kể mức độ xung đột, căng thẳng của những bất

đồng bởi nó diễn ra trong một không gian kín, nhẹ nhàng, mang nặng tính trao đổi

để tìm ra sự thật khách quan của vụ việc. Đó chính là những yếu tố tạo điều kiện để

các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau. Thứ hai, quyết

định của Trọng tài thương mại là chung thẩm và vì vậy nó có giá trị bắt buộc đối

với các bên, các bên không có quyền chống án hay kháng cáo. Việc xét xử tại Trọng

tài thương mại chỉ diễn ra ở một cấp xét xử, đó cũng chính là điều khác biệt cơ bản so

với xét xử tại Tòa án bởi thông thường xét xử tại Tòa án diễn ra ở hai cấp. Hội đồng

trọng tài sau khi tuyên phán quyết xong là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và chấm

25

dứt sự tồn tại. Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thể hiện tính

năng động, linh hoạt và mềm dẻo, tạo quyền chủ động cho các bên về địa điểm, thời

gian giải quyết tranh chấp, tiết kiệm được thời gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng

tài trong khi tòa án khi xét xử phải tuân thủ một cách đầy đủ và nghiêm ngặt các quy

định có tính chất quy trình, thủ tục, trình tự được quy định trong Bộ luật Tố tụng

Dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn liên quan. Thứ tư, giải quyết trọng tài

không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng

tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình.

Tuy nhiên, bên cạnh đó phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có

những nhược điểm đáng kể như là: Quyết định trọng tài thương mại không có tính

cưỡng chế cao như quyết định của toà án; việc thi hành quyết định trọng tài thương

mại không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án mà phụ

thuộc chủ yếu vào thiện chí và sự hợp tác giải quyết của các bên. Giải quyết bằng

phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài

thì phí trọng tài càng cao.

- Đối với phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng tòa án:

Vấn đề giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng là vấn đề mang tính thường

xuyên trong giai đoạn hiện nay, việc tự giải quyết tranh chấp của các bên gặp nhiều

khó khăn vì nhiều nguyên nhân khác nhau và vì vậy cần thiết có sự can thiệp của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền mà phổ biến là Tòa án nhân dân. Phương thức giải quyết

tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng thông qua Tòa án là hình thức cuối cùng mà

các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp khi không còn lựa chọn nào khác. Thông

thường thì hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án được tiến

hành khi mà việc áp dụng cơ chế thương lượng và hoà giải không có hiệu quả và các bên

tranh chấp cũng không thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tranh chấp tại Trọng

tài thương mại.

Như vậy, có thể hiểu giải quyết tranh chấp HĐTD bằng tòa án là hình thức

giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán Nhà nước thực hiện. Tòa án nhân danh

quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thi hành, kể cả

bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Do đó, các đương sự thường tìm đến sự

trợ giúp của Tòa án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền,

lợi ích của mình khi họ thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng hoặc hòa

26

giải và cũng không muốn đưa vụ tranh chấp của họ để giải quyết bằng trọng tài

thương mại.

Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại tòa án có nhiều ưu điểm nhưng cũng có

những nhược điểm nhất định, ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thông

qua tòa án là: đặc trưng cơ bản của thủ tục giải quyết tranh chấp bằng tòa án là

thông qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa

ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành. Vì vậy, quyết định của tòa án có

tính cưỡng chế cao, quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên

thua kiện có tài sản để thi hành án. Nhờ đó, việc giải quyết tranh chấp thông qua tòa

án còn trực tiếp góp phần vào việc nâng cao ý thức, tôn trọng pháp luật cho các bên

tham gia. So với phương thức trọng tài thương mại, việc giải quyết tranh chấp bằng

toà án được thực hiện qua hai cấp xét xử, nhờ vậy mà những sai sót trong quá trình

giải quyết tranh chấp có khả năng được phát hiện, khắc phục đảm bảo quyền lợi

chính đáng của các bên tham gia. Chi phí giải quyết tranh chấp bằng toà án ít hơn

nhiều so với chi phí giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại và chi phí này

không tỷ lệ thuận với thời gian giải quyết tranh chấp như ở phương pháp trọng tài

thương mại. Việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng toà án có tính bắt

buộc tham gia cao đối với các bên tranh chấp không như các phương thức khác chỉ

có tính tự nguyện.

Trước khi đưa vụ án tranh chấp ra xét xử, toà án phải tiến hành hoà giải theo

quy định của pháp luật. Hoà giải ở đây được gọi là hoà giải trong tố tụng. Một thẩm

phán đã được phân công xét xử vụ án sẽ đóng vai trò là bên thứ ba độc lập để giúp

các bên tranh chấp tự thoả thuận cách giải quyết vấn đề mà không cần phán quyết

của toà án. Tại phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà án các bên tranh chấp có

quyền lựa chọn việc tham gia hoà giải. Sau khi thẩm phán ra quyết định công nhận các

bên hoà giải thành thì các thoả thuận sẽ có giá trị thực hiện như một bản án hiệu lực.

Đây là điều khác biệt đối với hoà giải ngoài tố tụng như phương thức hoà giải tranh

chấp phát sinh từ HĐTD bằng hoà giải đã phân tích ở trên.

Tuy vậy, việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng

tín dụng bằng con đường tòa án cũng có những nhược điểm nhất định so với các

hình thức khác như: thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua tòa án thường dài hơn

so với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Hơn nữa, nguyên tắc xét xử

27

công khai tại tòa án có thể làm sụt giảm uy tín của các bên trên thương trường; lộ

lọt các bí mật kinh doanh cản trở hoạt động đối với các chủ thể bên vay là doanh

nghiệp. Ngoài ra, bản án xét xử xong chưa được thi hành ngay mà các bên có quyền

kháng cáo, khiếu nại nên thời gian kéo dài ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của

các bên tranh chấp.

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết

tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng Tòa án

Việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng

Tòa án chịu ảnh hưởng chặt chẽ bởi các yếu tố bên ngoài cũng như bên trong. Điều

này đóng góp tích cực vào việc xây dựng và kiện toàn hệ thống pháp luật về lĩnh

vực này.

1.4.1. Tình hình kinh tế, xã hội của đất nước

Đây chính là yếu tố đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc

hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, và pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp

đồng tín dụng nói riêng. Theo lý thuyết về cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc

thượng tầng mà sự ảnh hưởng của nền kinh tế, và xã hội tới giải quyết tranh chấp

hợp đồng tín dụng bằng Tòa án là hoàn toàn có thể xảy ra. Bởi lẽ, trên thực tế, với

sự pháp triển ngày càng tăng của nền kinh tế, thì các giao dịch tín dụng, ngân hàng

ngày càng phát triển, do đó, số lượng tranh chấp ngày một nhiều. Điều này là cơ sở,

là tiền đề để chúng ta phải hoàn thiện hơn nữa pháp luật về giải quyết tranh chấp

hợp đồng tín dụng bằng con đường Tòa án.

1.4.2. Vấn đề chiến lược cải cách tư pháp và cải cách hệ thống pháp luật

hư chúng ta đã biết, việc cải cách tư pháp và cải cách hệ thống pháp luật Việt

Nam đã được Đảng và Nhà nước đề cập đến từ những năm 2002 và năm 2005 bằng

các nghị quyết của Đảng. Việc hoàn thiện bất kỳ hệ thống pháp luật chuyên ngành

nào đều phải bám sát, lấy các Nghị quyết của Đảng làm trọng tâm làm cơ sở. Trong

việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân sự - kinh tế, Nghị quyết của Đảng đã chỉ

rõ, cần phải lấy nguyên tắc tự nguyện, tự định đoạt làm cơ sở, làm gốc của mọi

quan hệ pháp luật tư. Nhà nước cần tránh và hạn chế tối đa sự can thiệp vào các

quan hệ dân sự - kinh tế, không được hình sự hóa các quan hệ dân sự. Đây là cơ sở,

là định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín dụng và pháp luật về

giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ở Việt Nam hiện nay.

28

1.4.3. Yếu tố về tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án

Đây là yếu tố quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về

giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng Tòa án. Bởi lẽ, giải quyết được các

tranh chấp này, cần phải có tổ chức bộ máy cán bộ Tòa án đủ mạnh, đủ năng lực, có

kinh nghiệm về giải quyết tranh chấp tín dụng. Trên thực tế, trong những năm vừa

qua, ngành Tòa án nhân dân ngày một lớn mạnh, có sự phát triển vượt bậc về số

lượng và chất lượng. Tuy nhiên, trên thực tế, chất lượng này chưa tương xứng với

lượng công việc giải quyết các tranh chấp đặc biệt là tranh chấp trong lĩnh vực kinh

tế. Do đó, trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp

đồng tín dụng bằng Tòa án cần phải đặt trong mỗi quan hệ với hoàn thiện cơ cấu tổ

chức và hoạt động của ngành Tòa án nhân dân.

Tiểu kết chương 1

Tranh chấp phát sinh từ hoạt động tín dụng là một hiện tượng tất yếu khách

quan, có thể xảy ra trong bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình thực hiện các nội

dung của hợp đồng tín dụng do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan.

Điều quan trọng là làm thế nào có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về nó để đưa ra

các biện pháp hạn chế đến mức thấp nhất việc phát sinh tranh chấp về lãi suất trong

hợp đồng tín dụng.

Trong chương 1, luận văn đã tập trung nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề

cơ bản về hợp đồng tín dụng và các nguyên nhân, phương pháp giải quyết tranh

chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng (chủ yếu là phương pháp giải quyết tranh chấp

bằng con đường toà án), các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về giải

quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng Tòa án… Từ đó cho thấy sự cần thiết

trong xây dựng và áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín

dụng để làm cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực trạng ở Chương 2 và đề ra giải

pháp ở Chương 3.

29

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG

TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng

tín dụng

2.1.1. Một số quy định về hợp đồng tín dụng

Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy

định của Bộ luật Dân sự 2015. Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong trường

hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng (TCTD), trong đó chủ yếu là các ngân hàng

(sau đây gọi chung là ngân hàng).

Hợp đồng tín dụng chính là hợp đồng cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho

vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một

thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Còn

những hoạt động cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá

được gọi chung là hợp đồng cấp tín dụng.

Nếu bên vay là doanh nghiệp và hộ kinh doanh, thì hợp đồng tín dụng sẽ là

hợp đồng thương mại. Nếu bên vay là cá nhân, thì hợp đồng tín dụng sẽ là hợp đồng

dân sự.

Cho vay vốn được ví như việc bán chịu một loại hàng hóa đặc biệt, đó là tiền

tệ. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng, trước khi giải ngân, thì thế mạnh hoàn toàn thuộc

về ngân hàng và ngân hàng là người quyết định có hay không cho vay. Dấu ấn vẫn

đang hiện hữu trong Luật các TCTD năm 1997 để chỉ quá trình chuẩn bị giao kết

hợp đồng, đó là những cụm từ “cấp tín dụng” và “xét duyệt cho vay” hay là “yêu

cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh” tính khả thi của phương án vay vốn và

khả năng trả nợ. Tuy nhiên, ngay sau khi thực hiện hợp đồng, tức là sau khi ngân hàng

giải ngân, thì xu thế lại hoàn toàn đảo ngược. Khi ấy, bên vay là người nắm vai trò chủ

động trong việc trả nợ. Mặc dù ngân hàng có khá nhiều quyền chi phối theo quy định

của pháp luật về hợp đồng tín dụng, nhưng vẫn trở thành bên thụ động.

Nhìn chung pháp luật liên quan là BLDS, Luật các TCTD và Quy chế Cho

vay của TCTD đối với khách hàng do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành

30

(hiện nay là Thông tư 39/2016/TT-NHNN), đã quy định khá cụ thể, chi tiết các điều

kiện, điều khoản có trong một hợp đồng tín dụng. Vì vậy chỉ cần lưu ý đến một số

điểm đặc biệt trong hợp đồng tín dụng.

Về nguyên tắc, bên vay vốn được sử dụng vốn vay vào bất kỳ mục đích nào,

nếu không bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, có những trường hợp không bị pháp luật

cấm, như việc vay vốn để trả nợ ngân hàng khác hoặc trả nợ chính ngân hàng vay,

nhưng lại rất khó được chấp nhận, vì nó được coi như một hoạt động đảo nợ. Trước

đây, việc đảo nợ bị cấm, sau đó được quy định trong Luật các TCTD là “Việc đảo

nợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ”. Tuy nhiên từ năm 1997 đến nay,

vẫn không có văn bản nào của Chính phủ hay NHNN giải thích về nội dung này.

Đối với vay vốn dân sự hoặc thương mại thông thường, thì hầu như bên cho

vay không quan tâm đến mục đích sử dụng vốn vay, trong khi đối với hợp đồng tín

dụng thì lại là một trong điều kiện quan trọng nhất.

Trong cả thời hạn vay vốn, nếu bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục

đích đã thỏa thuận, thì ngân hàng lập tức được quyền chấm dứt hợp đồng, phạt vi

phạm và thu hồi nợ trước hạn. Đó luôn là quy định của pháp luật, cũng đồng thời là

điều quan tâm hàng đầu của các ngân hàng trong nghiệp vụ xét duyệt và quản lý các

khoản vay. Để bảo đảm được việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và việc trả nợ

đúng hạn, ngân hàng được quyền kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và

trả nợ. Đây cũng là điều hầu như không xuất hiện trong các hợp đồng vay vốn trong

các quan hệ giữa cá nhân và các doanh nghiệp.

Để bảo đảm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và khả năng trả nợ của bên

vay, Luật các TCTD quy định, ngân hàng có trách nhiệm và có quyền kiểm tra,

giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của bên vay.

Hợp đồng tín dụng phải được lập thành văn bản, trong đó có nội dung về

điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời

hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những

cam kết khác được các bên thoả thuận (Điều 51 Luật các TCTD).

Mẫu hợp đồng mà các ngân hàng đưa ra không phải là hợp đồng mẫu theo

quy định của BLDS, mà chỉ là bản thảo để thuận tiện trong quá trình đàm phán ký kết

hợp đồng. Bên vay hoàn toàn có thể thoả thuận với ngân hàng thay đổi bất kỳ nội dung

31

nào. Tuy nhiên, trên thực tế thì bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản thiên

về ràng buộc chặt chẽ đối với bên vay và có lợi hơn cho ngân hàng.

So với hợp đồng thương mại, hợp đồng tín dụng thường có điểm khác là

thường rất nhiều văn bản có các yếu tố như một hợp đồng, như đơn đề nghị vay

vốn, hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ (giấy nhận nợ),... Chẳng hạn trong đơn đề

nghị vay vốn có nhiều nội dung cơ bản của hợp đồng tín dụng như số tiền vay, mục

đích vay, thời hạn vay, lãi suất vay và cam kết của bên vay. Trường hợp ngân hàng

ký chấp thuận những nội dung đó, thì hoàn toàn có thể thay thế cho một bản hợp

đồng tín dụng. Tương tự, khế ước nhận nợ cũng thường liệt kê lại một cách đầy đủ

những điểm chủ yếu của hợp đồng tín dụng, nên trong nhiều trường hợp cũng đồng

nghĩa với một hợp đồng tín dụng. Do hợp đồng tín dụng được làm kỹ như vậy, nên

rất ít khi xảy ra tranh chấp về chính hợp đồng tín dụng, mà thường là tranh chấp liên

quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm để trả nợ.

Theo quy định của pháp luật, thì chỉ có hợp đồng tín dụng. Nhưng trên thực

tế, vừa do truyền thống, vừa do yêu cầu thực tế, nên bên cạnh hợp đồng tín dụng,

các ngân hàng thường đưa ra thêm một loại văn bản nữa là khế ước nhận nợ, là một

loại giấy nhận nợ. Khế ước nhận nợ thường cũng đủ các yếu tố chủ yếu của hợp

đồng tín dụng.

Trong thực tế, nhiều ngân hàng ký hợp đồng tín dụng nguyên tắc với bên

vay, trong đó xác định các nguyên tắc chung và các nội dung thoả thuận sơ bộ về

việc cho vay một số vốn nhất định khi hai bên vay đáp ứng được đầy đủ những điều

kiện vay vốn theo quy định của pháp luật cũng như của ngân hàng cho vay. Hợp

đồng tín dụng nguyên tắc là căn cứ để ngân hàng và bên vay tiếp tục ký các hợp

đồng tín dụng cụ thể. Khi ấy, hợp đồng tín dụng cụ thể có thể không cần nhắc lại

những thoả thuận chung như quyền, nghĩa vụ của các bên chẳng hạn.

Các bên thường sử dụng hợp đồng tín dụng nguyên tắc trong trường hợp bên

vay có nhiều tài sản bảo đảm đưa vào ngân hàng để vay vốn nhiều lần và diễn ra

trong một thời gian dài. Khi đó hợp đồng bảo đảm tiền vay được thiết lập để bảo

đảm cho hợp đồng tín dụng nguyên tắc, thay vì cứ mỗi hợp đồng tín dụng lại phải

ký một hợp đồng bảo đảm tiền vay, vừa mất chủ động trong giao dịch vay vốn, vừa

tốn kém chi phí định giá, công chứng, đăng ký thế chấp lại.

32

Hợp đồng tín dụng hạn mức là hợp đồng tín dụng cụ thể nhưng có thêm điều

khoản cho phép bên vay rút vốn và trả nợ nhiều lần, miễn là bảo đảm dư nợ vay

trong mọi thời điểm không quá mức tiền vay cao nhất mà hai bên đã thoả thuận.

Mỗi lần vay vốn, bên vay chỉ cần ký khế ước nhận nợ thay vì phải ký nhiều hợp

đồng tín dụng với những điều kiện tương tự nhau.

Thời hạn cho vay trong hợp đồng tín dụng được phân thành hai loại cơ bản là

ngắn hạn và trung, dài hạn, trong đó: Khoản vay vay ngắn hạn là không quá 12

tháng (1 năm); Khoản vay trung hạn là từ trên 12 tháng đến 60 tháng (1 - 5 năm);

Khoản vay dài hạn là trên 60 tháng (5 năm).

Giữa các khoản vay ngắn hạn và khoản vay trung, dài hạn, thường có những

đòi hỏi khác biệt, được xem xét thẩm định theo những quy trình, thủ tục khác nhau

và áp dụng lãi suất khác nhau theo nguyên tắc: thời hạn càng lâu thì càng tiềm tàng

rủi ro, và sự nguy hiểm sẽ tăng theo lãi suất.

Đối với hợp đồng kinh doanh thương mại, thời hạn được tính theo nhiều cách

khác nhau, thường là từ ngày ký hợp đồng. Còn đối với hợp đồng tín dụng, thì thời

hạn hợp đồng thường cũng chính là thời hạn cho vay, cho nên luôn được tính theo

mốc từ thời điểm bắt đầu nhận khoản tiền vay đầu tiên (ngày rút vốn hay ngày giải

ngân) cho đến khi trả hết khoản nợ cuối cùng theo thoả thuận ban đầu..

* Lãi suất cho vay trong hợp đồng tín dụng

Trước đây, tại Điều 476 BLDS năm 2005 quy định các bên trong hợp đồng

cho vay có quyền thỏa thuận về lãi suất nhưng không được vượt quá 150% của lãi

suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng và

trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi

suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà

nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ Nay, BLDS năm

2015 quy định hạn mức lãi suất tối đa mà các bên được thỏa thuận đã được hạ

xuống, đồng thời pháp luật đã mở rộng quyền thỏa thuận cho các bên trong trường

hợp hợp đồng cho vay có tính lãi nhưng không xác định lãi cụ thể. Điều 468 của Bộ

luật này quy định: “1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có

thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm

của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ

tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết

33

định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại

khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định

rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi

suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”

Quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015, là một trong những thay đổi quan

trọng và được đánh giá là có thể hạn chế được những bất cập trong việc áp dụng

quy định về lãi xuất theo BLDS năm 2005. Theo đó, lãi suất vay là do chính các bên

thỏa thuận, nếu vay có lãi thì lãi xuất thỏa thuận không được quá 20%/năm của

khoản tiền vay, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, không như cách tính lãi

suất thỏa thuận theo mức tham chiếu là lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước

được quy định tại khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2005 “Lãi suất vay do các bên thoả

thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà

nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.”.

Về mức lãi suất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015,

trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại

khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Như vậy, lãi suất tối đa

trong các hợp đồng vay tài sản các bên được thỏa thuận theo BLDS năm 2015

không quá 20%/năm (tức 1,7%/tháng).

Về lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của

lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố theo quy định tại khoản 1 Điều 476

BLDS năm 2005. Theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Ngân

hàng nhà nước Việt Nam, về lãi suất cơ bản của Việt Nam đồng để tính lãi suất, thì

mức lãi suất cơ bản là 9%/01 năm, tức là 0,75%/01 tháng. Lãi suất cao nhất các bên

đương sự được thỏa thuận theo quy định tại khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2015 là

1,125%/01 tháng (tức 13,5%/01 năm).

So sánh quy định về lãi suất giữa BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 thấy:

BLDS năm 2015 quy định luôn mức lãi suất cao nhất được thỏa thuận trong các hợp

đồng dân sự vay tài sản là 20%, không phụ thuộc vào mức lãi suất cơ bản do Ngân

hàng nhà nước quy định. Mức lãi suất theo BLDS năm 2015 cao hơn so với BLDS

năm 2005 mục đích giảm thiểu sự chênh lệch về mức lãi suất trong các hợp đồng

34

dân sự thông dụng với các hợp đồng tín dụng, bình đẳng hóa giữa các chủ thể khi

tham gia vào các giao dịch vay tài sản.

Về trường hợp không rõ về lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất: Theo quy

định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015, trường hợp không rõ hoặc có tranh

chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất theo quy định tại

khoản 1 Điều 468 Bộ luật này. Theo quy định này mức lãi suất trong trường hợp

không rõ hoặc có tranh chấp sẽ là 10%/01 năm (tức 0,83%/tháng).

So với quy định tại khoản 2 Điều 476 BLDS năm 2005 thì trường hợp không rõ về

lãi suất hoặc các bên đương sự có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản

do ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.

Theo quy định này thì mức lãi suất có tranh chấp là 0,75%/01 tháng. Như vậy, mức

lãi suất trong trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất theo quy định của

BLDS năm 2015 không phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước và

mức lãi lớn hơn so với quy định của BLDS năm 2005.

Việc thay đổi này đã giải quyết được mâu thuẫn giữa quy định tại khoản 1

Điều 476 BLDS năm 2005 với Điều 1 của Thông tư số 07/2010/TT-NHNN ngày

26/02/2010 của Ngân hàng Nhà nước quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam

theo lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.

Theo quy định tại Điều 12 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và khoản 2, khoản

3 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, trong điều kiện bình thường, lãi

suất trong hoạt động ngân hàng sẽ thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận, không có

trần lãi suất. Về nghĩa vụ trả nợ của bên vay, trước đây tại khoản 4 và khoản 5 Điều

474 BLDS năm 2005 quy định:

“4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ

hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi

suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại

thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận.

5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả

không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản

do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”

Nay theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015:

“4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không

35

đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại

khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm

trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.

5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không

đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:

a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với

thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo

mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;

b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng

tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”

* Nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng tín dụng

- Thoả thuận về nợ đến hạn

Một trong những vấn đề vướng mắc trong hợp đồng tín dụng là việc thu hồi

nợ trước hạn. Luật các TCTD cho phép các ngân hàng được phép thu hồi nợ trước hạn

nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Đây là một trong những đòi hỏi cơ bản, là

quyền rất quan trọng của các ngân hàng để bảo đảm an toàn vốn cho vay. Tuy nhiên có

luồng quan điểm không đồng tình vì căn cứ vào quy định của BLDS thì bên cho vay

“Không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn”, trừ trường hợp được bên

vay đồng ý (Điều 473.3). Nếu theo quan điểm này, thì trái ngược hoàn toàn với quy định

của pháp luật ngân hàng, vô cùng bất lợi đối với bên cho vay. Theo đó, khi bên vay chậm

trả một kỳ hạn nợ hoặc có những vi phạm khác, thì ngân hàng sẽ không được phép

chuyển toàn bộ số nợ sang nợ quá hạn, thu hồi toàn bộ nợ vay và xử lý tải sản bảo đảm

để thu hồi nợ. Thực tế đã từng xảy ra vụ việc dưới đây:

Ví dụ 4 về thu hồi nợ đến hạn.

Tháng 7-2007, bà Phùng Thị Tuyết Ng. ký hợp đồng tín dụng vay của Ngân

hàng V. 800 triệu đồng, thời hạn vay là 60 tháng, trả nợ gốc, lãi cho theo định kỳ

hằng tháng. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của người thứ ba. Bà Ng chỉ trả

nợ được 2 kỳ, sau đó không trả nợ tiếp. Sau đó Ngân hàng V. khởi kiện ra TAND

quận Hoàn Kiếm đòi nợ và đề nghị phát mại tài sản thế chấp để thu nợ. Toà án đã

tuyên bác yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng V.

Ngân hàng V. thì cho rằng: Việc chậm trả của bà Ng. là đã vi phạm nghĩa vụ

trả nợ, do vậy việc đòi nợ dựa trên cơ sở nghĩa vụ đã đến hạn chứ không phải là

“đòi lại nợ trước hạn”. Căn cứ pháp lý là Luật các TCTD cho phép ngân hàng “có

36

quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung

cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng“ (54.1).

Và Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng, ban hành kèm theo

Quyết định số 1627/2010/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN cũng quy định rõ: “Đối

với khoản nợ vay không trả nợ đúng hạn, được TCTD đánh giá là không có khả

năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì số dư

nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó là nợ quá hạn và TCTD thực hiện các biện pháp

để thu hồi nợ; việc phạt chậm trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên

thoả thuận trên cơ sở quy định của pháp luật." (13.2).

Còn Toà án thì lập luận rằng: Hợp đồng tín dụng có thời hạn vay là 5 năm,

đến nay mới là 3 năm, chưa đến hạn. Do đó, căn cứ vào quy định của BLDS thì

Ngân hàng V. chưa có quyền yêu cầu bên vay trả nợ, theo đó cũng không có quyền

đòi bên thế chấp tài sản phải thực hiện nghĩa vụ ( 366 và 473.3).

Để hạn chế rủi ro trên, các bên nên có thoả thuận trong hợp đồng tín dụng

nội dung sau: Trường hợp bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ một kỳ hạn trả nợ thì

các kỳ hạn khác chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn trả nợ và ngân hàng có

quyền thu hồi nợ trước hạn.

- Lãi suất và phí trả nợ trước hạn

Trường hợp bên vay trả nợ trước hạn, thì thường phải trả phí trả nợ trước hạn

theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Gọi là phí trả nợ trước hạn nhưng thực

chất là một loại lãi suất phạt trên cơ sở quy định bên vay có quyền trả tiền vay trước

hạn, nhưng phải trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn, nếu không có thỏa thuận khác. Trên

thực tế, nhiều ngân hàng không thu phí trả nợ trước hạn, hoặc chỉ thu với tỷ lệ từ vài

đến vài chục phần trăm so với số tiền lãi của thời hạn vay còn lại.

Ví dụ 5 về thu phí trả nợ trước hạn.

Ngân hàng T. cho vay 20 tỷ đồng, lãi suất 12%/năm, với thời hạn vay 13

tháng. Chỉ 5 tháng sau, bên vay đã trả nợ toàn bộ số tiền 15 tỷ đồng. Theo quy định

của BLDS thì Ngân hàng T. có thể được phép thu số phí trả nợ trước hạn tối đa đến

1 tỷ đồng (20 tỷ đồng x 5 tháng x 1%/tháng).

- Cơ cấu lại thời hạn trả nợ

Trường hợp bên vay không có khả năng trả nợ theo đúng thoả thuận ban đầu,

nếu đủ điều kiện thì có thể được ngân hàng xem xét cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ,

bao gồm hai cách là gia hạn nợ và điều chỉnh kỳ hạn trả nợ.

37

Có một thời kỳ NHNN quy định khoản vay ngắn hạn chỉ được gia hạn tối đa

bằng thời hạn cho vay; khoản vay trung, dài hạn tối đa bằng ½ thời hạn cho vay.

Như vậy, khoản vay 12 tháng thì được phép gia hạn thêm 12 tháng nữa, nhưng nếu

là khoản vay 13 tháng, thì chỉ được phép gia hạn thêm 6,5 tháng.

Đến nay, các khoản nợ được gia hạn nhiều lần, với thời hạn không bị hạn

chế. Tuy nhiên, khi đó khoản nợ sẽ bị đánh giá về khả năng rủi ro và phải phân loại

vào nhóm nợ thích hợp để trích lập dự phòng.

- Hiệu lực của hợp đồng tín dụng

Các ngân hàng thường đưa vào hợp đồng tín dụng câu: Hợp đồng này có

hiệu lực cho đến khi bên vay trả hết nợ gốc, lãi và các chi phí có liên quan. Nếu

thoả thuận này được công nhận, thì dẫn đến tình trạng không hợp lý là hiệu lực của

hợp đồng tín dụng sẽ luôn luôn là vô thời hạn, không bao giờ chấm dứt, nếu chưa

trả hết nợ.

Tuy nhiên trên thực tế, Toà án đã từng thừa nhận thời hiệu khởi kiện không

tính từ ngày hết hạn trả nợ theo thoả thuận, mà tính đến khi bên vay trả hết nợ trong

trường hợp hợp đồng tín dụng có thoả thuận: Hợp đồng này có hiệu lực cho đến khi

bên vay trả hết nợ (gốc và lãi) cho bên cho vay (xem Bản án giám đốc thẩm số

08/2003/HĐTP-KT ngày 29-5-2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND TC về vụ án

tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng Công thương Việt Nam và Công ty

TNHH Thương mại Lam Hồng Sơn).

Sau khi thực hiện xong, đương nhiên hợp đồng được thanh lý. Các bên

không cần thiết phải lập biên bản thanh lý hợp đồng, trừ trường hợp cần bằng.

- Thẩm quyền ký hợp đồng tín dụng

Mỗi bên chỉ cần một người đại diện ký hợp đồng tín dụng và khế ước nhận

nợ. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều trường hợp bên ngân hàng có hai chữ ký (giám

đốc và trưởng phòng tín dụng), đồng thời yêu cầu bên vay cũng có hai chữ ký (giám

đốc và kế toán trưởng đối với doanh nghiệp hoặc hai vợ chồng đối với cá nhân).

Đối với ngân hàng, ít khi người đại diện theo pháp luật ký hợp đồng tín

dụng, mà thường do người được uỷ quyền ký, trong đó không ít trường hợp uỷ

quyền cho người thứ ba một cách thường xuyên, liên tục. Phổ biến là trường hợp,

người đại diện pháp luật của ngân hàng uỷ quyền cho giám đốc chi nhánh, sau đó

giám đốc chi nhánh uỷ quyền lại cho phó giám đốc hoặc trưởng phòng.

38

Ngược lại, ngân hàng thường chỉ chấp chấp nhận cho bên vay là doanh

nghiệp uỷ quyền một cấp cho người thứ hai và thường là có vị trí ngay dưới người

uỷ quyền ký hợp đồng tín dụng.

Việc đòi hỏi như trên của ngân hàng là chặt hơn đòi hỏi của pháp luật, nhưng

nó có ý nghĩa quan trọng trên thực tế, nhằm hạn chế rủi ro về chủ thể ký hợp đồng

tín dụng của bên vay, giúp cho hợp đồng tín dụng an toàn và dễ dàng hơn trong việc

thu hồi nợ.

Luật các TCTD cũng quy định rõ, không một tổ chức cá nhân nào được can

thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu hồi nợ của các

ngân hàng (Điều 15).

Ngoài ra, đối với cả ngân hàng và bên vay là doanh nghiệp, thì đòi hỏi phải

có sự thông qua của cấp có thẩm quyền đối với các trường hợp khoản tín dụng đạt

đến một mức nhất định như: Bên vay là doanh nghiệp phải thông qua Hội đồng

Thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty hoặc HĐQT trong trường hợp giá trị khoản

vay hay giá trị tài sản cầm cố, thế chấp “bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản

được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty hoặc

một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty”; Đối với ngân hàng, nếu các

khoản cho vay có giá trị từ 10% tổng tài sản của ngân hàng trở lên, thì cũng phải

thông qua HĐQT hoặc được HĐQT phân cấp, uỷ quyền. Đối với các khoản vay trên

15% vốn tự có của ngân hàng, thì phải được Thủ tướng Chính phủ hoặc Thống đốc

NHNN cho phép.

* Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay

- Bên vay vốn có các quyền sau: Từ chối các yêu cầu của ngân hàng không

đúng với các thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm

hợp đồng tín dụng của ngân hàng theo quy định của pháp luật.

- Bên vay vốn có các nghĩa vụ sau: Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông

tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn đồng thời chịu trách nhiệm về tính chính xác

và hợp pháp của các thông tin, tài liệu cung cấp cho ngân hàng; Sử dụng tiền vay

đúng mục đích, thực hiện đúng các nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng

và các cam kết khác với ngân hàng; Trả nợ gốc và lãi vốn vay theo thoả thuận trong

hợp đồng tín dụng; Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng

những thoả thuận về việc trả nợ và thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam

kết trong hợp đồng tín dụng.

39

* Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay

- Bên ngân hàng cho vay có các quyền sau: Yêu cầu khách hàng cung cấp

tài liệu chứng minh dự án, phương án vay vốn khả thi, khả năng tài chính của mình

và người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay; Từ chối yêu cầu vay vốn của khách

hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay vốn; dự án, phương án vay vốn không có

hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc ngân hàng không có đủ

nguồn vốn để cho vay; Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả

nợ của khách hàng; Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn, chuyển nợ quá

hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín

dụng; Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc khởi kiện bên thứ ba

cầm cố, thế chấp, bảo lãnh theo quy định của pháp luật; Khi đến hạn trả nợ mà

khách hàng không trả nợ, nếu các bên không có thoả thuận khác thì ngân hàng có

quyền bán tài sản bảo đảm tiền vay theo sự thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và

hợp đồng bảo đảm tiền vay để thu nợ theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu

người thứ ba thực hiện nghĩa vụ cầm cố, thế chấp, bảo lãnh cho khách hàng vay

vốn; Miễn, giảm lãi tiền vay theo quy định của ngân hàng; gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ

hạn nợ theo quy định; Mua bán nợ, đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ và cơ cấu lại nợ theo

quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam .

- Bên ngân hàng cho vay có các nghĩa vụ sau: Giải ngân cho bên vay theo

đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; Thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp

đồng tín dụng; Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.

2.1.2. Quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp

Hiện nay, các vụ án giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án được

quy định theo Bộ luật Tố tụng Dân sự đòi hỏi các đương sự tham gia và người tiến

hành tố tụng phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:

Thứ nhất: Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự theo

điều 5 BLTTDS 2015. Quyền của chủ thể tranh chấp trong việc quyết định chọn

phương thức giải quyết khi đương sự có đơn yêu cầu và chỉ giải quyết các vấn đề

tranh chấp trong phạm vi yêu cầu. Có nghĩa là khi tranh chấp xảy ra, các bên tranh

chấp có quyền tự quyết định việc khởi kiện, chủ động đề xuất các yêu cầu, phạm vi

mức độ quyền và lợi ích cần được bảo vệ. Thậm chí, ngay khi đưa vụ án tranh chấp

ra giải quyết các bên tranh chấp có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình

hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện không trái với pháp luật và yêu cầu

40

đạo đức xã hội.

Thứ hai: Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh theo

điều 6 BLTTDS 2015. Việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong giải quyết

tranh chấp là quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Khi yêu cầu tòa án giải quyết thì

đương sự phải chứng minh được các yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Các bên có quyền và nghĩa vụ trình bày những gì mà họ cho là cần thiết và có thể

phản đối yêu cầu của người khác đối với mình nhưng phải chứng minh sự phản đối

đó là có căn cứ. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Tòa án không bị bắt buộc thu

nhập, xác minh chứng cứ mà chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong

những trường hợp do BLTTDS quy định. Nguyên tắc này tạo cơ sở giải quyết

nhanh chóng các vụ tranh chấp và nâng cao trách nhiệm chứng minh của các đương

sự bảo vệ lợi ích của mình.

Thứ ba: Nguyên tắc bình đẳng quyền và nghĩa vụ trong tố tố tụng dân sự

theo điều 8 BLTTDS 2015. Đây là nguyên tắc thể hiện quyền con người trong Hiến

pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khi tham gia giải quyết tranh chấp

tại Tòa án, các đương sự có quyền và nghĩa vụ ngang nhau, không ai được phân biệt

đối xử. Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, có

quyền đưa ra yêu cầu và phản đối yêu cầu của bên kia cũng như thực hiện quyền và

nghĩa vụ cung cấp chứng cứ nhằm bảo vệ lợi ích của mình.

Thứ tư: Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ và lợi ích hợp pháp của đương sự

theo điều 9 BLTTDS 2015. Ngoài quyền tự bảo vệ cho mình, các đương sự có

quyền nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để

bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Thứ năm: Nguyên tắc hoà giải theo điều 10 BLTTDS 2015. Vì đặc điểm của

tranh chấp phát sinh từ HĐTD phản ảnh về lợi ích kinh tế của các bên nên biện

pháp mà các bên tiến hành để giải quyết tranh chấp trước tiên là hoà giải và chỉ cần

đến sự can thiệp của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi không thể hoà giải

được. Khi Toà án tiến hành giải quyết tranh chấp, trước tiên toà án có trách nhiệm

tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau.

Điều này có nghĩa, tại toà án, các đương sự vẫn có quyền tiến hành hoà giải dưới sự

hướng dẫn và công nhận của Toà án.

Thứ sáu: Nguyên tắc xét xử vụ án dân sự phải có Hội thẩm nhân dân tham

gia theo điều 11 BLTTDS 2015. Theo điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì Hội

41

thẩm nhân dân là người có uy tín, được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để

làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhằm đảm bảo

quyền và lợi ích chính đáng của người dân tham gia xét xử. Thẩm phán là người

được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và

giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Khi xét xử vụ án, Thẩm

phán và Hội thẩm nhân dân ngang quyền với nhau, độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật mà không chịu bất kỳ sự chi phối nào khác. Đương nhiên, họ phải chịu trách

nhiệm đối với ý kiến của mình về từng vấn đề của vụ án.

Thứ bảy: Nguyên tắc Toà án xét xử kịp thời, công bằng, công khai. Việc

Toà án tiến hành xét xử công khai góp phần đảm bảo rằng hoạt động xét xử của Toà

án nhân dân là thể hiện sự dân chủ và phản ánh giá trị của cộng đồng để tạo niềm

tin cho người dân rằng trình tự cũng như kết quả của việc tố tụng là công bằng.

(Điều 15, BLTTDS 2015)

Thứ tám: Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Có thể thấy, nội dung

nguyên tắc tranh tụng trong xét xử góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà

nước ta về cải cách tư pháp trong hoạt động xét xử của Tòa án nhằm bảo vệ quyền

con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. (Điều 24, BLTTDS 2015)

2.1.3. Quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp

Thẩm quyền của Toà án khi giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng

theo quy định của BLTTDS năm 2015 và Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25

tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một

số quy định của BLTTDS năm 2015 được quy định như sau:

- Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi

chung là Tòa án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm

những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng mà không có đương sự

hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, tức là tranh chấp phát sinh từ

hợp đồng tín dụng ngân hàng không có yếu tố nước ngoài.

- Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung

là Toà án nhân dân cấp tỉnh) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những

tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng mà có đương sự hoặc tài sản ở

nước ngoài hoặc cần uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội

42

chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài, tức là tranh chấp phát

sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng có yếu tố nước ngoài. Trong đó:

+ Toà Kinh tế Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp

đồng tín dụng ngân hàng nếu tranh chấp này là tranh chấp kinh doanh, thương mại.

+ Toà Dân sự Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp

đồng tín dụng ngân hàng nếu tranh chấp này là tranh chấp về hợp đồng dân sự.

+ Trong trường hợp không xác định được đó là loại tranh chấp nào, có nghĩa là

không xác định được tranh chấp đó thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Toà chuyên trách

nào thì Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết

định phân công cho một Toà chuyên trách giải quyết theo thủ tục chung.

Bên cạnh việc quy định thẩm quyền theo vụ việc, BLTTDS năm 2015 còn

quy định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo sự lựa chọn của nguyên đơn để phân chia

việc giải quyết án giữa Tòa án các cấp, giữa các Tòa chuyên trách với nhau được

tương xứng. Để xác định đúng thẩm quyền giải quyết của Tòa án khi giải quyết các

tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng, Tòa án phải xác định cho được yêu cầu của

đương sự thuộc nhóm quan hệ tranh chấp kinh doanh thương mại hay tranh chấp về

hợp đồng dân sự, từ đó có sự phân định thẩm quyền giữa Tòa án với nhau.

Tuy nhiên, để xác định vụ án có thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án hay

không, trước hết toà án phải xem xét thoả thuận giải quyết tranh chấp của các bên

chọn ban đầu hoặc sau khi xảy ra tranh chấp là Toà án nhân dân hay

Trọng tài thương mại. Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng

tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp

thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.

Như vậy, nếu các bên đã có thoả thuận trọng tài hợp lệ thì việc giải quyết tranh chấp

không thuộc thẩm quyền của toà án.

2.1.4. Quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp

Thực tiễn tố tụng dân sự cho thấy từ trước đến nay đa số các vụ tranh chấp

liên quan đến hợp đồng tín dụng được các bên đưa ra giải quyết tại Tòa án. Điều

này xuất phát từ tâm lý chung khi lựa chọn cơ quan tài phán để giải quyết tranh

chấp xảy ra. Các đương sự cho rằng khi giải quyết bằng thương lượng, hoà giải

không thành thì tốt nhất đem tranh chấp ra giải quyết ở toà án bởi vì quyết định của

toà án có tính cưỡng chế thi hành cao nhất, điều này đảm bảo được quyền và lợi ích

của bên thắng kiện.

43

Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường toà án

theo trình tự, thủ tục như sau:

- Giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án: để thực hiện quyền khởi kiện của

mình, bên khởi kiện (nguyên đơn) phải chuẩn bị hồ sơ khởi kiện và nộp tại Tòa án

nhân dân có thẩm quyền. Hồ sơ khởi kiện bao gồm đơn khởi kiện và các tài liệu

chứng cứ gửi kèm theo đơn khởi kiện. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự

2015 thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự. Chính vì vậy, ngay từ khi nộp

đơn kiện, nguyên đơn cần phải xuất trình đầy đủ các giấy tờ, chứng cứ liên quan để

chứng minh cho yêu cầu của mình. Tòa án chỉ tự mình thu thập chứng cứ trong một

số trường hợp nhất định. Khi nộp đơn kiện, thông thường nguyên đơn nộp các giấy

sau: hợp đồng, các phụ lục hợp đồng (nếu có), biên bản xác định nợ và lãi, biên bản

cuộc họp của các bên để tiến hành thương lượng, hòa giải; tài liệu nhằm xác định

địa vị pháp lý của nguyên đơn như quyết định (hoặc giấy phép) thành lập pháp

nhân, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, điều lệ hoạt động của pháp nhân, các

giấy tờ nhằm xác định tư cách pháp lý của người đại diện cho nguyên đơn như

quyết định bổ nhiệm (hoặc biên bản bầu) người đại diện theo pháp luật, giấy ủy

quyền, biên bản phân công công tác giữa các chức danh quản lý pháp nhân… Các

giấy nêu trên để có giá trị là chứng cứ thì phải là bản gốc hoặc nếu là bản sao thì

phải được công chứng, chứng thực theo đúng quy định của pháp luật.

Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Toà án về

việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Sau khi

nộp tạm ứng án phí, người nộp đơn xuất trình cho Tòa án biên lai nộp tạm ứng án

phí, Tòa án sẽ thụ lý vụ án và ghi vào sổ thụ lý, như vậy vụ án đã được đưa vào quy

trình giải quyết của Tòa án. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc

không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn

khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo.

Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Toà án

phân công một Thẩm phán giải quyết vụ án. Có nghĩa là trong thời gian ba ngày

người nộp đơn xuất trình cho Tòa án biên lai nộp tạm ứng án phí thì Chánh án Toà

án mới phân công Thẩm phán giải quyết vụ án. Tuy nhiên, thực tế thì khi nhận đơn

khởi kiện Chánh án Toà án phân công ngay cho Thẩm phán thụ lý. Thẩm phán có

trách nhiệm thông báo về việc thụ lý vụ án bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ

quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện

44

kiểm sát cùng cấp. Văn bản thông báo phải đảm bảo các nội dung được quy định tại

khoản 2 Điều 196 BLTTDS 2015.

- Giai đoạn hoà giải và chuẩn bị xét xử. Trong giai đoạn này, hồ sơ sẽ được phân

cho Thẩm phán thụ lý nghiên cứu để tiến hành xét xử vụ án và Thẩm phán thụ lý có thể

yêu cầu các bên thực hiện các công việc sau: yêu cầu các bên xuất trình thêm các giấy tờ,

tài liệu cần thiết liên quan đến vụ việc; triệu tập lên Tòa án để lấy lời khai hoặc để đối

chất; triệu tập các đương sự đến tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau

về việc giải quyết vụ án. Trước khi tiến hành phiên hoà giải, Toà án phải thông báo cho

các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến

hành phiên hoà giải, nội dung các vấn đề cần hoà giải.

Trình tự tiến hành hoà giải: khi tiến hành hoà giải, Thẩm phán phổ biến cho

các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án

để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của

việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Việc hoà giải được thư ký Toà án ghi vào biên bản và biên bản hoà giải phải có các

nội dung chính quy định tại khoản 3 điều 211 BLTTDS 2015. Biên bản phải có đầy

đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia phiên họp, chữ ký của Thư ký

Tòa án ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên họp. Những người tham gia

phiên họp có quyền được xem biên bản ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu

ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản và ký xác nhận hoặc điểm chỉ. Khi các

đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì

Toà án lập biên bản hoà giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự

tham gia hòa giải. Trường hợp hòa giải không thành thì Tòa án lập biên bản hòa giải

không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có

đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hoà

giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Toà án phân công ra quyết định công

nhận sự thoả thuận của các đương sự.

Nếu như các bên hoà giải không thành thì toà án đem vụ án ra xét xử công

khai hoặc xét xử kín để đảm bảo bí mật cho các bên khi các bên yêu cầu và được

toà án chấp thuận.

Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng

được quy định như sau: Đối với tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hợp

45

đồng dân sự thì thời hạn là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với tranh chấp

hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hoạt động kinh doanh, thương mại thì thời hạn là

hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Ngoài ra, đối với các loại tranh chấp hợp đồng

tín dụng mà có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án

có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối

với vụ án thuộc trường hợp tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hợp đồng

dân sự và một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp tranh chấp hợp đồng tín dụng

là tranh chấp về hoạt động kinh doanh, thương mại.

Quyết định đưa vụ án ra xét xử gồm có các nội dung được quy định tại khoản

1 điều 220, BLTTDS 2015. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho các

đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau khi ra quyết định.

- Giai đoạn xét xử sơ thẩm (phiên toà sơ thẩm).

Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án

phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.

Phiên toà sơ thẩm phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi

trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên toà trong

trường hợp phải hoãn phiên toà. Phiên toà sơ thẩm diễn ra theo trình tự thủ tục:

chuẩn bị khai mạc phiên toà, thủ tục hỏi tại phiên toà, tranh luận tại phiên toà, nghị

án và tuyên án. Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày tuyên án, Toà án phải giao

hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát

cùng cấp.

- Giai đoạn xét xử phúc thẩm (phiên toà phúc thẩm): Xét xử phúc thẩm là

việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Toà án cấp

sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.

Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm

ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn

kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

- Giai đoạn xem xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực: gồm có

thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.

Ngoài thủ tục sơ thẩm và thủ tục phúc thẩm, giải quyết tranh chấp phát sinh

từ hợp đồng tín dụng tại Toà án còn có hai thủ tục nữa đó là : thủ tục giám đốc thẩm

và thủ tục tái thẩm.

+ Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp

46

luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc

giải quyết vụ án. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là ba năm, kể từ

ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.

+ Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng

nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của

bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được khi Toà án ra bản án, quyết

định đó. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái

thẩm là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng

nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 352 của BLTTDS 2015.

2.1.5. Thi hành quyết định, bản án của Tòa án trong việc giải quyết tranh

chấp hợp đồng tín dụng

Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do cơ

quan thi hành án tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm bảo thi

hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan

có thẩm quyền.

Trước đây, các quyết định của Trọng tài kinh tế ở nước ta chưa có một cơ

quan nào cưỡng chế thi hành, không đảm bảo hiệu lực thi hành các quyết định của

trọng tài. Hiện nay, cơ quan thi hành án đã được tổ chức đầy đủ từ trung ương đến

cấp huyện có đủ điều kiện cơ sở để cưỡng chế thi hành các quyết định, bản án của

Tòa án. Theo pháp luật Việt Nam thì "dân sự" trong thi hành án cần được hiểu một

cách cụ thể. Đó là những bản án, quyết định của Tòa án về dân sự, hôn nhân và gia

đình, kinh doanh - thương mại, lao động được thi hành bao gồm:

- Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật: Bản án, quyết định hoặc phần

bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ

tục phúc thẩm; Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc

thẩm hoặc tái thẩm của Toà án; Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài,

quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi

hành tại Việt Nam; Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc

cạnh tranh mà sau 30 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự

nguyện thi hành, không khởi kiện tại Toà án; Quyết định của Trọng tài thương mại.

- Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành

ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả

lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao

47

động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận

người lao động trở lại làm việc; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Thi hành án dân sự góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương an toàn xã hội, tăng

cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Thi hành án là thước đo hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại

của Tòa án. Đây chính là ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án

so với các phương thức thương lượng, hòa giải hay trọng tài thương mại. Đảm bảo cho

việc thực thi có hiệu quả các phán quyết của Tòa án nhân danh nhà nước để đưa ra các

bản án, quyết định là một yêu cầu nhiệm vụ đóng vai trò hết sức quan trọng trong công

tác giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức Tòa án.

Thi hành án dân sự góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, nâng

cao trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đoàn thể xã hội và

mọi thành viên trong cộng đồng.

2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại

Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội

2.2.1. Tổng quan về Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội

Phúc Thọ là huyện thuộc vùng đồng bằng sông Hồng cách thủ đô Hà Nội

khoảng 40 km về phía Tây, nằm trên trục quốc lộ 32 đi Sơn Tây. Phía Bắc giáp

sông Hồng, là ranh giới của huyện với tỉnh Vĩnh Phúc; Phía Đông giáp huyện Đan

Phượng; Phía Nam giáp huyện Thạch Thất, huyện Hoài Đức; Phía Tây giáp thị xã

Sơn Tây.

Huyện Phúc Thọ có vị trí tiếp giáp với Thị xã Sơn Tây, đây là trung tâm văn

hoá, kinh tế, đô thị,... lớn phía Tây của Thành phố Hà Nội; cách khu du lịch Đồng

Mô và Làng Văn hoá các dân tộc 20 km. Đặc biệt có tuyến đường Quốc lộ 32 chạy

qua trên địa bàn với chiều dài 16 km đã được đầu tư nâng cấp, tỉnh lộ 421 đi huyện

Quốc Oai và tỉnh lộ 419 đi khu Công nghệ cao Hoà Lạc,.... Với vị trí địa lý như vậy

sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc phát triển kinh tế xã hội và giao lưu văn hoá với

các huyện khác của Thành phố Hà Nội nói riêng và các tỉnh khác trong vùng đồng

bằng Bắc bộ nói chung.

Sản xuất Nông nghiệp: Tổng diện tích gieo trồng vụ Đông – Xuân 8.260 ha,

đạt 100,1% KH, bằng 94,6% cùng kỳ; tổng sản lượng lương thực ước đạt 32.933

tấn. Tăng cường các hoạt động xúc tiến mời gọi đầu tư, khởi công nhà máy “Xử lý

và chế biến trứng gia cầm công nghệ cao Ba Huân miền Bắc”, với tổng số vốn đầu

48

tư trên 100 tỷ đồng; phối hợp với Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức

Hội thảo “Tăng cường liên kết giữa cơ sở, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông

sản, thực phẩm rõ nguồn gốc và an toàn trên địa bàn thành phố Hà Nội”; phát

động thi đua “ Sản xuất, kinh doanh, chế biến và tiêu thụ sản phẩm an toàn trên địa

bàn huyện giai đoạn 2016 – 2020”. Những sự kiện đó đã khẳng định nỗ lực và

quyết tâm của lãnh đạo và cán bộ huyện Phúc Thọ trong việc tập trung phát triển,

cung cấp ra thị trường những sản phẩm an toàn mang thương hiệu Phúc Thọ.

Công nghiệp – Tiểu thủ Công nghiệp: Sản xuất công nghiệp, TTCN duy trì

mức tăng trưởng khá; tổng giá trị sản xuất ước đạt 1.188 tỷ đồng (giá thực tế), tăng

12,1% cùng kỳ; trong đó, khu vực doanh nghiệp 377 tỷ đồng, tăng 16%, cá thể 811

tỷ đồng, tăng 11,2% , tập trung ở một số ngành truyền thống có thế mạnh, như: may

gia công, sản xuất sản phẩm kim loại, chế biến gỗ; chú trọng phát triển công nghiệp,

tiểu thủ công nghiệp, đã xét duyệt 03 dự án, trong đó 02 dự án ở xã Phúc Hòa, 01

dự án ở Thị trấn Phúc Thọ.

Thương mại, dịch vụ: Tổng mức lưu chuyển hàng hóa ước đạt 1.509 tỷ đồng

tăng 11,6% cùng kỳ. Doanh thu vận tải ước đạt 85,7 tỷ đồng, tăng 14,3% cùng kỳ.

Chương trình xây dựng Nông thôn mới: Công tác xây dựng nông thôn mới

được tập trung chỉ đạo quyết liệt; các dự án trọng tâm, trọng điểm xây dựng cơ sở

hạ tầng kinh tế, xã hội tiến độ hoàn thành các dự án thành phần theo kế hoạch đã đề

ra. Tiếp tục củng cố, giữ vững và nâng cao chất lượng các tiêu chí ở 17 xã đã hoạt

đạt Nông thôn mới các năm 2013, 2014, 2015. Tập trung đôn đốc, kiểm tra, nghe

báo cáo về tình hình 03 xã phấn đấu đạt chuẩn Nông thôn mới năm 2016. Đến nay,

Liên Hiệp đạt 12 tiêu chí; xã Long Xuyên đạt 13 tiêu chí, xã Tam Thuấn 15 tiêu chí.

Tổng kết 5 năm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn

mới và Chương trình 02 của Thành ủy.

Cùng với hệ thống tổ chức ngành Tòa án nhân dân theo quy định của Luật tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014, Tòa án được tổ chức theo mô hình 4 cấp thì Tòa

án nhân dân huyện Phúc Thọ trực thuộc Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, là tòa

án cấp thấp nhất, có nhiệm vụ xét xử trên địa bàn địa giới hành chính là huyện Phúc

Thọ, thành phố Hà Nội.

Theo đó, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, đóng trên địa bàn huyện Xét xử,

giải quyết những vụ án hình sự; những vụ việc dân sự (bao gồm những yêu cầu và

tranh chấp về dân sự; hôn nhân và gia đình; kinh doanh, thương mại; lao động);

49

những vụ án hành chính; giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản hợp tác xã, quyết định

áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

Giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật (quyết định áp dụng

biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết tranh chấp; ra quyết định thi

hành án hình sự; hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; ra quyết định miễn

chấp hành hình phạt hoặc giảm mức hình phạt đã tuyên; ra quyết định xoá án

tích...). Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền

công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Trải qua quá trình hình thành và phát triển, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ

đã ngày càng trưởng thành, về tổ chức bộ máy cũng như hoạt động xét xử. Tính đến

tháng 12/2018, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội có 11 biên chế,

trong đó bao có 1 Chánh án, 2 Phó chánh án, gồm 5 thẩm phán, 5 thư ký và 01 kế

toán. Hàng năm Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thụ lý giải quyết hàng trăm vụ án

hình sự và vụ việc dân sự đã xảy ra trên địa bàn. Kết quả giải quyết hàng năm đều

đạt 100% đối với án hình sự, trên 90% đối với vụ việc dân sự, kinh doanh thương

mại, lao động và hành chính (tính theo số liệu tổng kết thi đua hàng năm). Tỷ lệ án

phải cải sửa, hủy đã giảm đáng kể ở mức 0,1% tổng số bản án đã xét xử. Điều này

cho thấy những nỗ lực đáng ghi nhận của Tập thể cán bộ Tòa án huyện Phúc Thọ đã

đạt được trong những năm vừa qua.

2.2.2. Tình hình tranh chấp và kết quả giải quyết tranh chấp về hợp đồng

tín dụng ngân hàng tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội

Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng đang ngày càng phát triển và có

thể nói là phát triển rất nhanh. Hiện tại, có rất nhiều tổ chức tín dụng ra đời, theo đó

các tổ chức tín dụng cũng cạnh tranh với nhau rất mạnh mẽ từ mô hình tổ chức, cơ

cấu nghiệp vụ, phát triển mạng lưới, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, phát triển các sản phẩm dịch vụ mới ...

Điều này chứng tỏ rằng hoạt động ngân hàng thực chất là hoạt động kinh

doanh mang lại lợi nhuận rất cao. Theo thống kê, hiện nay số lượng tranh chấp giữa

tổ chức tín dụng và khách hàng vay vốn còn khá cao so với các loại tranh chấp hợp

đồng khác được giải quyết tại Tòa án trên địa bàn cả nước nói chung và trên địa bàn

huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội nói riêng. Tại TAND huyện Phúc Thọ thành

phố Hà Nội số tranh chấp HĐTD chiếm tỷ lệ lớn thứ hai sau hợp đồng mua bán

50

trong tổng số tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại. Nguyên nhân của tình

trạng này xuất phát từ một trong những đặc trưng cơ bản của HĐTD là sự chứa

đựng nguy cơ rủi ro rất lớn đối với quyền lợi của bên cho vay vì theo cam kết trong

HĐTD bên cho vay chỉ có thể đòi tiền của bên vay sau một thời hạn nhất định, nếu

thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn, vì thế mà các tranh

chấp phát sinh từ hợp đồng cũng thường xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn hơn so với

các hợp đồng khác được giải quyết tại Tòa án. Việc tranh chấp HĐTD xuất phát từ

sự mâu thuẫn về quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Theo số liệu thống kê của ngành Tòa án huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội,

tranh chấp kinh doanh, thương mại (trong đó có tranh chấp HĐTD) có chiều hướng

gia tăng, kết quả đạt được như sau:

Bảng 2.1. Số liệu tranh chấp kinh doanh thương mại TAND huyện Phúc Thọ

thành phố Hà Nội thụ lý và giải quyết giai đoạn 2014-2018

Năm Thụ lý Đình chỉ Đưa ra xét xử Xét xử phúc thẩm Công nhận thỏa thuận đương sự

54 2014 158 2015 309 2016 252 2017 182 2018 Tổng 880 51 150 260 237 137 871 4 5 8 12 16 45 7 11 14 16 19 67 3 7 3 4 2 19

Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội

Như vậy, qua bảng số liệu trên cho thấy, tình hình thụ lý các tranh chấp về

tín dụng của các Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội trong những

năm vừa qua ở số lượng ít, tổng giai đoạn thụ lý 880 vụ việc trung bình mỗi năm

thụ lý 200 vụ việc. Trong đó có 67 vụ việc đạt được sự thỏa thuận của các đương

sự, đình chỉ 45 vụ việc, có 19 vụ việc được đưa ra xét xử ở cấp phúc thẩm.

Tuy nhiên, việc thống kê này cũng chưa đầy đủ, trong thực tế do các tổ chức

tín dụng và khách hàng không đưa vụ việc tranh chấp ra Tòa án mà tự thương lượng

giải quyết nhằm giảm chi phí và thời gian kiện tụng, vừa giữ quan hệ tốt với nhau.

Các tranh chấp nêu trên dù đơn giản hay phức tạp, dù giá trị tài sản nhỏ hay lớn đều

để lại những hậu quả nhất định cho các đương sự và gây ảnh hưởng đến đời sống

kinh tế - xã hội. Dưới đây, là các dạng tranh chấp chủ yếu có liên quan đến hợp

động tín dụng đã được xét xử trong 5 năm vừa qua trên địa bàn huyện Phúc Thọ

51

thành phố Hà Nội.

Hiện nay, trong các biểu mục thống kê ngành Tòa án nhân dân không có

thống kê riêng về các vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng đã thụ lý cũng như đã giải

quyết. Do đó, số liệu riêng về các tranh chấp hợp đồng tín dụng trên địa bàn huyện

Phúc Thọ thành phố Hà Nội không có thống kê chính thức. Theo số liệu riêng do tác

giả luận văn thống kê thì kết quả giải quyết tranh chấp về hợp đồng tín dụng trên địa

bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội được thể hiện qua bảng số liệu sau:

Bảng 2.2. Số liệu vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng thụ lý trong giai đoạn

2014 – 2018

Năm

Án kinh doanh thương mại đã thụ lý Án tranh chấp hợp đồng tín dụng đã thụ lý

Tỉ lệ án tranh chấp hợp đồng tín dụng/án kinh doanh thương mại (%)

2014 2015 2016 2017 2018 Tổng 54 158 309 252 182 880 11 29 44 38 33 155 20 18 14 15 18 17

Như vậy, qua bảng số liệu trên cho thấy, tình hình giải quyết án tranh chấp

về hợp đồng tín dụng trên địa bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội đã tăng qua

các năm, điều này xuất phát từ thực tiễn là tổng số vụ án kinh doanh thương mại

hàng năm đều tăng cao. Tỉ lệ án tranh chấp hợp đồng tín dụng so với tranh chấp

kinh doanh thương mại nói chung đạt từ 15-20%, trung bình toàn giai đoạn là 17%.

Trên địa bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội đã diễn ra không ít các vụ

tranh chấp hợp đồng tín dụng ở những khía cạnh khác nhau. Nhiều trong số đó đã

được Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội thụ lý và giải quyết. Các

vụ tranh chấp ở huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội đã được nhiều nhà nghiên cứu,

nhiều phóng viên phân tích án cho những mục đích khác nhau. Trong công trình

nghiên cứu này, các vụ án được xem xét ở khía cạnh các vấn đề nảy sinh.

Ví dụ thứ nhất: Vụ thứ Ngân hàng Agribank kiện bà Trần Thị Minh Thành

* Nội dung và diễn biến vụ kiện

- Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam;

Địa chỉ: 18 Trần Hữu Dực, Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội.

52

- Bị đơn: Bà Trần Thị Minh Thành – Chủ doanh nghiệp xăng dầu Thành

Minh; Địa chỉ: Khu phố 4, thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Thiềm Thị Phương Mai; Địa

chỉ: Phòng 209, tầng 2, dãy C, khu tập thể Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội.

Nội dung vụ án: Ngày 17/01/2012, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội và bà Trần Thị

Minh Thành ký kết Hợp đồng tín dụng số 3904-LAV-201200089/HĐTD với nội

dung: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện

Phúc Thọ thành phố Hà Nội cho bà Trần Thị Minh Thành vay số tiền 220.000.000

đồng với mục đích xây và sửa kè bao cây xăng Phúc Thọ. Thời hạn cho vay 12

tháng kể từ ngày bên vay nhận nợ lần đầu. Lãi suất cho vay 20% /năm, lãi suất quá

hạn bằng 150% lãi suất cùng loại.

Để đảm bảo cho khoản vay nói trên, ngày 17/01/2012, chi nhánh Ngân hàng

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội (Ngân hàng),

bà Thiềm Thị Phương Mai và Trần Thị Minh Thành đã ký hợp đồng thế chấp bằng tài

sản của bên thứ ba số 17.01.2012/TC, theo đó bà Mai tự nguyện thế chấp quyền sử

dụng đất diện tích 350m2, thửa số 251/3, tờ bản đồ số 21 tại thôn Vũ Tuấn, xã Tam

Hiệp huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội để bảo lãnh cho nghĩa vụ trả nợ của bà Trần

Thị Minh Thành. Ngày 08/7/2013 và ngày 06/8/2013, bà Thành đã trả nợ số tiền

20.000.000 đồng. Đến hạn trả nợ gốc và lãi, Ngân hàng đã nhiều lần thông báo đòi nợ

nhưng bà Thành không chịu trả nợ. Do đó, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà Thành

thanh toán số tiền gốc 200.000.000 đồng và số tiền lãi tính đến ngày 25/9/2013 là

80.066.250 đồng theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

- Kết quả giải quyết của tòa Sơ thẩm

Tòa án sơ thẩm chấp nhận mức lãi suất theo thỏa thuận của các đương sự

trong các hợp đồng tín dụng. Bản án số 03/2013/KDTM-ST ngày 25/9/2013 của

Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội quyết định: Chấp nhận yêu cầu

khởi kiện của Ngân hàng, áp dụng Điều 471, 361, 369 Bộ luật dân sự và điểm a

khoản 3 Điều 130 Luật đất đai buộc bà Trần Thị Minh Thành trả nợ cho Ngân hàng

số tiền 280.066.250 đồng, trong đó tiền gốc 200.000.000 đồng, số tiền lãi

80.066.250 đồng.

Trường hợp bà Thành không trả nợ thì bà Thiềm Thị Phương Mai có nghĩa

53

vụ trả nợ thay số tiền 280.066.250 đồng. Nếu bà Mai không trả nợ thay thì Ngân

hàng có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá tài sản thế

chấp để thu hồi nợ. Bà Thành có nghĩa vụ trả nợ phải tiếp tục trả lãi theo lãi suất đã

thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng cho đến khi trả hết nợ.

- Kết quả giải quyết Phúc thẩm

Không đồng tình với án sơ thẩm, ngày 28/10/2013 Viện kiểm sát nhân dân

thành phố Hà Nội kháng nghị bản án sơ thẩm, trong đó có nội dung kháng nghị về

lãi suất quá hạn, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng mức lãi suất theo quy định

của Bộ luật dân sự.

Ngày 04/10/2013, bà Trần Thị Minh Thành kháng cáo đề nghị Tòa án phúc

thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm về phần lãi. Về tài sản thế chấp, bà Thành không

nhất trí việc Tòa án sơ thẩm buộc bà Mai phải trả nợ thay cho doanh nghiệp và đưa

tài sản ra đấu giá vì tài sản thế chấp bảo lãnh là tài sản chung của vợ chồng bà Mai

và ông Quách Hoàng Linh. Doanh nghiệp Minh Thành sẽ chịu trách nhiệm trả nợ số

tiền gốc 200.000.000 đồng. Ngày 04/10/2013, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan bà Thiềm Thị Phương Mai cũng kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung: bản

án sơ thẩm tuyên đưa số tài sản là quyền sử dụng đất mà bà Mai đã thế chấp cho

nguyên đơn để bán đấu giá nếu bà Thành không thanh toán nợ là không đúng pháp

luật vì tài sản thế chấp là tài sản chung của bà Mai và chồng là ông Quách Hoàng

Linh hình thành sau thời kỳ hôn nhân.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Sau khi viện dẫn và phân tích Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng

quy định; Quyết định 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Thống đốc Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam tòa phúc thẩm đã ra Bản phúc thẩm số 16/2013/KDTM-PT

ngày 05/12/2013 theo đó áp dụng khoản 2 Điều 91, khoản 1, khoản 2 Điều 95 Luật

các tổ chức tín dụng; khoản 1, khoản 5 Điều 474, khoản 1 Điều 476 Bộ luật dân sự

buộc bà Trần Thị Minh Thành phải thanh toán cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội, số tiền

237.042.500 đồng, trong đó tiền gốc 200.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn là

10.065.000 đồng, tiền lãi quá hạn là 26.977.500 đồng. Bản án phúc thẩm đã tuyên

lãi suất do chậm thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy

54

định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thi hành án.

- Về tài sản thế chấp: Việc bị đơn bà Trần Thị Minh Thành và người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Thiềm Thị Phương Mai cho rằng tài sản thế chấp

để đảm bảo cho khoản vay của bị đơn là tài sản chung của vợ chồng bà Mai và ông

Quách Hoàng Linh là không có cơ sở. Tài sản thế chấp trên hình thành trước khi bà

Mai kết hôn với ông Linh theo giấy đăng ký kết hôn ngày 25/7/2005. Tại phiên tòa,

bà Mai không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh tài sản thế chấp là tài

sản chung của vợ chồng. Việc nại ra như trên là nhằm mục đích trốn tránh việc phát

mại tài sản thế chấp để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.

Ngoài ra, theo hợp đồng thế chấp số 17.01.2012/TC ngày 17/01/2012 thì bà

Thiềm Thị Phương Mai tự nguyện đem tài sản thế chấp cho nghĩa vụ trả nợ của bà

Trần Thị Minh Thành, trong đó mức dư nợ là 220.000.000 đồng. Căn cứ Điều 363,

369 Bộ luật dân sự thì bà Mai chỉ có nghĩa vụ bảo lãnh với số tiền 220.000.000

đồng. Bà Thành đã trả cho Ngân hàng 20.000.000 đồng. Do đó, khi bản án có hiệu

lực pháp luật, Ngân hàng có quyền yêu cầu thi hành án, nếu bà Thành chưa thanh

toán khoản nợ trên cho Ngân hàng thì bà Mai phải có nghĩa vụ trả nợ thay cho bà

Thành số tiền 200.000.000 đồng. Trường hợp bà Mai không thực hiện nghĩa vụ trả

nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp thuộc quyền sở hữu

của bà Mai để trả nợ cho Ngân hàng số tiền 200.000.000 đồng.

* Các vấn đề pháp lý đặt ra của vụ án

Về lãi suất: Quan điểm Tòa án tối cao cho rằng phải tính lãi suất theo sự thỏa

thuận trong hợp đồng, vậy sự thỏa thuận đó trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì

sao? Điều 4 BLDS 2005 quy định: “Quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác

lập quyền nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết thỏa thuận đó

không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”; Điều 476

BLDS 2005 cũng quy đinh: “1. Lãi suất do các bên thỏa thuận nhưng không được

vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại cho

vay tương ứng 2. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng

không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản

do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”.

Trường hợp thỏa thuận về lãi suất nêu trên là vừa trái quy định của BLDS 2005 và

nếu lãi suất thỏa thuận vượt quy định từ 10 lần trở lên còn có thể cấu thành tội:

55

“Cho vay lãi nặng” quy định tại Điều 163 BLHS 1999, vừa trái đạo đức xã hội ở

chỗ cho vay nặng lãi tàn dư của chế độ người bóc lột người. Tòa án Tối cao cho

rằng lãi suất thỏa thuận được Luật CTCTD cho phép. Tuy nhiên, sự cho phép này

được Luật CTCTD giới hạn như sau:“Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền

thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín

dụng theo quy định của pháp luật”( khoản 2 Điều 91).

Như vậy, khi Luật CTCTD không quy định về mức lãi suất cụ thể thì phải

quay lại áp dụng BLDS (là Luật chung) là hoàn toàn phù hợp. Mặt khác, Thông tư

12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 mà Ngân hàng nhà nước sử dụng để thỏa thuận

lãi không thể có hiệu lực cao hơn BLDS và nội dung quy định mang tính lợi ích

nhóm chứ không phải là lợi ích chung của toàn xã hội.

Về nghĩa vụ chậm trả: Cả ba cấp xét xử vụ án đều có quan điểm khác nhau

về nghĩa vụ chậm trả. Tác giả đồng ý với quan điểm của tòa án tối cao là phải buộc

bên vay phải tiếp tục trả lãi đối với phần nợ gốc kể từ khi xét xử sơ thẩm cho đến

khi trả xong nợ gốc; tuy nhiên, không phải là theo lãi suất thỏa thuận trong hợp

đồng vì sự thỏa thuận đó đã trái pháp luật mà phải theo lãi suất cơ bản do Ngân

hàng Nhà nước công bố. Căn cứ quyết định như vậy là Khoản 5 Điều 474 BLDS

2005: “Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả

không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ

bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả

nợ”; khoản 2 Điều 476: “

Về tài sản thế chấp: Điều 363 BLDS 2005 quy định về Phạm vi bảo lãnh như

sau: “Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên

được bảo lãnh.Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi

thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Đối chiếu quy định của điều

luật, vấn đề cần xác định ở đây là hợp đồng Thế chấp số 17.01.2012/TC nói trên

thỏa thuận như thế nào về phạm vi bảo lãnh. Nếu chỉ thỏa thuận để bảo lãnh khoản

vay 220.000.000 đồng thì chỉ chịu nghĩa vụ bảo lãnh trong phạm vi như vậy. Do đó

quyết định của tòa phúc thẩm là có cơ sở. Nếu khi các bên không có thỏa thuận

khác thì mới tính đến nghĩa vụ trả lãi trên nợ gốc, tiền phạt và bồi thường thiệt hại.

56

Ví dụ thứ hai: Vụ Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh vượng kiện bà Trần

Thị Minh Thành

* Nội dung và diễn biến vụ kiện

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng; Địa chỉ: 08 Lê

Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

- Bị đơn: Bà Trần Thị Minh Thành – Chủ doanh nghiệp xăng dầu Thành

Minh; Địa chỉ: xã Vân Nam, huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ, liên quan:

+ Ông Trần Hữu Anh, bà Nguyễn Thị Tài, anh Trần Anh Tuấn; Cùng địa chỉ:

07 thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội.

+ Anh Trần Hữu Vinh; Địa chỉ: xã Tam Hiệp huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội.

Nội dung vụ án:

Vào các ngày 14/3/2011 và 15/4/2011, bà Trần Thị Minh Thành ký kết các

hợp đồng tín dụng số LD1107300098 và LD1110500086 với Ngân hàng TMCP

Việt Nam Thịnh Vượng (sau đây gọi tắt là VPBank), Chi nhánh Phúc Thọ để vay

tổng số tiền là 1.130.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, mục đích vay để bổ sung

vốn kinh doanh xăng dầu các loại.

Ông Trần Hữu Anh và bà Nguyễn Thị Tài đã dùng quyền sử dụng đất và tài

sản gắn liền với đất tại thửa đất số 216A, tờ bản đồ số 18 thuộc khu phố 7, thị trấn

Phúc Thọ huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội để thế chấp bảo đảm cho khoản vay

nói trên.

Do chậm thanh toán khoản nợ vay đến hạn, VPBank đã khởi kiện yêu cầu bà

Thành trả nợ số tiền gốc và lãi theo các mức lãi suất thỏa thuận trong các hợp đồng

tín dụng với tổng số tiền là 1.807.313.137 đồng, trong đó nợ gốc 1.094.999.604

đồng, tiền lãi 712.313.533 đồng.

Kết quả xét xử sơ thẩm: Tòa án sơ thẩm chấp nhận mức lãi suất theo thỏa

thuận trong các hợp đồng tín dụng. Bản án sơ thẩm số 01/2014/KDTM-ST ngày

27/3/2014 của TAND huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội quyết định chấp nhận một

phần yêu cầu khởi kiện của VPBank, áp dụng Điều 474, Điều 476 BLDS 2005,

khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng buộc bà Trần Thị Minh Thành trả nợ cho

VPBank số tiền gốc 1.094.999.604 đồng và tiền lãi 432.095.783 đồng.

Phúc thẩm: Không đồng tình với phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm, ngày

57

08/4/2014 Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng kháng cáo bản án sơ thẩm,

trong đó có nội dung về phần lãi chậm trả: lãi suất được tính tiếp theo thỏa thuận

trong hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ cho đến ngày bà Trần Thị Minh Thành

thực tế thanh toán hết nợ cho VPBank.

Ngày 08/4/2014, bị đơn bà Trần Thị Minh Thành cũng kháng cáo một phần

bản án sơ thẩm, trong đó có nội dung: không đồng ý một số quyết định của Tòa án

cấp sơ thẩm về phần tiền lãi và lãi suất chậm trả. Đối với phần tiền lãi, bà đề nghị

Tòa án phúc thẩm xem xét tính lại tiền lãi với mức lãi suất mà Ngân hàng đã thu

của Doanh nghiệp vượt quá quy định của pháp luật từ 4%/năm đến 7%/năm và trừ

vào phần nợ gốc. Đối với số tiền lãi chậm trả, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tính lại

phần lãi chậm trả với mức lãi suất 9%/năm chứ không phải 22,5%/năm như bản án

sơ thẩm đã tuyên.

Xem xét kháng cáo của các đương sự, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

- Về lãi suất: Lãi suất trong hạn mà Ngân hàng áp dụng tại thời điểm vay từ

23%/năm đến 24%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, lãi chậm trả

là 0,05%. Nhưng tại Điều 476 Bộ luật dân sự quy định: “Lãi suất cho vay do các

bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng

Nhà nước công bố với loại cho vay tương ứng” và tại Quyết định số 2868/QĐ-

NHNN ngày 29/11/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước công bố mức lãi suất

cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9%/năm; do đó, mức lãi suất các bên thỏa thuận

được phép tối đa là 13,5%/năm. Như vậy, lãi suất các bên thỏa thuận trong các hợp

đồng tín dụng từ 23%/năm đến 24%/năm là hoàn toàn trái pháp luật. Lãi suất quá

hạn bằng 150% lãi suất trong hạn cũng không đúng với quy định tại khoản 5 Điều

474 Bộ luật dân sự. Vì vậy, cần áp dụng mức lãi suất trong hạn tối đa là 13,5%/năm

và lãi suất quá hạn 9%/năm theo quy định của Bộ luật dân sự.

- Về nghĩa vụ chậm trả: Do chấp nhận mức lãi suất theo Bộ luật dân sự nên

Tòa án cấp phúc thẩm cũng áp dụng Bộ luật dân sự trong việc giải quyết nghĩa vụ

chậm trả. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của VPBank, nếu bà Thành chưa

chịu thi hành khoản tiền còn nợ thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi theo lãi suất cơ

bản của Ngân hàng Nhà nước quy định.

- Về tiền phạt do chậm trả lãi: Việc Ngân hàng VPBank áp dụng khoản tiền lãi

chậm trả với mức 0,05% là không đúng với quy định của pháp luật, do đây là khoản lãi

58

chồng lãi. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận khoản tiền này.

Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà Trần

Thị Minh Thành về mức lãi suất, điều chỉnh mức lãi suất trong hạn phải trả tối đa là

13,5%/năm và mức lãi suất nợ quá hạn 9%/năm theo quy định của Bộ luật dân sự,

không chấp nhận khoản tiền phạt do chậm trả lãi.

Bản án KDTM phúc thẩm số 12/2014/KDTM-PT ngày 08/12/2014 của Tòa

án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định: Áp dụng Điều 471; khoản 5 Điều 474; các

Điều 476, 361, 369 Bộ luật dân sự, xử: Buộc bà Trần Thị Minh Thành có trách nhiệm

trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng số tiền 1.205.131.170

đồng, trong đó nợ gốc 1.094.999.604 đồng, tiền lãi 110.131.566 đồng.

* Các vấn đề thực tiễn- pháp lý đặt ra của vụ án

Bên cạnh vấn đề lãi suất đã được phân tích trong hai vụ án trước đó, trong vụ

án này tác giả nhấn mạnh quyết định phạt do chậm trả lãi. Trong quá trình thực hiện

hợp đồng, Ngân hàng VPBank áp dụng khoản tiền lãi chậm trả với mức 0,05% để

phạt là không đúng với quy định của pháp luật. Trong BLDS 2005 không quy định

phạt do chậm trả lãi. Luật chỉ quy định lãi suất quá hạn, theo quy định tại khoản 5

Điều 474 BLDS 2005 thì bên vay chỉ trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi

suất quá hạn vẫn do đây là khoản lãi chồng lãi. Các hiện tượng: Lãi chồng lãi, lãi

mẹ đẽ lãi con, phạt chậm trã lãi là những biểu hiện của sự bất công, ép người yếu

thế, thiếu bình đẵng giữa các thành phần kinh tế. Pháp luật cần quan tâm điều tiết để

đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động tín dụng.

Ví dụ thứ ba, Vụ án tranh chấp HĐTD giữa Ngân hàng Việt Á và bà

Trương Diệu Liên

- Nội dung vụ án: ngày 15/9/2011, Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Á

chi nhánh tại Phúc Thọ và bà Trương Thị Diệu Liên ký kết HĐTD số

663/11/HĐNH-VAB. Theo đó, Ngân hàng đã cho bà Liên vay số tiền 2,5 tỷ đồng.

Thời hạn vay là 12 tháng, từ ngày 15/9/2011 đến 15/9/2012. Lãi suất vay trong hạn

là 1,8%/tháng, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất vay trong hạn. Trả lãi vay vào

ngày 15 hàng tháng. Mục đích vay để kinh doanh. Ngày 27/4/2012, Ngân hàng và

bà Liên ký kết HĐTD số 613/12/HĐNH-VAB. Theo đó, Ngân hàng tiếp tục cho bà

Liên vay số tiền 2,3 tỷ đồng. Thời hạn vay là 12 tháng, từ ngày 27/4/2012 đến ngày

27/4/2013. Lãi suất vay trong hạn là 21,6%/năm, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi

59

suất vay trong hạn. Trả lãi vay vào ngày 25 hàng tháng. Mục đích vay để kinh

doanh. Đến ngày 05/9/2012, lãi suất vay trong hạn của cả hai hợp đồng được điều

chỉnh thành 20%/năm. Việc cho vay được đảm bảo bằng tài sản thế chấp là nhà và

đất tại xã Hát Môn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất số AI 920052, đứng tên bà Trương Thị Diệu Liên. Trong quá trình vay, bà

Liên đã vi phạm thỏa thuận thanh toán tiền lãi. Bà Liên chỉ thanh toán tiền lãi đến

ngày 26/4/2012. Mặc dù, Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở bà Liên nhưng bà Liên

vẫn không thực hiện theo đúng thỏa thuận của hợp đồng. Nay Ngân hàng khởi kiện,

yêu cầu Tòa án buộc bà Liên phải trả cho Ngân hàng số tiền 5.319.975.294đ. Trong

đó gồm: Theo hợp đồng số 663/11/HĐNH-VAB, tiền nợ gốc là 2,5 tỷ đồng, tiền lãi

vay tính từ ngày 27/4/2012 đến ngày 16/10/2012 là 254.833.333đ, lãi phạt là

18.040.694đ. Theo hợp đồng số 613/12/HĐNH-VAB, tiền nợ gốc là 2,3 tỷ đồng,

tiền lãi vay tính từ ngày 28/4/2012 đến ngày 16/10/2012 là 233.066.667đ, lãi phạt là

14.034.600đ.

Với nội dung nêu trên, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội

đã ban hành Bản án sơ thẩm số 17/2013/KDTM-ST ngày 20/5/2013, quyết định:

Buộc bà Trương Thị Diệu Liên phải trả cho Ngân hàng số tiền 6.092.600.500đ,

trong đó gốc là 4,8 tỷ đồng và lãi là 1.292.600.500đ. Tiền lãi suất được tiếp tục tính

từ ngày 21 tháng 5 năm 2013 theo thỏa thuận trên hai Hợp đồng tín dụng số 663/11

ngày 15/9/2011, và Hợp đồng tín dụng số 613/12 ngày 27/4/2012 đã được ký giữa

Ngân hàng và bà Trương Thị Diệu Liên.

Sau đó, bà Trương Thị Diệu Liên kháng cáo và đề nghị cấp phúc thẩm xem

xét về cách tính lãi trong hạn, lãi quá hạn và lãi phạt chậm trả.

Trong vụ án trên, nếu căn cứ vào quy định về lãi suất BLDS 2005 thì việc bà

Liên không đồng ý với lãi suất của ngân hàng đưa ra và yêu cầu tính lãi suất theo quy

định của Ngân hàng Nhà nước tương ứng với từng thời điểm là có cơ sở.

2.2.3. Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong công tác giải quyết các vụ án

tranh chấp về HĐTD của TAND huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội thì đối với giải

quyết tranh chấp HĐTD vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế khiến quá trình giải quyết

còn chưa thực sự có hiệu quả. Theo báo cáo tổng kết công tác của TAND huyện

Phúc Thọ thành phố Hà Nội thì sự yếu kém, hạn chế bởi các nguyên nhân sau đây :

60

Thứ nhất: Pháp luật hiện hành liên quan đến việc giải quyết tranh chấp hợp

đồng tín dụng tuy khá đầy đủ nhưng chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện. Pháp luật của

Việt Nam đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung để dần dần hoàn thiện. Vì thế,

nhiều bộ luật, luật được ban hành mà chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết

thi hành, nhiều quy định chồng chéo không thực hiện được trên thực tế hoặc được

áp dụng không thống nhất trong hệ thống cơ quan tư pháp.

Một số văn bản pháp luật đã có hiệu lực thi hành trong một thời gian khá dài

nhưng nhiều quy định trong các văn bản đó chưa được Toà án nhân dân tối cao,

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cùng các cơ quan hữu quan trong phạm vi thẩm

quyền ban hành những văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành nên có tình trạng Toà án

nhân dân các cấp áp dụng không thống nhất và kết quả các bản án hoàn toàn trái

ngược nhau giữa các cấp Toà.

Việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng tín dụng hiện nay được quy định

khá nhiều trong các văn bản pháp luật khác nhau nên khó tránh khỏi sự chồng chéo,

không thống nhất giữa các văn bản. Điều đó gây khó khăn cho việc giải quyết của

Tòa án khi có tranh chấp xảy ra, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên trong vụ án

và dẫn đến đưa ra một bản án chưa mang tính thuyết phục.

Thứ hai: Công tác thụ lý và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm còn chậm,

nhiều bản án phúc thẩm giải quyết chưa thoả đáng, việc phát hiện những thiết sót

của Toà án sơ thẩm chưa tiến hành kịp thời để đưa ra những giải pháp khắc phục. Vẫn

còn những bản án phúc thẩm bị khiếu nại còn. Việc tố tụng chậm, sai, phiền hà đã ảnh

hưởng tiêu cực tới các bên trong HĐTD như việc không thu hồi được vốn cho vay ảnh

hưởng tới hoạt động của TCTD, việc tranh chấp kéo dài có thể làm cho bên vay

phải trả thêm những khoản lãi phát sinh ảnh hưởng đến việc trả nợ.

Thứ ba: Đối với công tác giám đốc thẩm, tái thẩm và giải quyết khiếu nại

vẫn chưa đảm bảo được những quy định của pháp luật. Công tác kiểm tra, giám đốc

thẩm của Toà án nhân dân cấp tỉnh với Toà án nhân dân cấp huyện còn hạn chế, nên

chưa kịp thời phát hiện các vi phạm để khắc phục và xử lý.

Thứ tư: Trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, nhiều

Thẩm phán nghiên cứu tài liệu, chứng cứ không đầy đủ, rõ ràng, đánh giá chứng cứ

không đúng với sự thật khách quan, thậm chí còn xác định sai tư cách tố tụng của

đương sự hoặc triệu tập không đầy đủ những người bắt buộc phải tham gia phiên

61

toà dẫn đến nhiều phiên toà vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và kết quả là bản

án được tuyên bị huỷ vì vi phạm nghĩa vụ tố tụng.

Đối với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Toà án thì trách

nhiệm cung cấp chứng cứ thuộc về các bên tranh chấp. Bản án được tuyên có đúng

với sự thật khách quan hay không phụ thuộc nhiều vào chứng cứ mà các bên cung

cấp. Trước Toà án, nếu các đương sự không chứng minh được sự tồn tại quyền và

lợi ích hợp pháp của họ thì không thể thuyết phục được Toà án bảo vệ quyền và lợi

ích cho mình. Vì trên thực tế, các Toà án cũng có thể có sai lầm trong việc xác định

các tình tiết, sự kiện của vụ tranh chấp. Do vậy, chứng minh không chỉ có ý nghĩa

bảo đảm quyền cho đương sự mà còn có ý nghĩa giúp Hội đồng xét xử có những

căn cứ pháp lý để giải quyết vụ án một cách chính xác và đúng luật.

Thứ năm: Đội ngũ cán bộ Toà án hiện nay còn thiếu về số lượng và yếu kém

về năng lực, có một số cán bộ Toà án có đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp chưa

cao nên đã có những hành vi vi phạm làm ảnh hưởng tới kết quả của vụ án.

Thẩm phán thường có vai trò Chủ tọa trong các phiên tòa giải quyết tranh

chấp hợp đồng tín dụng, là người trực tiếp được giao nhiệm vụ xét xử, nhân danh

Nhà nước để bảo vệ pháp luật. Do đó, để có một bản án có chất lượng đòi hỏi Thẩm

phán cần phải có một vốn kiến thức vững chắc, am hiểu pháp luật và phải luôn cập

nhập được kiến thức mới, thường xuyên được bồi dưỡng năng lực nghiệp vụ. Phẩm

chất đạo đức của Thẩm phán có ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết vụ án tranh

chấp hợp đồng tín dụng có được giải quyết. Cần phải rèn luyện và bồi dưỡng phẩm

chất đạo đức của Thẩm phán để có bản án công tâm, khác quan và đúng pháp luật.

Thứ sáu: Việc ứng dụng công nghệ thông tin và nâng cấp cơ sở vật chất vào

hoạt động của Toà án còn nhiều hạn chế. Quá trình giải quyết các tranh chấp còn

mất nhiều thời gian, nhiều loại chi phí, nhiều đầu mối trung gian trong khi đó lĩnh

vực tài chính là lĩnh vực nhạy cảm yêu cầu giải quyết nhanh gọn để các bên có thể

nhanh chóng tiến hành hoạt động trở lại bình thường.

62

Tiểu kết chương 2

Cho đến nay, có thể thấy Pháp luật Việt Nam đã có những quy định tương

đối đầy đủ và hoàn thiện cả về nội dung và hình thức làm cơ sở cho công tác giải

quyết tranh chấp trong hợp đồng tín dụng ngân hàng. Trong đó, phải kể đến các quy

định trong các văn bản pháp luật như BLDS 2015, BLTTDS 2015, Luật các Tổ

chức tín dụng 2010, Luật thương mại 2005, Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP của Hội

đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao…

Trên cơ sở các quy định của pháp luật, TAND huyện Phúc Thọ luôn cố gắng,

nỗ lực thực hiện tốt vai trò của cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc giải quyết, xét

xử các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng và bước đầu đã đạt được những kết quả

đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã có được, trong thực tiễn

xét xử, TAND huyện Phúc Thọ nói riêng và các Tòa án trên địa bàn thành phố Hà

Nội nói chung cũng đã gặp phải không ít những vướng mắc, bất cập do các nguyên

nhân chủ quan và khách quan. Tìm ra được những nguyên nhân này là những cơ sở

quan trọng trong việc đề xuất những giải pháp khắc phục, nâng cao chất lượng và

hiệu quả hoạt động của Tòa án, đặc biệt là TAND huyện Phúc Thọ.

63

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN

TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín

dụng ngân hàng tại Tòa án nhân dân

Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án là hoạt động áp dụng

pháp luật có ý nghĩa quan trọng, thể hiện sự công bằng và đúng pháp luật trong việc

đưa ra phán quyết có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên đương sự có tranh

chấp về quyền và lợi ích, góp phần bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước,

của tổ chức, cá nhân, ổn định và làm lành mạnh các mối quan hệ xã hội, thúc đẩy

các giao dịch dân sự theo định hướng của Nhà nước. Do đó, việc giải quyết các vụ

án về tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố

Hà Nội cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm cơ bản sau đây:

3.1.1. Quán triệt chính sách của Đảng về giải quyết các vụ án nói chung

và giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng nói riêng

Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết

đề cập tới vấn đề cả cách tư pháp và trong đó đặc biệt là Nghị quyết số 49 –

NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020” và nghị quyết số 81/2014/QH13 ngày 24/11/2014 “Về việc thi hành luật

tổ chức tòa án nhân dân”. Vấn đề này tiếp tục được đề cập đến tại Báo cáo Chính trị

của các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng ta.

Là cơ quan thực hiện chức năng xét xử các vụ án (trong đó có các vụ án về

tranh chấp hợp đồng tín dụng), lại là cơ quan xét xử hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm,

nên hoạt động áp dụng pháp luật về thủ tục xét xử tranh chấp hợp đồng tín dụng tại

Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay cũng

phải được thực hiện trên cơ sở quán triệt các quan điểm của Đảng về lĩnh vực này.

Đó là các quan điểm mang tính chỉ đạo của Đảng trong các văn kiện, Nghị quyết

các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc.

Thực hiện đúng đắn và đầy đủ các quy định về thủ tục trong quá trình xét xử

các vụ án kinh doanh thương mại về tranh chấp hợp đồng tín dụng là cơ sở để góp

64

phần đẩy mạnh cải cách tư pháp, nhằm “Xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch,

vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Do đó, cần quán

triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp trong

gia đoạn hiện nay:

Thứ nhất: Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo

đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự

phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập

pháp, hành pháp, tư pháp.

Thứ hai: Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã

hội, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển

kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải

cách hành chính. Đồng thời phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu

đã đạt được của nền tư pháp XHCN Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm

của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế,

đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lại.

Thứ ba: Cải cách tư pháp được tiến hành khẩn tưởng, đồng bộ, có trọng tâm,

trọng điểm với những bước đi vững chắc. Ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị đã ban hành

Nghị quyết số 49/NQ – TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có đề

ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động Tòa án nhân dân theo hướng: Tổ

chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử độc lập, không phụ thuộc vào đơn vị hành

chính, gồm Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính

cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ

thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử

phúc thẩm, TAND Tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng

thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc, tái thẩm. Việc thành lập Tòa

chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp của Tòa án, từng khu vực. Đổi

mới tổ chức TAND theo hướng tinh gọn với đội ngũ Thẩm phán là những chuyên gia

đầu ngành về pháp luật có kinh nghiệm trong ngành.

Thứ tư: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách

tư pháp. Các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của

các cơ quan dân cử và nhân dân.

65

3.1.2. Quan điểm cụ thể về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng của ngành

Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân ở huyện Phúc Thọ nói riêng

Trên cơ sở quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng ta đã nêu ở mục

3.2.1 của Luận văn, có thể thấy rằng các quan điểm cơ bản đảm bảo việc áp dụng

pháp luật có hiệu quả trong việc giải quyết các vụ án nói chung và các vụ án tranh

chấp hợp đồng tín dụng nói riêng của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố

Hà Nội là:

Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động áp dụng pháp

luật trong giải quyết án tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án nhân dân huyện

Phúc Thọ thành phố Hà Nội, Đảng lãnh đạo trên ba phương diện: Tư tưởng, tổ chức

và cán bộ. Thường xuyên giám sát hoạt động của Tòa án, đánh giá đạo đức phẩm

chất, vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong ngành Tòa, sự lãnh đạo của

Đảng được thể hiện ở phương diện chỉ đạo Tòa án theo đường lối xét xử nghiêm

minh, công bằng, đúng pháp luật, tạo được lòng tin của quần chúng nhân dân đối

với cơ quan Tòa án nói riêng và sự lãnh đạo của Đảng nói chung.

Thứ hai: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp hợp đồng tín

dụng phải quan tâm chú trọng hơn nữa đến vấn đề hòa giải, xuất phát từ các quan hệ

trong xã hội, các tranh chấp hợp đồng tín dụng thường xảy ra khi các bên tham gia

hợp đồng không thống nhất được vấn đề mà các bên cần giải quyết. Vì vậy khi các

bên cần đến sự can thiệp của Tòa án, thì Tòa án chính là cơ quan phân định quyền

và nghĩa vụ của các bên nhằm đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cũng như

việc thực hiện nghĩa vụ của các đương sự. Việc giải quyết được mẫu thuẫn giữa các

bên tham gia bằng công tác hòa giải sẽ giúp giảm được thời gian và chi phí cho Tòa

án cũng như các bên tham gia tranh chấp. Vì vậy công tác hòa giải trong giải quyết

tranh chấp hợp đồng tín dụng cần phải được chú trọng và ưu tiên hàng đầu. Việc áp

dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng khi ra quyết định xét

xử phải quan tâm đến tính khả thi, khả năng thực hiện trong thực tiễn để đảm bảo

được quyền và lợi ích của các bên tham gia hợp đồng.

Thứ ba: Tăng cường tranh tụng tại phiên tòa là một trong những nội dung

quan trọng trong công cuộc cải các tư pháp hiện nay. Việc mở rộng tranh tụng tại

Tòa án sẽ giúp cho các bên tham gia bảo vệ được quyền và lợi ích của minh và giúp

cho việc xét xử của Tòa án các cấp nâng cao chất lượng khi ra ban hành bản án và

66

quyết định tranh gây sai sót trong hoạt động tố tụng. Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản

của giải quyết tranh chấp dân sự nói chung và giải quyết tranh chấp hợp đồng tín

dụng nói riêng là quyền tự quyết và tự định đoạt thuộc về các đương sự. Việc áp

dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng không chỉ Tòa có

quyền chỉ định áp dụng các quy phạm pháp luật để giải quyết các tranh chấp mà ở

đây còn thể hiện sự bình đẳng của các bên tham gia quan hệ pháp luật.

Thứ tư: Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng xây dựng và phát triển đội ngũ Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân đáp ứng được nghiệp vụ, chuyên môn về pháp luật để xử lý

các vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng đủ về số lượng và chất lượng.

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín

dụng ngân hàng

3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật

Thứ nhất: Cần hoàn thiện quy định của pháp luật về lãi suất cho vay trong

hợp đồng tín dụng. Các chủ thể tham gia trong hợp đồng tín dụng luôn có sự thỏa

thuận lãi suất, tài sản bảo đảm và việc xử lý tài sản bảo đảm đã được quy định trong

văn bản hợp đồng hoặc các văn bản thỏa thuận khác giữa tổ chức tín dụng và bên

vay vốn. Trường hợp bên vay vốn không trả nợ đúng hạn thì họ phải trả nợ gốc, nợ lãi

trong hạn và nợ lãi quá hạn cho tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, việc áp dụng lãi suất nợ

quá hạn của tổ chức tín dụng đối với khách hàng có nợ quá hạn trên thực tế còn có

nhiều bất cập, không phù hợp với quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết

tranh chấp hợp đồng tín dụng việc áp dụng quy định của pháp luật về lãi suất vay và lãi

suất quá hạn tại các tổ chức tín dụng và của Tòa án còn nhiều bất cập.

Theo khoản 2 điều 305 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp bên có

nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ

bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm

thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Bên cạnh đó, khoản 5 điều 474 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp vay có lãi

mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên

nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố

tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”; khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 quy

định: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi

suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”.

67

Những quy định này thể hiện sự áp đặt bất hợp lý và đang tạo ra những rủi ro pháp

lý cho các hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay của các tổ chức tín

dụng nói riêng. Theo quy định tại khoản 1 điều 12 của Luật Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam năm 2010 thì “Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất

cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng

lãi”. Việc BLDS quy định phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ

bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả

nợ và mức trần lãi suất không vượt quá 150% cũng với mục đích chống cho vay

nặng lãi. Tuy nhiên, việc đặt ra tỷ lệ 150% là không phù hợp vì lãi suất cơ bản

thường được quan niệm là lãi suất định hướng và ở mức rất thấp so với lãi suất thị

trường (Trên thực tế, phần lớn các tổ chức, cá nhân cho vay đều phải áp dụng mức

lãi suất vượt quá mức lãi suất tối đa được quy định tại BLDS).

Theo quy định này thì lãi suất huy động và lãi suất cho vay (vay và cho vay),

căn cứ cách tính lãi suất quá hạn của các tổ chức tín dụng được ấn định trên cơ sở

và ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý với lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước

công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Các quy định này đã tỏ ra

không thực tế và luôn kiềm hãm sự phát triển của hoạt động Tổ chức tín dụng vì nó

giống như một mệnh lệnh hành chính bắt buộc Tổ chức tín dụng phải tuân theo

trong khi đó thị trường đòi hỏi cần phải được tự do. Mặt khác, với quy định về lãi

suất như vậy có thể làm các HĐTD bị vô hiệu do vi phạm các quy định của BLDS

2005 về lãi suất cho vay. Vì thực tế, có những thời điểm Ngân hàng Nhà nước áp

dụng trần lãi suất huy động tối đa là 15%/năm, lãi suất cho vay là từ 18,5%-24%,

trong khi đó lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước công bố là 9%/ năm. Hiện nay,

những quy định BLDS 2005 tại khoản 5 điều 474 và điều 476 đã tạo ra sự kìm hãm

sự phát triển hoạt động cho vay của TCTD, không còn phù hợp với hoạt động cho

vay đang diễn ra của nền kinh tế thị trường tự do thỏa thuận lãi suất.

Do đó các quy định này đã được sửa đổi và thay thế bằng khoản 5 điều 466

và điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày

01/01/2017, các quy định về lãi suất đã được thay đổi để phù hợp theo hướng quy

định quyền thỏa thuận lãi suất của các bên tham gia HĐTD trên cơ sở tự nguyện

bình đẳng của các chủ thể tham gia bảo đảm hạn chế lợi dụng vay nặng lãi. Cụ thể:

- Điều 468 BLDS 2015 quy định: “1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

68

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không

được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan

quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban

thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc

hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới

hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. 2.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất

và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới

hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”.

- Khoản 5 điều 466 BLDS 2015 quy định: “a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất

thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường

hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468

của Bộ luật này; b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo

hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”.

Việc ban hành các quy định trên của Bô luật dân sự năm 2015 sẽ góp phần

hạn chế được sự tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng, đồng thời ngăn chặn được

khách hàng vay lợi dụng sự sơ hở về quy định lãi suất trong Bộ luật Dân sự 2005

mà cố tình chậm thanh toán nghĩa vụ trả nợ.

Đồng thời, cùng với việc ban hành Bộ luật Dân sự mới đã sửa đồi về phần lãi

suất, thì cần có thêm những quy định rõ về khái niệm các loại lãi suất, cách tính lãi

suất để tránh các tổ chức tín dụng lách luật nghĩ ra các khoản phí, phụ phí khác để

thu từ khách hàng khi việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng tín dụng quá hạn.

Ngoài ra, việc xử lí hậu quả của hợp đồng tín dụng vi phạm quy định về lãi

suất: Đối với một số hợp đồng vay tiền đã có hiệu lực và việc thoả thuận lãi suất

vượt quá quy định cho phép của Nhà nước của bên cho vay thì không nên tuyên bố

hợp đồng vô hiệu. Trong trường hợp này, để bảo vệ quyền lợi cho các bên Toà án

nên áp dụng và quy định lại lãi suất chuẩn và hợp lí tại thời điểm bấy giờ trong hợp

đồng vay tiền và hợp đồng cho vay tiền này tiếp tục có hiệu lực. Cũng cần phải cân

nhắc điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và dự liệu “những trường hợp khác do

pháp luật quy định” để không gây mâu thuẫn trong chính Bộ luật dân sự.

Thứ hai: Các quy định pháp luật về đảm bảo thanh toán và xử lý tài sản đảm

bảo cần phải chặt chẽ và có tính thống nhất. Hoạt động tín dụng luôn ẩn chứa trong

69

nó những rủi ro kinh doanh nói chung mà còn có những rủi ro riêng biệt ảnh hưởng

mạnh mẽ tới nền kinh tế. Rủi ro đó chính là khả năng khách hàng vay không trả nợ

tiền vay hoặc trả không đúng thời hạn hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho tổ chức

tín dụng. Để tránh rủi ro từ hợp đồng tín dụng xảy ra, các tổ chức tín dụng đều phải

sử dụng đến biện pháp bảo đảm tiền vay để tạo ra nguồn thu thứ hai dự phòng cho

những trường hợp khách hàng vay không thể trả nợ bằng khả năng tài chính của

mình được.

Khi cho vay, tổ chức tín dụng chỉ dựa vào giá trị của tài sản bảo đảm thanh

toán để xác định hạn mức cho vay. Các quy định về định giá tài sản thế chấp luôn

được sửa đổi để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các tổ chức tín dụng và khách

hàng vay nhưng vẫn khó thực hiện trên thực tế. Cái khó trong việc xác định tài sản

thế chấp là phải xác định tài sản thế chấp sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu của

khách hàng vừa đảm bảo thu hồi đủ nợ cho tổ chức tín dụng một khi tài sản thế chấp

được đem ra xử lý. Vì vậy, quy định về tài sản bảo đảm là rất quan trọng đối với hợp

đồng tín dụng, nó có ý nghĩa bảo đảm an toàn cho tổ chức tín dụng một khi khách hàng

không thể trả thì tổ chức tín dụng sẽ tiến hành xử lý khối tài sản bảo đảm đó để thu hồi

nợ. Tuy nhiên, thực tiễn quy định về bảo đảm tài sản và xử lý tài sản bảo đảm vẫn còn

nhiều điểm bất cập làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể tham gia vào hợp

đồng tín dụng từ đó dẫn đến mâu thuẫn và tranh chấp lại xảy ra.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi khách hàng không trả được nợ

vay đến hạn mà không được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ và không còn

nguồn trả nợ, thì bên cho vay (TCTD) có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ

theo thỏa thuận trong hợp đồng hoặc bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật

để thực hiện nghĩa vụ. Theo đó, đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên vay

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì tổ chức tín dụng có quyền

xử lý tài sản thế chấp, cầm cố theo phương thức do các bên đã thoả thuận hoặc được

bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ. Trước khi bán đấu

giá tài sản thế chấp, cầm cố thì việc định giá trị tài sản phải được sự đồng ý của chủ

sở hữu. TCTD muốn đưa tài sản ra phát mại đòi hỏi khách hàng phải hợp tác, trong

khi trường hợp này rất hạn hữu. Để thực hiện được thủ tục này thì các bên cần phải

ký hợp đồng ủy quyền tại đơn vị bán đấu giá có thẩm quyền vì theo điều 195 của

BLDS 2015 quy định của pháp luật “Người không phải là chủ sở hữu của tài sản chỉ

70

có quyền định đoạt tài sản theo sự ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của

pháp luật”. Nhưng nếu bên thế chấp không đồng ý ký vào hợp đồng ủy quyền này

thì không thể thực hiện việc bán đấu giá. Đồng thời, việc định giá tài sản bảo đảm

phải được chủ sở hữu chấp thuận. Điều này, ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ của tổ

chức tín dụng.

Trên thực tế việc hợp tác của bên bảo đảm trong quá trình xử lý tài sản thông

qua bán đấu giá thường khách hàng không hợp tác, khó xảy ra một cách thuận lợi.

Mặt khác, trường hợp bên bảo đảm có dấu hiệu chống đối, gây cản trở cho việc thu

giữ tài sản của tổ chức tín dụng, thì cơ quan công an và chính quyền địa phương

chưa thực sự quyết liệt phối hợp, hỗ trợ tổ chức thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm theo

đề nghị của TCTD. Thực tế, khi nhận được văn bản đề nghị phối hợp, hỗ trợ thu giữ

và xử lý tài sản bảo đảm của TCTD, cơ quan chính quyền địa phương (UBND cấp

xã, phường, thị trấn) và cơ quan công an chưa coi đây là nhiệm vụ, trách nhiệm của

mình như quy định tại khoản 5 Ðiều 63 Nghị định số 163/2006/NÐ-CP ngày

29/12/2006 của Chính phủ, thậm chí né tránh vì quan ngại đến trách nhiệm, thầm

quyền giải quyết không rõ ràng hoặc vì lý do khác.

Vì vậy, muốn thu hồi nợ thì tổ chức tín dụng phải khởi kiện ra Tòa án, sau

khi bản án hoặc quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật thì tổ chức tín dụng mới

làm thủ tục thi hành án tại cơ quan thi hành án. Qua đó có thể thấy, quy định của

Nghị định số 163/2006/NÐCP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về việc UBND xã,

phường và cơ quan Công an phối hợp, hỗ trợ TCTD xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ

là chưa hiệu quả và không sát với thực tế. Như vậy, pháp luật cần có các quy định

cụ thể về việc UBND, Công an thực thi vai trò của mình. Như vậy, đối với những

khách hàng không hợp tác trong việc giải quyết nợ tín dụng thì TCTD sẽ gặp nhiều

khó khăn không chỉ từ chính khách hàng vay mà còn từ các quy định của pháp luật

chưa thật sự chặt chẽ và có tính chất bắt buộc. Chính điều này đã gây khó khăn cho

các TCTD thực hiện quyền thu hồi nợ của mình một khi người vay cố tình vi phạm

hợp đồng tín dụng bằng cách cố tình không trả nợ, lợi dụng sự khó khăn trên để

buộc các TCTD cho gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ tiếp tục, từ đó có thể

tranh thủ sử dụng vốn của TCTD không đúng như trong HĐTD. Nếu không gia hạn

hoặc điều chỉnh kỳ hạn được thì để mặc cho TCTD khởi kiện ra Toà án tốn thời

gian, công sức và chi phí.

71

Thực tế cho thấy rằng, khi xử lý tài sản bảo đảm việc định giá và chuyển

quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảo vẫn phải phụ thuộc nhiều vào ý chí

của chủ sở hữu, gây khó khăn cho bên nhận bảo đảm. Để tạo điều kiện cho các tổ

chức tín dụng hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời hạn chế được

rủi ro trong hoạt động tín dụng thì cần phải có các quy định về biện pháp bảo đảm

tiền vay phù hợp với điều kiện thực tế.

Để hạn chế những vướng mắc của pháp luật về bảo đảm tiền vay, yêu cầu

hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay, chế định đăng ký giao dịch bảo đảm cần

tập trung vào việc giải quyết các vấn đề sau đây:

- Cần có sự thống nhất giữa các quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay với

các bộ phận pháp luật khác có liên quan như pháp luật về sở hữu, pháp luật về đất

đai, pháp luật về hợp đồng, pháp luật về giải quyết tranh chấp, pháp luật về thi hành

án góp phần quan trọng trong việc xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ của TCTD.

Đồng thời, cần có quy định cụ thể cho việc thi hành các bản án liên quan đến các

TCTD tránh việc khách hàng bị lợi dụng kéo dài thời gian thi hành án.

- Khi sử lý tài sản bảo đảm thì việc định giá phải do tổ chức đánh giá chuyên

nghiệp thực hiện, có thể là một cơ quan chuyên môn hay một tổ chức định giá hoạt

động độc lập.

- Cần cải cách thủ tục công chứng, chứng thực về đăng ký giao dịch bảo

đảm nhằm bảo đảm tính thống nhất đồng bộ để tránh tình trạng một tài sản được thế

chấp ở nhiều TCTD.

- Cần quy định chế tài cụ thể đối với các cơ quan chức năng như Ủy ban

nhân dân, Công an trong quá trình hỗ trợ tổ chức tín dụng thu hồi tài sản bảo đảm.

Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp của Tòa án nhân dân

Thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp HĐTD đã nảy sinh nhiều bất cập cần sửa

đổi và hoàn thiện. Hoàn thiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp HĐTD là việc

làm cần thiết, nhằm thúc đẩy quan hệ vay vốn tín dụng giữa các chủ thể được thuận

tiện hơn; bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong quan hệ tín dụng và tạo

điều kiện thuận lợi để thị trường tín dụng phát triển.

Thứ nhất, về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Toà án.

- Pháp luật hiện hành cho rằng tranh chấp kinh doanh, thương mại chỉ xảy ra

giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi

72

nhuận. Vậy, đối với với những tranh chấp xảy ra giữa cá nhân, tổ chức mà một bên

có đăng ký kinh doanh và nột bên không có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục

đích lợi nhuận thì sao? Theo tác giả nên sửa lại khoản 1 điều 29 BLTTDS theo hướng

“Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức

có đăng ký kinh doanh với nhau hoặc một bên không có đăng ký kinh doanh và đều

có mục đích lợi nhuận”.

Với thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng như

hiện nay là quá tải đối với Toà án nhân dân cấp huyện, gây khó khăn cho Ngân hàng

và khách hàng. Bởi do biên chế và năng lực của đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân

cấp huyện còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp HĐTD

nên dẫn đến tiến độ giải quyết tranh chấp còn chậm và nhiều sai xót. Cho nên cần mở

rộng thẩm quyền của Toà án nhân dân các cấp trong việc giải quyết các vụ việc tranh

chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng theo hướng Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết

các vụ án tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa các cá

nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có lợi nhuận.

Thứ hai, bổ sung các quy định về thủ tục rút gọn đối với giải quyết tranh

chấp HĐTD.

Hiện nay, thủ tục tố tụng dân sự giải quyết tranh chấp HĐTD còn rườm rà,

mang tính hình thức, chưa linh hoạt, nhanh nhạy xử lý vấn đề gây tốn kém về thời

gian và tiền bạc cho các bên tranh chấp. Theo quy định của BLTTDS, thủ tục giải

quyết tranh chấp HĐTD còn mất rất nhiều thời gian. Thông thường để giải quyết

xong một tranh chấp HĐTD phải mất gần hai năm. Trình tự, thủ tục ở toà án thường

kéo dài lâu do phải trải qua các khâu: thụ lý, toà án nghiên cứu và tiến hành hoà giải

đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm cũng một thời gian khá dài, đến khi bản án có hiệu

lực pháp luật thì phải chờ cơ quan thi hành án xử lý. Trình tự, thủ tục kéo dài nhiều

thời gian như vậy khiến cho các bên trong tranh chấp luôn ở trong tình trạng chờ

đợi, mệt mỏi.

Thực tế này đòi hỏi công việc giải quyết tranh chấp ở toà án cần rút ngắn

thời gian, loại bỏ đi những thủ tục rườm rà, rắc rối để làm cho quá trình giải quyết

tranh chấp nhanh gọn, đúng pháp luật, đơn giản, bảo vệ quyền lợi các bên trong hợp

đồng. Hơn nữa, các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng chủ yếu liên quan tới

vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi của khách hàng, thực tế cho thấy khi các bên

73

tranh chấp quyết định đưa vấn đề tranh chấp ra giải quyết tại Toà án thì họ đã tiến

hành các bước thương lượng, hoà giải nên về các chứng cứ chứng minh vụ việc có

tình tiết rõ ràng và có căn cứ pháp lý.

Đối với những tranh chấp HĐTD mà chứng cứ rõ ràng, bị đơn có địa chỉ, lai

lịch cụ thể, họ thừa nhận nghĩa vụ của mình trước nguyên đơn, nếu nguyên đơn xuất

trình được chứng cứ bằng văn bản để chứng minh cho yêu cầu của mình và nếu như

bị đơn cùng tất cả những người liên quan khác trong vụ tranh chấp không có sự phản

đối về sự giả mạo của bằng chứng đó thì Toà án có thể khẳng định được tính chính

xác và độ tin cậy của các thông tin trong các văn bản đó. Do vậy, Toà án không phải

mất nhiều thời gian để điều tra, xác minh mà vẫn có thể giải quyết đúng pháp luật vụ

tranh chấp đó, đảm bảo giải quyết nhanh gọn, hiệu quả. Vì thế, có cơ chế để cán bộ

Toà án có cơ sở ban hành quyết định áp dụng thủ tục rút gọn đối với những tranh chấp

được áp dụng thủ tục này.

Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Đối với những tranh chấp HĐTD áp dụng thủ tục

rút gọn thì thời hạn chuẩn bị xét xử là không quá 15 ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án.

Về thời hạn mở phiên toà xét xử sơ thẩm: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày

có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà. Khoản 1 điều 212

BLTTDS quy định: “Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành

mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ

trì phiên hoà giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Toà án phân công ra quyết

định công nhận sự thoả thuận của các đương sự”. Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy

hầu hết các quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự do Thẩm phán

chủ trì phiên hoà giải ra quyết định. Vậy, cần phải sửa lại khoản 1 điều 212

BLTTDS 2015 theo hướng: “Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà

giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm

phán chủ trì phiên hoà giải ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương

sự” để có tính khả thi cao trong thực tế.

Các quy định về chủ thể của quan hệ thế chấp tài sản cần phải xác định rõ

ràng. Để việc tham gia giao dịch thế chấp tài sản nhất là thế chấp giá trị quyền sử

dụng đất có hiệu quả, phát huy hết tác dụng của việc đảm bảo nghĩa vụ thì pháp luật

đất đai và pháp luật dân sự cần có những điều chỉnh phù hợp liên quan đến chủ thể

thế chấp khi tham gia hợp đồng thế chấp nhất là đối với hộ gia đình, cá nhân khi thế

74

chấp Quyền sử dụng đất. Tăng cường hơn nữa quyền tự chủ, quyền tự do cam kết, tự

nguyện thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ thế chấp tài sản. Do đó, pháp luật cần

quy định điều kiện đối với hộ gia đình khi thế chấp Quyền sử dụng đất, cụ thể:

- Bộ luật dân sự cần xác định các tiêu chí để xác lập địa vị pháp lý của hộ

gia đình xác lập các quyền về tài sản cho hộ gia đình đó. Tiêu chí nào để xác định

đại diện chủ hộ và tiêu chí nào để xác định các thành viên trong hộ gia đình. Đối với

Luật đất đai cần xác định tài sản là quyền sử dụng đất trong trường hợp nào thì xác

định là chung của cả hộ gia đình và riêng cho một thành viên trong hộ gia đình. Bên

cạnh đó pháp luật cần bổ sung các quy định về quản lý đăng ký thành viên hộ gia

đình (đăng ký lần đầu, thay đổi, chấm dứt) nhằm xác định tư cách thành viên hộ gia

đình, qua đó tạo thuận lợi cho hộ gia đình khi thực hiện các quyền của người sử

dụng đất.

- Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành đối với trường hợp thế chấp

quyền sử dụng đất đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp trước đây là

còn ghi là hộ gia đình nên quy định rõ trong trường hợp thế chấp này thì chỉ cần chủ

hộ gia đình ký vào hợp đồng thế chấp và phải có sự đồng ý của những người trong

hộ gia đình đó.

3.2.2. Các giải pháp về tổ chức và thực hiện

* Nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán

Hoạt động xét xử của Tòa án là nơi thể hiện rõ nét nhất chất lượng hoạt động

và uy tín của hệ thống các cơ quan tư pháp, nơi thể hiện rõ nhất bản chất nhân dân,

tính công bằng, công lý và dân chủ trong hoạt động tư pháp trong đó thẩm phán có

vai trò trung tâm, là thành phần chính tạo nên chất lượng, hiệu quả của hoạt động

xét xử. Chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử không chỉ phụ thuộc vào sự

hoàn thiện của hệ thống pháp luật, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các

thẩm phán mà còn phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, trách

nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán. Thẩm phán giữ vị trí quan trọng trong

việc xét xử - giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng, vì thế số lượng, chất lượng

của đội ngũ thẩm phán là yếu tố mang tính chất quyết định đến hiệu quả quá trình

giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hiến pháp năm 2013, Luật tổ

chức TAND năm 2014 quy định điều kiện, tiêu chuẩn thẩm phán, cũng như quyền

hạn, nghĩa vụ của họ khi tiến hành tố tụng… đã góp phần nâng cao một bước chất

75

lượng của đội ngũ thẩm phán trong những năm vừa qua. Thẩm phán là một chức

danh tư pháp quan trọng không thể thiếu trong tổ chức Tòa án nói riêng và trong bộ

máy Nhà nước nói chung. Ở nước ta, từ năm 2002 đến nay, Pháp lệnh Thẩm phán

và Hội thẩm nhân dân đã ghi nhận Thẩm phán là một chức danh mà trước đó chỉ

được coi là một chức vụ. Quy định này đánh dấu một bước ngoặt về nhận thức để

xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp, đáp ứng các yêu cầu của hoạt động xét

xử. Chỉ khi nào thực sự coi Thẩm phán là một nghề, có vị trí, chức danh trong xã

hội thì họ mới có cơ sở và điều kiện pháp lý để làm việc và yên tâm cống hiến, phấn

đấu cho sự nghiệp của mình. Hoạt động xét xử của Thẩm phán là chuyên nghiệp, do

đó Thẩm phán phải được tuyển chọn một cách kỹ lưỡng, cẩn thận để tìm được

người đủ năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức có thể đảm

đương tốt vai trò của người Thẩm phán. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã lựa chọn

cách thức bổ nhiệm để tuyển chọn Thẩm phán và cũng đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể

trong việc tuyển chọn thẩm phán. Về cơ bản những quy định này bước đầu đã tạo ra

những cơ sở pháp lý để hình thành đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp cho hoạt động

xét xử. Tuy nhiên, pháp luật cũng cần quy định rõ ràng, cụ thể hơn về tính chuyên

nghiệp của thẩm phán trên tất cả các lĩnh vực như: cơ chế bảo đảm, năng lực

chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng xét xử… để có thể xây dựng đội ngũ

Thẩm phán chuyên nghiệp. Cũng cần xem xét, nghiên cứu về chế độ Thẩm phán

được bổ nhiệm suốt đời để họ có thể yên tâm làm công việc đầy khó khăn đã lựa

chọn. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính chuyên nghiệp trong hoạt động xét xử của thẩm

phán và xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp là yếu tố quan trọng mang tính

tiên quyết để nâng cao địa vị của thẩm phán trong hoạt động tư pháp và đối với xã

hội góp phần nâng hiệu quả của hoạt động xét xử.

Số lượng và chất lượng thẩm phán là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu

quả xét xử cũng như địa vị của thẩm phán. Theo thống kê của TAND tối cao thì số

lượng thẩm phán của TAND các cấp, đặc biệt là khối TAND cấp huyện còn thiếu,

chưa đủ chỉ tiêu đươc giao. Do thiếu thẩm phán nên nhiều Tòa án đang bị quá tải về

công việc dẫn đến số lượng các vụ án tồn đọng nhiều vẫn chưa được giải quyết dứt

điểm. Điển hình như các TAND trên địa bàn thành phố Hà Nội, chỉ riêng án liên

quan đến giải quyết tranh chấp HĐTD, một thẩm phán được giao giải quyết trung

bình trên 10 vụ/tháng. Sự quá tải này có thể sẽ dẫn đến những sai sót không đáng có

76

về nghiệp vụ, đặc biệt là gây ra những khó khăn nhất định đối với công tác quy

hoạch, đào tạo cán bộ của ngành do việc nhiều, người ít nên nhiều nơi không thể cử

cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch, quy hoạch. Đây chính là mâu thuẫn,

thách thức lớn nhất đặt ra với ngành Tòa án khi xử lý, giải quyết vấn đề về số lượng

thẩm phán của Tòa án các cấp.

* Nâng cao năng lực của cán bộ tín dụng ngân hàng

Nếu việc tăng cường kiến thức pháp luật cũng như kiến thức kinh tế đối với

Thẩm phán và hội thẩm nhân dân là để tranh chấp HĐTD được giải quyết bằng một

bản án, quyết định đúng đắn nhất thì việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như

hiểu biết pháp luật đối với cán bộ tín dụng lại nhằm tạo điều kiện thuận lợi, hay lý

tưởng hơn, là phòng ngừa trước và góp phần hạn chế tối thiểu số lượng tranh chấp

phát sinh.

Phải thừa nhận rằng, chất lượng tín dụng phụ thuộc hầu như toàn bộ vào yếu

tố con người – các tổ chức tín dụng phải thực sự lưu tâm đến điều này để kế hoạch

tuyển dụng và đào tạo sao cho lực lượng cán bộ của mình luôn là người nhạy bén,

có năng lực chuyên môn, có kiến thức về thị trường tài chính, đầu tư cũng như về

pháp luật… Bên cạnh đó, mỗi tổ chức tín dụng thiết lập cho mình một quy trình cho

vay chặt chẽ và hiệu quả. Chất lượng cán bộ tín dụng được nâng cao thì tự khắc các

tranh chấp về HĐTD sẽ được hạn chế và dễ dàng giải quyết hơn. Xét cho cùng, sức hút

lâu dài của một tổ chức không phải được tạo nên từ sự cạnh tranh, chiếm lĩnh thị

trường bằng mọi giá, như: Bỏ qua các quy trình tín dụng, lảng tránh các hàng rào

kiểm tra thông tin sai lệch, hay thậm chí hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách quan mà

chỉ có thể được xây dựng từ chính uy tín của tổ chức tín dụng.

* Nâng cao ý thức pháp luật của các doanh nghiệp và người dân

Một trong những trở ngại lớn trong việc giải quyết các vụ án hiện nay là ý

thức chấp hành pháp luật của một số cá nhân, cơ quan, tổ chức rất hạn chế. Điều

này thể hiện ở các hành vi cản trở các hoạt động tố tụng của Tòa án. Hành vi cản trở

không chỉ do những người tham gia tố tụng thực hiện nhằm đạt được lợi thế cho

mình trong việc giải quyết vụ án, mà ngay cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức không

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng tham gia, gây khó khăn cho Tòa án.

Biểu hiện phổ biến và rõ nét nhất là các hành vi: người tham gia tố tụng cố tình

không nhận, không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, tự ý bỏ về giữa chừng

77

làm cho việc giải quyết phải hoãn nhiều lần. Hành vi từ chối khai báo hoặc khai báo

không đúng sự thật; mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép để ngăn cản người làm chứng

hoặc để họ khai báo gian dối; không chịu ký vào các biên bản làm việc của Tòa án.

Các cá nhân, tổ chức cố ý tẩu tán, hủy hoại hoặc không cung cấp các tài liệu, chứng

cứ có ý nghĩa cho việc giải quyết các vụ án hành chính, các vụ, việc dân sự mà Tòa

án yêu cầu cung cấp hoặc có quyết định thu thập chứng cứ. Các cơ quan chuyên

môn không cử cán bộ tham gia Hội đồng định giá tài sản theo yêu cầu của Tòa án;

đương sự cản trở hoạt động định giá tài sản, hoạt động xem xét tại chỗ. Hành vi cố

ý không thực hiện, thực hiện không đúng việc cấp, tống đạt các văn bản tố tụng theo

yêu cầu của Tòa án. Hành vi gây rối trật tự tại phiên tòa, phiên hòa giải, xúc phạm

lẫn nhau giữa các đương sự, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cán bộ Tòa án;

đương sự, người nhà của đương sự cố tình xuyên tạc, tố cáo cán bộ Tòa án sai sự

thật... Như vậy, mỗi hoạt động tố tụng đều có thể xảy ra các hành vi cản trở tương

ứng. Tất các các hành vi cản trở hoạt động tố tụng, dù ở mức độ nào đều có ảnh

hưởng đến chất lượng xét xử của Tòa án. Bộ luật Tố tụng dân sự đã dành chương

XXXII để quy định về việc xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự. Tuy

nhiên, các hành vi vi phạm được liệt kê trong chương này cũng chỉ là số ít trong số

rất nhiều loại hành vi cản trở hoạt động tố tụng cần phải được xử lý, và chương này

cũng chỉ dừng lại ở quy định chung: “thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt

đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự do ủy ban Thường vụ Quốc hội

quy định”. Chính vì vậy cần quy định hình thức xử phạt rõ ràng, cụ thể và khắc để

sớm khắc phục được tình trạng này. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền và phổ biến

pháp luật đến các doanh nghiệp và người dân cần phải được triển khai mạnh mẽ hơn

bằng nhiều hình thức khác song song với việc kiên quyết xử lý tổ chức cá nhân cố

tình vi phạm.

78

Tiểu kết chương 3

Những hạn chế, bất cập trong công tác giải quyết tranh chấp trong HĐTD

ngân hàng tại Tòa án có một số nguyên nhân nhất định trong đó có những nguyên

nhân về pháp luật, đội ngũ cán bộ Tòa án, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật

cũng như nguyên nhân từ phía trình độ của đội ngũ cán bộ ngân hàng. Từ những

nguyên nhân nêu trên, luận văn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm tiếp tục

hoàn thiện pháp luật trong HĐTD như sửa đổi, bổ sung một số quy định về lãi suất

phạt trả chậm, lãi suất trần, thời hiệu khởi kiện…

Bên cạnh đó, Đảng và nhà nước ta cần chú trọng thực hiện những biện pháp

nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong HĐTD ngân hàng như tăng cường

năng lực, phẩm chất cán bộ ngành Tòa án, tiếp tục mở rộng tuyên truyền, phổ biến

pháp luật cho các doanh nghiệp và người dân. Mặt khác, cần chú trọng tăng cường

năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng – những người trực

tiếp soạn thảo HĐTD với khách hàng.

79

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, do nhu cầu phát triển kinh tế ngày càng cao của

xã hội nên hoạt động tín dụng Ngân hàng đã phát triển rất sôi động. Chính hoạt

động này đã giúp nguồn vốn trong xã hội được luân chuyển tốt hơn, bên cạnh việc tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thì nguồn vốn đó sẽ được sử dụng để

cấp cho những đối tượng thiếu hụt và đang cần vốn để đầu tư phát triển và tiêu dùng

nói chung. Có thể nói hoạt động tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực vào quá

trình hội nhập của nền kinh tế, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong các hoạt động của tổ chức tín dụng thì hoạt động cho vay là hoạt

động chủ yếu mang lại lợi nhuận cao. Bản chất của hoạt động trên chính là hoạt

động kinh doanh tiền tệ. Hoạt động này luôn chứa đựng nhiều rủi ro và tiềm ẩn

những mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng tín dụng và dẫn

đến xảy ra tranh chấp. Việc mâu thuẫn dẫn đến tranh chấp xuất phát từ nhiều nguyên nhân như quy định của pháp luật chưa thật chặt chẽ còn rườm rà, thậm chí

còn hạn chế. Từ đó dẫn đến việc áp dụng vào thực tiễn lúng túng, không khả thi và

bất hợp lý dẫn đến tranh chấp xảy ra. Hoặc do các bên thiếu trách nhiệm trong việc

thực hiện nghĩa vụ của mình, thậm chí do tập quán giao kết hợp đồng hiện nay

không còn phù hợp nữa, chẳng hạn như:

Một là, hợp đồng tín dụng theo mẫu chứa đựng nhiều điều khoản chưa rõ

ràng gây ra thiệt hại cho khách hàng vay tham gia vào hợp đồng tín dụng, từ đó mâu

thuẫn về quyền lợi và dẫn đến tranh chấp. Hai là, do sự yếu kém về năng lực, cẩu thả

trong công việc thậm chí là bị tha hóa về đạo đức của cán bộ tín dụng. Cho nên, vấn đề

tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng so với các loại tranh chấp kinh doanh thương

mại khác hiện nay là khá cao. Từ thực tế đó, cần thiết phải có các giải pháp tích cực,

lâu dài nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tranh chấp xảy ra.

Trong khuôn khổ hạn hẹp của luận văn, những nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án ở Việt Nam

nêu trên được tác giả phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD bằng con đường tòa án khá chi tiết làm cơ sở cho việc đưa ra đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với thời gian hạn hẹp, vốn kiến thức ít ỏi, luận văn không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giúp cho Luận văn được hoàn chỉnh hơn.

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tư pháp (2013), Nghị định Số: 8019/VBHN-BTP ngày 10/12/2013 của Bộ

Tư Pháp về giao dịch bảo đảm.

2. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch

bảo đảm.

3. Chính phủ (2010), Nghị định 83/2010/ NĐ-CP ngày 23 tháng 07 năm 2010

của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm.

4. Chính phủ (2012), Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 của Chính

phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP

ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.

5. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tài Chính (2012) Vay nợ tín dụng: Rối chuyện

bảo lãnh.

6. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tư pháp (2011), Ba vấn đề cần cảnh báo rong

việc công chứng hợp đồng ủy quyền.

7. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tư Pháp (2012), Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của

các tổ chức tín dụng - Nhìn từ góc độ các quy định của pháp luật hiện.

8. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tư pháp (2013), Một số vấn đề về xử lý tài sản

bảo đảm trong các giao dịch bảo đảm đã được công chứng.

9. Cổng thông tin điện tử, Tòa án nhân dân tối cao, số liệu thống kê từ năm 2006

– 2013.

10. Bùi Ngọc Cường, (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong

pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà

nội.

11. Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2005), Giáo trình Luật Ngân hàng

Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

12. Phạm Văn Đàm (2011), “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện hợp đồng

tín dụng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (11), trang 20-25.

13. Trần Văn Duy – Ths. Nguyễn Hương Lan (2012), Vướng mắc trong giải quyết

tranh chấp hợp đồng vay tài sản và một số kiến nghị, http://tks.edu.vn.

14. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2012), Nghị quyết

03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân

dân tối cao về hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất

81

“Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự được sửa đổi theo Luật

sửa đổi, bổ sung Bộ Luật TTDS năm 2011.

15. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2007), Quyết định giám đốc

thẩm số 05/2007/KDTM-GĐT ngày 08/05/2007 của Hội đồng thẩm phán Toà

án nhân dân tối cao về việc tranh chấp về hợp đồng tín dụng.

16. Nguyễn Thị Thúy Hồng (2008), Pháp luật về hợp đồng tín dụng Ngân hàng ở

Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ học.

17. Nguyễn Hoàng Hưng, VPLS An Phát Phạm, Áp dụng quy định của pháp luật

về lãi suất quá hạn trong việc giải quyết các tranh chấp Hợp đồng tín dụng.

18. Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định Hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt

Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

19. Phạm Quốc Khánh (2013), Giải pháp xử lý nợ xấu hiêṇ nay c ủa các ngân

hàng thương mại ViêṭNam, http://tapchi.hvnh.edu.vn.

20. Kiểm sát viên Nguyễn Anh Đức, huyện Bố Trạch (Quảng Bình), Xử án tín

dụng: Rối chuyện thế chấp, bảo lãnh, vietrustlaw.com.vn.

21. Ngân hàng Nhà nước (2001), Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày

31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng nhà nước về việc ban hành quy chế cho

vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.

22. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định số: 127/2005/QĐ-NHNN

ngày 03/02/2005 của Thống đốc ngân hàng nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung

một số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban

hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của

Thống đốc Ngân hàng nhà nước.

23. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2013), Thông tư số 07/2013/TT-NHNN ngày

14/3/2013 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định về việc kiểm soát đặc

biệt đối với tổ chức tín dụng.

24. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2014), Thông tư số 08/2014/TT-NHNN ngày

17/3/2014 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Quy định lãi suất cho vay

ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân

hàng nước ngoài đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một

số lĩnh vực, ngành kinh tế.

25. Nguyễn Văn Phương - VCB, Khó khăn từ xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ

82

xấu, http://luattaichinh.wordpress.com.

26. Quốc Hội, (2002), Pháp lệnh số 02/2002/PL-UBTVQH11 về Thẩm phán và

Hội thẩm Tòa án nhân dân, sửa đổi bổ sung năm 2011.

27. Quốc Hội, (2005), Bộ luật Dân sự.

28. Quốc Hội, (2005), Luật Doanh nghiệp.

29. Quốc Hội, (2005), Luật Giao dịch điện tử.

30. Quốc Hội, (2005), Luật Thương mại.

31. Quốc Hội, (2010), Luật Các tổ chức tín dụng.

32. Quốc Hội, (2010), Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

33. Quốc Hội, (2010), Luật Trọng tài thương mại.

34. Quốc Hội, (2011), Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011.

35. Quốc Hội, (2013), Bộ luật dân sự

36. Quốc Hội, (2013), Bộ luật tố tụng dân sự

37. Quốc Hội, (2013), Luật Đất đai.

38. Quốc Hội, (2013), Luật Hoà giải ở cơ sở.

39. Quốc Hội, (2014), Luật Tổ chức tòa án nhân dân

40. Đào Thái Sơn – Vụ Pháp chế, Ngân hàng Nhà nước, Những thay đổi của pháp

luật về giao dịch bảo đảm, http://www.intecovietnam.com.

41. Đoàn Thái Sơn (2007), “Bất cập của pháp luật về bảo vệ quyền của chủ nợ của

tổ chức tín dụng”, Tạp chí ngân hàng, (10), trang 17 – 19.

42. Duy Thái, (2013), Xung quanh vụ án “Tranh chấp đầu tư tài chính, ngân

hàng” có liên quan tới gia đình nguyên giám đốc ngân hàng ĐT&PT

KonTum: Những mảng tối tình đời chưa được rọi sáng qua hai phiên xét xử,

phaply.net.vn.

43. Lê Thị Thu Thủy (2002), “Bản chất pháp lý của hợp đồng tín dụng ngân

hàng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (12), trang 10 – 15.

44. Lê Thị Thu Thủy (2006), Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của

các tổ chức tín dụng, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

45. Phạm Văn Tuyết & TS. Lê Kim Giang (2012), Hợp đồng tín dụng và biện

pháp bảo đảm tiền vay, Nhà xuất bản Tư pháp.

83