VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ĐỨC TRƯỜNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ĐỨC TRƯỜNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực.
Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất
kỳ công trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG .......................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng ................................. 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng ..................... 10
1.3. Nguyên nhân và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
ngân hàng .............................................................................................................. 18
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp hợp đồng tín dụng bằng Tòa án .................................................................... 28
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................. 30
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng . 30
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án
nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội ....................................................... 48
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TỪ
THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ........................................................................................................... 64
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
ngân hàng tại Tòa án nhân dân ............................................................................. 64
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
ngân hàng .............................................................................................................. 67
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật Dân sự
BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự
HĐTD
: Hợp đồng tín dụng
KDTM
: Kinh doanh thương mại
TAND
: Tòa án nhân dân
TCTD
: Tổ chức tín dụng
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Số liệu tranh chấp kinh doanh thương mại TAND huyện Phúc
Thọ thành phố Hà Nội thụ lý và giải quyết giai đoạn 2014-2018 .......... 51
Bảng 2.2. Số liệu vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng thụ lý trong giai
đoạn 2014 – 2018 .................................................................................... 52
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước ta đang trong quá trình đổi mới mọi lĩnh vực của nền kinh tế,
chính trị, xã hội và các lĩnh vực khác góp phần tạo nên những bước tiến đáng kể vào
công cuộc cải tiến đất nước. Các giao dịch trong xã hội diễn ra hàng ngày rất đa dạng,
pháp luật khó có thể điều chỉnh được toàn bộ các quan hệ trong cuộc sống. Thông
thường các bên lựa chọn hình thức giao dịch thông qua hợp đồng – hợp đồng ghi nhận
sự thỏa thuận giữa các bên, là cơ sở để pháp luật bảo vệ quyền lợi của các bên khi có
tranh chấp. Trong lĩnh vực ta nhận thấy hợp đồng tín dụng có nhiều trong các giao dịch
với các đối tác cho nhu cầu vay vốn trong phát triển kinh doanh, sản xuất. Bởi hợp
đồng tín dụng chứa nhiều yếu tố phức tạp và nhạy cảm nên nó rất dễ dẫn đến tranh
chấp giữa các bên trong hợp đồng. Khi lợi ích giữa các bên bị ảnh hưởng quyền đến
quyền lợi và lợi ích hợp pháp sẽ làm thủ tục khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài thương
mại để được pháp luật bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng của Tòa án
đóng vai trò rất quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ
chức, các nhân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và đặc biệt góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong nên kinh tế thị trường hiện nay các giao dịch
dân sự, đặc biệt là giao dịch thông qua hợp đồng tín dụng diễn ra ngày càng nhiều
trên phạm vi rộng, gây nhiều khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp này ở Tòa án.
Trước tình hình đó cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan đến việc
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình
giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này cũng nhằm đảm quyền và lợi ích của các
bên tham gia hợp đồng.
Trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thì hoạt động cấp tín dụng
trong đó có cấp tín dụng thông qua hợp đồng tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ
yếu và quan trọng nhất. Thông qua hợp đồng tín dụng được xác lập giữa tổ chức tín
dụng và bên vay tiền, quan hệ tín dụng đã được hình thành. Hợp đồng tín dụng phải
tuân thủ chặt chẽ các quy định của Bộ luật dân sự, Luật các tổ chức tín dụng và các
quy định khác của Ngân hàng nhà nước…
Trong thực tế, cùng với sự phức tạp của quan hệ tín dụng nói chung và quan
hệ hợp đồng tín dụng nói riêng, các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quá trình
1
thực hiện hợp đồng tín dụng xảy ra tương đối nhiều. Điều này đã ảnh hưởng lớn tới
sự ổn định của thị trường tín dụng, ảnh hướng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các
tổ chức và cá nhân có liên quan.
Trên cơ sở đó, việc hệ thống pháp luật có những quy định cụ thể về giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng là rất cần thiết. Trong những năm vừa qua, cùng
với sự phát triển của quan hệ này, các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng đã được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam được
thể hiện qua các văn bản nhưng: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung
năm 2011, Bộ luật dân sự năm 2005, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và đặc
biệt gần đây là việc Quốc hội đã ban hành Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự
mới vào năm 2015.
Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng về cơ
bản đã tương đối đầy đủ về hình thức cũng như nội dung. Tuy nhiên, những quy
định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng còn chưa thực sự đồng bộ
giữa Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự với Luật các tổ chức tín dụng, trong khi
BLDS, BLTTDS mới được ban hành mới thì Luật các tổ chức tín dụng 2010 chưa
được sửa đổi, bổ sung. Những quy định đặc thù về giải quyết tranh chấp hợp đồng
tín dụng chưa thực sự cụ thể, còn có sự chồng chéo về chủ thể, quyền hạn giải
quyết… Điều này dẫn đến hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng chưa
thực sự cao, có nhiều vụ việc bị kháng cáo, kháng nghị thậm chí có quyết định giám
đốc thẩm, tái thẩm, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến quyền, lợi ích hợp pháp của các
bên trong quan hệ.
Huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội là một huyện ngoại thành có tốc độ phát
triển kinh tế nhanh, có tình hình kinh tế xã hội phát triển nhanh trên địa bàn thành
phố, quy mô kinh tế ngày một lớn, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội thì những tranh
chấp phát sinh từ hoạt động tín dụng nói chung và hợp đồng tín dụng nói riêng trên
địa bàn huyện Phúc Thọ ngày một lớn. Các tranh chấp này đã được Tòa án nhân
dân huyện Phúc Thọ thụ lý giải quyết góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh
chấp hợp đồng tín dụng trên địa bàn còn nhiều hạn chế, tồn tại, cần phải có những
nghiên cứu để góp phàn nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp này hơn nữa.
2
Đó cũng là lý do học viên quyết định chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng ngân hàng từ thực tiễn xét xử sơ thẩm Tòa án nhân dân
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu, thông qua đó giúp học
viên học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm, nâng cao kiến thức pháp luật của mình về
lĩnh vực hợp đồng tín dụng trên thực tế. Từ đó đề ra những giải pháp nâng cao các
quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng
con đường Tòa án.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói
chung và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng nói riêng như:
- Tác giả Nguyễn Thị Thu Hồng “Thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng qua thực tiễn xét xử tại Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội,
Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội năm 2013;
- Tác giả Hoàng Văn Bích “Giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản
qua thực tiễn xét xử tại Vĩnh Phúc” Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã
hội, Năm 2014;
- Tác giả Hồ Thị Khuyên “Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2016.
- Một số bài báo khoa học như:“ Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng tín dụng
và thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng tín dụng”, của Th.s
Nguyễn Quỳnh Chi đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 3/2005; “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Như
Phát, TS. Lê Thị Thu Thủy đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2010;
“Tranh chấp hợp đồng và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng” của
TS. Phan Chí Hiếu đăng trên tạp chí Luật học, số 2/2008;
- Một số Sách chuyên khảo như: “Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài
sản của các tổ chức tín dụng” do TS. Lê Thị Thu Thủy làm chủ biên, Nhà Xuất bản
Tư pháp 2006, Cuốn sách “Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Ngân hàng
Thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của TS. Ngô Quốc Kỳ, Nhà
Xuất bản Tư pháp, năm 2005.
Các công trình nghiên cứu này đã góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho
3
việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nói chung
và hợp đồng tín dụng nói riêng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đề tài pháp luật về hợp
đồng tín dụng vẫn còn là cấp thiết, bởi lẽ các quy định pháp luật về vấn đề này vẫn
còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn.
Với luận văn này, tôi mong muốn làm rõ hơn những vấn đề cơ bản về hợp
đồng tín dụng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng, chỉ ra những
bất cập của việc thực hiện các quy định pháp luật trong thực tiễn giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Từ đó, đề xuất những giải pháp góp phần
hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng
con đường tòa án ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với luận văn này, tôi mong muốn làm rõ hơn những vấn đề cơ bản về hợp
đồng tín dụng ngân hàng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân
hàng, chỉ ra những bất cập của việc thực hiện các quy định pháp luật trong thực tiễn
giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng. Từ đó, đề xuất
những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng con đường Tòa án ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tranh chấp hợp đồng tín dụng và
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng như khái niệm, đặc điểm; để từ đó xác định khái
niệm, nội dung của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng;
- Nghiên cứu làm sáng tỏ quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam về
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng để từ đó đánh giá được những hạn chế, tồn
tại trong hệ thống quy định này;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại
các Tòa án nhân dân trên địa bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội, đưa ra được
những hạn chế, bất cập trong thực tiễn giải quyết này;
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ thực trạng giải quyết
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng con đường tòa án ở Việt
Nam. Qua đó, đề ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về giải
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án ở Việt Nam
hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các văn bản pháp
luật Việt Nam có quy định về vấn đề nghiên cứu như: Bộ luật dân sự (2005, 2015),
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Luật thương mại 2005, Luật các tổ chức tín dụng
2010… cùng các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành, sửa đổi, bổ sung, làm rõ các
điều khoản có liên quan. Bên cạnh đó, luận văn còn nghiên cứu các số liệu, báo cáo
thống kê, tổng kết về thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp
đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội .
- Phạm vi không gian: huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp như: phương pháp thống kê, khảo
sát; phương pháp tổng hợp, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về giải
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án.
6. Ý nghĩa lý luận và những đóng góp mới của đề tài
Đề tài là công trình nghiên cứu toàn diện ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học
về hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ở Việt Nam hiện
này. Đề tài có ý nghĩa lý luận như sau:
- Đưa ra được những phân tích lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng như khái niệm, đặc điểm, nội dung;
5
- Đánh giá được thực trạng quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành
phố Hà Nội;
- Đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu,
giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật, các viện nghiên cứu và các cơ quan thực tiễn
như Tòa án; Viện kiểm sát; Thi hành án…
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp hợp đồng tín dụng và pháp
luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
và thực tiễn áp dụng tại các tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
Chương 3: Quang điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng ngân hàng
Hợp đồng tín dụng là một dạng cụ thể của hợp đồng vay tài sản đã được quy
định trong BLDS 2015. Tuy nhiên, chỉ gọi là HĐTD trong trường hợp bên cho vay
là các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân hàng. Theo quy định tại điều
463 BLDS 2005: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên
cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên
cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Hợp đồng tín dụng về bản chất là hợp đồng
cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng
vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có
hoàn trả cả gốc và lãi. Còn những hoạt động cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cầm cố,
chiết khấu giấy tờ có giá được gọi chung là hợp đồng cấp tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là một căn cứ pháp lý mà qua đó, ngân hàng thực hiện
hoạt động cho vay. Hoạt động tín dụng luôn giữ một vai trò quan trọng trong đời
sống kinh tế và các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng diễn ra ngày một
nhiều, gây thiệt hại không nhỏ cho các chủ thể, song, cho đến nay vẫn chưa có một
văn bản pháp luật nào của nước ta đưa ra một khái niệm chính thức về hợp đồng tín
dụng mà chỉ liệt kê những nội dung chủ yếu của hợp đồng tín dụng. Việc cho vay
của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay,
phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá
trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả
thuận. Như vậy, ngay trong quy chế cho vay của TCTD cũng chỉ qui định việc cho
vay phải xác lập bằng hợp đồng tín dụng.
Từ các phân tích trên, cho thấy pháp luật chuyên ngành chỉ đưa ra quy định
về những nội dung cơ bản HĐTD phải có mà không đưa ra định nghĩa cụ thể về
HĐTD. Quan hệ tín dụng về bản chất là một quan hệ dân sự nên HĐTD cũng là một
7
dạng cụ thể của hợp đồng. Từ khái niệm hợp đồng được quy định theo điều 385
BLDS 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”, có thể hiểu “HĐTD là sự thỏa thuận bằng
văn bản giữa TCTD (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện luật
định (bên vay), theo đó TCTD chuyển giao một số tiền cho bên vay sử dụng vào
mục đích và trong một thời hạn được xác định, khi đến hạn, bên vay phải trả cả gốc
và lãi được xác định theo lãi suất mà các bên đã thỏa thuận”.
Như vậy, hợp đồng tín dụng ngân hàng là văn bản phản ánh thỏa thuận trực
tiếp của tổ chức tín dụng và khách hàng trong việc xác lập một quan hệ cho vay, xác
lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các bên đó trong việc vay và hoàn trả
vốn vay.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng
HĐTD mang những đặc điểm chung của hợp đồng nhưng vẫn có những nét
khác biệt cụ thể như sau:
- Hợp đồng tín dụng ngân hàng phải luôn được ký kết dưới hình thức văn
bản. Sau khi TCTD quyết định cho khách hàng vay vốn, sự thoả thuận cho vay và
vay của TCTD với khách hàng phải thành lập bằng văn bản. Với HĐTD bằng văn
bản, các bên có thể thực hiện hợp đồng trong sự đảm bảo an toàn pháp lý và khi có
tranh chấp xảy ra, HĐTD sẽ là căn cứ xác thực nhất để các cơ quan tài phán giải
quyết tranh chấp. Đa phần các HĐTD là hợp đồng theo mẫu, chủ thể cho vay là
TCTD soạn thảo dựa trên quy định của pháp luật và phù hợp với quy chế cho vay
của TCTD. Bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản trong hợp đồng mà
không phải ai cũng có thể yêu cầu sửa đổi điều khoản theo hướng có lợi hơn cho
mình. Sự tự do ý chí được thể hiện thông qua việc khách hàng chấp nhận những
điều khoản trong đó thì đồng ý giao kết hợp đồng, ngược lại thì không giao kết.
Thực tế cho thấy việc thỏa thuận sửa một số điều khoản trong HĐTD theo mẫu ít
xảy ra và chỉ xảy ra với những tổ chức, cá nhân có uy tín, khoản vay lớn và TCTD
có thể thu được lợi nhuận lớn từ hợp đồng này.
Theo khoản 2, khoản 3 điều 405 BLDS 2015: “Trường hợp hợp đồng theo
mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất
lợi khi giải thích điều khoản đó. Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản
miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại
8
bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, pháp luật cũng có cơ chế để bảo vệ
khách hàng trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có những điều khoản không rõ
ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó
hoặc điều khoản gây bất lợi cho khách hàng thì điều khoản này không có hiệu lực
khi không có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, hợp đồng tín dụng ngân hàng được ký kết dưới các hình thức
pháp lý là văn bản bao gồm cả văn bản viết và văn bản điện tử dưới dạng thông điệp
dữ liệu. Căn cứ khoản 1 điều 119 BLDS 2015, “Giao dịch dân sự được thể hiện
bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua
phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật
về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản”; và điều 11, 12, 13, 14
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì dù hợp đồng tín dụng ngân hàng ký kết dưới
hình thức nào trên đây đều có giá trị pháp lý ngang nhau và đều là chứng cứ trong
quá trình giao dịch. Trên thực tế thì hợp đồng tín dụng được ký kết dưới hình thức
văn bản điện tử dạng thông điệp dữ liệu thường ít xảy ra.
- HĐTD có đối tượng là những khoản vốn được thể hiện dưới hình thức tiền
tệ. Vốn tiền tệ trong HĐTD có thể là tiền đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ. Cho vay là
một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng
một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Nhờ đó, hoạt động cho vay đã trở thành hoạt động
sinh lời chủ yếu của các TCTD và trở thành một hình thức tín dụng phổ biến trong nền
kinh tế thị trường. Về nguyên tắc đối tượng của HĐTD bao giờ cũng là một số tiền
xác định, được các bên thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng.
- Một bên chủ thể của HĐTD bắt buộc là TCTD được thành lập và hoạt động
cho vay theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các
văn bản liên quan; có chức năng hoạt động, kinh doanh tín dụng. TCTD bao gồm
ngân hàng và TCTD phi ngân hàng. Bên cho vay có thể là một hoặc nhiều TCTD
(trường hợp cho vay hợp vốn) thỏa mãn điều kiện luật định.
- HĐTD phải được tuân thủ chặt chẽ về các nội dung bắt buộc, năng lực chủ
thể của các bên tham gia quan hệ tín dụng, mục đích sử dụng vốn vay, giới hạn vốn
vay, lãi suất vay và bảo đảm thực hiện hợp đồng, phương pháp giải quyết tranh
9
chấp. TCTD không được cho vay vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu bị cấm theo quy
định của pháp luật. Tổ chức tín dụng không được cho vay các nhu cầu vốn sau đây:
để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua
bán, chuyển nhượng, chuyển đổi; để thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các
giao dịch mà pháp luật cấm; để đáp ứng các nhu cầu chính của các giao dịch mà
pháp luật cấm”. Tổ chức tín dụng không được cho vay đối với khách hàng trong các
trường hợp sau đây: Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc
(Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng; Cán bộ,
nhân viên của chính tổ chức tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định
cho vay; Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát,
Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc)”. Đối với người vay
là bố, mẹ, vợ, chồng, con của Giám đốc, Phó Giám đốc chi nhánh của tổ chức tín
dụng do tổ chức tín dụng xem xét quyết định”.
Với vai trò đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia vào quan hệ tín
dụng, HĐTD trở nên rất quan trọng. Đặc biệt, các bên phải chú ý đến nội dung của
hợp đồng, hợp đồng với những điều khoản chặt chẽ sẽ ràng buộc các bên thực hiện
đúng trách nhiệm của mình, từ đó cũng góp phần giảm bớt các tranh chấp phát sinh
và thúc đẩy sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của cả TCTD và khách hàng.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng
1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Cùng với sự tồn tại và phát triển của các HĐTD là những tranh chấp trong
HĐTD phát sinh từ sự mâu thuẫn hay không thống nhất về quyền và nghĩa vụ hoặc
lợi ích trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng của các bên tham gia. Một hợp
đồng tín dụng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về quyền lợi
giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài thông qua những bằng chứng cụ thể và
xác định được. Theo TS. Bùi Ngọc Cường, tranh chấp kinh tế được hiểu là những
mâu thuẫn, xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích kinh tế giữa các bên chủ thể khi
tham gia kinh doanh.
Tranh chấp hợp đồng khác biệt với vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng là
hành vi pháp lý của các bên đã xử sự trái với các điều khoản được cam kết trong
hợp đồng. Còn tranh chấp hợp đồng là ý kiến không thống nhất của các bên về hành
vi vi phạm đó hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ sự vi phạm đó và được
10
thể hiện ra bên ngoài. Cho nên, không phải cứ khi nào vi phạm hợp đồng thì khi đó
có tranh chấp mà đôi khi sự vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng
lại là sự kiện diễn ra sau đó một khoảng thời gian nhất định. Và đôi khi có sự vi phạm
hợp đồng tín dụng nhưng không thể có sự tranh chấp bởi các bên không bày tỏ ra bên
ngoài về sự bất đồng hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau bằng các hành vi phản
kháng cụ thể có giá trị chứng cứ.
Như vậy, tranh chấp HĐTD là những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh từ quyền
và nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên vay
(khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử
lý tài sản đảm bảo, thế chấp…
1.2.2. Đặc điểm tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Vì tranh chấp HĐTD ngân hàng cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nói
chung, do đó có đầy đủ những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp đồng. Tuy
nhiên, với bản chất đặc thù của HĐTD, tranh chấp HĐTD mang một số đặc trưng
riêng biệt để có thể phân biệt với các loại tranh chấp hợp đồng khác.
Thứ nhất, giá trị của tranh chấp HĐTD thường có giá trị lớn hoặc thậm chí
là rất lớn.
Khi kí kết HĐTD thì thường là do bên đi vay có nhu cầu về vốn mà không
thể tự mình xoay xở được. Nhu cầu đó thường là để bổ sung vốn kinh doanh đối với
tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia đình. Do đó, số tiền
này không phải là nhỏ và dễ dàng vay được từ các tổ chức, cá nhân ngoài xã hội mà
không phải là ngân hàng.
Về phía bên cho vay là ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung ứng vốn
cho nền kinh tế thì TCTD còn đóng vai trò là người đi vay của các chủ thể khác để
cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các TCTD thường kí kết các HĐTD có
giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại thời điểm cho vay. Do bên vay vốn
dùng khoản vay này phần lớn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh nên nếu
bên vay không tuân thủ các cam kết trong hợp đồng, không trả nợ cho các TCTD sẽ
làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của TCTD đó. Thực tế không hiếm các trường
hợp các TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả do “nợ xấu’. Một khi khách
hàng vay không thể thanh toán được nợ, tranh chấp xảy ra thì TCTD sẽ là chủ thể bị
thiệt hại lớn vì nguồn vốn bị ứ đọng, phải thực hiện các biện pháp khắc phục, mục
11
đích lợi nhuận ban đầu không còn hoặc bị gián đoạn. Đặc biệt, nếu tranh chấp
HĐTD phải khởi kiện tại Tòa án thì càng gây khó khăn cho TCTD khi muốn thu hồi
vốn. Bởi khi đã bị khởi kiện tại Tòa án thì thường là người đi vay không còn có khả
năng trả nợ cho TCTD. Mặt khác, khi tranh chấp HĐTD xảy ra thì TCTD sẽ mất
lòng tin với khách hàng vay vốn, các HĐTD tiếp theo sẽ khó mà thực hiện, kể cả
khi bên đi vay chứng minh lại được khả năng tài chính của mình. Do đó, có thể nói
tranh chấp HĐTD là loại tranh chấp có giá trị thiệt hại lớn, không chỉ ảnh hưởng
đến bên cho vay mà còn cả đối với bên đi vay. Thậm chí nếu tranh chấp xảy ra
nhiều thì ảnh hưởng đó không chỉ ảnh hưởng đến một TCTD mà có thể ảnh hưởng
dây chuyền đến các TCTD khác trong nền kinh tế.
Thứ hai, tranh chấp HĐTD ngân hàng được giải quyết dựa trên nguyên tắc tự do
thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật của các bên tham gia tranh chấp.
Pháp luật Việt Nam tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, cụ thể, Điều 3 Bộ
Luật dân sự 2015 ghi nhận: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận.
Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.”
HĐTD về bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ mang tính thỏa
thuận, tự định đoạt giữa các bên. Do đó, kể cả đối với việc giải quyết tranh chấp
phát sinh từ HĐTD thì các bên cũng có quyền thỏa thuận để đạt được hiệu quả tối
ưu nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Việc tôn trọng quyền định đoạt này
có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì quan hệ dân sự giữa các bên mang tính bình đẳng,
không phải là mối quan hệ mệnh lệnh - phục tùng như các quan hệ hành chính nhà
nước khác. Khi các bên tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận được với nhau thì
việc giải quyết tranh chấp sẽ diễn ra nhanh chóng, thuận lợi hơn, đồng thời giảm
thiểu được thiệt hại về thời gian, tiền bạc, công sức của các bên. Về phía các cơ
quan tài phán, thi hành án thì việc thỏa thuận này cũng có ý nghĩa trong việc giảm
nhẹ khối lượng, áp lực công việc trong điều kiện các tranh chấp ngày càng xảy ra
nhiều và phức tạp như hiện nay.
Đặc biệt, vấn đề thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đối với
các TCTD là ngân hàng nước ngoài, ngân hàng nước ngoài có vai trò quan trọng hơn
bao giờ hết. Bởi các chủ thể này khác với các TCTD trong nước, chịu sự điều chỉnh
12
của cả pháp luật nước ngoài lẫn pháp luật Việt Nam và sự khác nhau trong quy định
của pháp luật giữa Việt Nam và nước khác là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, việc
cho phép, tôn trọng quyền tự thỏa thuận của các bên khi có tranh chấp xảy ra sẽ giảm
thiểu tối đa những xung đột pháp luật có thể xảy ra trong quá trình giải quyết các tranh
chấp. Tuy nhiên, nguyên tắc đối với các thỏa thuận này là phải phù hợp với các quy
định của pháp luật Việt Nam.
Nguyên tắc tự do thỏa thuận khi giải quyết tranh chấp giữa các bên cũng
được Bộ Luật tố tụng dân sự thể hiện ở chế định hòa giải. Theo đó, hòa giải là trách
nhiệm của cơ quan tài phán khi có tranh chấp xảy ra và khi đó các bên có thể thỏa
thuận về việc giải quyết vụ án. Ngay cả trước khi diễn ra hoặc tại phiên tòa sơ thẩm,
phúc thẩm các bên cũng vẫn có quyền thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp miễn
sao thỏa thuận đó phù hợp với các quy định của pháp luật.
Thứ ba, tranh chấp HĐTD luôn có sự tham gia của một bên là TCTD và
phần lớn các tranh chấp HĐTD thì nguyên đơn là tổ chức tín dụng cho vay, bị đơn
là bên đi vay.
Với đặc thù của hoạt động tín dụng là sự cung ứng nguồn vốn đến những tổ
chức, cá nhân có nhu cầu về vốn trên cơ sở huy động của các tổ chức, cá nhân có
thừa nguồn vốn trong xã hội nên TCTD luôn đóng vai trò trung gian trong mối quan
hệ này. Sự tham gia của TCTD là một dấu hiệu đặc trưng nhằm phân biệt giữa tranh
chấp HĐTD và tranh chấp hợp đồng vay tài sản thông thường giữa các tổ chức, cá
nhân khác mà không phải là TCTD.
Đồng thời, về mặt lý thuyết, khi tham gia ký kết HĐTD, các TCTD và khách
hàng có địa vị ngang bằng nhau tham gia thỏa thuận. Nhưng với tư cách là chủ thể
có nguồn vốn dồi dào, việc áp đặt các điều kiện cho vay đối với khách hàng là điều
không hiếm xảy ra. Hơn nữa, khi tham gia kí kết hợp đồng thì hợp đồng thường do
bên cho vay là các TCTD soạn thảo với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn về
mặt pháp lý nhất định. Trong khi đó, chủ thể đi vay là khách hàng thường là các tổ
chức, cá nhân, trình độ chuyên môn về mặt pháp lý của họ còn thấp và nhiều khi
không được chú trọng đúng mức. Và như vậy là hợp đồng được kí kết với các điều
khoản chặt chẽ nhằm bảo đảm cho quyền lợi của TCTD khi bên vay không trả nợ
hay trả không đúng nghĩa vụ. Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì TCTD luôn nắm đằng
chuôi với các điều khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ, rõ ràng trong hợp đồng
13
được sự đồng thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì là do bên đi
vay vi phạm, chứ ít khi TCTD lại vi phạm chính những điều khoản do chính mình
soạn thảo.
Mặt khác, trong mối quan hệ HĐTD, các nghĩa vụ chính của bên đi vay
thường phát sinh sau thời điểm giải ngân. Trong khi đó, tại thời điểm hoàn tất việc
giải ngân cho khách hàng thì TCTD đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình. Các
nghĩa vụ khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ hồ sơ tín dụng, nghĩa
vụ thông báo, bảo quản tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản đảm bảo... là ít quan trọng
và là nghĩa vụ phát sinh từ quyền của bên vay. Vì lý do đó nên nếu có tranh chấp
xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm nghĩa vụ của mình, rất hiếm gặp trường
hợp bên đi vay khởi kiện TCTD.
Thứ tư, đa phần các tranh chấp liên quan đến HĐTD ngân hàng chính là các
tranh chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn, lãi của bên vay cho
TCTD, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong HĐTD.
Có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD như: tranh chấp về chủ thể
xác lập, thực hiện HĐTD, tranh chấp liên quan đến bảo lãnh vay vốn, tranh chấp
liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay... Tuy nhiên, tranh chấp xảy ra nhiều nhất
là tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi, về mức lãi suất vay, về vấn
đề bảo đảm. Sở dĩ như vậy là bởi vì những nghĩa vụ này chính là những nghĩa vụ
chính nhất, đóng vai trò nòng cốt trong quá trình thực hiện HĐTD của các bên và
việc thực hiện này có tác động trực tiếp đến quyền lợi của TCTD. Các tranh chấp
khác cũng có tác động đến các TCTD nhưng không phải là cơ bản nên ít xảy ra hơn
so với tranh chấp về nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi hay tranh chấp về lãi suất, về bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ.
Thứ năm, tranh chấp HĐTD ngân hàng thường là tiền đề làm phát sinh và
gắn liền với một quan hệ hợp đồng khác: hợp đồng bảo đảm tiền vay thông qua
hình thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba
Các TCTD khi tham gia vào HĐTD đều có mục đích lợi nhuận từ việc cho
vay đó vì bản chất của TCTD là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Để giảm thiểu rủi
ro trong trường hợp bên vay không trả được nợ, thông thường TCTD chỉ đồng ý cho
bên đi vay được vay vốn khi họ có cầm cố, thế chấp bằng tài sản hoặc có bảo lãnh
của bên thứ ba. Các biện pháp bảo đảm này đóng vai trò là phương pháp dự phòng
14
của TCTD khi rủi ro xảy ra. Khi đó, để đảm bảo cho nghĩa vụ được đảm bảo trong
HĐTD thì các bên kí kết hợp đồng bảo đảm cho khoản vay. Tùy trường hợp mà đó
có thể là hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp hay là dưới hình thức chứng thư bảo
lãnh của bên thứ ba. Những điều khoản về quyền và nghĩa vụ trong các hợp đồng
bảo đảm cho nghĩa vụ vay vốn là để bảo đảm cho việc vay vốn, xuất phát từ hợp
đồng tín dụng đã được kí kết và mục đích cuối cùng là bảo đảm cho việc trả nợ của
bên đi vay.
Như vậy, không có trường hợp nào, hợp đồng bảo đảm lại tách rời ra khỏi
HĐTD với tư cách là một hợp đồng độc lập mà giữa chúng luôn có mối quan hệ
mật thiết, gắn bó với nhau. Có thể ví mối quan hệ này như là mối quan hệ giữa hợp
đồng chính và hợp đồng phụ. Sự vô hiệu loại hợp đồng này có ảnh hưởng đến loại
hợp đồng kia tùy trường hợp. “Trong trường hợp hợp đồng có nghĩa vụ được bảo
đảm vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng thì giao dịch bảo đảm chấm dứt,
nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì
giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Ngược
lại, “giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo
đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, có thể khẳng định rằng tranh chấp
HĐTD, với tư cách là hợp đồng chính, luôn gắn liền và làm cơ sở phát sinh tranh chấp
hợp đồng bảo đảm - hợp đồng phụ trong quan hệ tín dụng giữa các bên.
Thứ sáu, tranh chấp HĐTD phát sinh từ sự xung đột về lợi ích giữa các bên
tham gia tranh chấp.
Vì tranh chấp HĐTD cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nên phải xuất
phát từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp đồng. Mặc dù vậy trong quan hệ dân
sự, pháp luật hiện hành quy định một số cơ quan đoàn thể có thể khởi kiện để đảm
bảo quyền lợi cho tổ chức, cá nhân khác mà không phải là lợi ích của chính cơ
quan, đoàn thể đó. Tuy nhiên, đối với tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì chỉ có
chính các bên hay người đại diện hợp pháp của họ mới có quyền khởi kiện để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên đi vay hay TCTD. Không có trường hợp nào
mà tranh chấp HĐTD phát sinh do tổ chức, cá nhân khác khởi kiện để bảo vệ quyền
lợi cho các bên tham gia HĐTD. Như vậy, tranh chấp phát sinh từ HĐTD chỉ phát
sinh khi các bên khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong
quan hệ tín dụng, hay nói cách khác, tranh chấp HĐTD thường gắn liền với lợi ích
của các bên tranh chấp.
15
1.2.3. Phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Khách hàng vay vốn có thể là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh hoặc
không đăng ký kinh doanh và mục đích vay vốn để kinh doanh, sản xuất hoặc tiêu
dùng, sinh hoạt. Vậy, tranh chấp hợp đồng tín dụng có thể là tranh chấp về hợp
đồng dân sự và cũng có thể là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Vậy khi nào
tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hợp đồng dân sự và khi nào là tranh
chấp kinh doanh, thương mại? Để trả lời câu hỏi này, ta cần nhận định rằng bản chất
hợp đồng tín dụng là hợp đồng vay tài sản. Vì vậy, HĐTD ngân hàng là một dạng
đặc biệt của hợp đồng dân sự xuất phát từ hoạt động cho vay của ngân hàng. Nếu
ngân hàng thực hiện cho vay mà bên vay là cá nhân, tổ chức và mục đích vay nhằm
đáp ứng nhu cầu về sinh hoạt và tiêu dùng thì hợp đồng tín dụng ngân hàng mang
tính chất là một hợp đồng dân sự theo đúng nghĩa. Nếu ngân hàng thực hiện cho vay
mà bên vay là các cá nhân, tổ chức hoạt động kinh doanh và mục đích nhằm đáp
ứng cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thương mại thì hợp đồng tín dụng
ngân hàng mang tính chất là hợp đồng kinh doanh, thương mại. Do đó, tuỳ theo đối
tượng và mục đích trong hoạt động cho vay của ngân hàng mà chúng ta nhìn nhận
hợp đồng tín dụng ngân hàng ở gốc độ thích hợp.
Từ phân tích trên tác giả cho rằng tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
có hai loại:
- Thứ nhất, tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hợp đồng dân sự
khi bên vay vốn là hộ gia đình, cá nhân hay tổ chức không có đăng ký kinh doanh
và không có mục đích lợi nhuận.
- Thứ hai, tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp kinh doanh - thương
mại khi bên vay vốn là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích
lợi nhuận.
* Các dạng tranh chấp hợp đồng tín dụng:
- Tranh chấp do các bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng:
+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên cho vay (ngân hàng) khi HĐTD có hiệu
lực, vì một lý do nào đó bên cho vay đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ nghĩa vụ giải ngân. Điều này, làm ảnh hưởng xấu tới quyền và lợi ích hợp pháp
của bên vay.
+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ trả gốc và lãi của bên vay. Rõ ràng khi cần tiền
16
để thực hiện kế hoạch, mục tiêu của mình thì khách hàng mới đi vay. Cũng vì lý do
này nên ban đầu thông thường thì khách hàng chấp nhận với lãi suất của ngân hàng
đưa ra nhưng sau một thời gian thực hiện hợp đồng phía khách hàng nhận thấy lãi
suất đó cao quá nên không đồng ý. Đồng thời, quá trình sử dụng vốn vay không
hiệu quả nên dẫn đến mất khả năng thanh toán nợ gốc và lãi. Đây là dạng tranh chấp
xảy ra nhiều nhất trong các tranh chấp HĐTD.
- Tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng. Tranh chấp này trên
thực tế tương đối đa dạng và phức tạp nhất là trong những trường hợp có yếu tố
nước ngoài. Điều này gây không ít khó khăn cho cơ quan giải quyết tranh chấp.
Trong quá trình ký kết hợp đồng tín dụng, việc xem xét tư cách chủ thể của bên vay
vốn là một vấn đề quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của HĐTD. Trên
thực tế, nếu tổ chức tín dụng xem nhẹ vấn đề này, không xác định đúng tư cách chủ
thể (đặc biệt là trường hợp khách hàng vay là tổ chức, doanh nghiệp) dẫn đến việc
ký hợp đồng tín dụng với chủ thể không có thẩm quyền ký kết. Hợp đồng bị tuyên
bố vô hiệu gây thiệt hại nặng nề cho các tổ chức tín dụng.
- Tranh chấp xảy ra từ việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với HĐTD có
bảo đảm bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm.
Chính bởi bản chất hợp đồng tín dụng mang tính rủi ro cao nên các tổ chức
tín dụng coi bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất
(các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Hiện nay, theo quy định của
pháp luật có ba hình thức bảo đảm tín dụng là cầm cố, thế chấp, bảo đảm tài sản
bằng bảo lãnh. Quá trình xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo
đảm được quy định tại Bộ luật Dân sự 2005, Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày
22/2/2012 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện không phải khi nào các bên cũng tuân thủ nghiêm túc
những quy định của pháp luật, nên trên thực tế, các tranh chấp liên quan đến tài sản
bảo đảm tương đối nhiều.
Các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng này chủ yếu liên quan đến việc xử
lý tài sản bảo đảm. Khi thẩm định hồ sơ vay vốn, nếu như nhân viên ngân hàng
thẩm định không kỹ, kết quả thẩm định không chính xác dẫn đến chấp nhận những
17
tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm thì sẽ dẫn
đến những tranh chấp phát sinh khi ngân hàng xử lý tài sản bảo đảm. Chẳng hạn, nếu
không xác định được tài sản bảo đảm thuộc sở hữu chung hay riêng của vợ chồng hoặc
tài sản bảo đảm không thuộc của người cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh thì cũng gây khó
khăn khi xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là tài sản của Hộ gia đình.
- Tranh chấp về pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD : Nếu như khi ký hợp
đồng tín dụng mà các bên đã không thoả thuận lựa chọn cơ quan giải quyết tranh
chấp cũng như luật áp dụng (nếu như có yếu tố nước ngoài) thì sau này có nhiều
khả năng xảy ra việc tranh chấp về luật áp dụng để giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng tín dụng. Thực tiễn cho thấy tranh chấp này ít xảy ra.
Hiện nay, khi nền kinh tế Việt Nam ít nhiều chịu sự ảnh hưởng không nhỏ
bởi các cuộc khủng hoảng của các nước trên Thế giới dẫn đến việc xảy ra tranh
chấp trong hợp đồng tín dụng ngày càng nhiều và diễn biến phức tạp. Do đó, việc
tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là hết sức cần thiết. Từ đó, có
những biện pháp, đường lối, chính sách nhằm khắc phục tình trạng tranh chấp để
tiến tới giảm thiểu đáng kể số lượng tranh chấp.
1.3. Nguyên nhân và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng
tín dụng ngân hàng
1.3.1. Nguyên nhân của tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Về bản chất, cũng như bất kỳ một tranh chấp thuộc lĩnh vực khác, tranh chấp
HĐTD là sự phản ánh những mâu thuẫn, bất đồng của các chủ thể trong việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ theo HĐTD, hay nói cách khác, chỉ khi có sự vi phạm nghĩa
vụ theo hợp đồng của một bên hoặc cả hai bên thì tranh chấp mới phát sinh. Ở đây,
bên cạnh thuật ngữ “tranh chấp HĐTD” còn xuất hiện thuật ngữ “vi phạm HĐTD”.
Hai thuật ngữ này có sự khác biệt về mặt nội dung nhưng lại có mối quan hệ thống
nhất và phụ thuộc lẫn nhau.
“Vi phạm HĐTD” có thể được hiểu là hành vi bất hợp pháp của một hoặc cả
hai bên giao kết không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những điều khoản đã
thỏa thuận trong hợp đồng. “Tranh chấp HĐTD” có thể hiểu là tình trạng pháp lý
phát sinh do một bên hoặc cả hai bên đã có hành vi vi phạm hợp đồng. Như vậy,
trong mối liên hệ giữa hành vi vi phạm hợp đồng với tranh chấp hợp đồng thì vi
phạm HĐTD được coi là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp HĐTD. Theo đó, tranh
18
chấp HĐTD thường bao gồm ba yếu tố: (1) Có quan hệ HĐTD tồn tại giữa các bên
tranh chấp; (2) Có sự vi phạm của một bên làm ảnh hưởng tới lợi ích của bên kia;
(3) Có sự mâu thuẫn, xung đột, bất đồng quan điểm, lợi ích giữa các bên về sự vi
phạm hoặc xử lý hậu quả phát sinh từ sự vi phạm.
Trên thực tế, hầu hết các tranh chấp HĐTD phát sinh đều có nguyên nhân từ
các hành vi vi phạm HĐTD như bên đi vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín
dụng dẫn đến tranh chấp, tổ chức tín dụng không giải ngân theo đúng kế hoạch
trong hợp đồng gây thiệt hại cho khách hàng… Tuy nhiên, nếu khẳng định tất cả
tranh chấp đều phát sinh từ hành vi vi phạm hợp đồng thì sẽ không đầy đủ và thiếu
chính xác vì tranh chấp HĐTD còn có thể xuất phát từ một dạng vi phạm khác, đó
là những vi phạm liên quan đến các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy
định của pháp luật và các bên hoàn toàn có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu để khôi phục lại trình trạng ban đầu. Mặc khác, nhiều khi mâu
thuẫn, bất đồng xảy ra do các bên còn có quan điểm trái ngược nhau về cùng một
vấn đề. Điển hình của loại tranh chấp này là hai bên hiểu không thống nhất về điều
khoản cụ thể nào đó trong hợp đồng và tranh chấp này chỉ đơn thuần là tranh chấp
liên quan đến vấn đề giải thích hợp đồng.
Nguyên nhân gây ra tranh chấp HĐTD rất đa dạng, song có thể khái quát với
những nguyên nhân từ phía bên vay, bên cho vay và cả những hạn chế của quy định
pháp luật.
Về nguyên nhân từ phía bên cho vay: Thông thường phía ngân hàng vi
phạm nghĩa vụ giải ngân cho khách hàng như quy định trong hợp đồng. Các tổ chức
tín dụng không tuân thủ chế độ tín dụng và điều kiện cho vay. Đôi khi ngân hàng
cho vay mà không tiến hành quy trình thẩm định theo nguyên tắc phân tích tín dụng,
điều mà các định chế tài chính quốc tế luôn cảnh báo là: Tính cách người vay, năng
lực trả nợ, dòng tiền mặt, tài sản thế chấp, các điều kiện môi trường, sự kiểm soát
mà ngân hàng lại dựa vào nhận định của các nhân viên của mình. Trên thực tế, khi
tiến hành thẩm định bên cho vay không thể kiểm tra được bên vay có thông qua một
tổ chức tín dụng đen nào hay không. Ở Việt Nam, ngân hàng chưa có chính sách hợp
lý và quy trình cho vay hiệu quả, cơ chế phân tích và quản lý rủi ro còn hạn chế. Việc
đánh giá biện pháp bảo đảm tiền vay còn hạn chế, chưa phân tích, đánh giá các điều
kiện về biện pháp bảo đảm tiền vay. Tổ chức tín dụng đánh giá về biện pháp bảo
19
đảm tiền vay còn dựa vào tài liệu do bên vay xuất trình mà chưa có sự kiểm tra thực
tiễn. Trình độ thẩm định của nhân viên ngân hàng còn chưa cao, nên có những sai
xót và thiếu chặt chẽ - kết quả thẩm định chưa đạt yêu cầu.
Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng còn hạn chế. Trong thực tế bên
ngân hàng không nắm rõ ràng các thông tin chính xác về khách hàng, không biết
chính xác là khách hàng vay vốn và có sử dụng vốn vay đúng mục đích trong hợp
đồng hay không. Một số nhân viên ngân hàng còn thiếu phẩm chất đạo đức cũng
như thiếu năng lực nên trong việc cho vay có đảm bảo nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản
thế chấp mà bên vay vẫn được giữ cả giấy tờ gốc chứng minh tài sản thế chấp của
mình. Điều này dẫn đến có thể bên vay lại đem bán tài sản đã thế chấp ở ngân hàng
cho người thứ ba. Lúc này ngân hàng và người thứ ba có sự tranh chấp về quyền tài
sản – tài sản đã được thế chấp bằng danh nghĩa ở ngân hàng.
Do đó để đảm bảo an toàn tín dụng các ngân hàng cần tuân thủ nghiêm túc
quy trình, điều kiện cho vay, các quy định của pháp luật liên quan, cần nâng cao
hơn nữa đội ngũ nhân viên ngân hàng, xây dựng và nâng cao hệ thống thông tin tín
dụng, có biện pháp để kiểm tra, giám sát hữu hiệu các hoạt động của bên vay theo
những cam kết trong hợp đồng.
Về nguyên nhân từ phía bên vay:
Bên vay không đảm bảo nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ những
nghĩa vụ của mình. Thông thường do hai nguyên nhân: nguyên nhân khách quan
và chủ quan.
Nguyên nhân khách quan: là những nguyên nhân tác động ngoài ý chí, tầm
kiểm soát của khách hàng như: do sự thay đổi của chính sách quản lý kinh tế, do
thiên tai, hoả hoạn, điều chỉnh quy hoạch, do thị trường biến động, quan hệ cung
cầu hàng hoá thay đổi… làm cho hoạt động của bên vay không thực hiện như kế
hoạch đề ra.
Nguyên nhân chủ quan: Cá nhân vay vốn không nắm được thông tin cần
thiết về kế hoạch đầu tư, sản xuất khi vay vốn dẫn đến tình trạng vay vốn về đầu tư
không có hiệu quả. Có thể là do vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp không đáp ứng nhu cầu, năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị
trường và thông tin về các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng tới quá trình sản xuất,
công nghệ chưa được cải thiện nên sản phẩm tạo ra chưa có tính cạnh tranh cao,
20
hiệu quả kinh doanh kém, hậu quả là doanh nghiệp thua lỗ lâm vào tình trạng phá sản.
Cũng có trường hợp do bên vay cố tình đưa ra những thông tin sai sự thật ngay từ khi
vay vốn nên khi về đầu tư hay sử dụng vào mục đích của mình không có hiệu quả.
Nguyên nhân nữa là do bên vay còn thiếu hiểu biết về pháp luật, trình độ
hiểu biết của bên vay còn hạn chế về những kiến thức pháp luật liên quan. Có
trường hợp bên vay ký hợp đồng trong khi bản thân không hiểu rõ về pháp luật nên
khả năng xảy ra những bất lợi cho mình là rất lớn. Đơn cử như trường hợp của ông
Phùng Hữu Phú ở thị trấn Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, năm 2014 ông đã thế chấp
ngôi nhà của mình để vay vốn Ngân hàng nông nghiệp, phát triển nông thôn Việt
Nam chi nhánh Phúc Thọ số tiền 500 triệu đồng để đầu tư cho cơ sở chế biến nông
sản. Nhưng sau đó do không có hiểu biết về những quy định của pháp luật ông Phú
đã ký hợp đồng bán nhà để đảm bảo cho khoản vay mới. Hiện tại, khoản tín dụng
mới không vay được, khoản tín dụng trước thì chưa có khả năng thanh toán và bên
vay còn phải đối mặt với nguy cơ mất nhà do chủ nợ đang khởi kiện ra toà yêu cầu
thực hiện hợp đồng bán nhà trên. Trong tình huống trên, nếu ông Phú có kiến thức
về pháp luật nhất là pháp luật ngân hàng thì sẽ không dẫn đến ký hợp đồng bán nhà
để đảm bảo cho khoản vay. Hiện nay, sự hiểu biết những quy định pháp luật của
một bộ phận người dân còn nhiều hạn chế, sự hạn chế đó không chỉ gây tổn thất cho
chính người vay mà còn ảnh hưởng tới quyền lợi của ngân hàng và đặc biệt là
những hệ lụy về mặt xã hội.
Nguyên nhân từ quy định của pháp luật: Xã hội luôn thay đổi theo nhiều
chiều hướng khác nhau, các mối quan hệ xã hội cũng đổi mới không ngừng kéo
theo các giao dịch trong xã hội cũng có thêm nhiều yếu tố phức tạp và đa dạng hơn.
Trái lại, trên thực tế pháp luật nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, pháp
luật chưa thể dự kiến và điều chỉnh được các mối quan hệ xã hội sắp diễn ra. Một
điều đáng lưu ý là sự hiểu biết về pháp luật của các bên trong hợp đồng còn chưa rõ
ràng, mâu thuẫn với nhau về lợi ích giữa các bên dẫn đến nảy sinh tranh chấp. Pháp
luật nước ta quy định bên cho vay bắt buộc phải đưa ra các căn cứ pháp lý hay
những lý do chính đáng nếu muốn từ chối khách hàng, vấn đề này chưa có văn bản
hướng dẫn cụ thể. Nên bên cho vay cho rằng cho vay là quyền của mình còn bên đi
vay thì có quan điểm ngược lại, điều đó dễ dẫn đến mâu thuẫn.
21
Những HĐTD ngân hàng theo mẫu do ngân hàng đưa ra đa phần là rất chặt
chẽ cả về hình thức và nội dung. Thông thường những hợp đồng theo mẫu này gắn
liền với lợi ích của ngân hàng.
Các quy định của pháp luật còn chưa thống nhất, chồng chéo lẫn nhau đặc
biệt là các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay, hành lang pháp lý cho hoạt
động giao dịch bảo đảm chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và nhiều quy định không
thể thực hiện được trên thực tế. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện phân tán
ở nhiều cơ quan khác nhau tạo kẽ hở trong quản lý. Theo Nghị định số
163/2006/NĐ-CP và Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi nghị định 163/2006/NĐ-
CP của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, cho phép các tổ chức tín dụng
được lựa chọn hình thức xử lý đa dạng như bán tài sản thế chấp, nhận các khoản
tiền và tài sản từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ, phương thức
khác do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên không thoả thuận được phương
thức xử lý tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì các tài sản này
được đem bán đấu giá nhưng để thực hiện được các bên lại phải ký hợp đồng uỷ
quyền tại đơn vị bán đấu giá có thẩm quyền. Điều này thường không thực hiện được
do bên thế chấp không đồng ý và khi đó các tổ chức cho vay không có cơ chế nào
để bảo vệ được quyền lợi của mình.
1.3.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Giống như các phương thức giải quyết tranh chấp khác, pháp luật hiện hành
công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng cụ
thể như: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp
kinh doanh các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp thương lượng
với nhau. Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải quyết tranh chấp có
thể được thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua phương thức hòa giải,
trọng tài hoặc tòa án. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng dựa
trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên. Cơ quan Nhà nước và
Trọng tài thương mại chỉ can thiệp theo yêu cầu của các bên tranh chấp.
Để đảm bảo phát triển và duy trì sự phát triển, vấn đề lựa chọn phương thức
giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng được các bên cân nhắc, lựa
chọn phù hợp dựa trên các yếu tố như mục tiêu đạt được, bản chất của tranh chấp,
mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi phí dành cho việc giải quyết tranh
22
chấp. Chính vì vậy, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên cần
hiểu rõ bản chất và cân nhắc các ưu điểm, nhược điểm của một phương thức để có
quyết định hợp lý.
- Đối với phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng
thương lượng:
Phương thức thương lượng là phương thức được các bên tranh chấp lựa chọn
trước tiên và trong thực tiễn phần lớn các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
được giải quyết bằng phương thức này. Thông qua phương thức này, các bên tranh
chấp cùng nhau bàn bạc, tự tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp
mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kỳ bên thứ ba nào. Nhà nước
khuyến khích áp dụng phương thức tự thương lượng để giải quyết tranh chấp trên tinh
thần hoàn toàn tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên. Chính vì điều này, pháp luật
không đưa ra bất cứ quy định nào cho phương thức giải quyết này.
Phương pháp thương lượng là phương thức được các bên tiến hành đầu tiên
bởi các ưu điểm của nó như: thuận tiện, đơn giản, nhanh chóng, linh hoạt, ít tốn
kém về thời gian, về tiền bạc, không ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý phức tạp,
đảm bảo bí mật, uy tín của các bên. Nếu thương lượng thành công thì ít gây phương
hại đến quan hệ hợp tác vốn có của các bên thậm chí còn được tăng cường về sự
hiểu biết và hợp tác lẫn nhau khi kết thúc cuộc thương lượng.
Tuy vậy, bên cạnh các ưu điểm trên, thương lượng cũng có những nhược
điểm như: thương lượng thành công phụ thuộc vào các bên có thiện chí muốn tìm
giải pháp đối với tranh chấp. Nếu bên vay muốn dùng hình thức thương lượng để
kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ thì thương lượng chỉ làm tốn kém và kéo dài
thời gian giải quyết tranh chấp hơn. Sự thực thi kết quả thương lượng phụ thuộc vào
ý chí tự nguyện thi hành của các bên tham gia. Cũng chính vì, phương thức giải quyết
tranh chấp bằng thương lượng không bị ràng buộc bởi bất kỳ các cơ chế pháp lý nào
nên kết quả thương lượng cũng không được bảo đảm bởi bất kỳ cơ chế pháp lý nào dẫn
đến tính bắt buộc thực hiện không cao. Mặt khác, hình thức giải quyết khép kín, không
công khai có khi lại nảy sinh những tiêu cực, trái pháp luật.
- Đối với phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng hoà giải:
Cũng giống như thương lượng, hoà giải là các bên tranh chấp cùng nhau bàn
bạc, thỏa thuận để giải quyết các vấn đề tranh chấp nhưng khác là hoà giải có sự hỗ
23
trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Người trung gian có thể là cá nhân, tổ chức luật
sư, tư vấn, hoặc các tổ chức khác do các bên thỏa thuận lựa chọn. Bên thứ ba trung
lập chỉ hỗ trợ các bên đưa ra thoả thuận, không có thẩm quyền phán xét, điều này
khác với phương pháp giải quyết bằng Trọng tài thương mại. Kết quả hòa giải phụ
thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của
trung gian hòa giải, quyết định cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp không phải
của trung gian hòa giải mà hoàn toàn phụ thuộc các bên tranh chấp. Trên thực tế,
phương thức hòa giải đã được sử dụng, nhưng phạm vi và hiệu quả áp dụng còn ở
mức khiêm tốn.
Với phương pháp giải quyết tranh chấp bằng hoà giải, chúng ta có thể thấy
các ưu điểm như: thủ tục, thời gian, địa điểm hoà giải có thể được thỏa thuận và
điều chỉnh do các bên tham gia giải quyết tranh chấp, các bên có quyền tự định
đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa giải. Hòa giải mang tính thân
mật nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ kinh doanh vì lợi ích của cả
hai bên. Tính thân mật trong hòa giải được thể thiện qua không gian và môi trường,
phong thái và ngôn ngữ trong hòa giải, hành vi giao tiếp và ứng xử của những người
tham gia. Giá trị của tính thân mật là ở chỗ nó có thể làm cho quá trình trung gian
hòa giải gần gũi và thân thiện với các bên tranh chấp hơn, không tạo ra sự lo lắng và
căng thẳng so với hoạt động xét xử tại Tòa án. Trong hòa giải, các bên tranh chấp
có thể nói chuyện, trao đổi, đàm phán và thảo luận về các giải pháp trong toàn bộ
quá trình. Quá trình hòa giải tạo cơ hội cho mỗi bên bày tỏ quan điểm của mình về
tranh chấp, không dẫn đến tình trạng đối đầu, thắng thua như quá trình kiện tụng tại
tòa án, duy trì được mối quan hệ vốn có của các bên. Do hòa giải xuất phát từ sự tự
nguyện tham gia và tự do thỏa thuận của các bên, nên nội dung thỏa thuận luôn hướng
tới lợi ích của tất cả các bên. Mặt khác, là khi giải quyết bằng con đường này các bên
kiểm soát được những bí mật của mình bởi phiên họp hòa giải được tổ chức kín, trong
khi giải quyết tại Tòa án thì các yêu cầu này không được đảm bảo do tòa án thực hiện
xét xử theo nguyên tắc công khai.
Bên cạnh những ưa điểm trên, giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng
phương pháp hòa giải vẫn còn tồn tại những nhược điểm nhất định: việc hòa giải có
được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất trí của các bên, hòa giải viên không
có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất cứ vấn đề gì đối với các bên
24
tranh chấp thỏa thuận hòa giải, không có tính bắt buộc thi hành như phán quyết của
Trọng tài thương mại hay của Tòa án. Các thỏa thuận, cam kết từ kết quả của quá trình
hòa giải không có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc vào thiện chí, sự
tự nguyện của các bên. Vì vậy, phương pháp này ít được sử dụng nếu các bên không
có sự tin tưởng với nhau.
- Đối với phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng trọng
tài thương mại:
Phương thức giải quyết tranh chấp HĐTD bằng trọng tài thương mại cũng
bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện và được tiến hành theo
quy định của Luật Trọng tài thương mại. Các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn
một Trọng tài phù hợp, chỉ định trọng tài viên để thành lập Hội đồng (hoặc Ủy ban)
Trọng tài giải quyết tranh chấp với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu
thuẫn tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành. Điều này
khác với phương thức thương lượng và hòa giải.
Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
bằng trọng tài thương mại cho thấy có một số ưu điểm sau: Thứ nhất, phương pháp
trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp có nguyên tắc xử kín nếu các bên
không có thỏa thuận khác. Thoả thuận phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại thường được sử dụng trong hợp đồng tín dụng mà bên vay là
các doanh nghiệp. Nguyên tắc xử kín trong phương pháp này là một ưu điểm mà
các bên tranh chấp luôn coi trọng bởi các bên không muốn các chi tiết của vụ tranh
chấp bị đem ra công khai trước Tòa án, điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ
trong hoạt động kinh doanh của mình. Việc xét xử tranh chấp bằng trọng tài thương
mại trên thực tế đã làm giảm đáng kể mức độ xung đột, căng thẳng của những bất
đồng bởi nó diễn ra trong một không gian kín, nhẹ nhàng, mang nặng tính trao đổi
để tìm ra sự thật khách quan của vụ việc. Đó chính là những yếu tố tạo điều kiện để
các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau. Thứ hai, quyết
định của Trọng tài thương mại là chung thẩm và vì vậy nó có giá trị bắt buộc đối
với các bên, các bên không có quyền chống án hay kháng cáo. Việc xét xử tại Trọng
tài thương mại chỉ diễn ra ở một cấp xét xử, đó cũng chính là điều khác biệt cơ bản so
với xét xử tại Tòa án bởi thông thường xét xử tại Tòa án diễn ra ở hai cấp. Hội đồng
trọng tài sau khi tuyên phán quyết xong là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và chấm
25
dứt sự tồn tại. Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thể hiện tính
năng động, linh hoạt và mềm dẻo, tạo quyền chủ động cho các bên về địa điểm, thời
gian giải quyết tranh chấp, tiết kiệm được thời gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng
tài trong khi tòa án khi xét xử phải tuân thủ một cách đầy đủ và nghiêm ngặt các quy
định có tính chất quy trình, thủ tục, trình tự được quy định trong Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn liên quan. Thứ tư, giải quyết trọng tài
không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng
tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình.
Tuy nhiên, bên cạnh đó phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có
những nhược điểm đáng kể như là: Quyết định trọng tài thương mại không có tính
cưỡng chế cao như quyết định của toà án; việc thi hành quyết định trọng tài thương
mại không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án mà phụ
thuộc chủ yếu vào thiện chí và sự hợp tác giải quyết của các bên. Giải quyết bằng
phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài
thì phí trọng tài càng cao.
- Đối với phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng tòa án:
Vấn đề giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng là vấn đề mang tính thường
xuyên trong giai đoạn hiện nay, việc tự giải quyết tranh chấp của các bên gặp nhiều
khó khăn vì nhiều nguyên nhân khác nhau và vì vậy cần thiết có sự can thiệp của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền mà phổ biến là Tòa án nhân dân. Phương thức giải quyết
tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng thông qua Tòa án là hình thức cuối cùng mà
các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp khi không còn lựa chọn nào khác. Thông
thường thì hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án được tiến
hành khi mà việc áp dụng cơ chế thương lượng và hoà giải không có hiệu quả và các bên
tranh chấp cũng không thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tranh chấp tại Trọng
tài thương mại.
Như vậy, có thể hiểu giải quyết tranh chấp HĐTD bằng tòa án là hình thức
giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán Nhà nước thực hiện. Tòa án nhân danh
quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thi hành, kể cả
bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Do đó, các đương sự thường tìm đến sự
trợ giúp của Tòa án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền,
lợi ích của mình khi họ thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng hoặc hòa
26
giải và cũng không muốn đưa vụ tranh chấp của họ để giải quyết bằng trọng tài
thương mại.
Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại tòa án có nhiều ưu điểm nhưng cũng có
những nhược điểm nhất định, ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thông
qua tòa án là: đặc trưng cơ bản của thủ tục giải quyết tranh chấp bằng tòa án là
thông qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa
ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành. Vì vậy, quyết định của tòa án có
tính cưỡng chế cao, quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên
thua kiện có tài sản để thi hành án. Nhờ đó, việc giải quyết tranh chấp thông qua tòa
án còn trực tiếp góp phần vào việc nâng cao ý thức, tôn trọng pháp luật cho các bên
tham gia. So với phương thức trọng tài thương mại, việc giải quyết tranh chấp bằng
toà án được thực hiện qua hai cấp xét xử, nhờ vậy mà những sai sót trong quá trình
giải quyết tranh chấp có khả năng được phát hiện, khắc phục đảm bảo quyền lợi
chính đáng của các bên tham gia. Chi phí giải quyết tranh chấp bằng toà án ít hơn
nhiều so với chi phí giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại và chi phí này
không tỷ lệ thuận với thời gian giải quyết tranh chấp như ở phương pháp trọng tài
thương mại. Việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng toà án có tính bắt
buộc tham gia cao đối với các bên tranh chấp không như các phương thức khác chỉ
có tính tự nguyện.
Trước khi đưa vụ án tranh chấp ra xét xử, toà án phải tiến hành hoà giải theo
quy định của pháp luật. Hoà giải ở đây được gọi là hoà giải trong tố tụng. Một thẩm
phán đã được phân công xét xử vụ án sẽ đóng vai trò là bên thứ ba độc lập để giúp
các bên tranh chấp tự thoả thuận cách giải quyết vấn đề mà không cần phán quyết
của toà án. Tại phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà án các bên tranh chấp có
quyền lựa chọn việc tham gia hoà giải. Sau khi thẩm phán ra quyết định công nhận các
bên hoà giải thành thì các thoả thuận sẽ có giá trị thực hiện như một bản án hiệu lực.
Đây là điều khác biệt đối với hoà giải ngoài tố tụng như phương thức hoà giải tranh
chấp phát sinh từ HĐTD bằng hoà giải đã phân tích ở trên.
Tuy vậy, việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
tín dụng bằng con đường tòa án cũng có những nhược điểm nhất định so với các
hình thức khác như: thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua tòa án thường dài hơn
so với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Hơn nữa, nguyên tắc xét xử
27
công khai tại tòa án có thể làm sụt giảm uy tín của các bên trên thương trường; lộ
lọt các bí mật kinh doanh cản trở hoạt động đối với các chủ thể bên vay là doanh
nghiệp. Ngoài ra, bản án xét xử xong chưa được thi hành ngay mà các bên có quyền
kháng cáo, khiếu nại nên thời gian kéo dài ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của
các bên tranh chấp.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng Tòa án
Việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng
Tòa án chịu ảnh hưởng chặt chẽ bởi các yếu tố bên ngoài cũng như bên trong. Điều
này đóng góp tích cực vào việc xây dựng và kiện toàn hệ thống pháp luật về lĩnh
vực này.
1.4.1. Tình hình kinh tế, xã hội của đất nước
Đây chính là yếu tố đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, và pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng nói riêng. Theo lý thuyết về cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng mà sự ảnh hưởng của nền kinh tế, và xã hội tới giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng bằng Tòa án là hoàn toàn có thể xảy ra. Bởi lẽ, trên thực tế, với
sự pháp triển ngày càng tăng của nền kinh tế, thì các giao dịch tín dụng, ngân hàng
ngày càng phát triển, do đó, số lượng tranh chấp ngày một nhiều. Điều này là cơ sở,
là tiền đề để chúng ta phải hoàn thiện hơn nữa pháp luật về giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng bằng con đường Tòa án.
1.4.2. Vấn đề chiến lược cải cách tư pháp và cải cách hệ thống pháp luật
hư chúng ta đã biết, việc cải cách tư pháp và cải cách hệ thống pháp luật Việt
Nam đã được Đảng và Nhà nước đề cập đến từ những năm 2002 và năm 2005 bằng
các nghị quyết của Đảng. Việc hoàn thiện bất kỳ hệ thống pháp luật chuyên ngành
nào đều phải bám sát, lấy các Nghị quyết của Đảng làm trọng tâm làm cơ sở. Trong
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân sự - kinh tế, Nghị quyết của Đảng đã chỉ
rõ, cần phải lấy nguyên tắc tự nguyện, tự định đoạt làm cơ sở, làm gốc của mọi
quan hệ pháp luật tư. Nhà nước cần tránh và hạn chế tối đa sự can thiệp vào các
quan hệ dân sự - kinh tế, không được hình sự hóa các quan hệ dân sự. Đây là cơ sở,
là định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín dụng và pháp luật về
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ở Việt Nam hiện nay.
28
1.4.3. Yếu tố về tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án
Đây là yếu tố quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng Tòa án. Bởi lẽ, giải quyết được các
tranh chấp này, cần phải có tổ chức bộ máy cán bộ Tòa án đủ mạnh, đủ năng lực, có
kinh nghiệm về giải quyết tranh chấp tín dụng. Trên thực tế, trong những năm vừa
qua, ngành Tòa án nhân dân ngày một lớn mạnh, có sự phát triển vượt bậc về số
lượng và chất lượng. Tuy nhiên, trên thực tế, chất lượng này chưa tương xứng với
lượng công việc giải quyết các tranh chấp đặc biệt là tranh chấp trong lĩnh vực kinh
tế. Do đó, trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng bằng Tòa án cần phải đặt trong mỗi quan hệ với hoàn thiện cơ cấu tổ
chức và hoạt động của ngành Tòa án nhân dân.
Tiểu kết chương 1
Tranh chấp phát sinh từ hoạt động tín dụng là một hiện tượng tất yếu khách
quan, có thể xảy ra trong bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình thực hiện các nội
dung của hợp đồng tín dụng do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan.
Điều quan trọng là làm thế nào có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về nó để đưa ra
các biện pháp hạn chế đến mức thấp nhất việc phát sinh tranh chấp về lãi suất trong
hợp đồng tín dụng.
Trong chương 1, luận văn đã tập trung nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề
cơ bản về hợp đồng tín dụng và các nguyên nhân, phương pháp giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng (chủ yếu là phương pháp giải quyết tranh chấp
bằng con đường toà án), các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng Tòa án… Từ đó cho thấy sự cần thiết
trong xây dựng và áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín
dụng để làm cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực trạng ở Chương 2 và đề ra giải
pháp ở Chương 3.
29
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
tín dụng
2.1.1. Một số quy định về hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy
định của Bộ luật Dân sự 2015. Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong trường
hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng (TCTD), trong đó chủ yếu là các ngân hàng
(sau đây gọi chung là ngân hàng).
Hợp đồng tín dụng chính là hợp đồng cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho
vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một
thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Còn
những hoạt động cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá
được gọi chung là hợp đồng cấp tín dụng.
Nếu bên vay là doanh nghiệp và hộ kinh doanh, thì hợp đồng tín dụng sẽ là
hợp đồng thương mại. Nếu bên vay là cá nhân, thì hợp đồng tín dụng sẽ là hợp đồng
dân sự.
Cho vay vốn được ví như việc bán chịu một loại hàng hóa đặc biệt, đó là tiền
tệ. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng, trước khi giải ngân, thì thế mạnh hoàn toàn thuộc
về ngân hàng và ngân hàng là người quyết định có hay không cho vay. Dấu ấn vẫn
đang hiện hữu trong Luật các TCTD năm 1997 để chỉ quá trình chuẩn bị giao kết
hợp đồng, đó là những cụm từ “cấp tín dụng” và “xét duyệt cho vay” hay là “yêu
cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh” tính khả thi của phương án vay vốn và
khả năng trả nợ. Tuy nhiên, ngay sau khi thực hiện hợp đồng, tức là sau khi ngân hàng
giải ngân, thì xu thế lại hoàn toàn đảo ngược. Khi ấy, bên vay là người nắm vai trò chủ
động trong việc trả nợ. Mặc dù ngân hàng có khá nhiều quyền chi phối theo quy định
của pháp luật về hợp đồng tín dụng, nhưng vẫn trở thành bên thụ động.
Nhìn chung pháp luật liên quan là BLDS, Luật các TCTD và Quy chế Cho
vay của TCTD đối với khách hàng do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành
30
(hiện nay là Thông tư 39/2016/TT-NHNN), đã quy định khá cụ thể, chi tiết các điều
kiện, điều khoản có trong một hợp đồng tín dụng. Vì vậy chỉ cần lưu ý đến một số
điểm đặc biệt trong hợp đồng tín dụng.
Về nguyên tắc, bên vay vốn được sử dụng vốn vay vào bất kỳ mục đích nào,
nếu không bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, có những trường hợp không bị pháp luật
cấm, như việc vay vốn để trả nợ ngân hàng khác hoặc trả nợ chính ngân hàng vay,
nhưng lại rất khó được chấp nhận, vì nó được coi như một hoạt động đảo nợ. Trước
đây, việc đảo nợ bị cấm, sau đó được quy định trong Luật các TCTD là “Việc đảo
nợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ”. Tuy nhiên từ năm 1997 đến nay,
vẫn không có văn bản nào của Chính phủ hay NHNN giải thích về nội dung này.
Đối với vay vốn dân sự hoặc thương mại thông thường, thì hầu như bên cho
vay không quan tâm đến mục đích sử dụng vốn vay, trong khi đối với hợp đồng tín
dụng thì lại là một trong điều kiện quan trọng nhất.
Trong cả thời hạn vay vốn, nếu bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục
đích đã thỏa thuận, thì ngân hàng lập tức được quyền chấm dứt hợp đồng, phạt vi
phạm và thu hồi nợ trước hạn. Đó luôn là quy định của pháp luật, cũng đồng thời là
điều quan tâm hàng đầu của các ngân hàng trong nghiệp vụ xét duyệt và quản lý các
khoản vay. Để bảo đảm được việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và việc trả nợ
đúng hạn, ngân hàng được quyền kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và
trả nợ. Đây cũng là điều hầu như không xuất hiện trong các hợp đồng vay vốn trong
các quan hệ giữa cá nhân và các doanh nghiệp.
Để bảo đảm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và khả năng trả nợ của bên
vay, Luật các TCTD quy định, ngân hàng có trách nhiệm và có quyền kiểm tra,
giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của bên vay.
Hợp đồng tín dụng phải được lập thành văn bản, trong đó có nội dung về
điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời
hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những
cam kết khác được các bên thoả thuận (Điều 51 Luật các TCTD).
Mẫu hợp đồng mà các ngân hàng đưa ra không phải là hợp đồng mẫu theo
quy định của BLDS, mà chỉ là bản thảo để thuận tiện trong quá trình đàm phán ký kết
hợp đồng. Bên vay hoàn toàn có thể thoả thuận với ngân hàng thay đổi bất kỳ nội dung
31
nào. Tuy nhiên, trên thực tế thì bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản thiên
về ràng buộc chặt chẽ đối với bên vay và có lợi hơn cho ngân hàng.
So với hợp đồng thương mại, hợp đồng tín dụng thường có điểm khác là
thường rất nhiều văn bản có các yếu tố như một hợp đồng, như đơn đề nghị vay
vốn, hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ (giấy nhận nợ),... Chẳng hạn trong đơn đề
nghị vay vốn có nhiều nội dung cơ bản của hợp đồng tín dụng như số tiền vay, mục
đích vay, thời hạn vay, lãi suất vay và cam kết của bên vay. Trường hợp ngân hàng
ký chấp thuận những nội dung đó, thì hoàn toàn có thể thay thế cho một bản hợp
đồng tín dụng. Tương tự, khế ước nhận nợ cũng thường liệt kê lại một cách đầy đủ
những điểm chủ yếu của hợp đồng tín dụng, nên trong nhiều trường hợp cũng đồng
nghĩa với một hợp đồng tín dụng. Do hợp đồng tín dụng được làm kỹ như vậy, nên
rất ít khi xảy ra tranh chấp về chính hợp đồng tín dụng, mà thường là tranh chấp liên
quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm để trả nợ.
Theo quy định của pháp luật, thì chỉ có hợp đồng tín dụng. Nhưng trên thực
tế, vừa do truyền thống, vừa do yêu cầu thực tế, nên bên cạnh hợp đồng tín dụng,
các ngân hàng thường đưa ra thêm một loại văn bản nữa là khế ước nhận nợ, là một
loại giấy nhận nợ. Khế ước nhận nợ thường cũng đủ các yếu tố chủ yếu của hợp
đồng tín dụng.
Trong thực tế, nhiều ngân hàng ký hợp đồng tín dụng nguyên tắc với bên
vay, trong đó xác định các nguyên tắc chung và các nội dung thoả thuận sơ bộ về
việc cho vay một số vốn nhất định khi hai bên vay đáp ứng được đầy đủ những điều
kiện vay vốn theo quy định của pháp luật cũng như của ngân hàng cho vay. Hợp
đồng tín dụng nguyên tắc là căn cứ để ngân hàng và bên vay tiếp tục ký các hợp
đồng tín dụng cụ thể. Khi ấy, hợp đồng tín dụng cụ thể có thể không cần nhắc lại
những thoả thuận chung như quyền, nghĩa vụ của các bên chẳng hạn.
Các bên thường sử dụng hợp đồng tín dụng nguyên tắc trong trường hợp bên
vay có nhiều tài sản bảo đảm đưa vào ngân hàng để vay vốn nhiều lần và diễn ra
trong một thời gian dài. Khi đó hợp đồng bảo đảm tiền vay được thiết lập để bảo
đảm cho hợp đồng tín dụng nguyên tắc, thay vì cứ mỗi hợp đồng tín dụng lại phải
ký một hợp đồng bảo đảm tiền vay, vừa mất chủ động trong giao dịch vay vốn, vừa
tốn kém chi phí định giá, công chứng, đăng ký thế chấp lại.
32
Hợp đồng tín dụng hạn mức là hợp đồng tín dụng cụ thể nhưng có thêm điều
khoản cho phép bên vay rút vốn và trả nợ nhiều lần, miễn là bảo đảm dư nợ vay
trong mọi thời điểm không quá mức tiền vay cao nhất mà hai bên đã thoả thuận.
Mỗi lần vay vốn, bên vay chỉ cần ký khế ước nhận nợ thay vì phải ký nhiều hợp
đồng tín dụng với những điều kiện tương tự nhau.
Thời hạn cho vay trong hợp đồng tín dụng được phân thành hai loại cơ bản là
ngắn hạn và trung, dài hạn, trong đó: Khoản vay vay ngắn hạn là không quá 12
tháng (1 năm); Khoản vay trung hạn là từ trên 12 tháng đến 60 tháng (1 - 5 năm);
Khoản vay dài hạn là trên 60 tháng (5 năm).
Giữa các khoản vay ngắn hạn và khoản vay trung, dài hạn, thường có những
đòi hỏi khác biệt, được xem xét thẩm định theo những quy trình, thủ tục khác nhau
và áp dụng lãi suất khác nhau theo nguyên tắc: thời hạn càng lâu thì càng tiềm tàng
rủi ro, và sự nguy hiểm sẽ tăng theo lãi suất.
Đối với hợp đồng kinh doanh thương mại, thời hạn được tính theo nhiều cách
khác nhau, thường là từ ngày ký hợp đồng. Còn đối với hợp đồng tín dụng, thì thời
hạn hợp đồng thường cũng chính là thời hạn cho vay, cho nên luôn được tính theo
mốc từ thời điểm bắt đầu nhận khoản tiền vay đầu tiên (ngày rút vốn hay ngày giải
ngân) cho đến khi trả hết khoản nợ cuối cùng theo thoả thuận ban đầu..
* Lãi suất cho vay trong hợp đồng tín dụng
Trước đây, tại Điều 476 BLDS năm 2005 quy định các bên trong hợp đồng
cho vay có quyền thỏa thuận về lãi suất nhưng không được vượt quá 150% của lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng và
trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi
suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ Nay, BLDS năm
2015 quy định hạn mức lãi suất tối đa mà các bên được thỏa thuận đã được hạ
xuống, đồng thời pháp luật đã mở rộng quyền thỏa thuận cho các bên trong trường
hợp hợp đồng cho vay có tính lãi nhưng không xác định lãi cụ thể. Điều 468 của Bộ
luật này quy định: “1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có
thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm
của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ
tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết
33
định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại
khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định
rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi
suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”
Quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015, là một trong những thay đổi quan
trọng và được đánh giá là có thể hạn chế được những bất cập trong việc áp dụng
quy định về lãi xuất theo BLDS năm 2005. Theo đó, lãi suất vay là do chính các bên
thỏa thuận, nếu vay có lãi thì lãi xuất thỏa thuận không được quá 20%/năm của
khoản tiền vay, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, không như cách tính lãi
suất thỏa thuận theo mức tham chiếu là lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước
được quy định tại khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2005 “Lãi suất vay do các bên thoả
thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.”.
Về mức lãi suất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015,
trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại
khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Như vậy, lãi suất tối đa
trong các hợp đồng vay tài sản các bên được thỏa thuận theo BLDS năm 2015
không quá 20%/năm (tức 1,7%/tháng).
Về lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của
lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố theo quy định tại khoản 1 Điều 476
BLDS năm 2005. Theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Ngân
hàng nhà nước Việt Nam, về lãi suất cơ bản của Việt Nam đồng để tính lãi suất, thì
mức lãi suất cơ bản là 9%/01 năm, tức là 0,75%/01 tháng. Lãi suất cao nhất các bên
đương sự được thỏa thuận theo quy định tại khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2015 là
1,125%/01 tháng (tức 13,5%/01 năm).
So sánh quy định về lãi suất giữa BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 thấy:
BLDS năm 2015 quy định luôn mức lãi suất cao nhất được thỏa thuận trong các hợp
đồng dân sự vay tài sản là 20%, không phụ thuộc vào mức lãi suất cơ bản do Ngân
hàng nhà nước quy định. Mức lãi suất theo BLDS năm 2015 cao hơn so với BLDS
năm 2005 mục đích giảm thiểu sự chênh lệch về mức lãi suất trong các hợp đồng
34
dân sự thông dụng với các hợp đồng tín dụng, bình đẳng hóa giữa các chủ thể khi
tham gia vào các giao dịch vay tài sản.
Về trường hợp không rõ về lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất: Theo quy
định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015, trường hợp không rõ hoặc có tranh
chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất theo quy định tại
khoản 1 Điều 468 Bộ luật này. Theo quy định này mức lãi suất trong trường hợp
không rõ hoặc có tranh chấp sẽ là 10%/01 năm (tức 0,83%/tháng).
So với quy định tại khoản 2 Điều 476 BLDS năm 2005 thì trường hợp không rõ về
lãi suất hoặc các bên đương sự có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản
do ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.
Theo quy định này thì mức lãi suất có tranh chấp là 0,75%/01 tháng. Như vậy, mức
lãi suất trong trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất theo quy định của
BLDS năm 2015 không phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước và
mức lãi lớn hơn so với quy định của BLDS năm 2005.
Việc thay đổi này đã giải quyết được mâu thuẫn giữa quy định tại khoản 1
Điều 476 BLDS năm 2005 với Điều 1 của Thông tư số 07/2010/TT-NHNN ngày
26/02/2010 của Ngân hàng Nhà nước quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam
theo lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Theo quy định tại Điều 12 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và khoản 2, khoản
3 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, trong điều kiện bình thường, lãi
suất trong hoạt động ngân hàng sẽ thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận, không có
trần lãi suất. Về nghĩa vụ trả nợ của bên vay, trước đây tại khoản 4 và khoản 5 Điều
474 BLDS năm 2005 quy định:
“4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ
hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại
thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận.
5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả
không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản
do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”
Nay theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015:
“4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không
35
đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm
trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.
5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không
đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với
thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng
tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
* Nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng tín dụng
- Thoả thuận về nợ đến hạn
Một trong những vấn đề vướng mắc trong hợp đồng tín dụng là việc thu hồi
nợ trước hạn. Luật các TCTD cho phép các ngân hàng được phép thu hồi nợ trước hạn
nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Đây là một trong những đòi hỏi cơ bản, là
quyền rất quan trọng của các ngân hàng để bảo đảm an toàn vốn cho vay. Tuy nhiên có
luồng quan điểm không đồng tình vì căn cứ vào quy định của BLDS thì bên cho vay
“Không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn”, trừ trường hợp được bên
vay đồng ý (Điều 473.3). Nếu theo quan điểm này, thì trái ngược hoàn toàn với quy định
của pháp luật ngân hàng, vô cùng bất lợi đối với bên cho vay. Theo đó, khi bên vay chậm
trả một kỳ hạn nợ hoặc có những vi phạm khác, thì ngân hàng sẽ không được phép
chuyển toàn bộ số nợ sang nợ quá hạn, thu hồi toàn bộ nợ vay và xử lý tải sản bảo đảm
để thu hồi nợ. Thực tế đã từng xảy ra vụ việc dưới đây:
Ví dụ 4 về thu hồi nợ đến hạn.
Tháng 7-2007, bà Phùng Thị Tuyết Ng. ký hợp đồng tín dụng vay của Ngân
hàng V. 800 triệu đồng, thời hạn vay là 60 tháng, trả nợ gốc, lãi cho theo định kỳ
hằng tháng. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của người thứ ba. Bà Ng chỉ trả
nợ được 2 kỳ, sau đó không trả nợ tiếp. Sau đó Ngân hàng V. khởi kiện ra TAND
quận Hoàn Kiếm đòi nợ và đề nghị phát mại tài sản thế chấp để thu nợ. Toà án đã
tuyên bác yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng V.
Ngân hàng V. thì cho rằng: Việc chậm trả của bà Ng. là đã vi phạm nghĩa vụ
trả nợ, do vậy việc đòi nợ dựa trên cơ sở nghĩa vụ đã đến hạn chứ không phải là
“đòi lại nợ trước hạn”. Căn cứ pháp lý là Luật các TCTD cho phép ngân hàng “có
36
quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung
cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng“ (54.1).
Và Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng, ban hành kèm theo
Quyết định số 1627/2010/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN cũng quy định rõ: “Đối
với khoản nợ vay không trả nợ đúng hạn, được TCTD đánh giá là không có khả
năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì số dư
nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó là nợ quá hạn và TCTD thực hiện các biện pháp
để thu hồi nợ; việc phạt chậm trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên
thoả thuận trên cơ sở quy định của pháp luật." (13.2).
Còn Toà án thì lập luận rằng: Hợp đồng tín dụng có thời hạn vay là 5 năm,
đến nay mới là 3 năm, chưa đến hạn. Do đó, căn cứ vào quy định của BLDS thì
Ngân hàng V. chưa có quyền yêu cầu bên vay trả nợ, theo đó cũng không có quyền
đòi bên thế chấp tài sản phải thực hiện nghĩa vụ ( 366 và 473.3).
Để hạn chế rủi ro trên, các bên nên có thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
nội dung sau: Trường hợp bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ một kỳ hạn trả nợ thì
các kỳ hạn khác chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn trả nợ và ngân hàng có
quyền thu hồi nợ trước hạn.
- Lãi suất và phí trả nợ trước hạn
Trường hợp bên vay trả nợ trước hạn, thì thường phải trả phí trả nợ trước hạn
theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Gọi là phí trả nợ trước hạn nhưng thực
chất là một loại lãi suất phạt trên cơ sở quy định bên vay có quyền trả tiền vay trước
hạn, nhưng phải trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn, nếu không có thỏa thuận khác. Trên
thực tế, nhiều ngân hàng không thu phí trả nợ trước hạn, hoặc chỉ thu với tỷ lệ từ vài
đến vài chục phần trăm so với số tiền lãi của thời hạn vay còn lại.
Ví dụ 5 về thu phí trả nợ trước hạn.
Ngân hàng T. cho vay 20 tỷ đồng, lãi suất 12%/năm, với thời hạn vay 13
tháng. Chỉ 5 tháng sau, bên vay đã trả nợ toàn bộ số tiền 15 tỷ đồng. Theo quy định
của BLDS thì Ngân hàng T. có thể được phép thu số phí trả nợ trước hạn tối đa đến
1 tỷ đồng (20 tỷ đồng x 5 tháng x 1%/tháng).
- Cơ cấu lại thời hạn trả nợ
Trường hợp bên vay không có khả năng trả nợ theo đúng thoả thuận ban đầu,
nếu đủ điều kiện thì có thể được ngân hàng xem xét cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ,
bao gồm hai cách là gia hạn nợ và điều chỉnh kỳ hạn trả nợ.
37
Có một thời kỳ NHNN quy định khoản vay ngắn hạn chỉ được gia hạn tối đa
bằng thời hạn cho vay; khoản vay trung, dài hạn tối đa bằng ½ thời hạn cho vay.
Như vậy, khoản vay 12 tháng thì được phép gia hạn thêm 12 tháng nữa, nhưng nếu
là khoản vay 13 tháng, thì chỉ được phép gia hạn thêm 6,5 tháng.
Đến nay, các khoản nợ được gia hạn nhiều lần, với thời hạn không bị hạn
chế. Tuy nhiên, khi đó khoản nợ sẽ bị đánh giá về khả năng rủi ro và phải phân loại
vào nhóm nợ thích hợp để trích lập dự phòng.
- Hiệu lực của hợp đồng tín dụng
Các ngân hàng thường đưa vào hợp đồng tín dụng câu: Hợp đồng này có
hiệu lực cho đến khi bên vay trả hết nợ gốc, lãi và các chi phí có liên quan. Nếu
thoả thuận này được công nhận, thì dẫn đến tình trạng không hợp lý là hiệu lực của
hợp đồng tín dụng sẽ luôn luôn là vô thời hạn, không bao giờ chấm dứt, nếu chưa
trả hết nợ.
Tuy nhiên trên thực tế, Toà án đã từng thừa nhận thời hiệu khởi kiện không
tính từ ngày hết hạn trả nợ theo thoả thuận, mà tính đến khi bên vay trả hết nợ trong
trường hợp hợp đồng tín dụng có thoả thuận: Hợp đồng này có hiệu lực cho đến khi
bên vay trả hết nợ (gốc và lãi) cho bên cho vay (xem Bản án giám đốc thẩm số
08/2003/HĐTP-KT ngày 29-5-2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND TC về vụ án
tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng Công thương Việt Nam và Công ty
TNHH Thương mại Lam Hồng Sơn).
Sau khi thực hiện xong, đương nhiên hợp đồng được thanh lý. Các bên
không cần thiết phải lập biên bản thanh lý hợp đồng, trừ trường hợp cần bằng.
- Thẩm quyền ký hợp đồng tín dụng
Mỗi bên chỉ cần một người đại diện ký hợp đồng tín dụng và khế ước nhận
nợ. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều trường hợp bên ngân hàng có hai chữ ký (giám
đốc và trưởng phòng tín dụng), đồng thời yêu cầu bên vay cũng có hai chữ ký (giám
đốc và kế toán trưởng đối với doanh nghiệp hoặc hai vợ chồng đối với cá nhân).
Đối với ngân hàng, ít khi người đại diện theo pháp luật ký hợp đồng tín
dụng, mà thường do người được uỷ quyền ký, trong đó không ít trường hợp uỷ
quyền cho người thứ ba một cách thường xuyên, liên tục. Phổ biến là trường hợp,
người đại diện pháp luật của ngân hàng uỷ quyền cho giám đốc chi nhánh, sau đó
giám đốc chi nhánh uỷ quyền lại cho phó giám đốc hoặc trưởng phòng.
38
Ngược lại, ngân hàng thường chỉ chấp chấp nhận cho bên vay là doanh
nghiệp uỷ quyền một cấp cho người thứ hai và thường là có vị trí ngay dưới người
uỷ quyền ký hợp đồng tín dụng.
Việc đòi hỏi như trên của ngân hàng là chặt hơn đòi hỏi của pháp luật, nhưng
nó có ý nghĩa quan trọng trên thực tế, nhằm hạn chế rủi ro về chủ thể ký hợp đồng
tín dụng của bên vay, giúp cho hợp đồng tín dụng an toàn và dễ dàng hơn trong việc
thu hồi nợ.
Luật các TCTD cũng quy định rõ, không một tổ chức cá nhân nào được can
thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu hồi nợ của các
ngân hàng (Điều 15).
Ngoài ra, đối với cả ngân hàng và bên vay là doanh nghiệp, thì đòi hỏi phải
có sự thông qua của cấp có thẩm quyền đối với các trường hợp khoản tín dụng đạt
đến một mức nhất định như: Bên vay là doanh nghiệp phải thông qua Hội đồng
Thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty hoặc HĐQT trong trường hợp giá trị khoản
vay hay giá trị tài sản cầm cố, thế chấp “bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản
được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty hoặc
một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty”; Đối với ngân hàng, nếu các
khoản cho vay có giá trị từ 10% tổng tài sản của ngân hàng trở lên, thì cũng phải
thông qua HĐQT hoặc được HĐQT phân cấp, uỷ quyền. Đối với các khoản vay trên
15% vốn tự có của ngân hàng, thì phải được Thủ tướng Chính phủ hoặc Thống đốc
NHNN cho phép.
* Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
- Bên vay vốn có các quyền sau: Từ chối các yêu cầu của ngân hàng không
đúng với các thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm
hợp đồng tín dụng của ngân hàng theo quy định của pháp luật.
- Bên vay vốn có các nghĩa vụ sau: Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông
tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn đồng thời chịu trách nhiệm về tính chính xác
và hợp pháp của các thông tin, tài liệu cung cấp cho ngân hàng; Sử dụng tiền vay
đúng mục đích, thực hiện đúng các nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
và các cam kết khác với ngân hàng; Trả nợ gốc và lãi vốn vay theo thoả thuận trong
hợp đồng tín dụng; Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng
những thoả thuận về việc trả nợ và thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam
kết trong hợp đồng tín dụng.
39
* Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
- Bên ngân hàng cho vay có các quyền sau: Yêu cầu khách hàng cung cấp
tài liệu chứng minh dự án, phương án vay vốn khả thi, khả năng tài chính của mình
và người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay; Từ chối yêu cầu vay vốn của khách
hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay vốn; dự án, phương án vay vốn không có
hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc ngân hàng không có đủ
nguồn vốn để cho vay; Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả
nợ của khách hàng; Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn, chuyển nợ quá
hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín
dụng; Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc khởi kiện bên thứ ba
cầm cố, thế chấp, bảo lãnh theo quy định của pháp luật; Khi đến hạn trả nợ mà
khách hàng không trả nợ, nếu các bên không có thoả thuận khác thì ngân hàng có
quyền bán tài sản bảo đảm tiền vay theo sự thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và
hợp đồng bảo đảm tiền vay để thu nợ theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu
người thứ ba thực hiện nghĩa vụ cầm cố, thế chấp, bảo lãnh cho khách hàng vay
vốn; Miễn, giảm lãi tiền vay theo quy định của ngân hàng; gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ
hạn nợ theo quy định; Mua bán nợ, đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ và cơ cấu lại nợ theo
quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam .
- Bên ngân hàng cho vay có các nghĩa vụ sau: Giải ngân cho bên vay theo
đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; Thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng; Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.
2.1.2. Quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp
Hiện nay, các vụ án giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án được
quy định theo Bộ luật Tố tụng Dân sự đòi hỏi các đương sự tham gia và người tiến
hành tố tụng phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự theo
điều 5 BLTTDS 2015. Quyền của chủ thể tranh chấp trong việc quyết định chọn
phương thức giải quyết khi đương sự có đơn yêu cầu và chỉ giải quyết các vấn đề
tranh chấp trong phạm vi yêu cầu. Có nghĩa là khi tranh chấp xảy ra, các bên tranh
chấp có quyền tự quyết định việc khởi kiện, chủ động đề xuất các yêu cầu, phạm vi
mức độ quyền và lợi ích cần được bảo vệ. Thậm chí, ngay khi đưa vụ án tranh chấp
ra giải quyết các bên tranh chấp có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình
hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện không trái với pháp luật và yêu cầu
40
đạo đức xã hội.
Thứ hai: Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh theo
điều 6 BLTTDS 2015. Việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong giải quyết
tranh chấp là quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Khi yêu cầu tòa án giải quyết thì
đương sự phải chứng minh được các yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Các bên có quyền và nghĩa vụ trình bày những gì mà họ cho là cần thiết và có thể
phản đối yêu cầu của người khác đối với mình nhưng phải chứng minh sự phản đối
đó là có căn cứ. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Tòa án không bị bắt buộc thu
nhập, xác minh chứng cứ mà chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong
những trường hợp do BLTTDS quy định. Nguyên tắc này tạo cơ sở giải quyết
nhanh chóng các vụ tranh chấp và nâng cao trách nhiệm chứng minh của các đương
sự bảo vệ lợi ích của mình.
Thứ ba: Nguyên tắc bình đẳng quyền và nghĩa vụ trong tố tố tụng dân sự
theo điều 8 BLTTDS 2015. Đây là nguyên tắc thể hiện quyền con người trong Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khi tham gia giải quyết tranh chấp
tại Tòa án, các đương sự có quyền và nghĩa vụ ngang nhau, không ai được phân biệt
đối xử. Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, có
quyền đưa ra yêu cầu và phản đối yêu cầu của bên kia cũng như thực hiện quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ nhằm bảo vệ lợi ích của mình.
Thứ tư: Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ và lợi ích hợp pháp của đương sự
theo điều 9 BLTTDS 2015. Ngoài quyền tự bảo vệ cho mình, các đương sự có
quyền nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để
bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ năm: Nguyên tắc hoà giải theo điều 10 BLTTDS 2015. Vì đặc điểm của
tranh chấp phát sinh từ HĐTD phản ảnh về lợi ích kinh tế của các bên nên biện
pháp mà các bên tiến hành để giải quyết tranh chấp trước tiên là hoà giải và chỉ cần
đến sự can thiệp của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi không thể hoà giải
được. Khi Toà án tiến hành giải quyết tranh chấp, trước tiên toà án có trách nhiệm
tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau.
Điều này có nghĩa, tại toà án, các đương sự vẫn có quyền tiến hành hoà giải dưới sự
hướng dẫn và công nhận của Toà án.
Thứ sáu: Nguyên tắc xét xử vụ án dân sự phải có Hội thẩm nhân dân tham
gia theo điều 11 BLTTDS 2015. Theo điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì Hội
41
thẩm nhân dân là người có uy tín, được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để
làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhằm đảm bảo
quyền và lợi ích chính đáng của người dân tham gia xét xử. Thẩm phán là người
được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và
giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Khi xét xử vụ án, Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân ngang quyền với nhau, độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật mà không chịu bất kỳ sự chi phối nào khác. Đương nhiên, họ phải chịu trách
nhiệm đối với ý kiến của mình về từng vấn đề của vụ án.
Thứ bảy: Nguyên tắc Toà án xét xử kịp thời, công bằng, công khai. Việc
Toà án tiến hành xét xử công khai góp phần đảm bảo rằng hoạt động xét xử của Toà
án nhân dân là thể hiện sự dân chủ và phản ánh giá trị của cộng đồng để tạo niềm
tin cho người dân rằng trình tự cũng như kết quả của việc tố tụng là công bằng.
(Điều 15, BLTTDS 2015)
Thứ tám: Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Có thể thấy, nội dung
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà
nước ta về cải cách tư pháp trong hoạt động xét xử của Tòa án nhằm bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. (Điều 24, BLTTDS 2015)
2.1.3. Quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
Thẩm quyền của Toà án khi giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
theo quy định của BLTTDS năm 2015 và Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25
tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một
số quy định của BLTTDS năm 2015 được quy định như sau:
- Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là Tòa án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng mà không có đương sự
hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, tức là tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng tín dụng ngân hàng không có yếu tố nước ngoài.
- Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung
là Toà án nhân dân cấp tỉnh) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng mà có đương sự hoặc tài sản ở
nước ngoài hoặc cần uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội
42
chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài, tức là tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng có yếu tố nước ngoài. Trong đó:
+ Toà Kinh tế Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng ngân hàng nếu tranh chấp này là tranh chấp kinh doanh, thương mại.
+ Toà Dân sự Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng ngân hàng nếu tranh chấp này là tranh chấp về hợp đồng dân sự.
+ Trong trường hợp không xác định được đó là loại tranh chấp nào, có nghĩa là
không xác định được tranh chấp đó thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Toà chuyên trách
nào thì Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết
định phân công cho một Toà chuyên trách giải quyết theo thủ tục chung.
Bên cạnh việc quy định thẩm quyền theo vụ việc, BLTTDS năm 2015 còn
quy định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo sự lựa chọn của nguyên đơn để phân chia
việc giải quyết án giữa Tòa án các cấp, giữa các Tòa chuyên trách với nhau được
tương xứng. Để xác định đúng thẩm quyền giải quyết của Tòa án khi giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng, Tòa án phải xác định cho được yêu cầu của
đương sự thuộc nhóm quan hệ tranh chấp kinh doanh thương mại hay tranh chấp về
hợp đồng dân sự, từ đó có sự phân định thẩm quyền giữa Tòa án với nhau.
Tuy nhiên, để xác định vụ án có thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án hay
không, trước hết toà án phải xem xét thoả thuận giải quyết tranh chấp của các bên
chọn ban đầu hoặc sau khi xảy ra tranh chấp là Toà án nhân dân hay
Trọng tài thương mại. Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng
tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp
thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Như vậy, nếu các bên đã có thoả thuận trọng tài hợp lệ thì việc giải quyết tranh chấp
không thuộc thẩm quyền của toà án.
2.1.4. Quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp
Thực tiễn tố tụng dân sự cho thấy từ trước đến nay đa số các vụ tranh chấp
liên quan đến hợp đồng tín dụng được các bên đưa ra giải quyết tại Tòa án. Điều
này xuất phát từ tâm lý chung khi lựa chọn cơ quan tài phán để giải quyết tranh
chấp xảy ra. Các đương sự cho rằng khi giải quyết bằng thương lượng, hoà giải
không thành thì tốt nhất đem tranh chấp ra giải quyết ở toà án bởi vì quyết định của
toà án có tính cưỡng chế thi hành cao nhất, điều này đảm bảo được quyền và lợi ích
của bên thắng kiện.
43
Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường toà án
theo trình tự, thủ tục như sau:
- Giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án: để thực hiện quyền khởi kiện của
mình, bên khởi kiện (nguyên đơn) phải chuẩn bị hồ sơ khởi kiện và nộp tại Tòa án
nhân dân có thẩm quyền. Hồ sơ khởi kiện bao gồm đơn khởi kiện và các tài liệu
chứng cứ gửi kèm theo đơn khởi kiện. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự
2015 thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự. Chính vì vậy, ngay từ khi nộp
đơn kiện, nguyên đơn cần phải xuất trình đầy đủ các giấy tờ, chứng cứ liên quan để
chứng minh cho yêu cầu của mình. Tòa án chỉ tự mình thu thập chứng cứ trong một
số trường hợp nhất định. Khi nộp đơn kiện, thông thường nguyên đơn nộp các giấy
sau: hợp đồng, các phụ lục hợp đồng (nếu có), biên bản xác định nợ và lãi, biên bản
cuộc họp của các bên để tiến hành thương lượng, hòa giải; tài liệu nhằm xác định
địa vị pháp lý của nguyên đơn như quyết định (hoặc giấy phép) thành lập pháp
nhân, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, điều lệ hoạt động của pháp nhân, các
giấy tờ nhằm xác định tư cách pháp lý của người đại diện cho nguyên đơn như
quyết định bổ nhiệm (hoặc biên bản bầu) người đại diện theo pháp luật, giấy ủy
quyền, biên bản phân công công tác giữa các chức danh quản lý pháp nhân… Các
giấy nêu trên để có giá trị là chứng cứ thì phải là bản gốc hoặc nếu là bản sao thì
phải được công chứng, chứng thực theo đúng quy định của pháp luật.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Toà án về
việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Sau khi
nộp tạm ứng án phí, người nộp đơn xuất trình cho Tòa án biên lai nộp tạm ứng án
phí, Tòa án sẽ thụ lý vụ án và ghi vào sổ thụ lý, như vậy vụ án đã được đưa vào quy
trình giải quyết của Tòa án. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc
không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn
khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Toà án
phân công một Thẩm phán giải quyết vụ án. Có nghĩa là trong thời gian ba ngày
người nộp đơn xuất trình cho Tòa án biên lai nộp tạm ứng án phí thì Chánh án Toà
án mới phân công Thẩm phán giải quyết vụ án. Tuy nhiên, thực tế thì khi nhận đơn
khởi kiện Chánh án Toà án phân công ngay cho Thẩm phán thụ lý. Thẩm phán có
trách nhiệm thông báo về việc thụ lý vụ án bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện
44
kiểm sát cùng cấp. Văn bản thông báo phải đảm bảo các nội dung được quy định tại
khoản 2 Điều 196 BLTTDS 2015.
- Giai đoạn hoà giải và chuẩn bị xét xử. Trong giai đoạn này, hồ sơ sẽ được phân
cho Thẩm phán thụ lý nghiên cứu để tiến hành xét xử vụ án và Thẩm phán thụ lý có thể
yêu cầu các bên thực hiện các công việc sau: yêu cầu các bên xuất trình thêm các giấy tờ,
tài liệu cần thiết liên quan đến vụ việc; triệu tập lên Tòa án để lấy lời khai hoặc để đối
chất; triệu tập các đương sự đến tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án. Trước khi tiến hành phiên hoà giải, Toà án phải thông báo cho
các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến
hành phiên hoà giải, nội dung các vấn đề cần hoà giải.
Trình tự tiến hành hoà giải: khi tiến hành hoà giải, Thẩm phán phổ biến cho
các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án
để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của
việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Việc hoà giải được thư ký Toà án ghi vào biên bản và biên bản hoà giải phải có các
nội dung chính quy định tại khoản 3 điều 211 BLTTDS 2015. Biên bản phải có đầy
đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia phiên họp, chữ ký của Thư ký
Tòa án ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên họp. Những người tham gia
phiên họp có quyền được xem biên bản ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu
ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản và ký xác nhận hoặc điểm chỉ. Khi các
đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì
Toà án lập biên bản hoà giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự
tham gia hòa giải. Trường hợp hòa giải không thành thì Tòa án lập biên bản hòa giải
không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có
đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hoà
giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Toà án phân công ra quyết định công
nhận sự thoả thuận của các đương sự.
Nếu như các bên hoà giải không thành thì toà án đem vụ án ra xét xử công
khai hoặc xét xử kín để đảm bảo bí mật cho các bên khi các bên yêu cầu và được
toà án chấp thuận.
Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
được quy định như sau: Đối với tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hợp
45
đồng dân sự thì thời hạn là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với tranh chấp
hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hoạt động kinh doanh, thương mại thì thời hạn là
hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Ngoài ra, đối với các loại tranh chấp hợp đồng
tín dụng mà có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án
có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối
với vụ án thuộc trường hợp tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hợp đồng
dân sự và một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp tranh chấp hợp đồng tín dụng
là tranh chấp về hoạt động kinh doanh, thương mại.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử gồm có các nội dung được quy định tại khoản
1 điều 220, BLTTDS 2015. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho các
đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau khi ra quyết định.
- Giai đoạn xét xử sơ thẩm (phiên toà sơ thẩm).
Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án
phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.
Phiên toà sơ thẩm phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi
trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên toà trong
trường hợp phải hoãn phiên toà. Phiên toà sơ thẩm diễn ra theo trình tự thủ tục:
chuẩn bị khai mạc phiên toà, thủ tục hỏi tại phiên toà, tranh luận tại phiên toà, nghị
án và tuyên án. Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày tuyên án, Toà án phải giao
hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát
cùng cấp.
- Giai đoạn xét xử phúc thẩm (phiên toà phúc thẩm): Xét xử phúc thẩm là
việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Toà án cấp
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm
ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn
kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
- Giai đoạn xem xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực: gồm có
thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
Ngoài thủ tục sơ thẩm và thủ tục phúc thẩm, giải quyết tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng tín dụng tại Toà án còn có hai thủ tục nữa đó là : thủ tục giám đốc thẩm
và thủ tục tái thẩm.
+ Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
46
luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc
giải quyết vụ án. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là ba năm, kể từ
ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
+ Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng
nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của
bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được khi Toà án ra bản án, quyết
định đó. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 352 của BLTTDS 2015.
2.1.5. Thi hành quyết định, bản án của Tòa án trong việc giải quyết tranh
chấp hợp đồng tín dụng
Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do cơ
quan thi hành án tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm bảo thi
hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan
có thẩm quyền.
Trước đây, các quyết định của Trọng tài kinh tế ở nước ta chưa có một cơ
quan nào cưỡng chế thi hành, không đảm bảo hiệu lực thi hành các quyết định của
trọng tài. Hiện nay, cơ quan thi hành án đã được tổ chức đầy đủ từ trung ương đến
cấp huyện có đủ điều kiện cơ sở để cưỡng chế thi hành các quyết định, bản án của
Tòa án. Theo pháp luật Việt Nam thì "dân sự" trong thi hành án cần được hiểu một
cách cụ thể. Đó là những bản án, quyết định của Tòa án về dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh - thương mại, lao động được thi hành bao gồm:
- Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật: Bản án, quyết định hoặc phần
bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm; Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm của Toà án; Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài,
quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam; Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh mà sau 30 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự
nguyện thi hành, không khởi kiện tại Toà án; Quyết định của Trọng tài thương mại.
- Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành
ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả
lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao
47
động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận
người lao động trở lại làm việc; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Thi hành án dân sự góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương an toàn xã hội, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thi hành án là thước đo hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại
của Tòa án. Đây chính là ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án
so với các phương thức thương lượng, hòa giải hay trọng tài thương mại. Đảm bảo cho
việc thực thi có hiệu quả các phán quyết của Tòa án nhân danh nhà nước để đưa ra các
bản án, quyết định là một yêu cầu nhiệm vụ đóng vai trò hết sức quan trọng trong công
tác giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức Tòa án.
Thi hành án dân sự góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, nâng
cao trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đoàn thể xã hội và
mọi thành viên trong cộng đồng.
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại
Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội
2.2.1. Tổng quan về Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội
Phúc Thọ là huyện thuộc vùng đồng bằng sông Hồng cách thủ đô Hà Nội
khoảng 40 km về phía Tây, nằm trên trục quốc lộ 32 đi Sơn Tây. Phía Bắc giáp
sông Hồng, là ranh giới của huyện với tỉnh Vĩnh Phúc; Phía Đông giáp huyện Đan
Phượng; Phía Nam giáp huyện Thạch Thất, huyện Hoài Đức; Phía Tây giáp thị xã
Sơn Tây.
Huyện Phúc Thọ có vị trí tiếp giáp với Thị xã Sơn Tây, đây là trung tâm văn
hoá, kinh tế, đô thị,... lớn phía Tây của Thành phố Hà Nội; cách khu du lịch Đồng
Mô và Làng Văn hoá các dân tộc 20 km. Đặc biệt có tuyến đường Quốc lộ 32 chạy
qua trên địa bàn với chiều dài 16 km đã được đầu tư nâng cấp, tỉnh lộ 421 đi huyện
Quốc Oai và tỉnh lộ 419 đi khu Công nghệ cao Hoà Lạc,.... Với vị trí địa lý như vậy
sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc phát triển kinh tế xã hội và giao lưu văn hoá với
các huyện khác của Thành phố Hà Nội nói riêng và các tỉnh khác trong vùng đồng
bằng Bắc bộ nói chung.
Sản xuất Nông nghiệp: Tổng diện tích gieo trồng vụ Đông – Xuân 8.260 ha,
đạt 100,1% KH, bằng 94,6% cùng kỳ; tổng sản lượng lương thực ước đạt 32.933
tấn. Tăng cường các hoạt động xúc tiến mời gọi đầu tư, khởi công nhà máy “Xử lý
và chế biến trứng gia cầm công nghệ cao Ba Huân miền Bắc”, với tổng số vốn đầu
48
tư trên 100 tỷ đồng; phối hợp với Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức
Hội thảo “Tăng cường liên kết giữa cơ sở, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông
sản, thực phẩm rõ nguồn gốc và an toàn trên địa bàn thành phố Hà Nội”; phát
động thi đua “ Sản xuất, kinh doanh, chế biến và tiêu thụ sản phẩm an toàn trên địa
bàn huyện giai đoạn 2016 – 2020”. Những sự kiện đó đã khẳng định nỗ lực và
quyết tâm của lãnh đạo và cán bộ huyện Phúc Thọ trong việc tập trung phát triển,
cung cấp ra thị trường những sản phẩm an toàn mang thương hiệu Phúc Thọ.
Công nghiệp – Tiểu thủ Công nghiệp: Sản xuất công nghiệp, TTCN duy trì
mức tăng trưởng khá; tổng giá trị sản xuất ước đạt 1.188 tỷ đồng (giá thực tế), tăng
12,1% cùng kỳ; trong đó, khu vực doanh nghiệp 377 tỷ đồng, tăng 16%, cá thể 811
tỷ đồng, tăng 11,2% , tập trung ở một số ngành truyền thống có thế mạnh, như: may
gia công, sản xuất sản phẩm kim loại, chế biến gỗ; chú trọng phát triển công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, đã xét duyệt 03 dự án, trong đó 02 dự án ở xã Phúc Hòa, 01
dự án ở Thị trấn Phúc Thọ.
Thương mại, dịch vụ: Tổng mức lưu chuyển hàng hóa ước đạt 1.509 tỷ đồng
tăng 11,6% cùng kỳ. Doanh thu vận tải ước đạt 85,7 tỷ đồng, tăng 14,3% cùng kỳ.
Chương trình xây dựng Nông thôn mới: Công tác xây dựng nông thôn mới
được tập trung chỉ đạo quyết liệt; các dự án trọng tâm, trọng điểm xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế, xã hội tiến độ hoàn thành các dự án thành phần theo kế hoạch đã đề
ra. Tiếp tục củng cố, giữ vững và nâng cao chất lượng các tiêu chí ở 17 xã đã hoạt
đạt Nông thôn mới các năm 2013, 2014, 2015. Tập trung đôn đốc, kiểm tra, nghe
báo cáo về tình hình 03 xã phấn đấu đạt chuẩn Nông thôn mới năm 2016. Đến nay,
Liên Hiệp đạt 12 tiêu chí; xã Long Xuyên đạt 13 tiêu chí, xã Tam Thuấn 15 tiêu chí.
Tổng kết 5 năm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn
mới và Chương trình 02 của Thành ủy.
Cùng với hệ thống tổ chức ngành Tòa án nhân dân theo quy định của Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014, Tòa án được tổ chức theo mô hình 4 cấp thì Tòa
án nhân dân huyện Phúc Thọ trực thuộc Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, là tòa
án cấp thấp nhất, có nhiệm vụ xét xử trên địa bàn địa giới hành chính là huyện Phúc
Thọ, thành phố Hà Nội.
Theo đó, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, đóng trên địa bàn huyện Xét xử,
giải quyết những vụ án hình sự; những vụ việc dân sự (bao gồm những yêu cầu và
tranh chấp về dân sự; hôn nhân và gia đình; kinh doanh, thương mại; lao động);
49
những vụ án hành chính; giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản hợp tác xã, quyết định
áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
Giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật (quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết tranh chấp; ra quyết định thi
hành án hình sự; hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; ra quyết định miễn
chấp hành hình phạt hoặc giảm mức hình phạt đã tuyên; ra quyết định xoá án
tích...). Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ
đã ngày càng trưởng thành, về tổ chức bộ máy cũng như hoạt động xét xử. Tính đến
tháng 12/2018, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội có 11 biên chế,
trong đó bao có 1 Chánh án, 2 Phó chánh án, gồm 5 thẩm phán, 5 thư ký và 01 kế
toán. Hàng năm Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thụ lý giải quyết hàng trăm vụ án
hình sự và vụ việc dân sự đã xảy ra trên địa bàn. Kết quả giải quyết hàng năm đều
đạt 100% đối với án hình sự, trên 90% đối với vụ việc dân sự, kinh doanh thương
mại, lao động và hành chính (tính theo số liệu tổng kết thi đua hàng năm). Tỷ lệ án
phải cải sửa, hủy đã giảm đáng kể ở mức 0,1% tổng số bản án đã xét xử. Điều này
cho thấy những nỗ lực đáng ghi nhận của Tập thể cán bộ Tòa án huyện Phúc Thọ đã
đạt được trong những năm vừa qua.
2.2.2. Tình hình tranh chấp và kết quả giải quyết tranh chấp về hợp đồng
tín dụng ngân hàng tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng đang ngày càng phát triển và có
thể nói là phát triển rất nhanh. Hiện tại, có rất nhiều tổ chức tín dụng ra đời, theo đó
các tổ chức tín dụng cũng cạnh tranh với nhau rất mạnh mẽ từ mô hình tổ chức, cơ
cấu nghiệp vụ, phát triển mạng lưới, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, phát triển các sản phẩm dịch vụ mới ...
Điều này chứng tỏ rằng hoạt động ngân hàng thực chất là hoạt động kinh
doanh mang lại lợi nhuận rất cao. Theo thống kê, hiện nay số lượng tranh chấp giữa
tổ chức tín dụng và khách hàng vay vốn còn khá cao so với các loại tranh chấp hợp
đồng khác được giải quyết tại Tòa án trên địa bàn cả nước nói chung và trên địa bàn
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội nói riêng. Tại TAND huyện Phúc Thọ thành
phố Hà Nội số tranh chấp HĐTD chiếm tỷ lệ lớn thứ hai sau hợp đồng mua bán
50
trong tổng số tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại. Nguyên nhân của tình
trạng này xuất phát từ một trong những đặc trưng cơ bản của HĐTD là sự chứa
đựng nguy cơ rủi ro rất lớn đối với quyền lợi của bên cho vay vì theo cam kết trong
HĐTD bên cho vay chỉ có thể đòi tiền của bên vay sau một thời hạn nhất định, nếu
thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn, vì thế mà các tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng cũng thường xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn hơn so với
các hợp đồng khác được giải quyết tại Tòa án. Việc tranh chấp HĐTD xuất phát từ
sự mâu thuẫn về quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Theo số liệu thống kê của ngành Tòa án huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội,
tranh chấp kinh doanh, thương mại (trong đó có tranh chấp HĐTD) có chiều hướng
gia tăng, kết quả đạt được như sau:
Bảng 2.1. Số liệu tranh chấp kinh doanh thương mại TAND huyện Phúc Thọ
thành phố Hà Nội thụ lý và giải quyết giai đoạn 2014-2018
Năm Thụ lý Đình chỉ Đưa ra xét xử Xét xử phúc thẩm Công nhận thỏa thuận đương sự
54 2014 158 2015 309 2016 252 2017 182 2018 Tổng 880 51 150 260 237 137 871 4 5 8 12 16 45 7 11 14 16 19 67 3 7 3 4 2 19
Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội
Như vậy, qua bảng số liệu trên cho thấy, tình hình thụ lý các tranh chấp về
tín dụng của các Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội trong những
năm vừa qua ở số lượng ít, tổng giai đoạn thụ lý 880 vụ việc trung bình mỗi năm
thụ lý 200 vụ việc. Trong đó có 67 vụ việc đạt được sự thỏa thuận của các đương
sự, đình chỉ 45 vụ việc, có 19 vụ việc được đưa ra xét xử ở cấp phúc thẩm.
Tuy nhiên, việc thống kê này cũng chưa đầy đủ, trong thực tế do các tổ chức
tín dụng và khách hàng không đưa vụ việc tranh chấp ra Tòa án mà tự thương lượng
giải quyết nhằm giảm chi phí và thời gian kiện tụng, vừa giữ quan hệ tốt với nhau.
Các tranh chấp nêu trên dù đơn giản hay phức tạp, dù giá trị tài sản nhỏ hay lớn đều
để lại những hậu quả nhất định cho các đương sự và gây ảnh hưởng đến đời sống
kinh tế - xã hội. Dưới đây, là các dạng tranh chấp chủ yếu có liên quan đến hợp
động tín dụng đã được xét xử trong 5 năm vừa qua trên địa bàn huyện Phúc Thọ
51
thành phố Hà Nội.
Hiện nay, trong các biểu mục thống kê ngành Tòa án nhân dân không có
thống kê riêng về các vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng đã thụ lý cũng như đã giải
quyết. Do đó, số liệu riêng về các tranh chấp hợp đồng tín dụng trên địa bàn huyện
Phúc Thọ thành phố Hà Nội không có thống kê chính thức. Theo số liệu riêng do tác
giả luận văn thống kê thì kết quả giải quyết tranh chấp về hợp đồng tín dụng trên địa
bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.2. Số liệu vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng thụ lý trong giai đoạn
2014 – 2018
Năm
Án kinh doanh thương mại đã thụ lý Án tranh chấp hợp đồng tín dụng đã thụ lý
Tỉ lệ án tranh chấp hợp đồng tín dụng/án kinh doanh thương mại (%)
2014 2015 2016 2017 2018 Tổng 54 158 309 252 182 880 11 29 44 38 33 155 20 18 14 15 18 17
Như vậy, qua bảng số liệu trên cho thấy, tình hình giải quyết án tranh chấp
về hợp đồng tín dụng trên địa bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội đã tăng qua
các năm, điều này xuất phát từ thực tiễn là tổng số vụ án kinh doanh thương mại
hàng năm đều tăng cao. Tỉ lệ án tranh chấp hợp đồng tín dụng so với tranh chấp
kinh doanh thương mại nói chung đạt từ 15-20%, trung bình toàn giai đoạn là 17%.
Trên địa bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội đã diễn ra không ít các vụ
tranh chấp hợp đồng tín dụng ở những khía cạnh khác nhau. Nhiều trong số đó đã
được Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội thụ lý và giải quyết. Các
vụ tranh chấp ở huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội đã được nhiều nhà nghiên cứu,
nhiều phóng viên phân tích án cho những mục đích khác nhau. Trong công trình
nghiên cứu này, các vụ án được xem xét ở khía cạnh các vấn đề nảy sinh.
Ví dụ thứ nhất: Vụ thứ Ngân hàng Agribank kiện bà Trần Thị Minh Thành
* Nội dung và diễn biến vụ kiện
- Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam;
Địa chỉ: 18 Trần Hữu Dực, Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội.
52
- Bị đơn: Bà Trần Thị Minh Thành – Chủ doanh nghiệp xăng dầu Thành
Minh; Địa chỉ: Khu phố 4, thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Thiềm Thị Phương Mai; Địa
chỉ: Phòng 209, tầng 2, dãy C, khu tập thể Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội.
Nội dung vụ án: Ngày 17/01/2012, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội và bà Trần Thị
Minh Thành ký kết Hợp đồng tín dụng số 3904-LAV-201200089/HĐTD với nội
dung: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện
Phúc Thọ thành phố Hà Nội cho bà Trần Thị Minh Thành vay số tiền 220.000.000
đồng với mục đích xây và sửa kè bao cây xăng Phúc Thọ. Thời hạn cho vay 12
tháng kể từ ngày bên vay nhận nợ lần đầu. Lãi suất cho vay 20% /năm, lãi suất quá
hạn bằng 150% lãi suất cùng loại.
Để đảm bảo cho khoản vay nói trên, ngày 17/01/2012, chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội (Ngân hàng),
bà Thiềm Thị Phương Mai và Trần Thị Minh Thành đã ký hợp đồng thế chấp bằng tài
sản của bên thứ ba số 17.01.2012/TC, theo đó bà Mai tự nguyện thế chấp quyền sử
dụng đất diện tích 350m2, thửa số 251/3, tờ bản đồ số 21 tại thôn Vũ Tuấn, xã Tam
Hiệp huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội để bảo lãnh cho nghĩa vụ trả nợ của bà Trần
Thị Minh Thành. Ngày 08/7/2013 và ngày 06/8/2013, bà Thành đã trả nợ số tiền
20.000.000 đồng. Đến hạn trả nợ gốc và lãi, Ngân hàng đã nhiều lần thông báo đòi nợ
nhưng bà Thành không chịu trả nợ. Do đó, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà Thành
thanh toán số tiền gốc 200.000.000 đồng và số tiền lãi tính đến ngày 25/9/2013 là
80.066.250 đồng theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Kết quả giải quyết của tòa Sơ thẩm
Tòa án sơ thẩm chấp nhận mức lãi suất theo thỏa thuận của các đương sự
trong các hợp đồng tín dụng. Bản án số 03/2013/KDTM-ST ngày 25/9/2013 của
Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội quyết định: Chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của Ngân hàng, áp dụng Điều 471, 361, 369 Bộ luật dân sự và điểm a
khoản 3 Điều 130 Luật đất đai buộc bà Trần Thị Minh Thành trả nợ cho Ngân hàng
số tiền 280.066.250 đồng, trong đó tiền gốc 200.000.000 đồng, số tiền lãi
80.066.250 đồng.
Trường hợp bà Thành không trả nợ thì bà Thiềm Thị Phương Mai có nghĩa
53
vụ trả nợ thay số tiền 280.066.250 đồng. Nếu bà Mai không trả nợ thay thì Ngân
hàng có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá tài sản thế
chấp để thu hồi nợ. Bà Thành có nghĩa vụ trả nợ phải tiếp tục trả lãi theo lãi suất đã
thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng cho đến khi trả hết nợ.
- Kết quả giải quyết Phúc thẩm
Không đồng tình với án sơ thẩm, ngày 28/10/2013 Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Hà Nội kháng nghị bản án sơ thẩm, trong đó có nội dung kháng nghị về
lãi suất quá hạn, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng mức lãi suất theo quy định
của Bộ luật dân sự.
Ngày 04/10/2013, bà Trần Thị Minh Thành kháng cáo đề nghị Tòa án phúc
thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm về phần lãi. Về tài sản thế chấp, bà Thành không
nhất trí việc Tòa án sơ thẩm buộc bà Mai phải trả nợ thay cho doanh nghiệp và đưa
tài sản ra đấu giá vì tài sản thế chấp bảo lãnh là tài sản chung của vợ chồng bà Mai
và ông Quách Hoàng Linh. Doanh nghiệp Minh Thành sẽ chịu trách nhiệm trả nợ số
tiền gốc 200.000.000 đồng. Ngày 04/10/2013, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Thiềm Thị Phương Mai cũng kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung: bản
án sơ thẩm tuyên đưa số tài sản là quyền sử dụng đất mà bà Mai đã thế chấp cho
nguyên đơn để bán đấu giá nếu bà Thành không thanh toán nợ là không đúng pháp
luật vì tài sản thế chấp là tài sản chung của bà Mai và chồng là ông Quách Hoàng
Linh hình thành sau thời kỳ hôn nhân.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:
Sau khi viện dẫn và phân tích Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng
quy định; Quyết định 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam tòa phúc thẩm đã ra Bản phúc thẩm số 16/2013/KDTM-PT
ngày 05/12/2013 theo đó áp dụng khoản 2 Điều 91, khoản 1, khoản 2 Điều 95 Luật
các tổ chức tín dụng; khoản 1, khoản 5 Điều 474, khoản 1 Điều 476 Bộ luật dân sự
buộc bà Trần Thị Minh Thành phải thanh toán cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội, số tiền
237.042.500 đồng, trong đó tiền gốc 200.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn là
10.065.000 đồng, tiền lãi quá hạn là 26.977.500 đồng. Bản án phúc thẩm đã tuyên
lãi suất do chậm thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy
54
định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thi hành án.
- Về tài sản thế chấp: Việc bị đơn bà Trần Thị Minh Thành và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Thiềm Thị Phương Mai cho rằng tài sản thế chấp
để đảm bảo cho khoản vay của bị đơn là tài sản chung của vợ chồng bà Mai và ông
Quách Hoàng Linh là không có cơ sở. Tài sản thế chấp trên hình thành trước khi bà
Mai kết hôn với ông Linh theo giấy đăng ký kết hôn ngày 25/7/2005. Tại phiên tòa,
bà Mai không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh tài sản thế chấp là tài
sản chung của vợ chồng. Việc nại ra như trên là nhằm mục đích trốn tránh việc phát
mại tài sản thế chấp để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.
Ngoài ra, theo hợp đồng thế chấp số 17.01.2012/TC ngày 17/01/2012 thì bà
Thiềm Thị Phương Mai tự nguyện đem tài sản thế chấp cho nghĩa vụ trả nợ của bà
Trần Thị Minh Thành, trong đó mức dư nợ là 220.000.000 đồng. Căn cứ Điều 363,
369 Bộ luật dân sự thì bà Mai chỉ có nghĩa vụ bảo lãnh với số tiền 220.000.000
đồng. Bà Thành đã trả cho Ngân hàng 20.000.000 đồng. Do đó, khi bản án có hiệu
lực pháp luật, Ngân hàng có quyền yêu cầu thi hành án, nếu bà Thành chưa thanh
toán khoản nợ trên cho Ngân hàng thì bà Mai phải có nghĩa vụ trả nợ thay cho bà
Thành số tiền 200.000.000 đồng. Trường hợp bà Mai không thực hiện nghĩa vụ trả
nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp thuộc quyền sở hữu
của bà Mai để trả nợ cho Ngân hàng số tiền 200.000.000 đồng.
* Các vấn đề pháp lý đặt ra của vụ án
Về lãi suất: Quan điểm Tòa án tối cao cho rằng phải tính lãi suất theo sự thỏa
thuận trong hợp đồng, vậy sự thỏa thuận đó trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì
sao? Điều 4 BLDS 2005 quy định: “Quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác
lập quyền nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết thỏa thuận đó
không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”; Điều 476
BLDS 2005 cũng quy đinh: “1. Lãi suất do các bên thỏa thuận nhưng không được
vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại cho
vay tương ứng 2. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng
không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản
do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”.
Trường hợp thỏa thuận về lãi suất nêu trên là vừa trái quy định của BLDS 2005 và
nếu lãi suất thỏa thuận vượt quy định từ 10 lần trở lên còn có thể cấu thành tội:
55
“Cho vay lãi nặng” quy định tại Điều 163 BLHS 1999, vừa trái đạo đức xã hội ở
chỗ cho vay nặng lãi tàn dư của chế độ người bóc lột người. Tòa án Tối cao cho
rằng lãi suất thỏa thuận được Luật CTCTD cho phép. Tuy nhiên, sự cho phép này
được Luật CTCTD giới hạn như sau:“Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền
thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng theo quy định của pháp luật”( khoản 2 Điều 91).
Như vậy, khi Luật CTCTD không quy định về mức lãi suất cụ thể thì phải
quay lại áp dụng BLDS (là Luật chung) là hoàn toàn phù hợp. Mặt khác, Thông tư
12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 mà Ngân hàng nhà nước sử dụng để thỏa thuận
lãi không thể có hiệu lực cao hơn BLDS và nội dung quy định mang tính lợi ích
nhóm chứ không phải là lợi ích chung của toàn xã hội.
Về nghĩa vụ chậm trả: Cả ba cấp xét xử vụ án đều có quan điểm khác nhau
về nghĩa vụ chậm trả. Tác giả đồng ý với quan điểm của tòa án tối cao là phải buộc
bên vay phải tiếp tục trả lãi đối với phần nợ gốc kể từ khi xét xử sơ thẩm cho đến
khi trả xong nợ gốc; tuy nhiên, không phải là theo lãi suất thỏa thuận trong hợp
đồng vì sự thỏa thuận đó đã trái pháp luật mà phải theo lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước công bố. Căn cứ quyết định như vậy là Khoản 5 Điều 474 BLDS
2005: “Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả
không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả
nợ”; khoản 2 Điều 476: “
Về tài sản thế chấp: Điều 363 BLDS 2005 quy định về Phạm vi bảo lãnh như
sau: “Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên
được bảo lãnh.Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi
thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Đối chiếu quy định của điều
luật, vấn đề cần xác định ở đây là hợp đồng Thế chấp số 17.01.2012/TC nói trên
thỏa thuận như thế nào về phạm vi bảo lãnh. Nếu chỉ thỏa thuận để bảo lãnh khoản
vay 220.000.000 đồng thì chỉ chịu nghĩa vụ bảo lãnh trong phạm vi như vậy. Do đó
quyết định của tòa phúc thẩm là có cơ sở. Nếu khi các bên không có thỏa thuận
khác thì mới tính đến nghĩa vụ trả lãi trên nợ gốc, tiền phạt và bồi thường thiệt hại.
56
Ví dụ thứ hai: Vụ Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh vượng kiện bà Trần
Thị Minh Thành
* Nội dung và diễn biến vụ kiện
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng; Địa chỉ: 08 Lê
Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
- Bị đơn: Bà Trần Thị Minh Thành – Chủ doanh nghiệp xăng dầu Thành
Minh; Địa chỉ: xã Vân Nam, huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ, liên quan:
+ Ông Trần Hữu Anh, bà Nguyễn Thị Tài, anh Trần Anh Tuấn; Cùng địa chỉ:
07 thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội.
+ Anh Trần Hữu Vinh; Địa chỉ: xã Tam Hiệp huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội.
Nội dung vụ án:
Vào các ngày 14/3/2011 và 15/4/2011, bà Trần Thị Minh Thành ký kết các
hợp đồng tín dụng số LD1107300098 và LD1110500086 với Ngân hàng TMCP
Việt Nam Thịnh Vượng (sau đây gọi tắt là VPBank), Chi nhánh Phúc Thọ để vay
tổng số tiền là 1.130.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, mục đích vay để bổ sung
vốn kinh doanh xăng dầu các loại.
Ông Trần Hữu Anh và bà Nguyễn Thị Tài đã dùng quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất tại thửa đất số 216A, tờ bản đồ số 18 thuộc khu phố 7, thị trấn
Phúc Thọ huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội để thế chấp bảo đảm cho khoản vay
nói trên.
Do chậm thanh toán khoản nợ vay đến hạn, VPBank đã khởi kiện yêu cầu bà
Thành trả nợ số tiền gốc và lãi theo các mức lãi suất thỏa thuận trong các hợp đồng
tín dụng với tổng số tiền là 1.807.313.137 đồng, trong đó nợ gốc 1.094.999.604
đồng, tiền lãi 712.313.533 đồng.
Kết quả xét xử sơ thẩm: Tòa án sơ thẩm chấp nhận mức lãi suất theo thỏa
thuận trong các hợp đồng tín dụng. Bản án sơ thẩm số 01/2014/KDTM-ST ngày
27/3/2014 của TAND huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội quyết định chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của VPBank, áp dụng Điều 474, Điều 476 BLDS 2005,
khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng buộc bà Trần Thị Minh Thành trả nợ cho
VPBank số tiền gốc 1.094.999.604 đồng và tiền lãi 432.095.783 đồng.
Phúc thẩm: Không đồng tình với phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm, ngày
57
08/4/2014 Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng kháng cáo bản án sơ thẩm,
trong đó có nội dung về phần lãi chậm trả: lãi suất được tính tiếp theo thỏa thuận
trong hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ cho đến ngày bà Trần Thị Minh Thành
thực tế thanh toán hết nợ cho VPBank.
Ngày 08/4/2014, bị đơn bà Trần Thị Minh Thành cũng kháng cáo một phần
bản án sơ thẩm, trong đó có nội dung: không đồng ý một số quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm về phần tiền lãi và lãi suất chậm trả. Đối với phần tiền lãi, bà đề nghị
Tòa án phúc thẩm xem xét tính lại tiền lãi với mức lãi suất mà Ngân hàng đã thu
của Doanh nghiệp vượt quá quy định của pháp luật từ 4%/năm đến 7%/năm và trừ
vào phần nợ gốc. Đối với số tiền lãi chậm trả, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tính lại
phần lãi chậm trả với mức lãi suất 9%/năm chứ không phải 22,5%/năm như bản án
sơ thẩm đã tuyên.
Xem xét kháng cáo của các đương sự, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:
- Về lãi suất: Lãi suất trong hạn mà Ngân hàng áp dụng tại thời điểm vay từ
23%/năm đến 24%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, lãi chậm trả
là 0,05%. Nhưng tại Điều 476 Bộ luật dân sự quy định: “Lãi suất cho vay do các
bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà nước công bố với loại cho vay tương ứng” và tại Quyết định số 2868/QĐ-
NHNN ngày 29/11/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước công bố mức lãi suất
cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9%/năm; do đó, mức lãi suất các bên thỏa thuận
được phép tối đa là 13,5%/năm. Như vậy, lãi suất các bên thỏa thuận trong các hợp
đồng tín dụng từ 23%/năm đến 24%/năm là hoàn toàn trái pháp luật. Lãi suất quá
hạn bằng 150% lãi suất trong hạn cũng không đúng với quy định tại khoản 5 Điều
474 Bộ luật dân sự. Vì vậy, cần áp dụng mức lãi suất trong hạn tối đa là 13,5%/năm
và lãi suất quá hạn 9%/năm theo quy định của Bộ luật dân sự.
- Về nghĩa vụ chậm trả: Do chấp nhận mức lãi suất theo Bộ luật dân sự nên
Tòa án cấp phúc thẩm cũng áp dụng Bộ luật dân sự trong việc giải quyết nghĩa vụ
chậm trả. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của VPBank, nếu bà Thành chưa
chịu thi hành khoản tiền còn nợ thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi theo lãi suất cơ
bản của Ngân hàng Nhà nước quy định.
- Về tiền phạt do chậm trả lãi: Việc Ngân hàng VPBank áp dụng khoản tiền lãi
chậm trả với mức 0,05% là không đúng với quy định của pháp luật, do đây là khoản lãi
58
chồng lãi. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận khoản tiền này.
Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà Trần
Thị Minh Thành về mức lãi suất, điều chỉnh mức lãi suất trong hạn phải trả tối đa là
13,5%/năm và mức lãi suất nợ quá hạn 9%/năm theo quy định của Bộ luật dân sự,
không chấp nhận khoản tiền phạt do chậm trả lãi.
Bản án KDTM phúc thẩm số 12/2014/KDTM-PT ngày 08/12/2014 của Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định: Áp dụng Điều 471; khoản 5 Điều 474; các
Điều 476, 361, 369 Bộ luật dân sự, xử: Buộc bà Trần Thị Minh Thành có trách nhiệm
trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng số tiền 1.205.131.170
đồng, trong đó nợ gốc 1.094.999.604 đồng, tiền lãi 110.131.566 đồng.
* Các vấn đề thực tiễn- pháp lý đặt ra của vụ án
Bên cạnh vấn đề lãi suất đã được phân tích trong hai vụ án trước đó, trong vụ
án này tác giả nhấn mạnh quyết định phạt do chậm trả lãi. Trong quá trình thực hiện
hợp đồng, Ngân hàng VPBank áp dụng khoản tiền lãi chậm trả với mức 0,05% để
phạt là không đúng với quy định của pháp luật. Trong BLDS 2005 không quy định
phạt do chậm trả lãi. Luật chỉ quy định lãi suất quá hạn, theo quy định tại khoản 5
Điều 474 BLDS 2005 thì bên vay chỉ trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi
suất quá hạn vẫn do đây là khoản lãi chồng lãi. Các hiện tượng: Lãi chồng lãi, lãi
mẹ đẽ lãi con, phạt chậm trã lãi là những biểu hiện của sự bất công, ép người yếu
thế, thiếu bình đẵng giữa các thành phần kinh tế. Pháp luật cần quan tâm điều tiết để
đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động tín dụng.
Ví dụ thứ ba, Vụ án tranh chấp HĐTD giữa Ngân hàng Việt Á và bà
Trương Diệu Liên
- Nội dung vụ án: ngày 15/9/2011, Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Á
chi nhánh tại Phúc Thọ và bà Trương Thị Diệu Liên ký kết HĐTD số
663/11/HĐNH-VAB. Theo đó, Ngân hàng đã cho bà Liên vay số tiền 2,5 tỷ đồng.
Thời hạn vay là 12 tháng, từ ngày 15/9/2011 đến 15/9/2012. Lãi suất vay trong hạn
là 1,8%/tháng, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất vay trong hạn. Trả lãi vay vào
ngày 15 hàng tháng. Mục đích vay để kinh doanh. Ngày 27/4/2012, Ngân hàng và
bà Liên ký kết HĐTD số 613/12/HĐNH-VAB. Theo đó, Ngân hàng tiếp tục cho bà
Liên vay số tiền 2,3 tỷ đồng. Thời hạn vay là 12 tháng, từ ngày 27/4/2012 đến ngày
27/4/2013. Lãi suất vay trong hạn là 21,6%/năm, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi
59
suất vay trong hạn. Trả lãi vay vào ngày 25 hàng tháng. Mục đích vay để kinh
doanh. Đến ngày 05/9/2012, lãi suất vay trong hạn của cả hai hợp đồng được điều
chỉnh thành 20%/năm. Việc cho vay được đảm bảo bằng tài sản thế chấp là nhà và
đất tại xã Hát Môn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số AI 920052, đứng tên bà Trương Thị Diệu Liên. Trong quá trình vay, bà
Liên đã vi phạm thỏa thuận thanh toán tiền lãi. Bà Liên chỉ thanh toán tiền lãi đến
ngày 26/4/2012. Mặc dù, Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở bà Liên nhưng bà Liên
vẫn không thực hiện theo đúng thỏa thuận của hợp đồng. Nay Ngân hàng khởi kiện,
yêu cầu Tòa án buộc bà Liên phải trả cho Ngân hàng số tiền 5.319.975.294đ. Trong
đó gồm: Theo hợp đồng số 663/11/HĐNH-VAB, tiền nợ gốc là 2,5 tỷ đồng, tiền lãi
vay tính từ ngày 27/4/2012 đến ngày 16/10/2012 là 254.833.333đ, lãi phạt là
18.040.694đ. Theo hợp đồng số 613/12/HĐNH-VAB, tiền nợ gốc là 2,3 tỷ đồng,
tiền lãi vay tính từ ngày 28/4/2012 đến ngày 16/10/2012 là 233.066.667đ, lãi phạt là
14.034.600đ.
Với nội dung nêu trên, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội
đã ban hành Bản án sơ thẩm số 17/2013/KDTM-ST ngày 20/5/2013, quyết định:
Buộc bà Trương Thị Diệu Liên phải trả cho Ngân hàng số tiền 6.092.600.500đ,
trong đó gốc là 4,8 tỷ đồng và lãi là 1.292.600.500đ. Tiền lãi suất được tiếp tục tính
từ ngày 21 tháng 5 năm 2013 theo thỏa thuận trên hai Hợp đồng tín dụng số 663/11
ngày 15/9/2011, và Hợp đồng tín dụng số 613/12 ngày 27/4/2012 đã được ký giữa
Ngân hàng và bà Trương Thị Diệu Liên.
Sau đó, bà Trương Thị Diệu Liên kháng cáo và đề nghị cấp phúc thẩm xem
xét về cách tính lãi trong hạn, lãi quá hạn và lãi phạt chậm trả.
Trong vụ án trên, nếu căn cứ vào quy định về lãi suất BLDS 2005 thì việc bà
Liên không đồng ý với lãi suất của ngân hàng đưa ra và yêu cầu tính lãi suất theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước tương ứng với từng thời điểm là có cơ sở.
2.2.3. Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong công tác giải quyết các vụ án
tranh chấp về HĐTD của TAND huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội thì đối với giải
quyết tranh chấp HĐTD vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế khiến quá trình giải quyết
còn chưa thực sự có hiệu quả. Theo báo cáo tổng kết công tác của TAND huyện
Phúc Thọ thành phố Hà Nội thì sự yếu kém, hạn chế bởi các nguyên nhân sau đây :
60
Thứ nhất: Pháp luật hiện hành liên quan đến việc giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng tuy khá đầy đủ nhưng chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện. Pháp luật của
Việt Nam đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung để dần dần hoàn thiện. Vì thế,
nhiều bộ luật, luật được ban hành mà chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết
thi hành, nhiều quy định chồng chéo không thực hiện được trên thực tế hoặc được
áp dụng không thống nhất trong hệ thống cơ quan tư pháp.
Một số văn bản pháp luật đã có hiệu lực thi hành trong một thời gian khá dài
nhưng nhiều quy định trong các văn bản đó chưa được Toà án nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cùng các cơ quan hữu quan trong phạm vi thẩm
quyền ban hành những văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành nên có tình trạng Toà án
nhân dân các cấp áp dụng không thống nhất và kết quả các bản án hoàn toàn trái
ngược nhau giữa các cấp Toà.
Việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng tín dụng hiện nay được quy định
khá nhiều trong các văn bản pháp luật khác nhau nên khó tránh khỏi sự chồng chéo,
không thống nhất giữa các văn bản. Điều đó gây khó khăn cho việc giải quyết của
Tòa án khi có tranh chấp xảy ra, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên trong vụ án
và dẫn đến đưa ra một bản án chưa mang tính thuyết phục.
Thứ hai: Công tác thụ lý và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm còn chậm,
nhiều bản án phúc thẩm giải quyết chưa thoả đáng, việc phát hiện những thiết sót
của Toà án sơ thẩm chưa tiến hành kịp thời để đưa ra những giải pháp khắc phục. Vẫn
còn những bản án phúc thẩm bị khiếu nại còn. Việc tố tụng chậm, sai, phiền hà đã ảnh
hưởng tiêu cực tới các bên trong HĐTD như việc không thu hồi được vốn cho vay ảnh
hưởng tới hoạt động của TCTD, việc tranh chấp kéo dài có thể làm cho bên vay
phải trả thêm những khoản lãi phát sinh ảnh hưởng đến việc trả nợ.
Thứ ba: Đối với công tác giám đốc thẩm, tái thẩm và giải quyết khiếu nại
vẫn chưa đảm bảo được những quy định của pháp luật. Công tác kiểm tra, giám đốc
thẩm của Toà án nhân dân cấp tỉnh với Toà án nhân dân cấp huyện còn hạn chế, nên
chưa kịp thời phát hiện các vi phạm để khắc phục và xử lý.
Thứ tư: Trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, nhiều
Thẩm phán nghiên cứu tài liệu, chứng cứ không đầy đủ, rõ ràng, đánh giá chứng cứ
không đúng với sự thật khách quan, thậm chí còn xác định sai tư cách tố tụng của
đương sự hoặc triệu tập không đầy đủ những người bắt buộc phải tham gia phiên
61
toà dẫn đến nhiều phiên toà vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và kết quả là bản
án được tuyên bị huỷ vì vi phạm nghĩa vụ tố tụng.
Đối với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Toà án thì trách
nhiệm cung cấp chứng cứ thuộc về các bên tranh chấp. Bản án được tuyên có đúng
với sự thật khách quan hay không phụ thuộc nhiều vào chứng cứ mà các bên cung
cấp. Trước Toà án, nếu các đương sự không chứng minh được sự tồn tại quyền và
lợi ích hợp pháp của họ thì không thể thuyết phục được Toà án bảo vệ quyền và lợi
ích cho mình. Vì trên thực tế, các Toà án cũng có thể có sai lầm trong việc xác định
các tình tiết, sự kiện của vụ tranh chấp. Do vậy, chứng minh không chỉ có ý nghĩa
bảo đảm quyền cho đương sự mà còn có ý nghĩa giúp Hội đồng xét xử có những
căn cứ pháp lý để giải quyết vụ án một cách chính xác và đúng luật.
Thứ năm: Đội ngũ cán bộ Toà án hiện nay còn thiếu về số lượng và yếu kém
về năng lực, có một số cán bộ Toà án có đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp chưa
cao nên đã có những hành vi vi phạm làm ảnh hưởng tới kết quả của vụ án.
Thẩm phán thường có vai trò Chủ tọa trong các phiên tòa giải quyết tranh
chấp hợp đồng tín dụng, là người trực tiếp được giao nhiệm vụ xét xử, nhân danh
Nhà nước để bảo vệ pháp luật. Do đó, để có một bản án có chất lượng đòi hỏi Thẩm
phán cần phải có một vốn kiến thức vững chắc, am hiểu pháp luật và phải luôn cập
nhập được kiến thức mới, thường xuyên được bồi dưỡng năng lực nghiệp vụ. Phẩm
chất đạo đức của Thẩm phán có ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết vụ án tranh
chấp hợp đồng tín dụng có được giải quyết. Cần phải rèn luyện và bồi dưỡng phẩm
chất đạo đức của Thẩm phán để có bản án công tâm, khác quan và đúng pháp luật.
Thứ sáu: Việc ứng dụng công nghệ thông tin và nâng cấp cơ sở vật chất vào
hoạt động của Toà án còn nhiều hạn chế. Quá trình giải quyết các tranh chấp còn
mất nhiều thời gian, nhiều loại chi phí, nhiều đầu mối trung gian trong khi đó lĩnh
vực tài chính là lĩnh vực nhạy cảm yêu cầu giải quyết nhanh gọn để các bên có thể
nhanh chóng tiến hành hoạt động trở lại bình thường.
62
Tiểu kết chương 2
Cho đến nay, có thể thấy Pháp luật Việt Nam đã có những quy định tương
đối đầy đủ và hoàn thiện cả về nội dung và hình thức làm cơ sở cho công tác giải
quyết tranh chấp trong hợp đồng tín dụng ngân hàng. Trong đó, phải kể đến các quy
định trong các văn bản pháp luật như BLDS 2015, BLTTDS 2015, Luật các Tổ
chức tín dụng 2010, Luật thương mại 2005, Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao…
Trên cơ sở các quy định của pháp luật, TAND huyện Phúc Thọ luôn cố gắng,
nỗ lực thực hiện tốt vai trò của cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc giải quyết, xét
xử các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng và bước đầu đã đạt được những kết quả
đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã có được, trong thực tiễn
xét xử, TAND huyện Phúc Thọ nói riêng và các Tòa án trên địa bàn thành phố Hà
Nội nói chung cũng đã gặp phải không ít những vướng mắc, bất cập do các nguyên
nhân chủ quan và khách quan. Tìm ra được những nguyên nhân này là những cơ sở
quan trọng trong việc đề xuất những giải pháp khắc phục, nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động của Tòa án, đặc biệt là TAND huyện Phúc Thọ.
63
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng ngân hàng tại Tòa án nhân dân
Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án là hoạt động áp dụng
pháp luật có ý nghĩa quan trọng, thể hiện sự công bằng và đúng pháp luật trong việc
đưa ra phán quyết có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên đương sự có tranh
chấp về quyền và lợi ích, góp phần bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
của tổ chức, cá nhân, ổn định và làm lành mạnh các mối quan hệ xã hội, thúc đẩy
các giao dịch dân sự theo định hướng của Nhà nước. Do đó, việc giải quyết các vụ
án về tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố
Hà Nội cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm cơ bản sau đây:
3.1.1. Quán triệt chính sách của Đảng về giải quyết các vụ án nói chung
và giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng nói riêng
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết
đề cập tới vấn đề cả cách tư pháp và trong đó đặc biệt là Nghị quyết số 49 –
NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020” và nghị quyết số 81/2014/QH13 ngày 24/11/2014 “Về việc thi hành luật
tổ chức tòa án nhân dân”. Vấn đề này tiếp tục được đề cập đến tại Báo cáo Chính trị
của các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng ta.
Là cơ quan thực hiện chức năng xét xử các vụ án (trong đó có các vụ án về
tranh chấp hợp đồng tín dụng), lại là cơ quan xét xử hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm,
nên hoạt động áp dụng pháp luật về thủ tục xét xử tranh chấp hợp đồng tín dụng tại
Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay cũng
phải được thực hiện trên cơ sở quán triệt các quan điểm của Đảng về lĩnh vực này.
Đó là các quan điểm mang tính chỉ đạo của Đảng trong các văn kiện, Nghị quyết
các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc.
Thực hiện đúng đắn và đầy đủ các quy định về thủ tục trong quá trình xét xử
các vụ án kinh doanh thương mại về tranh chấp hợp đồng tín dụng là cơ sở để góp
64
phần đẩy mạnh cải cách tư pháp, nhằm “Xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch,
vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Do đó, cần quán
triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp trong
gia đoạn hiện nay:
Thứ nhất: Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo
đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp.
Thứ hai: Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải
cách hành chính. Đồng thời phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu
đã đạt được của nền tư pháp XHCN Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm
của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế,
đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lại.
Thứ ba: Cải cách tư pháp được tiến hành khẩn tưởng, đồng bộ, có trọng tâm,
trọng điểm với những bước đi vững chắc. Ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị đã ban hành
Nghị quyết số 49/NQ – TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có đề
ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động Tòa án nhân dân theo hướng: Tổ
chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử độc lập, không phụ thuộc vào đơn vị hành
chính, gồm Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính
cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ
thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử
phúc thẩm, TAND Tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc, tái thẩm. Việc thành lập Tòa
chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp của Tòa án, từng khu vực. Đổi
mới tổ chức TAND theo hướng tinh gọn với đội ngũ Thẩm phán là những chuyên gia
đầu ngành về pháp luật có kinh nghiệm trong ngành.
Thứ tư: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách
tư pháp. Các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của
các cơ quan dân cử và nhân dân.
65
3.1.2. Quan điểm cụ thể về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng của ngành
Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân ở huyện Phúc Thọ nói riêng
Trên cơ sở quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng ta đã nêu ở mục
3.2.1 của Luận văn, có thể thấy rằng các quan điểm cơ bản đảm bảo việc áp dụng
pháp luật có hiệu quả trong việc giải quyết các vụ án nói chung và các vụ án tranh
chấp hợp đồng tín dụng nói riêng của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố
Hà Nội là:
Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động áp dụng pháp
luật trong giải quyết án tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án nhân dân huyện
Phúc Thọ thành phố Hà Nội, Đảng lãnh đạo trên ba phương diện: Tư tưởng, tổ chức
và cán bộ. Thường xuyên giám sát hoạt động của Tòa án, đánh giá đạo đức phẩm
chất, vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong ngành Tòa, sự lãnh đạo của
Đảng được thể hiện ở phương diện chỉ đạo Tòa án theo đường lối xét xử nghiêm
minh, công bằng, đúng pháp luật, tạo được lòng tin của quần chúng nhân dân đối
với cơ quan Tòa án nói riêng và sự lãnh đạo của Đảng nói chung.
Thứ hai: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp hợp đồng tín
dụng phải quan tâm chú trọng hơn nữa đến vấn đề hòa giải, xuất phát từ các quan hệ
trong xã hội, các tranh chấp hợp đồng tín dụng thường xảy ra khi các bên tham gia
hợp đồng không thống nhất được vấn đề mà các bên cần giải quyết. Vì vậy khi các
bên cần đến sự can thiệp của Tòa án, thì Tòa án chính là cơ quan phân định quyền
và nghĩa vụ của các bên nhằm đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cũng như
việc thực hiện nghĩa vụ của các đương sự. Việc giải quyết được mẫu thuẫn giữa các
bên tham gia bằng công tác hòa giải sẽ giúp giảm được thời gian và chi phí cho Tòa
án cũng như các bên tham gia tranh chấp. Vì vậy công tác hòa giải trong giải quyết
tranh chấp hợp đồng tín dụng cần phải được chú trọng và ưu tiên hàng đầu. Việc áp
dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng khi ra quyết định xét
xử phải quan tâm đến tính khả thi, khả năng thực hiện trong thực tiễn để đảm bảo
được quyền và lợi ích của các bên tham gia hợp đồng.
Thứ ba: Tăng cường tranh tụng tại phiên tòa là một trong những nội dung
quan trọng trong công cuộc cải các tư pháp hiện nay. Việc mở rộng tranh tụng tại
Tòa án sẽ giúp cho các bên tham gia bảo vệ được quyền và lợi ích của minh và giúp
cho việc xét xử của Tòa án các cấp nâng cao chất lượng khi ra ban hành bản án và
66
quyết định tranh gây sai sót trong hoạt động tố tụng. Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản
của giải quyết tranh chấp dân sự nói chung và giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng nói riêng là quyền tự quyết và tự định đoạt thuộc về các đương sự. Việc áp
dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng không chỉ Tòa có
quyền chỉ định áp dụng các quy phạm pháp luật để giải quyết các tranh chấp mà ở
đây còn thể hiện sự bình đẳng của các bên tham gia quan hệ pháp luật.
Thứ tư: Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng xây dựng và phát triển đội ngũ Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân đáp ứng được nghiệp vụ, chuyên môn về pháp luật để xử lý
các vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng đủ về số lượng và chất lượng.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng ngân hàng
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất: Cần hoàn thiện quy định của pháp luật về lãi suất cho vay trong
hợp đồng tín dụng. Các chủ thể tham gia trong hợp đồng tín dụng luôn có sự thỏa
thuận lãi suất, tài sản bảo đảm và việc xử lý tài sản bảo đảm đã được quy định trong
văn bản hợp đồng hoặc các văn bản thỏa thuận khác giữa tổ chức tín dụng và bên
vay vốn. Trường hợp bên vay vốn không trả nợ đúng hạn thì họ phải trả nợ gốc, nợ lãi
trong hạn và nợ lãi quá hạn cho tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, việc áp dụng lãi suất nợ
quá hạn của tổ chức tín dụng đối với khách hàng có nợ quá hạn trên thực tế còn có
nhiều bất cập, không phù hợp với quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết
tranh chấp hợp đồng tín dụng việc áp dụng quy định của pháp luật về lãi suất vay và lãi
suất quá hạn tại các tổ chức tín dụng và của Tòa án còn nhiều bất cập.
Theo khoản 2 điều 305 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp bên có
nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm
thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Bên cạnh đó, khoản 5 điều 474 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp vay có lãi
mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên
nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố
tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”; khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 quy
định: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”.
67
Những quy định này thể hiện sự áp đặt bất hợp lý và đang tạo ra những rủi ro pháp
lý cho các hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng nói riêng. Theo quy định tại khoản 1 điều 12 của Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam năm 2010 thì “Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất
cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng
lãi”. Việc BLDS quy định phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả
nợ và mức trần lãi suất không vượt quá 150% cũng với mục đích chống cho vay
nặng lãi. Tuy nhiên, việc đặt ra tỷ lệ 150% là không phù hợp vì lãi suất cơ bản
thường được quan niệm là lãi suất định hướng và ở mức rất thấp so với lãi suất thị
trường (Trên thực tế, phần lớn các tổ chức, cá nhân cho vay đều phải áp dụng mức
lãi suất vượt quá mức lãi suất tối đa được quy định tại BLDS).
Theo quy định này thì lãi suất huy động và lãi suất cho vay (vay và cho vay),
căn cứ cách tính lãi suất quá hạn của các tổ chức tín dụng được ấn định trên cơ sở
và ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý với lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Các quy định này đã tỏ ra
không thực tế và luôn kiềm hãm sự phát triển của hoạt động Tổ chức tín dụng vì nó
giống như một mệnh lệnh hành chính bắt buộc Tổ chức tín dụng phải tuân theo
trong khi đó thị trường đòi hỏi cần phải được tự do. Mặt khác, với quy định về lãi
suất như vậy có thể làm các HĐTD bị vô hiệu do vi phạm các quy định của BLDS
2005 về lãi suất cho vay. Vì thực tế, có những thời điểm Ngân hàng Nhà nước áp
dụng trần lãi suất huy động tối đa là 15%/năm, lãi suất cho vay là từ 18,5%-24%,
trong khi đó lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước công bố là 9%/ năm. Hiện nay,
những quy định BLDS 2005 tại khoản 5 điều 474 và điều 476 đã tạo ra sự kìm hãm
sự phát triển hoạt động cho vay của TCTD, không còn phù hợp với hoạt động cho
vay đang diễn ra của nền kinh tế thị trường tự do thỏa thuận lãi suất.
Do đó các quy định này đã được sửa đổi và thay thế bằng khoản 5 điều 466
và điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày
01/01/2017, các quy định về lãi suất đã được thay đổi để phù hợp theo hướng quy
định quyền thỏa thuận lãi suất của các bên tham gia HĐTD trên cơ sở tự nguyện
bình đẳng của các chủ thể tham gia bảo đảm hạn chế lợi dụng vay nặng lãi. Cụ thể:
- Điều 468 BLDS 2015 quy định: “1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
68
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không
được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan
quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban
thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc
hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới
hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. 2.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất
và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới
hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”.
- Khoản 5 điều 466 BLDS 2015 quy định: “a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất
thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường
hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật này; b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo
hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”.
Việc ban hành các quy định trên của Bô luật dân sự năm 2015 sẽ góp phần
hạn chế được sự tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng, đồng thời ngăn chặn được
khách hàng vay lợi dụng sự sơ hở về quy định lãi suất trong Bộ luật Dân sự 2005
mà cố tình chậm thanh toán nghĩa vụ trả nợ.
Đồng thời, cùng với việc ban hành Bộ luật Dân sự mới đã sửa đồi về phần lãi
suất, thì cần có thêm những quy định rõ về khái niệm các loại lãi suất, cách tính lãi
suất để tránh các tổ chức tín dụng lách luật nghĩ ra các khoản phí, phụ phí khác để
thu từ khách hàng khi việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng tín dụng quá hạn.
Ngoài ra, việc xử lí hậu quả của hợp đồng tín dụng vi phạm quy định về lãi
suất: Đối với một số hợp đồng vay tiền đã có hiệu lực và việc thoả thuận lãi suất
vượt quá quy định cho phép của Nhà nước của bên cho vay thì không nên tuyên bố
hợp đồng vô hiệu. Trong trường hợp này, để bảo vệ quyền lợi cho các bên Toà án
nên áp dụng và quy định lại lãi suất chuẩn và hợp lí tại thời điểm bấy giờ trong hợp
đồng vay tiền và hợp đồng cho vay tiền này tiếp tục có hiệu lực. Cũng cần phải cân
nhắc điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và dự liệu “những trường hợp khác do
pháp luật quy định” để không gây mâu thuẫn trong chính Bộ luật dân sự.
Thứ hai: Các quy định pháp luật về đảm bảo thanh toán và xử lý tài sản đảm
bảo cần phải chặt chẽ và có tính thống nhất. Hoạt động tín dụng luôn ẩn chứa trong
69
nó những rủi ro kinh doanh nói chung mà còn có những rủi ro riêng biệt ảnh hưởng
mạnh mẽ tới nền kinh tế. Rủi ro đó chính là khả năng khách hàng vay không trả nợ
tiền vay hoặc trả không đúng thời hạn hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho tổ chức
tín dụng. Để tránh rủi ro từ hợp đồng tín dụng xảy ra, các tổ chức tín dụng đều phải
sử dụng đến biện pháp bảo đảm tiền vay để tạo ra nguồn thu thứ hai dự phòng cho
những trường hợp khách hàng vay không thể trả nợ bằng khả năng tài chính của
mình được.
Khi cho vay, tổ chức tín dụng chỉ dựa vào giá trị của tài sản bảo đảm thanh
toán để xác định hạn mức cho vay. Các quy định về định giá tài sản thế chấp luôn
được sửa đổi để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các tổ chức tín dụng và khách
hàng vay nhưng vẫn khó thực hiện trên thực tế. Cái khó trong việc xác định tài sản
thế chấp là phải xác định tài sản thế chấp sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu của
khách hàng vừa đảm bảo thu hồi đủ nợ cho tổ chức tín dụng một khi tài sản thế chấp
được đem ra xử lý. Vì vậy, quy định về tài sản bảo đảm là rất quan trọng đối với hợp
đồng tín dụng, nó có ý nghĩa bảo đảm an toàn cho tổ chức tín dụng một khi khách hàng
không thể trả thì tổ chức tín dụng sẽ tiến hành xử lý khối tài sản bảo đảm đó để thu hồi
nợ. Tuy nhiên, thực tiễn quy định về bảo đảm tài sản và xử lý tài sản bảo đảm vẫn còn
nhiều điểm bất cập làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể tham gia vào hợp
đồng tín dụng từ đó dẫn đến mâu thuẫn và tranh chấp lại xảy ra.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi khách hàng không trả được nợ
vay đến hạn mà không được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ và không còn
nguồn trả nợ, thì bên cho vay (TCTD) có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ
theo thỏa thuận trong hợp đồng hoặc bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật
để thực hiện nghĩa vụ. Theo đó, đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên vay
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì tổ chức tín dụng có quyền
xử lý tài sản thế chấp, cầm cố theo phương thức do các bên đã thoả thuận hoặc được
bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ. Trước khi bán đấu
giá tài sản thế chấp, cầm cố thì việc định giá trị tài sản phải được sự đồng ý của chủ
sở hữu. TCTD muốn đưa tài sản ra phát mại đòi hỏi khách hàng phải hợp tác, trong
khi trường hợp này rất hạn hữu. Để thực hiện được thủ tục này thì các bên cần phải
ký hợp đồng ủy quyền tại đơn vị bán đấu giá có thẩm quyền vì theo điều 195 của
BLDS 2015 quy định của pháp luật “Người không phải là chủ sở hữu của tài sản chỉ
70
có quyền định đoạt tài sản theo sự ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của
pháp luật”. Nhưng nếu bên thế chấp không đồng ý ký vào hợp đồng ủy quyền này
thì không thể thực hiện việc bán đấu giá. Đồng thời, việc định giá tài sản bảo đảm
phải được chủ sở hữu chấp thuận. Điều này, ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ của tổ
chức tín dụng.
Trên thực tế việc hợp tác của bên bảo đảm trong quá trình xử lý tài sản thông
qua bán đấu giá thường khách hàng không hợp tác, khó xảy ra một cách thuận lợi.
Mặt khác, trường hợp bên bảo đảm có dấu hiệu chống đối, gây cản trở cho việc thu
giữ tài sản của tổ chức tín dụng, thì cơ quan công an và chính quyền địa phương
chưa thực sự quyết liệt phối hợp, hỗ trợ tổ chức thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm theo
đề nghị của TCTD. Thực tế, khi nhận được văn bản đề nghị phối hợp, hỗ trợ thu giữ
và xử lý tài sản bảo đảm của TCTD, cơ quan chính quyền địa phương (UBND cấp
xã, phường, thị trấn) và cơ quan công an chưa coi đây là nhiệm vụ, trách nhiệm của
mình như quy định tại khoản 5 Ðiều 63 Nghị định số 163/2006/NÐ-CP ngày
29/12/2006 của Chính phủ, thậm chí né tránh vì quan ngại đến trách nhiệm, thầm
quyền giải quyết không rõ ràng hoặc vì lý do khác.
Vì vậy, muốn thu hồi nợ thì tổ chức tín dụng phải khởi kiện ra Tòa án, sau
khi bản án hoặc quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật thì tổ chức tín dụng mới
làm thủ tục thi hành án tại cơ quan thi hành án. Qua đó có thể thấy, quy định của
Nghị định số 163/2006/NÐCP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về việc UBND xã,
phường và cơ quan Công an phối hợp, hỗ trợ TCTD xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ
là chưa hiệu quả và không sát với thực tế. Như vậy, pháp luật cần có các quy định
cụ thể về việc UBND, Công an thực thi vai trò của mình. Như vậy, đối với những
khách hàng không hợp tác trong việc giải quyết nợ tín dụng thì TCTD sẽ gặp nhiều
khó khăn không chỉ từ chính khách hàng vay mà còn từ các quy định của pháp luật
chưa thật sự chặt chẽ và có tính chất bắt buộc. Chính điều này đã gây khó khăn cho
các TCTD thực hiện quyền thu hồi nợ của mình một khi người vay cố tình vi phạm
hợp đồng tín dụng bằng cách cố tình không trả nợ, lợi dụng sự khó khăn trên để
buộc các TCTD cho gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ tiếp tục, từ đó có thể
tranh thủ sử dụng vốn của TCTD không đúng như trong HĐTD. Nếu không gia hạn
hoặc điều chỉnh kỳ hạn được thì để mặc cho TCTD khởi kiện ra Toà án tốn thời
gian, công sức và chi phí.
71
Thực tế cho thấy rằng, khi xử lý tài sản bảo đảm việc định giá và chuyển
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảo vẫn phải phụ thuộc nhiều vào ý chí
của chủ sở hữu, gây khó khăn cho bên nhận bảo đảm. Để tạo điều kiện cho các tổ
chức tín dụng hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời hạn chế được
rủi ro trong hoạt động tín dụng thì cần phải có các quy định về biện pháp bảo đảm
tiền vay phù hợp với điều kiện thực tế.
Để hạn chế những vướng mắc của pháp luật về bảo đảm tiền vay, yêu cầu
hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay, chế định đăng ký giao dịch bảo đảm cần
tập trung vào việc giải quyết các vấn đề sau đây:
- Cần có sự thống nhất giữa các quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay với
các bộ phận pháp luật khác có liên quan như pháp luật về sở hữu, pháp luật về đất
đai, pháp luật về hợp đồng, pháp luật về giải quyết tranh chấp, pháp luật về thi hành
án góp phần quan trọng trong việc xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ của TCTD.
Đồng thời, cần có quy định cụ thể cho việc thi hành các bản án liên quan đến các
TCTD tránh việc khách hàng bị lợi dụng kéo dài thời gian thi hành án.
- Khi sử lý tài sản bảo đảm thì việc định giá phải do tổ chức đánh giá chuyên
nghiệp thực hiện, có thể là một cơ quan chuyên môn hay một tổ chức định giá hoạt
động độc lập.
- Cần cải cách thủ tục công chứng, chứng thực về đăng ký giao dịch bảo
đảm nhằm bảo đảm tính thống nhất đồng bộ để tránh tình trạng một tài sản được thế
chấp ở nhiều TCTD.
- Cần quy định chế tài cụ thể đối với các cơ quan chức năng như Ủy ban
nhân dân, Công an trong quá trình hỗ trợ tổ chức tín dụng thu hồi tài sản bảo đảm.
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp của Tòa án nhân dân
Thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp HĐTD đã nảy sinh nhiều bất cập cần sửa
đổi và hoàn thiện. Hoàn thiện pháp luật trong giải quyết tranh chấp HĐTD là việc
làm cần thiết, nhằm thúc đẩy quan hệ vay vốn tín dụng giữa các chủ thể được thuận
tiện hơn; bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong quan hệ tín dụng và tạo
điều kiện thuận lợi để thị trường tín dụng phát triển.
Thứ nhất, về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Toà án.
- Pháp luật hiện hành cho rằng tranh chấp kinh doanh, thương mại chỉ xảy ra
giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
72
nhuận. Vậy, đối với với những tranh chấp xảy ra giữa cá nhân, tổ chức mà một bên
có đăng ký kinh doanh và nột bên không có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục
đích lợi nhuận thì sao? Theo tác giả nên sửa lại khoản 1 điều 29 BLTTDS theo hướng
“Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức
có đăng ký kinh doanh với nhau hoặc một bên không có đăng ký kinh doanh và đều
có mục đích lợi nhuận”.
Với thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng như
hiện nay là quá tải đối với Toà án nhân dân cấp huyện, gây khó khăn cho Ngân hàng
và khách hàng. Bởi do biên chế và năng lực của đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân
cấp huyện còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp HĐTD
nên dẫn đến tiến độ giải quyết tranh chấp còn chậm và nhiều sai xót. Cho nên cần mở
rộng thẩm quyền của Toà án nhân dân các cấp trong việc giải quyết các vụ việc tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng theo hướng Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết
các vụ án tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa các cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có lợi nhuận.
Thứ hai, bổ sung các quy định về thủ tục rút gọn đối với giải quyết tranh
chấp HĐTD.
Hiện nay, thủ tục tố tụng dân sự giải quyết tranh chấp HĐTD còn rườm rà,
mang tính hình thức, chưa linh hoạt, nhanh nhạy xử lý vấn đề gây tốn kém về thời
gian và tiền bạc cho các bên tranh chấp. Theo quy định của BLTTDS, thủ tục giải
quyết tranh chấp HĐTD còn mất rất nhiều thời gian. Thông thường để giải quyết
xong một tranh chấp HĐTD phải mất gần hai năm. Trình tự, thủ tục ở toà án thường
kéo dài lâu do phải trải qua các khâu: thụ lý, toà án nghiên cứu và tiến hành hoà giải
đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm cũng một thời gian khá dài, đến khi bản án có hiệu
lực pháp luật thì phải chờ cơ quan thi hành án xử lý. Trình tự, thủ tục kéo dài nhiều
thời gian như vậy khiến cho các bên trong tranh chấp luôn ở trong tình trạng chờ
đợi, mệt mỏi.
Thực tế này đòi hỏi công việc giải quyết tranh chấp ở toà án cần rút ngắn
thời gian, loại bỏ đi những thủ tục rườm rà, rắc rối để làm cho quá trình giải quyết
tranh chấp nhanh gọn, đúng pháp luật, đơn giản, bảo vệ quyền lợi các bên trong hợp
đồng. Hơn nữa, các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng chủ yếu liên quan tới
vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi của khách hàng, thực tế cho thấy khi các bên
73
tranh chấp quyết định đưa vấn đề tranh chấp ra giải quyết tại Toà án thì họ đã tiến
hành các bước thương lượng, hoà giải nên về các chứng cứ chứng minh vụ việc có
tình tiết rõ ràng và có căn cứ pháp lý.
Đối với những tranh chấp HĐTD mà chứng cứ rõ ràng, bị đơn có địa chỉ, lai
lịch cụ thể, họ thừa nhận nghĩa vụ của mình trước nguyên đơn, nếu nguyên đơn xuất
trình được chứng cứ bằng văn bản để chứng minh cho yêu cầu của mình và nếu như
bị đơn cùng tất cả những người liên quan khác trong vụ tranh chấp không có sự phản
đối về sự giả mạo của bằng chứng đó thì Toà án có thể khẳng định được tính chính
xác và độ tin cậy của các thông tin trong các văn bản đó. Do vậy, Toà án không phải
mất nhiều thời gian để điều tra, xác minh mà vẫn có thể giải quyết đúng pháp luật vụ
tranh chấp đó, đảm bảo giải quyết nhanh gọn, hiệu quả. Vì thế, có cơ chế để cán bộ
Toà án có cơ sở ban hành quyết định áp dụng thủ tục rút gọn đối với những tranh chấp
được áp dụng thủ tục này.
Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Đối với những tranh chấp HĐTD áp dụng thủ tục
rút gọn thì thời hạn chuẩn bị xét xử là không quá 15 ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Về thời hạn mở phiên toà xét xử sơ thẩm: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà. Khoản 1 điều 212
BLTTDS quy định: “Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành
mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ
trì phiên hoà giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Toà án phân công ra quyết
định công nhận sự thoả thuận của các đương sự”. Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy
hầu hết các quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự do Thẩm phán
chủ trì phiên hoà giải ra quyết định. Vậy, cần phải sửa lại khoản 1 điều 212
BLTTDS 2015 theo hướng: “Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà
giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm
phán chủ trì phiên hoà giải ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương
sự” để có tính khả thi cao trong thực tế.
Các quy định về chủ thể của quan hệ thế chấp tài sản cần phải xác định rõ
ràng. Để việc tham gia giao dịch thế chấp tài sản nhất là thế chấp giá trị quyền sử
dụng đất có hiệu quả, phát huy hết tác dụng của việc đảm bảo nghĩa vụ thì pháp luật
đất đai và pháp luật dân sự cần có những điều chỉnh phù hợp liên quan đến chủ thể
thế chấp khi tham gia hợp đồng thế chấp nhất là đối với hộ gia đình, cá nhân khi thế
74
chấp Quyền sử dụng đất. Tăng cường hơn nữa quyền tự chủ, quyền tự do cam kết, tự
nguyện thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ thế chấp tài sản. Do đó, pháp luật cần
quy định điều kiện đối với hộ gia đình khi thế chấp Quyền sử dụng đất, cụ thể:
- Bộ luật dân sự cần xác định các tiêu chí để xác lập địa vị pháp lý của hộ
gia đình xác lập các quyền về tài sản cho hộ gia đình đó. Tiêu chí nào để xác định
đại diện chủ hộ và tiêu chí nào để xác định các thành viên trong hộ gia đình. Đối với
Luật đất đai cần xác định tài sản là quyền sử dụng đất trong trường hợp nào thì xác
định là chung của cả hộ gia đình và riêng cho một thành viên trong hộ gia đình. Bên
cạnh đó pháp luật cần bổ sung các quy định về quản lý đăng ký thành viên hộ gia
đình (đăng ký lần đầu, thay đổi, chấm dứt) nhằm xác định tư cách thành viên hộ gia
đình, qua đó tạo thuận lợi cho hộ gia đình khi thực hiện các quyền của người sử
dụng đất.
- Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành đối với trường hợp thế chấp
quyền sử dụng đất đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp trước đây là
còn ghi là hộ gia đình nên quy định rõ trong trường hợp thế chấp này thì chỉ cần chủ
hộ gia đình ký vào hợp đồng thế chấp và phải có sự đồng ý của những người trong
hộ gia đình đó.
3.2.2. Các giải pháp về tổ chức và thực hiện
* Nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán
Hoạt động xét xử của Tòa án là nơi thể hiện rõ nét nhất chất lượng hoạt động
và uy tín của hệ thống các cơ quan tư pháp, nơi thể hiện rõ nhất bản chất nhân dân,
tính công bằng, công lý và dân chủ trong hoạt động tư pháp trong đó thẩm phán có
vai trò trung tâm, là thành phần chính tạo nên chất lượng, hiệu quả của hoạt động
xét xử. Chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử không chỉ phụ thuộc vào sự
hoàn thiện của hệ thống pháp luật, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các
thẩm phán mà còn phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, trách
nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán. Thẩm phán giữ vị trí quan trọng trong
việc xét xử - giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng, vì thế số lượng, chất lượng
của đội ngũ thẩm phán là yếu tố mang tính chất quyết định đến hiệu quả quá trình
giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hiến pháp năm 2013, Luật tổ
chức TAND năm 2014 quy định điều kiện, tiêu chuẩn thẩm phán, cũng như quyền
hạn, nghĩa vụ của họ khi tiến hành tố tụng… đã góp phần nâng cao một bước chất
75
lượng của đội ngũ thẩm phán trong những năm vừa qua. Thẩm phán là một chức
danh tư pháp quan trọng không thể thiếu trong tổ chức Tòa án nói riêng và trong bộ
máy Nhà nước nói chung. Ở nước ta, từ năm 2002 đến nay, Pháp lệnh Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân đã ghi nhận Thẩm phán là một chức danh mà trước đó chỉ
được coi là một chức vụ. Quy định này đánh dấu một bước ngoặt về nhận thức để
xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp, đáp ứng các yêu cầu của hoạt động xét
xử. Chỉ khi nào thực sự coi Thẩm phán là một nghề, có vị trí, chức danh trong xã
hội thì họ mới có cơ sở và điều kiện pháp lý để làm việc và yên tâm cống hiến, phấn
đấu cho sự nghiệp của mình. Hoạt động xét xử của Thẩm phán là chuyên nghiệp, do
đó Thẩm phán phải được tuyển chọn một cách kỹ lưỡng, cẩn thận để tìm được
người đủ năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức có thể đảm
đương tốt vai trò của người Thẩm phán. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã lựa chọn
cách thức bổ nhiệm để tuyển chọn Thẩm phán và cũng đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể
trong việc tuyển chọn thẩm phán. Về cơ bản những quy định này bước đầu đã tạo ra
những cơ sở pháp lý để hình thành đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp cho hoạt động
xét xử. Tuy nhiên, pháp luật cũng cần quy định rõ ràng, cụ thể hơn về tính chuyên
nghiệp của thẩm phán trên tất cả các lĩnh vực như: cơ chế bảo đảm, năng lực
chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng xét xử… để có thể xây dựng đội ngũ
Thẩm phán chuyên nghiệp. Cũng cần xem xét, nghiên cứu về chế độ Thẩm phán
được bổ nhiệm suốt đời để họ có thể yên tâm làm công việc đầy khó khăn đã lựa
chọn. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính chuyên nghiệp trong hoạt động xét xử của thẩm
phán và xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp là yếu tố quan trọng mang tính
tiên quyết để nâng cao địa vị của thẩm phán trong hoạt động tư pháp và đối với xã
hội góp phần nâng hiệu quả của hoạt động xét xử.
Số lượng và chất lượng thẩm phán là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu
quả xét xử cũng như địa vị của thẩm phán. Theo thống kê của TAND tối cao thì số
lượng thẩm phán của TAND các cấp, đặc biệt là khối TAND cấp huyện còn thiếu,
chưa đủ chỉ tiêu đươc giao. Do thiếu thẩm phán nên nhiều Tòa án đang bị quá tải về
công việc dẫn đến số lượng các vụ án tồn đọng nhiều vẫn chưa được giải quyết dứt
điểm. Điển hình như các TAND trên địa bàn thành phố Hà Nội, chỉ riêng án liên
quan đến giải quyết tranh chấp HĐTD, một thẩm phán được giao giải quyết trung
bình trên 10 vụ/tháng. Sự quá tải này có thể sẽ dẫn đến những sai sót không đáng có
76
về nghiệp vụ, đặc biệt là gây ra những khó khăn nhất định đối với công tác quy
hoạch, đào tạo cán bộ của ngành do việc nhiều, người ít nên nhiều nơi không thể cử
cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch, quy hoạch. Đây chính là mâu thuẫn,
thách thức lớn nhất đặt ra với ngành Tòa án khi xử lý, giải quyết vấn đề về số lượng
thẩm phán của Tòa án các cấp.
* Nâng cao năng lực của cán bộ tín dụng ngân hàng
Nếu việc tăng cường kiến thức pháp luật cũng như kiến thức kinh tế đối với
Thẩm phán và hội thẩm nhân dân là để tranh chấp HĐTD được giải quyết bằng một
bản án, quyết định đúng đắn nhất thì việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như
hiểu biết pháp luật đối với cán bộ tín dụng lại nhằm tạo điều kiện thuận lợi, hay lý
tưởng hơn, là phòng ngừa trước và góp phần hạn chế tối thiểu số lượng tranh chấp
phát sinh.
Phải thừa nhận rằng, chất lượng tín dụng phụ thuộc hầu như toàn bộ vào yếu
tố con người – các tổ chức tín dụng phải thực sự lưu tâm đến điều này để kế hoạch
tuyển dụng và đào tạo sao cho lực lượng cán bộ của mình luôn là người nhạy bén,
có năng lực chuyên môn, có kiến thức về thị trường tài chính, đầu tư cũng như về
pháp luật… Bên cạnh đó, mỗi tổ chức tín dụng thiết lập cho mình một quy trình cho
vay chặt chẽ và hiệu quả. Chất lượng cán bộ tín dụng được nâng cao thì tự khắc các
tranh chấp về HĐTD sẽ được hạn chế và dễ dàng giải quyết hơn. Xét cho cùng, sức hút
lâu dài của một tổ chức không phải được tạo nên từ sự cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
trường bằng mọi giá, như: Bỏ qua các quy trình tín dụng, lảng tránh các hàng rào
kiểm tra thông tin sai lệch, hay thậm chí hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách quan mà
chỉ có thể được xây dựng từ chính uy tín của tổ chức tín dụng.
* Nâng cao ý thức pháp luật của các doanh nghiệp và người dân
Một trong những trở ngại lớn trong việc giải quyết các vụ án hiện nay là ý
thức chấp hành pháp luật của một số cá nhân, cơ quan, tổ chức rất hạn chế. Điều
này thể hiện ở các hành vi cản trở các hoạt động tố tụng của Tòa án. Hành vi cản trở
không chỉ do những người tham gia tố tụng thực hiện nhằm đạt được lợi thế cho
mình trong việc giải quyết vụ án, mà ngay cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức không
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng tham gia, gây khó khăn cho Tòa án.
Biểu hiện phổ biến và rõ nét nhất là các hành vi: người tham gia tố tụng cố tình
không nhận, không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, tự ý bỏ về giữa chừng
77
làm cho việc giải quyết phải hoãn nhiều lần. Hành vi từ chối khai báo hoặc khai báo
không đúng sự thật; mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép để ngăn cản người làm chứng
hoặc để họ khai báo gian dối; không chịu ký vào các biên bản làm việc của Tòa án.
Các cá nhân, tổ chức cố ý tẩu tán, hủy hoại hoặc không cung cấp các tài liệu, chứng
cứ có ý nghĩa cho việc giải quyết các vụ án hành chính, các vụ, việc dân sự mà Tòa
án yêu cầu cung cấp hoặc có quyết định thu thập chứng cứ. Các cơ quan chuyên
môn không cử cán bộ tham gia Hội đồng định giá tài sản theo yêu cầu của Tòa án;
đương sự cản trở hoạt động định giá tài sản, hoạt động xem xét tại chỗ. Hành vi cố
ý không thực hiện, thực hiện không đúng việc cấp, tống đạt các văn bản tố tụng theo
yêu cầu của Tòa án. Hành vi gây rối trật tự tại phiên tòa, phiên hòa giải, xúc phạm
lẫn nhau giữa các đương sự, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cán bộ Tòa án;
đương sự, người nhà của đương sự cố tình xuyên tạc, tố cáo cán bộ Tòa án sai sự
thật... Như vậy, mỗi hoạt động tố tụng đều có thể xảy ra các hành vi cản trở tương
ứng. Tất các các hành vi cản trở hoạt động tố tụng, dù ở mức độ nào đều có ảnh
hưởng đến chất lượng xét xử của Tòa án. Bộ luật Tố tụng dân sự đã dành chương
XXXII để quy định về việc xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự. Tuy
nhiên, các hành vi vi phạm được liệt kê trong chương này cũng chỉ là số ít trong số
rất nhiều loại hành vi cản trở hoạt động tố tụng cần phải được xử lý, và chương này
cũng chỉ dừng lại ở quy định chung: “thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt
đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự do ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định”. Chính vì vậy cần quy định hình thức xử phạt rõ ràng, cụ thể và khắc để
sớm khắc phục được tình trạng này. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền và phổ biến
pháp luật đến các doanh nghiệp và người dân cần phải được triển khai mạnh mẽ hơn
bằng nhiều hình thức khác song song với việc kiên quyết xử lý tổ chức cá nhân cố
tình vi phạm.
78
Tiểu kết chương 3
Những hạn chế, bất cập trong công tác giải quyết tranh chấp trong HĐTD
ngân hàng tại Tòa án có một số nguyên nhân nhất định trong đó có những nguyên
nhân về pháp luật, đội ngũ cán bộ Tòa án, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật
cũng như nguyên nhân từ phía trình độ của đội ngũ cán bộ ngân hàng. Từ những
nguyên nhân nêu trên, luận văn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm tiếp tục
hoàn thiện pháp luật trong HĐTD như sửa đổi, bổ sung một số quy định về lãi suất
phạt trả chậm, lãi suất trần, thời hiệu khởi kiện…
Bên cạnh đó, Đảng và nhà nước ta cần chú trọng thực hiện những biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong HĐTD ngân hàng như tăng cường
năng lực, phẩm chất cán bộ ngành Tòa án, tiếp tục mở rộng tuyên truyền, phổ biến
pháp luật cho các doanh nghiệp và người dân. Mặt khác, cần chú trọng tăng cường
năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng – những người trực
tiếp soạn thảo HĐTD với khách hàng.
79
KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây, do nhu cầu phát triển kinh tế ngày càng cao của
xã hội nên hoạt động tín dụng Ngân hàng đã phát triển rất sôi động. Chính hoạt
động này đã giúp nguồn vốn trong xã hội được luân chuyển tốt hơn, bên cạnh việc tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thì nguồn vốn đó sẽ được sử dụng để
cấp cho những đối tượng thiếu hụt và đang cần vốn để đầu tư phát triển và tiêu dùng
nói chung. Có thể nói hoạt động tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực vào quá
trình hội nhập của nền kinh tế, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong các hoạt động của tổ chức tín dụng thì hoạt động cho vay là hoạt
động chủ yếu mang lại lợi nhuận cao. Bản chất của hoạt động trên chính là hoạt
động kinh doanh tiền tệ. Hoạt động này luôn chứa đựng nhiều rủi ro và tiềm ẩn
những mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng tín dụng và dẫn
đến xảy ra tranh chấp. Việc mâu thuẫn dẫn đến tranh chấp xuất phát từ nhiều nguyên nhân như quy định của pháp luật chưa thật chặt chẽ còn rườm rà, thậm chí
còn hạn chế. Từ đó dẫn đến việc áp dụng vào thực tiễn lúng túng, không khả thi và
bất hợp lý dẫn đến tranh chấp xảy ra. Hoặc do các bên thiếu trách nhiệm trong việc
thực hiện nghĩa vụ của mình, thậm chí do tập quán giao kết hợp đồng hiện nay
không còn phù hợp nữa, chẳng hạn như:
Một là, hợp đồng tín dụng theo mẫu chứa đựng nhiều điều khoản chưa rõ
ràng gây ra thiệt hại cho khách hàng vay tham gia vào hợp đồng tín dụng, từ đó mâu
thuẫn về quyền lợi và dẫn đến tranh chấp. Hai là, do sự yếu kém về năng lực, cẩu thả
trong công việc thậm chí là bị tha hóa về đạo đức của cán bộ tín dụng. Cho nên, vấn đề
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng so với các loại tranh chấp kinh doanh thương
mại khác hiện nay là khá cao. Từ thực tế đó, cần thiết phải có các giải pháp tích cực,
lâu dài nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tranh chấp xảy ra.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của luận văn, những nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án ở Việt Nam
nêu trên được tác giả phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD bằng con đường tòa án khá chi tiết làm cơ sở cho việc đưa ra đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với thời gian hạn hẹp, vốn kiến thức ít ỏi, luận văn không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giúp cho Luận văn được hoàn chỉnh hơn.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tư pháp (2013), Nghị định Số: 8019/VBHN-BTP ngày 10/12/2013 của Bộ
Tư Pháp về giao dịch bảo đảm.
2. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch
bảo đảm.
3. Chính phủ (2010), Nghị định 83/2010/ NĐ-CP ngày 23 tháng 07 năm 2010
của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm.
4. Chính phủ (2012), Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 của Chính
phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
5. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tài Chính (2012) Vay nợ tín dụng: Rối chuyện
bảo lãnh.
6. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tư pháp (2011), Ba vấn đề cần cảnh báo rong
việc công chứng hợp đồng ủy quyền.
7. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tư Pháp (2012), Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của
các tổ chức tín dụng - Nhìn từ góc độ các quy định của pháp luật hiện.
8. Cổng thông tin điện tử - Bộ Tư pháp (2013), Một số vấn đề về xử lý tài sản
bảo đảm trong các giao dịch bảo đảm đã được công chứng.
9. Cổng thông tin điện tử, Tòa án nhân dân tối cao, số liệu thống kê từ năm 2006
– 2013.
10. Bùi Ngọc Cường, (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong
pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
nội.
11. Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2005), Giáo trình Luật Ngân hàng
Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
12. Phạm Văn Đàm (2011), “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện hợp đồng
tín dụng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (11), trang 20-25.
13. Trần Văn Duy – Ths. Nguyễn Hương Lan (2012), Vướng mắc trong giải quyết
tranh chấp hợp đồng vay tài sản và một số kiến nghị, http://tks.edu.vn.
14. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2012), Nghị quyết
03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao về hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất
81
“Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự được sửa đổi theo Luật
sửa đổi, bổ sung Bộ Luật TTDS năm 2011.
15. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2007), Quyết định giám đốc
thẩm số 05/2007/KDTM-GĐT ngày 08/05/2007 của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao về việc tranh chấp về hợp đồng tín dụng.
16. Nguyễn Thị Thúy Hồng (2008), Pháp luật về hợp đồng tín dụng Ngân hàng ở
Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ học.
17. Nguyễn Hoàng Hưng, VPLS An Phát Phạm, Áp dụng quy định của pháp luật
về lãi suất quá hạn trong việc giải quyết các tranh chấp Hợp đồng tín dụng.
18. Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định Hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
19. Phạm Quốc Khánh (2013), Giải pháp xử lý nợ xấu hiêṇ nay c ủa các ngân
hàng thương mại ViêṭNam, http://tapchi.hvnh.edu.vn.
20. Kiểm sát viên Nguyễn Anh Đức, huyện Bố Trạch (Quảng Bình), Xử án tín
dụng: Rối chuyện thế chấp, bảo lãnh, vietrustlaw.com.vn.
21. Ngân hàng Nhà nước (2001), Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày
31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng nhà nước về việc ban hành quy chế cho
vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
22. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định số: 127/2005/QĐ-NHNN
ngày 03/02/2005 của Thống đốc ngân hàng nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban
hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước.
23. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2013), Thông tư số 07/2013/TT-NHNN ngày
14/3/2013 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định về việc kiểm soát đặc
biệt đối với tổ chức tín dụng.
24. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2014), Thông tư số 08/2014/TT-NHNN ngày
17/3/2014 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Quy định lãi suất cho vay
ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một
số lĩnh vực, ngành kinh tế.
25. Nguyễn Văn Phương - VCB, Khó khăn từ xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ
82
xấu, http://luattaichinh.wordpress.com.
26. Quốc Hội, (2002), Pháp lệnh số 02/2002/PL-UBTVQH11 về Thẩm phán và
Hội thẩm Tòa án nhân dân, sửa đổi bổ sung năm 2011.
27. Quốc Hội, (2005), Bộ luật Dân sự.
28. Quốc Hội, (2005), Luật Doanh nghiệp.
29. Quốc Hội, (2005), Luật Giao dịch điện tử.
30. Quốc Hội, (2005), Luật Thương mại.
31. Quốc Hội, (2010), Luật Các tổ chức tín dụng.
32. Quốc Hội, (2010), Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
33. Quốc Hội, (2010), Luật Trọng tài thương mại.
34. Quốc Hội, (2011), Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011.
35. Quốc Hội, (2013), Bộ luật dân sự
36. Quốc Hội, (2013), Bộ luật tố tụng dân sự
37. Quốc Hội, (2013), Luật Đất đai.
38. Quốc Hội, (2013), Luật Hoà giải ở cơ sở.
39. Quốc Hội, (2014), Luật Tổ chức tòa án nhân dân
40. Đào Thái Sơn – Vụ Pháp chế, Ngân hàng Nhà nước, Những thay đổi của pháp
luật về giao dịch bảo đảm, http://www.intecovietnam.com.
41. Đoàn Thái Sơn (2007), “Bất cập của pháp luật về bảo vệ quyền của chủ nợ của
tổ chức tín dụng”, Tạp chí ngân hàng, (10), trang 17 – 19.
42. Duy Thái, (2013), Xung quanh vụ án “Tranh chấp đầu tư tài chính, ngân
hàng” có liên quan tới gia đình nguyên giám đốc ngân hàng ĐT&PT
KonTum: Những mảng tối tình đời chưa được rọi sáng qua hai phiên xét xử,
phaply.net.vn.
43. Lê Thị Thu Thủy (2002), “Bản chất pháp lý của hợp đồng tín dụng ngân
hàng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (12), trang 10 – 15.
44. Lê Thị Thu Thủy (2006), Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của
các tổ chức tín dụng, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
45. Phạm Văn Tuyết & TS. Lê Kim Giang (2012), Hợp đồng tín dụng và biện
pháp bảo đảm tiền vay, Nhà xuất bản Tư pháp.
83