intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giao diện Dữ liệu Phân bố theo Cáp sợi quang

Chia sẻ: Tran Van Nam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:8

146
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

(FDDI) là một mạng tốc độ cao, sử dụng công nghệ tokenring (vòng thẻ bài) ngược chiều để khắc phục các hỏng hóc. Ban đầu khái niệm này được áp dụng trên cáp sợi quang đa môt, tiêu chuẩn này đã được phát triển để bao trùm cả cáp quang đơn mốt, cáp đồng đôi dây xoắn bọc kim và thậm chí cả dây đồng không bọc kim.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giao diện Dữ liệu Phân bố theo Cáp sợi quang

  1. Fiber Distributed Data Interface (FDDI) ­ Giao diện Dữ liệu Phân bố theo  Cáp sợi quang 12:00, 02/10/2003 Giao diện Dữ liệu Phân bố theo Cáp sợi quang  (FDDI) là một mạng tốc độ cao, sử dụng công nghệ  token­ring (vòng thẻ bài) ngược chiều để khắc phục các hỏng hóc. Ban đầu  khái niệm này được áp dụng trên cáp sợi quang đa môt, tiêu chuẩn này đã  được phát triển để bao trùm cả cáp quang đơn mốt, cáp đồng đôi dây xoắn  bọc kim và thậm chí cả dây đồng không bọc kim. Nó được thiết kế để cung  cấp kết nối đa mục tiêu, băng thông cao giữa các máy tính và các thiết bị  ngoại vi, bao gồm cả liên kết các mạng LAN (Hình 1) và các mạng khác  trong phạm vi một toà cao ốc hoặc trong môi trường học viện.  Hình 1. FDDI có thể mang các khung Ethernet vàToken­Ring làm các khung  dữ liệu, cung cấp một mạng xương sống đa giao thức Hoạt động của FDDI  Một giao thức chuyển thẻ bài (token­passing) định thời được sử dụng để  chuyển các khung có kích thước lên tới 4500 byte, hỗ trợ tối đa tới 1000 kết  nối trên một đường cáp sợi quang đa mốt dài nhất là 200 km (124 dặm).  Mỗi trạm trên dọc đường truyền đều đóng vai trò một phương tiện để bám  sát và nhận dạng các thiết bị trên mạng, tái tạo và lặp lại các khung được 
  2. chuyển tới nó. Không giống như các loại mạng LAN khác, FDDI cho phép  cả các thiết bị không đồng bộ (không nhạy cảm với thời gian) và các thiết bị  đồng bộ (nhạy cảm với thời gian) cùng dùng chung mạng. Các dịch vụ đồng  bộ (chẳng hạn như thoại và video...) không chấp nhận các độ trễ và phải  được bảo đảm một băng thông cố định và một khe thời gian quy định. Lưu  lượng đồng bộ do vậy được ưu tiên hơn so với lưu lượng không đồng bộ, là  loại lưu lượng có thể bị trễ mà vẫn không bị suy giảm chất lượng. FDDI chú  trọng đến độ tin cậy và kiến trúc của nó bao gồm những khả năng quản lý,  kể cả việc phát hiện sự cố tự động và tái cấu hình mạng.  Mọi sự thay đổi trạng thái mạng, chẳng hạn tăng công suất hoặc bổ sung  thêm các trạm mới, đều dẫn đến một quá trình ‘yêu cầu’, trong đó tất cả các  trạm trên mạng đều đòi hỏi quyền khởi tạo mạng. Mỗi trạm đều chỉ thị  khoảng bao nhiêu lâu phải xem xét thẻ bài có hỗ trợ dịch vụ đồng bộ của nó  không. Yêu cầu thấp nhất tiêu biểu cho trạm là phải xem xét thẻ bài thường  xuyên. Yêu cầu đó được lưu trữ như Thời gian Quay Thẻ bài Mục tiêu  (TTRT ­ Target Token Rotation Time). Mỗi trạm đều được đảm bảo để xem  xét thẻ bài trong khoảng 2 x TTRT giây của sự xuất hiện cuối cùng của nó.  Quá trình này đươc hoàn tất khi một trạm thu được thẻ bài yêu cầu riêng của  nó. Trạm chiến thắng sẽ công bố thẻ bài không bị chặn đầu tiên, đồng thời  khởi tạo mạng theo vòng quay đầu tiên. Theo vòng quay thứ hai, các thiết bị  đồng bộ có thể bắt đầu truyền dẫn. Trên vòng quay thứ ba và các vòng quay  tiếp sau, các thiết bị không đồng bộ có thể truyền dẫn nếu có đủ băng thông.  Các sai lỗi được sửa tự động qua một quá trình báo hiệu ­ và ­ khôi phục  (beacon­and­recovery process) trong đó từng trạm riêng lẻ sẽ tìm cách hiệu  chỉnh tình thế.  Kiến trúc của FDDI Các quá trình trên dược xác định trong một bộ các tiêu chuẩn do Viện Tiêu  chuẩn Quốc gia Hoa Kỳ (ANSI) phê chuẩn. Các tiêu chuẩn này định ra bốn  vùng chức năng của kiến trúc FDDI (Hình 2). 
  3. Phụ thuộc môi trường vật lý (PMD) Các dữ liệu được truyền giữa các trạm sau khi biến đổi các bít dữ liệu thành  một dãy các xung quang. Sau đó các xung này được truyền qua dây cáp nối  giữa các trạm khác nhau. Lớp con PMD này mô tả các máy thu phát quang,  đặc biệt là các mức công suất và độ nhạy quang tối thiểu trên tuyến kết nối  dữ liệu quang. Lớp này cũng xác định các đầu nối và các đặc trưng môi  trường cho truyền thông điểm ­ nối ­ điểm giữa các trạm trên mạng FDDI.  Lớp con PMD là một tập con của Lớp Vật lý thuộc Mô hình tham chiếu OSI,  xác định tất cả các dịch vụ cần có để phát đi luồng bít từ trạm này tới trạm  khác. Nó cũng quy định các yêu cầu đi dây cho hệ thống cáp phù hợp với  FDDI, kể cả jitter và những biến đổi trong suy hao của hệ thống cáp.
  4. Hình 2. Các lớp FDDI và mối quan hệ với Mô hình tham chiếu OSI 7 Lớp Vật lý Giao thức Lớp Vật lý (PHY) xác định rõ những phần không phụ thuộc môi  trường của Lớp Vật lý, mô tả sự mã hoá/giải mã dữ liệu, thiết lập xung nhịp  đồng bộ, xác định chuỗi thiết lập chuỗi quan hệ (handshaking) được sử dụng  giữa các trạm kế cận nhau để kiểm tra tính nguyên vẹn của tuyến. Nó cũng  cung cấp sự đồng bộ của các xung nhịp bit mã đến và đi cũng như vạch ra  các biên giới octet cần thiết cho việc truyền dẫn thông tin từ và tới các lớp  cao hơn. Các quá trình này cho phép trạm thu đồng bộ xung nhịp của mình  với trạm phát.  Lớp Điều khiển Truy nhập Môi trường Lớp Kết nối Dữ liệu của FDDI được phân chia thành hai lớp con. Lớp con  Điều khiển Truy nhập Môi trường (MAC ­ Media Acess Control) chi phối  việc truy nhập môi trường. Nó mô tả định dạng khung, thông dịch nội dung  khung , tạo ra và lặp lại các khung, phát và thu các thẻ bài điều khiển các bộ  định thời, giám sát vòng thẻ bài và phối ghép với quản lý trạm.  Lớp con Điều khiển Kết nối Logic (LLC ­ Logical Link Control) không nằm  trong tiêu chuẩn FDDI nhưng nó rất cần cho hoạt động vòng được chính xác  và là một phần của tiêu chuẩn IEEE 802.2. Theo mô hình IEEE thì MAC của  FDDI hoàn toàn tương thích với tiêu chuẩn LLC của IEEE 802­2. Những  ứng dụng mà hiện nay đang ghép nối được với LLC và đang hoạt động trên  các mạng LAN hiện hành, như IEEE 802.3 CSMA/CD hoặc 802­5 Token­ Ring, đều có thể hoạt động trên các mạng FDDI.  Giống như MAC Token­Ring định nghĩa theo 802.5, MAC FDDI cũng có  hai loại đơn vị dữ liệu giao thức là khung và thẻ bài. Các khung được sử  dụng để vận chuyển dữ liệu (chẳng hạn như các khung LLC), trong khi các  thẻ bài được sử dụng để điều khiển trạm truy nhập vào mạng. Tại lớp MAC,  dữ liệu được truyền theo các khối 4 bit gọi là các ký hiệu 4B/5B. Sự mã hoá 
  5. ký tự theo kiểu 4 bít dữ liệu được biến đổi sang một mô hình 5 bít; như vậy  tốc độ FDDI 100 Mbit/s cung cấp 125 triệu tín hiệu một giây. Kiểu báo hiệu  này được dùng để duy trì đồng bộ tín hiệu trên cáp sợi quang. Hai ký tự  mang một octet dữ liệu duy nhất.  Quản lý trạm Tiện ích Quản lý trạm (STM) cung cấp các dịch vụ quản lý hệ thống cho bộ  giao thức FDDI, chi tiết hoá các yêu cầu điều khiển cho hoạt động và khả  năng tương tác chính xác của các trạm trên vòng FDDI. Nó phối hợp hoạt  động với các lớp PMD, PHY và MAC. Tiện ích SMT được sử dụng để quản  lý các kết nối, các cấu hình và các giao diện. Nó xác định rõ những dịch vụ  như khởi tạo vòng va trạm, cô lập và phục hồi sự cố, sửa sai... STM cũng  được sử dụng để thu thập các số liệu thống kê, quản lý địa chỉ và phân đoạn  cho vòng FDDI.  Cấu hình tô pô của FDDI FDDI là một mạng vòng chuyển thẻ bài. Giống như mọi vòng khác, nó bao  gồm một tập hợp các trạm được kết nối với nhau theo các tuyến điểm­nối­ điểm để hình thành một vòng khép kín. Mỗi trạm thu các tín hiệu trên phía  đầu vào của nó và tái tạo chúng để truyền trên phía đầu ra. Về mặt lý thuyết, có thể gán vào mạng bao nhiêu trạm cũng được, tuy nhiên  các giá trị mặc định trong tiêu chuẩn FDDI giả thiết không nhiều hơn 1000  trạm được gán và một đường truyền là 200km.  FDDI sử dụng hai vòng ngược chiều nhau, một vòng sơ cấp và một vòng thứ  cấp. Lưu lượng số liệu thường đi theo vòng sơ cấp. Vòng thứ cấp hoạt động  theo hướng ngược và có khả năng khắc phục sự cố. Nếu được cấu hình hợp  lý, các trạm có thể phát đồng thời trên cả hai vòng, do vậy băng thông của  mạng tăng gấp đôi.
  6. Hình 3. Cấu trúc topo vòng kép của FDDI với ba kiểu thiết bị liên kết Có ba cấp trang thiết bị được sử dụng trong môi trường FDDI: các trạm gán  đơn (SAS­Single attached stations), các trạm gán kép (DAS ­ Dual attached  stations) và các bộ tập trung (CON­ Concentrator). DAS kết nối vật lý với cả hai vòng, trong khi SAS chỉ kết nối với vòng sơ  cấp qua một bộ tập trung. Trong trường hợp hỏng một tuyến nối, kỹ thuật  mạch bên trong của DAS có thể khôi phục hoạt động mạng bằng cách kết  hợp sử dụng cả hai vòng sơ cấp và thứ cấp. Nếu một sự cố xảy ra giữa một  bộ kết nối và một SAS thì SAS này bắt đầu bị cô lập khỏi mạng. Ba kiểu trang thiết bị này có thể được bố trí theo một trong ba cấu trúc topo:  vòng kép, hình cây và vòng kép của các cây (Hình 3). Theo cấu trúc topo  vòng kép, các DAS tạo nên một vòng vật lý; trong trường hợp này tất cả các  trạm đều được gắn kép. Theo cấu trúc tôpô hình cây, các SAS đầu xa được  kết nối tới một bộ tập trung, bộ tập trung này lại được nối tới một bộ tập 
  7. trung khác trên vòng chính. Bất kỳ DAS nào kết nối tới một bộ tập trung đều đóng vai trò một SAS. Các  bộ tập trung có thể được sử dụng để tạo ra một hệ phân cấp mạng gọi là một  vòng kép của các cây. Cấu trúc topo này cung cấp một thiết kế hệ thống linh  hoạt, có phân cấp, rất hiệu quả kinh tế. Các thiết bị đòi hỏi các mức truyền  thông có độ tin cậy cao đều được gắn vào vòng chính. Như vậy, các thiết bị  SAS có thể truyền thông với vòng chính mà không cần tăng thêm chi phí  trang bị thêm cho chúng một giao diện vòng kép hoặc một khả năng chạy  suốt cả vòng kín, trong đó đòi hỏi phải bảo đảm độ tin cậy của vòng trong  trường hợp hư hỏng trạm. Khắc phục hư hỏng FDDI cung cấp một chuyển mạch rẽ nhánh tuỳ chọn tại mỗi nút để khắc  phục hư hỏng ở bất cứ chỗ nào trên nút. Trong trường hợp hỏng một nút thì  sẽ bỏ qua nút này về mặt quang và tách nó ra khỏi mạng. Có thể bỏ qua tối  đa ba nút liên tiếp; công suất quang vẫn đủ để hỗ trợ các phần hoạt động  khác của mạng. Hình 4. Khả năng tự sửa của cấu trúc topo vòng kép Trường hợp bị đứt cáp, cấu trúc topo vòng kép ngược chiều nhau này của  FDDI cho phép sử dụng cáp dự phòng để xử lý lưu lượng 100Mbit/s tiêu 
  8. chuẩn. Nếu cả hai đường cáp sơ cấp và thứ cấp đều hỏng thì các trạm lân cận  của chỗ bị hỏng sẽ tự động vòng trở lại và chuyển dữ liệu giữa hai vòng nói  trên, do vậy tạo nên một vòng hình chữ C mới trong các phần còn đang hoạt  động của hai vòng ban đầu (Hình 4). Khi sự cố đã được khắc phục, mạng sẽ  tự tái cấu hình trở lại như cũ. Các bộ tập trung của FDDI thường cung cấp hai bus tương ứng với hai vòng  đường trục của FDDI. Khả năng tự khắc phục hư hỏng cũng được cung cấp  cho các trạm kết nối tới vòng qua một bộ tập trung, bởi vì bộ tập trung cung  cấp chức năng đấu vòng cho các trạm được gắn. Tóm tắt Một phương án mở rộng của FDDI, gọi là FDDI­2, sử dụng từng phần băng  thông 100Mbit/s để vận chuyển thoại và video, giống hệt như công nghệ  chuyển mạch tế bào của Phương thức truyền dẫn không đồng bộ (ATM).  Tuy nhiên, trong khi FDDI bị giới hạn về mặt cự ly thì ATM là một công  nghệ nối mạng mà băng thông có khả năng mở rộng cao nên nó bao trùm cả  hai môi trường LAN và WAN. Điều này chứng tỏ rằng, cuối cùng ATM sẽ  chi phối toàn bộ các mạng doanh nghiệp, đặc biệt là để vận hành các ứng  dụng đa phương tiện.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0