intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo dục biến đổi khí hậu trong trường phổ thông qua kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc và Singapore

Chia sẻ: ViNasa2711 ViNasa2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

58
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Biến đổi khí hậu toàn cầu được xem là mối quan tâm hàng đầu của thế giới hiện nay, đe dọa đến mục tiêu phát triển bền vững và tương lai của toàn nhân loại. Châu Á, trong đó có Việt Nam, là một trong những khu vực chịu nhiều tổn thương và hậu quả nặng nề do biến đổi khí hậu gây ra.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo dục biến đổi khí hậu trong trường phổ thông qua kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc và Singapore

VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 216-221<br /> <br /> <br /> <br /> GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG<br /> QUA KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN, TRUNG QUỐC VÀ SINGAPORE<br /> Nguyễn Thị Hiển, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế<br /> <br /> Ngày nhận bài: 07/01/2019; ngày chỉnh sửa: 15/01/2019; ngày duyệt đăng: 26/3/2019.<br /> Abstract: Global climate change, which threatens the humankind’s objective of sustainable<br /> development and their future, is considered an urgent issue in the contemporary world. Asia,<br /> including Vietnam, is one of the most vulnerable and severely impacted areas by climate change.<br /> Therefore, climate change education in schools, along with other solutions of the economy,<br /> infrastructure, politics, would be a strategic solution that many countries around the world have<br /> paid attention to. The methods and forms of climate change education in schools of some Asian<br /> developed nations such as Japan, China, and Singapore will be precise experiences for Vietnam to<br /> strengthen the effectiveness of education to respond to climate change for school students.<br /> Keywords: Climate change, education, schools, Asia, Vietnam.<br /> <br /> 1. Mở đầu mức độ và cường độ phát thải khí nhà kính, đồng thời<br /> “Biến đổi khí hậu” (BĐKH) là khái niệm được dùng tăng bể hấp thụ khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu. Thích<br /> để chỉ những thay đổi của khí hậu vượt ra khỏi trạng thái ứng là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên và con người đối<br /> trung bình đã được duy trì trong một khoảng thời gian với môi trường nhằm làm giảm khả năng bị tổn thương<br /> dài, thường là một vài thập kỉ hoặc dài hơn [1]. Chương và tận dụng các cơ hội mà BĐKH mang lại. Giáo dục<br /> trình môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) nhận định, nằm trong nhóm giải pháp thích ứng. Giáo dục biến đổi<br /> BĐKH được xếp vào dạng vấn đề an ninh “phi truyền khí hậu (GDBĐKH) là “quá trình giáo dục sử dụng các<br /> thống” và được xem là một trong những thách thức lớn tiếp cận sư phạm định hướng hành động, giáo dục giúp<br /> nhất đối với “an ninh môi trường - phát triển toàn cầu”. cho người dân và thế hệ trẻ nâng cao kiến thức, kĩ năng,<br /> giá trị và thái độ đối với việc giảm thiểu và thích ứng có<br /> Châu Á - Thái Bình Dương là một khu vực rộng lớn<br /> hiệu quả với biến đổi khí hậu nhằm mục tiêu phát triển<br /> bao gồm nhiều quốc gia châu Á và các quốc gia nằm ven<br /> bền vững” [4]. Đây được xem là một trong những biện<br /> bờ Tây Thái Bình Dương, chiếm đến hơn 60% dân số<br /> pháp chiến lược hữu hiệu, lâu dài và quan trọng đối với<br /> toàn thế giới. Đây là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề bởi<br /> cuộc chiến chống BĐKH ở bất cứ một cấp độ nào.<br /> các thảm họa thiên nhiên do BĐKH gây ra cao gấp 5 lần<br /> các khu vực khác trên thế giới. Theo số liệu của Liên 2. Nội dung nghiên cứu<br /> Hiệp Quốc, năm 2016 tại khu vực này, bão, lũ lụt và nhiệt 2.1. Giáo dục biến đổi khí hậu ở Nhật Bản, Trung Quốc<br /> độ cao đã làm chết 4.987 người, ảnh hưởng tới 34,5 triệu và Singapore<br /> người. Năm 2015, trong tổng số 90 cơn bão toàn cầu, 344 2.1.1. Nhật Bản<br /> thảm họa thiên tai thì có đến gần 50% số đó xuất hiện ở Nhật Bản là một quốc gia quần đảo ở khu vực Đông<br /> các quốc gia và vũng lãnh thổ trong khu vực châu Á - Á, nằm trên vành đai núi lửa Thái Bình Dương với hơn<br /> Thái Bình Dương. Nhiều thành phố của các quốc gia 80 núi lửa đang hoạt động trên lãnh thổ, mỗi năm trung<br /> châu Á đang đứng trước nguy cơ bị nước biển nhấn chìm bình người dân Nhật Bản phải gánh chịu 1.500 trận động<br /> do mực nước biển dâng - hậu quả trực tiếp của sự tan đất lớn nhỏ. Trong đó có nhiều trận động đất lớn kèm<br /> băng ở Bắc và Nam cực [2]. Hậu quả do biến đổi khí hậu theo sóng thần đã gây nên những thiệt hại vô cùng<br /> còn thể hiện ở sự xâm nhập mặn của nước biển sâu trong nghiêm trọng về người và tài sản: Động đất Kanto năm<br /> nội địa làm nhiễm mặn nước ngầm, giảm chất lượng 1923, động đất Kobe năm 1995, động đất sóng thần<br /> nguồn nước ngọt và số lượng các loài sinh vật trong hệ Fukushima năm 2011... Diễn biến ngày càng phức tạp<br /> sinh thái nước ngọt, làm gia tăng bệnh tật nhất là các bệnh của BĐKH sẽ tác động trực tiếp, nghiêm trọng đến lãnh<br /> mùa hè, sản xuất nông nghiệp khó khăn làm gia tăng tình thổ Nhật Bản và đe dọa sự phát triển bền vững của quốc<br /> trạng thiếu lương thực và trẻ em suy dinh dưỡng ở nhiều gia này trong tương lai. Do đó, ngay từ sớm Nhật Bản đã<br /> quốc gia... chú trọng đến các biện pháp để giảm nhẹ thiên tai và<br /> Chính sách ứng phó với BĐKH gồm hai phần chính BĐKH. Bên cạnh các giải pháp về hạ tầng, kinh tế, chính<br /> là giảm nhẹ BĐKH và thích ứng với BĐKH [3]. Giảm trị thì giáo dục được xem là giải pháp hàng đầu, cốt lõi<br /> nhẹ là chiến lược hành động nhằm giảm đến mức tối đa trong việc đào tạo ra những con người có tài, có kỉ luật<br /> <br /> 216 Email: bichhien85@gmail.com<br /> VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 216-221<br /> <br /> <br /> và có khả năng đấu tranh sinh tồn với sự khắc nghiệt của Quốc thực sự tăng nhanh hơn so với nhiệt độ trung bình<br /> tự nhiên ở quốc gia này. toàn cầu và dự đoán sẽ tăng thêm 2,5oC-4,5oC vào cuối thế<br /> Giáo dục thiên tai và ứng phó với BĐKH ở Nhật Bản kỉ này [6]. Do đó, trong những năm gần đây Trung Quốc<br /> được phổ biến ở mọi tầng lớp xã hội, từ các cơ quan chính cũng đang tích cực phối hợp với nhiều quốc gia và khu<br /> phủ, doanh nghiệp tư nhân đến trường học. Trong đó, vực trên thế giới để đề ra nhiều biện pháp nhằm hạn chế<br /> trường học đóng một vai trò quan trọng trong chiến dịch và khắc phục những ảnh hưởng của BĐKH. Bên cạnh các<br /> giảm nhẹ thiên tai, chuẩn bị và ứng phó với những tác giải pháp về cắt giảm khí thải, chú trọng công nghệ sản<br /> động của thiên tai. Giáo dục cũng là yếu tố quan trọng xuất, sử dụng năng lượng mặt trời, xây dựng các thành phố<br /> trong việc tăng cường khả năng phục hồi sau thảm họa. bọt biển… thì giải pháp về GDBĐKH cũng đang được<br /> Hình thức GDBĐKH chủ yếu ở các trường phổ thông chính phủ Trung Quốc chú trọng.<br /> Nhật Bản là thông qua việc tổ chức các bài giảng liên Năm 1973, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chương<br /> quan đến nội dung BĐKH và phòng chống thiên tai trên trình giáo dục môi trường ở các trường học. Có thể coi<br /> lớp cùng với việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa rèn đây là thời điểm đặt cơ sở cho việc giáo dục môi trường<br /> luyện kĩ năng cho học sinh (HS). Giáo dục Nhật Bản trong trường học ở Trung Quốc. Bộ Giáo dục Trung<br /> không chú trọng đến thành tích mà chú trọng đến hiệu Quốc trong đợt cải cách chương trình giáo dục cơ bản lần<br /> quả thực tế. Một trong những bài học đầu tiên người Nhật thứ tám (năm 2003), đã xếp giáo dục môi trường vào hệ<br /> dạy cho trẻ em chính là kĩ năng sinh tồn. Từ lúc còn học thống giáo trình giảng dạy hàng ngày ở các trường tiểu<br /> mẫu giáo, trẻ em Nhật Bản đã được tham gia vào các hoạt học và trung học nhằm giáo dục môi trường một cách có<br /> động ngoại khóa vừa chơi vừa học, lồng ghép giáo dục hệ thống và đảm bảo [3]. Năm 2003, Bộ Giáo dục nước<br /> các kĩ năng ứng phó với thảm họa thiên nhiên. này hợp tác với Quỹ Thiên nhiên Thế giới (WWF) đã ban<br /> Từ năm 1997, Bộ Giáo dục Nhật Bản đã phối hợp với hành tài liệu “Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo<br /> các bộ ban ngành để xây dựng 600 trường học sinh thái dục môi trường ở các trường tiểu học và trung học cơ<br /> khắp cả nước. Các trường học sinh thái được thiết kế và sở”, trong đó đề xuất thực hiện các loại hình và kênh đào<br /> xây dựng thân thiện với môi trường, tiện lợi trong sử dụng, tạo giáo dục môi trường, hướng dẫn mô tả chiến lược<br /> tiết kiệm năng lượng, vừa tạo ra một môi trường học tập giảng dạy, cách sử dụng một loạt các phương pháp giảng<br /> an toàn, lành mạnh vừa góp phần nâng cao ý thức của giáo dạy linh hoạt (như giảng dạy ngoài trời, tổ chức cuộc thi,<br /> viên và HS trong việc giáo dục môi trường và BĐKH. dịch vụ cộng đồng, thực địa, nghiên cứu trường hợp, sáng<br /> kiến học tập, nhấn mạnh sự chủ động của HS và sự tương<br /> Bộ Giáo dục - Văn hóa - Thể thao và Công nghệ Nhật tác hòa hợp trong giao tiếp với giáo viên) để cung cấp<br /> Bản đã đưa giáo dục ứng phó sớm với thiên tai vào giảng cho HS cơ hội chia sẻ kinh nghiệm và thành tích của họ,<br /> dạy từ cấp 1 đến cấp 3 ở các trường phổ thông trên khắp hướng dẫn HS từ vấn đề quen thuộc phát hiện ra tình<br /> cả nước. Lên các cấp học cao hơn, các trường sẽ tổ chức huống có vấn đề ở môi trường xung quanh.<br /> đào tạo kĩ năng sống cho HS một cách chặt chẽ và quy củ.<br /> Phương pháp giáo dục chủ yếu được sử dụng là các Tháng 3 năm 2010, Bộ Văn hóa Giáo dục Anh và Đại<br /> phương pháp dạy học tích cực hướng đến người học, kích sứ quán Anh hợp tác với Viện Giáo dục Trung Quốc thực<br /> thích được quá trình tư duy, động não và hướng HS đưa ra hiện dự án “Lớp học khí hậu” với mục đích giúp giáo<br /> các giải pháp khắc phục hạn chế. Các chương trình đào tạo viên Trung Quốc và Anh tiếp cận với sự phát triển và tiến<br /> thường hướng đến dạy HS kĩ năng xoay sở khi có thiên tai bộ của các nghiên cứu về GDBĐKH, đào tạo những giáo<br /> xảy ra. Sau các buổi đào tạo kĩ năng ứng phó với BĐKH, viên trẻ xuất sắc trong lĩnh vực này, hướng dẫn thanh<br /> HS sẽ được kiểm tra, đánh giá nhằm bảo đảm các kiến thức thiếu niên chủ động tham gia vào các hoạt động liên quan<br /> kĩ năng đã được tiếp nhận và ghi nhớ. Tất cả đều vì một đến BĐKH. Năm 2007, Trung Quốc ban hành chính sách<br /> mục đích chung là sự sống còn của dân tộc. quốc gia về tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải khí<br /> nhà kính bao gồm 9 chính sách với sự tham gia của toàn<br /> 2.1.2. Trung Quốc thể cộng đồng, cơ quan đoàn thể trong đó nhấn mạnh đến<br /> Trung Quốc là một trong những quốc gia dễ bị tổn vai trò và sự tham gia của tầng lớp thanh niên và trường<br /> thương và phải chịu những hậu quả nặng nề do BĐKH gây học trong cuộc chiến chống BĐKH. Năm 2009, Trung<br /> ra, điển hình là tình trạng hạn hán ở các tỉnh phía Bắc và Quốc phát hành “Chính sách và hành động của Trung<br /> lũ lụt ở các tỉnh phía Nam đã gây ra những thiệt hại lớn về Quốc về biến đổi khí hậu”, nhấn mạnh việc sử dụng các<br /> người và tài sản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, nhất phương tiện truyền thông đại chúng như sách báo, video<br /> là nông nghiệp. Chỉ tính riêng trong năm 2011, thảm họa và các hoạt động ngoại khóa về GDBĐKH cho HS sẽ<br /> thiên nhiên đã ảnh hưởng đến 430 triệu người và gây ra góp phần hình thành và phát triển cách ứng xử văn minh<br /> thiệt hại 309,6 tỉ nhân dân tệ về kinh tế. Nhiệt độ ở Trung với môi trường. Đồng thời, Bộ Giáo dục Trung Quốc<br /> <br /> 217<br /> VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 216-221<br /> <br /> <br /> cũng thực hiện các khóa đào tạo chuyên ngành và các giảng dạy Địa lí trong các trường học đã cung cấp một<br /> chuyên đề đặc biệt liên quan đến BĐKH [6]. Ngày nền tảng quan trọng để giải quyết các vấn đề bền vững<br /> 30/5/2011, “Dự án giáo dục biến đổi khí hậu ở các tiểu về môi trường. Môn Địa lí đã được đưa vào hệ thống giáo<br /> học và trung học của Trung Quốc” (CCE) ở Vân Nam dục ngay cả trước khi Singapore giành được độc lập vào<br /> bắt đầu triển khai. Trong giai đoạn đầu, CCE đã tổ chức năm 1965 và đến năm 2004 sau hơn sáu thập kỉ, môn Địa<br /> các buổi để nâng cao sự quan tâm và hiểu biết của HS lí đã trải qua các đợt đánh giá cấp quốc gia và có một<br /> tiểu học và trung học cơ sở về vấn đề BĐKH toàn cầu, chương trình giảng dạy đầy đủ, đa dạng. Hiện nay các<br /> thông qua việc thiết kế các nội dung và hoạt động giáo nội dung GDBĐKH được tích hợp trong môn học xã hội<br /> dục nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng của HS thậm ở các trường tiểu học, còn ở các trường trung học thì<br /> chí cả cộng đồng để đối phó và giải quyết các vấn đề liên GDBĐKH được giảng dạy như một chuyên đề độc lập<br /> quan đến BĐKH. GDBĐKH được lồng ghép trong các trong môn Địa lí. Đây là môn học bắt buộc đối với HS<br /> môn học liên quan từ cấp tiểu học đến cao đẳng, đại học. trung học cơ sở nhưng là môn học tự chọn đối với HS<br /> Riêng trung học phổ thông, có một chuyên đề bắt buộc trung học phổ thông, trung cấp nghề và sinh viên đại học.<br /> và hai chuyên đề tự chọn về Địa lí có nhiều nội dung Chương trình giảng dạy bao gồm: thông tin về BĐKH<br /> chuyên sâu GDBĐKH như: chuyên đề Bảo vệ môi như sự nóng lên toàn cầu, nguyên nhân và tác động của<br /> trường, chuyên đề Thảm họa tự nhiên và cách phòng BĐKH và các chiến lược thích ứng, giảm nhẹ. Ngoài ra,<br /> tránh, chuyên đề Tài nguyên - Môi trường và an toàn nội dung GDBĐKH còn được tích hợp và lồng ghép vào<br /> quốc gia. Các chuyên đề này được giáo viên Địa lí đảm các môn học khác như nghiên cứu xã hội, nhân văn.<br /> nhận và có sách giáo khoa riêng, thời lượng mỗi chuyên Ngày 24/4/2013, Quỹ thiên nhiên Thế giới Singapore<br /> đề là 30 tiết [7]. đã đưa vào thực nghiệm chương trình giáo dục môi<br /> Hiện nay, Trung Quốc đã có một hệ thống giáo dục trường quốc tế Eco-Schools ở các trường tiểu học và<br /> tương đối đa dạng, đa cấp, đa kênh về giáo dục môi trung học, sau đó mở rộng ra các trường mẫu giáo và các<br /> trường và BĐKH, phù hợp với những với đặc điểm của cơ sở giáo dục đại học. Các chủ đề chính của Eco-<br /> Trung Quốc. Schools bao gồm: BĐKH, thiên nhiên và đa dạng sinh<br /> 2.1.3. Singapore học, chất thải, năng lượng và nước. Yêu cầu của chương<br /> Singapore - quốc đảo nằm ở Đông Nam Á với diện trình giáo dục Eco-Schools là kết nối cộng đồng cùng<br /> tích chỉ 719 km2 và dân số khoảng 5,7 triệu người (2017) thực hiện, bao gồm cả giáo viên và HS, phụ huynh và các<br /> - là một trong những quốc gia chịu tác động mạnh mẽ tổ chức liên quan. Mỗi trường sau khi thực hiện mục tiêu<br /> của BĐKH. Từ năm 1972 đến năm 2014, nhiệt độ trung đặt ra của Eco-Schools sẽ được kiểm tra, đánh giá và<br /> bình hàng năm ở quốc đảo này đã tăng từ 26,6°C đến công nhận trên toàn cầu là trường HS thái chất lượng cao.<br /> 27,7°C. Mực nước biển ở eo biển Singapore cũng tăng Ngoài ra, Singapore còn tiến hành giáo dục cho HS<br /> lên với tốc độ từ 1,2-1,7 mm mỗi năm trong giai đoạn từ các kĩ năng để giải quyết các vấn đề môi trường thông<br /> 11975 - 2009. Lượng mưa trung bình tăng nhanh hơn qua một chương trình mang tên Kế hoạch xanh Shuqun<br /> trong những năm gần đây, từ 2.192 mm (1980) lên 2.727 (2012). Chương trình này tập trung vào sáu lĩnh vực<br /> mm (2014). Là một hòn đảo thấp, mực nước biển dâng chính của bảo tồn thiên nhiên và môi trường. HS sẽ được<br /> cao đặt ra mối đe dọa trực tiếp nhất đến Singapore. Các tham gia thảo luận tích cực về những thách thức môi<br /> nhà khoa học dự đoán đến năm 2020, mực nước biển sẽ trường và BĐKH, từ đó đề xuất ra những giải pháp giảm<br /> tăng lên 1,8 m với nhiều cơn bão dữ tác động vào lãnh nhẹ và bảo tồn các giá trị môi trường. Thông qua phương<br /> thổ nước này. Tác động của BĐKH ở Singapore còn thể pháp học tập tích cực, chủ động và sáng tạo, HS sẽ được<br /> hiện ở sự gia tăng các hiện tượng thời tiết bất thường như đào tạo những kĩ năng để có thể chuyển những kiến thức<br /> lũ lụt, lũ quét, hạn hán; làm thay đổi quá trình tự nhiên đã học thành những hành động tích cực bảo vệ môi<br /> của hệ sinh thái, ảnh hường đến sức khỏe cộng đồng với trường. Sáu lĩnh vực chính của Chương trình giáo dục<br /> việc gia tăng các loại bệnh truyền nhiễm, gia tăng sự căng môi trường bao gồm: bảo vệ nguồn nước (lớp 1), bảo vệ<br /> thẳng khó chịu ở những người cao tuổi và vấn đề an toàn và tiết kiệm nguồn điện (lớp 2), bảo tồn động vật (lớp 3),<br /> thực phẩm. quản lí rác thải (lớp 4), những thách thức về Môi trường<br /> Chính phủ Singapore nhận thấy rằng chiến lược dài ở Singapore (lớp 5), những thách thức môi trường toàn<br /> hạn để giảm thiểu BĐKH và các vấn đề môi trường khác cầu (lớp 6).<br /> chính là giáo dục thế hệ trẻ và rèn luyện cho HS những Nhìn chung GDBĐKH trong các trường học ở<br /> thói quen thân thiện với môi trường. Để đạt được điều Singapore được thực hiện tương đối đồng bộ, hiện đại và<br /> này, GDBĐKH đã được đưa vào chương trình giảng dạy mang lại hiệu quả cao, là một tấm gương đáng để các<br /> và học tập môn Địa lí [8] [9]. Các học giả cho rằng việc nước học tập.<br /> <br /> 218<br /> VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 216-221<br /> <br /> <br /> 2.2. Thực trạng và giải pháp giáo dục biến đổi khí hậu phó với BĐKH cho các cấp học. Bộ GD-ĐT đã định<br /> ở Việt Nam hướng đưa vấn đề GDBĐKH thành một nội dung giảng<br /> 2.2.1. Thực trạng giáo dục biến đổi khí hậu ở Việt Nam dạy quan trọng trong các trường phổ thông và được giảng<br /> Theo thống kê rủi ro lâu dài do BĐKH, Việt Nam dạy linh hoạt, phù hợp đối với từng cấp học. Cụ thể, bậc<br /> đứng thứ năm trên toàn thế giới về mức độ ảnh hưởng mầm non sẽ được GDBĐKH thông qua tuyển tập các bài<br /> nghiêm trọng do BĐKH gây ra với số người chết trung thơ, bài hát, trò chơi...; cấp tiểu học, THCS, THPT, các<br /> bình hàng năm khoảng 400 người và thiệt hại hơn 1% trung tâm GDTX chủ yếu biên soạn tài liệu tích hợp lồng<br /> GDP. Trong vòng 50 năm qua ở Việt Nam nhiệt độ trung ghép nội dung GDBĐKH vào các môn học như Tự nhiên<br /> bình đã tăng khoảng 0,5-0,7oC, mực nước biển đã dâng và Xã hội, Địa lí, Sinh học, Kĩ thuật nông nghiệp, Giáo<br /> khoảng 20 cm, hiện tượng El Nino và La Nina ngày càng dục công dân…; ở các trường đại học, cao đẳng khối sư<br /> tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Hàng năm, Việt Nam phạm, nội dung này đã được đưa thành một chương riêng<br /> phải đối mặt với nhiều loại hình thiên tai thường xuyên trong học phần “Con người và Môi trường”, “Khoa học<br /> xảy ra như: áp thấp nhiệt đới, bão, lũ, lũ quét, ngập lụt, môi trường”, “Môi trường và phát triển bền vững” [12].<br /> lốc xoáy, mưa đá, động đất, sạt lở đất, hạn hán, cháy Ngày 21/2/2013 tại Hà Nội, Cơ quan Hợp tác Phát<br /> rừng, xâm nhập mặn… [10]. triển Quốc Thụy Điển và Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ<br /> Khái niệm BĐKH bắt đầu “du nhập” vào Việt Nam trợ Giáo dục vì phát triển bền vững đã tổ chức hội thảo<br /> khoảng 20 năm nay và thực sự trở thành một vấn đề thời “Giáo dục về biến đổi khí hậu”, nhằm phát triển năng lực<br /> sự nóng từ khoảng 10 năm nay. Thông tư phê duyệt giảng dạy và nghiên cứu GDBĐKH tại các trường phổ<br /> Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu được Thủ tướng thông bằng phương pháp hiện đại, thu hút sự tìm tòi, yêu<br /> Nguyễn Tấn Dũng kí ngày 05/12/2011 đã nêu rõ: Cần thích của HS. 06 trường được thí điểm đầu tiên đó là 02<br /> nâng cao nhận thức cho các thành phần xã hội về vấn đề trường tại Hải Phòng, 01 trường tại Hà Nội, 01 trường tại<br /> BĐKH; Xây dựng các phương pháp phù hợp nhằm tiếp Đồng Tháp và 02 trường tại Thừa Thiên Huế.<br /> cận và sử dụng thông tin về BĐKH cho các thành phần Tuy nhiên trên thực tế, BĐKH chưa được xây dựng<br /> xã hội; Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến thành một môn học riêng ở trường phổ thông, chưa có sách<br /> về tác động, nguy cơ và cơ hội từ BĐKH; Đưa kiến thức giáo khoa, giáo trình giảng dạy riêng, do đó chưa được chú<br /> cơ bản về BĐKH vào trong các chương trình ở các bậc trọng và đầu tư một cách đầy đủ về nội dung chương trình,<br /> học; Tăng cường ý thức, trách nhiệm cá nhân và trách cơ sở vật chất, đào tạo giáo viên chuyên sâu. Hiện nay nội<br /> nhiệm cộng đồng trong phòng, tránh và khắc phục hậu dung GDBĐKH chỉ mới được tích hợp, lồng ghép vào một<br /> quả thiên tai [11]... Thế hệ trẻ Việt Nam bao gồm sinh số môn học trong trường phổ thông như Địa Lí, Sinh học,<br /> viên và HS các cấp (chiếm 25% dân số) có thể coi là một Vật lí, Hóa học, Giáo dục công dân, Công nghệ… và thông<br /> nhân tố và lực lượng quan trọng trong việc ứng phó với qua một số dự án, một số hoạt động ngoại khóa tổ chức<br /> BĐKH, giúp cho các nhà quản lí đất nước trong tương trong trường học để GDBĐKH. Điều này đã gây nên hạn<br /> lai có được nhận thức đầy đủ, tầm nhìn bao quát trong chế rất lớn cho vấn đề GDBĐKH: Bản thân nội dung các<br /> công cuộc ứng phó lâu dài với BĐKH. môn học ở phổ thông bao gồm nhiều vấn đề đặc trưng của<br /> Thời gian qua, ngành Giáo dục đã triển khai thực môn học, thậm chí nhiều môn học còn bị tình trạng chương<br /> hiện, cụ thể hóa Chiến lược quốc gia phòng, chống và trình quá tải, thời lượng giảng dạy hạn hẹp, do đó tích hợp,<br /> giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020 và một số đề án, chương lồng ghép GDBĐKH chỉ có thể chiếm một nội dung và thời<br /> trình mục tiêu ứng phó BĐKH của Chính phủ. Bộ GD- lượng nhỏ trong chương trình, rất khó để giáo viên có thể<br /> ĐT cũng đã ban hành “Kế hoạch hành động thực hiện GDBĐKH cho HS một cách hiệu quả và có hệ thống.<br /> Chiến lược Quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai Hiện nay, một số địa phương ở Việt Nam, đặc biệt là<br /> của ngành Giáo dục giai đoạn 2011-2020” và “Kế hoạch những nơi bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các thiên tai do<br /> Hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của ngành Giáo BĐKH gây ra, đã xuất hiện những dự án do Bộ GD-ĐT<br /> dục giai đoạn 2011-2015”, đồng thời Bộ GD-ĐT cũng phối hợp với địa phương hoặc do các tổ chức giáo dục, môi<br /> tăng cường quan hệ hợp tác với các bộ, ngành, các tổ trường nước ngoài phối hợp với địa phương tổ chức tập<br /> chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh huấn cho giáo viên về nội dung, phương pháp và phương<br /> vực quản lí rủi ro thiên tai tại Việt Nam. Trong năm 2014 thức GDBĐKH cho HS phổ thông. Tuy nhiên do giới hạn<br /> và năm 2015, Bộ GD-ĐT đã tổ chức thực hiện các đề án về kinh phí, cơ sở vật chất và nhiều yếu tố khác nên các hoạt<br /> đã được phê duyệt; tập huấn đội ngũ giáo viên về tích động này chỉ có thể thực hiện thí điểm được ở một số trường<br /> hợp giáo dục phòng, chống thiên tai và ứng phó với tại một số tỉnh thành của Việt Nam, trong những khoảng<br /> BĐKH trong các cơ sở giáo dục cũng như xây dựng bài thời gian nhất định, chứ chưa có điều kiện phổ biến rộng rãi<br /> giảng điện tử E-learning về phòng, chống thiên tai và ứng đến giáo viên và HS trung học phổ thông trong cả nước.<br /> <br /> 219<br /> VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 216-221<br /> <br /> <br /> Bên cạnh đó, GDBĐKH ở Việt Nam hiện nay vẫn - Đổi mới hình thức và phương pháp giáo dục để kích<br /> còn tồn tại nhiều hạn chế như: bản thân nhiều giáo viên thích sự hứng thú quan tâm của HS phổ thông đến vấn đề<br /> chưa ý thức được tầm quan trọng của GDBĐKH; lương BĐKH. Đối với hình thức giảng dạy nội khóa trên lớp,<br /> thấp khiến nhiều giáo viên phải dành thời gian bươn chải, giáo viên cần chú trọng đến các phương pháp giảng dạy<br /> chưa toàn tâm toàn ý cho giáo dục; nhiều giáo viên nữ bị “lấy người học làm trung tâm”, kích thích tính tích cực chủ<br /> ảnh hưởng bởi công việc gia đình và chăm sóc con cái; động sáng tạo của người học, giúp HS quan tâm đến các<br /> nhiều giáo viên lớn tuổi không tiếp xúc nhiều với công vấn đề môi trường, BĐKH, đồng thời khuyến khích các<br /> nghệ, truyền thông để có thể hỗ trợ tốt cho GDBĐKH; em tư duy tìm giải pháp để giải quyết các vấn đề đó. Giáo<br /> một số địa phương kinh tế kém phát triển và thiếu cơ sở viên cần chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong<br /> vật chất kĩ thuật cũng ảnh hướng đến việc thiết kế và tổ giảng dạy bằng cách cung cấp cho HS hình ảnh, video, dữ<br /> chức các hoạt động GDBĐKH… liệu, thông tin về BĐKH để kích thích hứng thú học tập,<br /> 2.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục biến đổi khí giúp HS quan tâm hơn đến những vấn đề BĐKH. Đối với<br /> hậu ở Việt Nam các hoạt động ngoại khóa, giáo viên cần đa dạng hóa và<br /> thu hút HS tham gia thông qua các hoạt động trải nghiệm<br /> Từ thực tiễn, kinh nghiệm GDBĐKH ở các nước sáng tạo, vừa chơi vừa học như: thành lập và hoạt động<br /> châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore cùng câu lạc bộ ứng phó với BĐKH, tổ chức các cuộc thi tìm<br /> những tồn tại trong công tác GDBĐKH ở các trường phổ hiểu về nhận thức và kĩ năng BĐKH, tổ chức các lớp tập<br /> thông Việt Nam hiện nay, chúng tôi đề xuất một số giải huấn kĩ năng ứng phó với BĐKH (sơ cứu vết thương,<br /> pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục BĐKH trong trường chằng chống nhà cửa, bơi và thở dưới nước…), tổ chức<br /> phổ thông như sau: các hoạt động bảo vệ môi trường ở trường học và địa<br /> - Tăng cường xây dựng các nguồn lực về cơ sở vật phương, tuyên truyền bảo vệ môi trường, tổ chức chiến<br /> chất hạ tầng phục vụ GDBĐKH. Huy động các nguồn dịch Giờ Trái đất, tổ chức tham quan, thực địa đến các<br /> đầu tư từ Bộ GD-ĐT, các cơ quan ban ngành, địa điểm nóng về môi trường… Các hoạt động ngoại khóa cần<br /> phương, từ các cá nhân và cộng đồng để xây dựng cho có sự phối hợp với các tổ chức Đoàn, Đội, Hội HS... trong<br /> HS môi trường học tập xanh - sạch - đẹp, thân thiện môi nhà trường, kêu gọi sự hợp tác của Hội phụ huynh, các tổ<br /> trường. Cần tổ chức nghiên cứu, thiết kế mô hình và xây chức cộng đồng ở địa phương.<br /> dựng thí điểm mẫu trường, lớp học phòng, chống thiên - Đào tạo đội ngũ giáo viên có trình độ và kĩ năng cần<br /> tai tại những khu vực đặc thù. thiết để thực hiện GDBĐKH cho HS. Các trường đại học<br /> - Tăng cường công tác quản lí, chỉ đạo về GDBĐKH. sư phạm cần có chuyên ngành đào tạo giáo viên BĐKH<br /> Lãnh đạo nhà trường cần quán triệt nhiệm vụ GDBĐKH để tạo ra đội ngũ giáo viên chuyên sâu có kiến thức và kĩ<br /> đến từng cán bộ và giáo viên trong toàn trường; tổ chức năng trong công tác này. Giáo viên của những môn học<br /> các hoạt động thân thiện với môi trường, cải thiện môi có thể lồng ghép, tích hợp nội dung GDBĐKH cần được<br /> trường trường học. Các trường học cần phối hợp chặt chẽ tham gia thường xuyên các lớp tập huấn để nâng cao<br /> với địa phương và cộng đồng dân cư tại khu vực trường nhận thức, trình độ và phương pháp giáo dục nhằm hỗ<br /> đóng để tổ chức hiệu quả các hoạt động GDBĐKH, kết trợ cho giảng dạy.<br /> hợp với giáo dục môi trường. - Cần điều chỉnh chế độ lương, thưởng hợp lí để nâng<br /> cao chất lượng cuộc sống cho giáo viên, giúp họ có thể<br /> - Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các nguồn tài<br /> chuyên tâm tập trung cho công tác giảng dạy chuyên<br /> liệu, sách giáo khoa phục vụ cho công tác GDBĐKH<br /> môn. Xây dựng và ban hành các quy chế, chế độ khen<br /> như: (1) Xây dựng chương trình GDBĐKH thành một<br /> thưởng và đãi ngộ thoả đáng cho các cán bộ quản lí, giáo<br /> môn học hoặc chuyên đề dạy học riêng ở trường phổ<br /> viên có thành tích về GDBĐKH.<br /> thông, có sách giáo khoa riêng và có giáo viên chuyên<br /> môn về GDBĐKH; (2) Tiếp tục lồng ghép tích hợp nội - Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực<br /> dung GDBĐKH vào các môn học có liên quan như Địa GDBĐKH thông qua các dự án hợp tác với nước ngoài<br /> lí, Sinh học, Kĩ thuật nông nghiệp, Giáo dục công dân, để học hỏi những kinh nghiệm, tài liệu, phương pháp hay<br /> Hóa học, Công nghệ…; (3) Biên soạn và phát hành rộng của các quốc gia trên thế giới và tìm kiếm những sự hỗ<br /> rãi các tài liệu phục vụ GDBĐKH đến tận từng giáo viên trợ, đầu tư nhằm phát triển và nâng cao chất lượng<br /> và HS trong các trường học; (4) Xây dựng website GDBĐKH ở Việt Nam.<br /> GDBĐKH nhằm tận dụng lợi thế của cách mạng công 3. Kết luận<br /> nghiệp 4.0 vào GDBĐKH; (5) Xây dựng bài giảng điện BĐKH toàn cầu đã, đang và sẽ tác động nghiêm trọng<br /> tử e-learning về phòng, chống thiên tai và ứng phó với đến sự phát triển KT-XH của các quốc gia trên thế giới,<br /> BĐKH cho các cấp học, bậc học. đe dọa đến sự phát triển bền vững của toàn nhân loại, đặc<br /> <br /> 220<br /> VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 216-221<br /> <br /> <br /> biệt là những khu vực dễ bị tổn thương như châu Á - Thái THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP…<br /> Bình Dương, trong đó có Việt Nam. Đối phó với BĐKH, (Tiếp theo trang 183)<br /> ngăn ngừa những tác động có hại của nó là một cuộc<br /> chiến đấu chung, lâu dài đòi hỏi mọi người, mọi quốc gia<br /> phải chung tay góp sức. Đồng thời, mỗi quốc gia cần dựa Bước 3. Tổ chức các hoạt động học tập cho HS.<br /> trên những đặc điểm đặc thù về tự nhiên, dân cư, KT-XH Bước 4. Tổng kết kiến thức và giao các nhiệm vụ về<br /> của mình để đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm ứng nhà cho HS: nhằm tổng kết các hoạt động HS đã thực<br /> phó với thiên tai và những diễn biến ngày càng phức tạp hiện. Những kiến thức cơ bản được nhắc lại dưới dạng<br /> của BĐKH. Trong đó, không riêng Việt Nam mà bất cứ cô đọng, súc tích, nhất là ở các sơ đồ, mô hình, tài liệu<br /> quốc gia nào cũng cần chú trọng đến giáo dục như một trực quan, liên hệ kiến thức đã học với thực tiễn. GV<br /> giải pháp lâu dài và bền vững nhằm nâng cao nhận thức hướng dẫn HS thực hiện các nhiệm vụ học tập ở nhà,<br /> về BĐKH, rèn luyện kĩ năng ứng phó với thiên tai và cách đọc tài liệu tham khảo để bổ sung kiến thức; từ đó,<br /> thay đổi thái độ để có những hành động bảo vệ môi giúp các em yêu thích và say mê học tập môn Toán.<br /> trường cho thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của nhân loại. 3. Kết luận<br /> Đối với HS tiểu học thì tư duy trực quan và hình<br /> Tài liệu tham khảo tượng chiếm ưu thế, nhận thức của các em chủ yếu là<br /> [1] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012). Kịch bản biến nhận thức trực quan cảm tính; khả năng phân tích, tổng<br /> đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam. NXB hợp, làm rõ mối liên hệ giữa các kiến thức trong quá trình<br /> Tài nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam. lĩnh hội tri thức mới cũng như trong thực hành chưa sâu<br /> [2] ADB (2017). A Region at Risk - The Human sắc. Do vậy, để giúp HS lớp 5 học tốt môn Toán về Tỉ số<br /> Dimensions of Climate Change in Asia and the phần trăm, GV cần tập luyện cho HS có thói quen phân<br /> Pacific. Publication Stock No. TCS178839-2. tích, nhận diện các dạng toán trước khi đưa ra cách giải;<br /> [3] Han, Q. (2015). Education for Sustainable Development có sự gợi ý, hướng dẫn để HS hiểu ý nghĩa của tỉ số phần<br /> and Climate Change Education in China: A Status trăm trong từng tình huống cụ thể, thiết kế một số bài<br /> Report. SAGE Publications, Vol. 9 (1), pp. 62-67. toán tích hợp về Tỉ số phần trăm nhằm giúp các em phát<br /> [4] UNESCO (2010). “Climate Change Education for huy tính sáng tạo, khả năng suy luận, tạo không khí lớp<br /> Sustainable Development”, Decade of Education học sôi nổi, hào hứng,…; qua đó góp phần nâng cao chất<br /> for Sustainable Development. Published by lượng dạy và học.<br /> UNESCO France.<br /> [5] UNESCO (2012). Education Sector Responses to Tài liệu tham khảo<br /> Climate Change. Published by UNESCO Bangkok.<br /> [1] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ<br /> [6] Li Yan ( 2014). Luận bàn cách thức giáo dục biến<br /> thông - Chương trình tổng thể.<br /> đổi khí hậu cho thanh thiếu niên. Tạp chí Kinh tế<br /> thương mại và Xã hội Trung Quốc, số 23, tr 34-35. [2] Đỗ Đình Hoan (chủ biên, 2006). Toán 5. NXB Giáo<br /> [7] Bộ Giáo dục nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2017). dục.<br /> Chương trình giáo dục Địa lí trung học phổ thông chuẩn. [3] Trần Diên Hiển (chủ biên, 2018). Bài tập phát triển<br /> [8] Chang, C. H. (2012). The Changing Climate of năng lực. NXB Giáo dục Việt Nam.<br /> Teaching and Learning School Geography: The Case of [4] Đỗ Đình Hoan (chủ biên) - Nguyễn Áng - Đỗ Tiến<br /> Singapore. International Research in Geographical and Đạt (2007). Hỏi - Đáp về dạy học Toán 5. NXB Giáo<br /> Environmental Education, Vol. 21 (4), pp. 283-285. dục.<br /> [9] Chang, C. H. (2014). Is Singapore's School Geography [5] Đỗ Trung Hiệu - Đỗ Đình Hoan - Vũ Dương Thụy<br /> Becoming Too Responsive to the Changing Needs of - Vũ Quốc Chung (1995). Phương pháp dạy học<br /> Society? International Research in Geographical and môn Toán ở tiểu học. NXB Đại học Sư phạm.<br /> Environmental Education, Vol. 23 (1), pp. 25-39. [6] Nguyễn Bá Kim (2005). Phương pháp dạy học môn<br /> [10] Nguyễn Trọng Hiệu - Trọng Thục - Trần Văn Thắng Toán. NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.<br /> (2010). Biến đổi khí hậu và tác động ở Việt Nam. [7] Kiều Đức Thành (chủ biên, 2001). Một số vấn đề về<br /> NXB Giáo dục Việt Nam. nội dung và phương pháp dạy học môn Toán ở tiểu<br /> [11] Đặng Duy Lợi - Đào Ngọc Hùng (2016). Giáo trình học. NXB Giáo dục.<br /> Biến đổi khí hậu. NXB Đại học Sư phạm. [8] Phan Trọng Ngọ - Nguyễn Đức Hướng (2001). Các<br /> [12] Lê Văn Khoa (chủ biên, 2012). Giáo dục ứng phó lí thuyết phát triển tâm lí. NXB Đại học Quốc gia<br /> với biến đổi khí hậu. NXB Giáo dục Việt Nam. Hà Nội.<br /> <br /> 221<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2