intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình -công nghệ di truyền - chương 5

Chia sẻ: Song Song Cuoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:30

214
lượt xem
71
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chuyển DNA vào trong tế bào sống CHƯƠNG V: CHUYỂN DNA VÀO TẾ BÀO SỐNG Những thao tác được mô tả trong chương IV cho phép các nhà sinh học phân tử tạo ra những phân tử DNA tái tổ hợp mới. Bước tiếp theo trong thí nghiệm gene cloning là việc chuyển những phân tử này vào trong tế bào sống, thông thường là vi khuẩn, chúng đồng thời tăng trưởng và phân chia để sản xuất ra các clone (Hình 1.1). Nói một cách chính xác, “cloning” chỉ dùng cho các bước sau của phương pháp chứ không dùng cho...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình -công nghệ di truyền - chương 5

  1. Chuyển DNA vào trong tế bào sống CHƯƠNG V: CHUYỂN DNA VÀO TẾ BÀO SỐNG Những thao tác được mô tả trong chương IV cho phép các nhà sinh học phân tử tạo ra những phân tử DNA tái tổ hợp mới. Bước tiếp theo trong thí nghiệm gene cloning là việc chuyển những phân tử này vào trong tế bào sống, thông thường là vi khuẩn, chúng đồng thời tăng trưởng và phân chia để sản xuất ra các clone (Hình 1.1). Nói một cách chính xác, “cloning” chỉ dùng cho các bước sau của phương pháp chứ không dùng cho việc tạo chính phân tử DNA tái tổ hợp. Cloning phục vụ cho 2 mục đích, đầu tiên nó cho phép sản xuất được một số lượng lớn phân tử DNA tái tổ hợp từ một lượng giới hạn nguyên liệu ban đầu. Lúc đầu chỉ có sẵn một lượng vài nanogram DNA tái tổ hợp, nhưng mỗi vi khuẩn mang một plasmid sẽ phân chia nhiều lần để tạo ra một khuẩn lạc (colony), mỗi tế bào lại chứa nhiều bản sao của phân tử. Từ một khuẩn lạc thuần nhất có thể tạo ra vài microgram DNA tái tổ hợp, tượng trưng cho sự nhân lên gấp hàng ngàn lần so với lượng ban đầu (hình 5.1). Nếu như vi khuẩn không được sử dụng như một nguồn DNA mà được sử dụng để nhân sinh khối thì lượng DNA tạo thành có thể đạt đến vài mg DNA tức là năng suất tăng lên gấp hàng triệu lần. Bằng cách này, cloning có thể đáp ứng một lượng lớn DNA cần thiết cho việc nghiên cứu sinh học phân tử vế cấu trúc và biểu hiện gen. Vai trò quan trọng thứ hai của cloning là được dùng trong quá trình tinh sạch. Những thao tác tạo ra phân tử DNA tái tổ hợp hiếm khi được điều khiển tới mức độ mà không có một phân tử DNA nào khác hiện diện khi kết thúc quá trình sản xuất. Việc gắn trộn có thể gồm, ngoài những phân tử tái tổ hợp mong muốn, còn có một số dạng sau: 1. Phân tử vectơ không đóng vòng (có bị cắt). 2. Những đoạn DNA mở (không gắn vào vectơ, có đoạn mang gen mong muốn hoặc không). 3. Phân tử vectơ tự đóng vòng mà không mang đoạn DNA mới được chèn (“self- ligated” vectơ). 4. Phân tử DNA tái tổ hợp có mang đoạn DNA bị chèn sai (không mang gen mong muốn). 1
  2. Chuyển DNA vào trong tế bào sống Hình 5.1: Cloning có thể đáp ứng một lượng lớn DNA tái tổ hợp Một tế bào đơn chứa nhiều bản sao tái tổ hợp Phát triển thành 1 khuẩn lạc cung cấp vài µg DNA tái tổ hợp Nuôi cấy trong 500 ml dịch lỏng, ủ trong 18h Cung cấp vài mg DNA tái tổ hợp 2
  3. Chuyển DNA vào trong tế bào sống Những phân tử không đóng vòng hiếm khi bị ảnh hưởng bởi vì mặc dù tế bào vi khuẩn có thể mang chúng thì chỉ trong những trường hợp bất thường mới có thể nhân lên. Có nhiều khả năng là các enzyme trong tế bào chủ sẽ làm rã các mảnh DNA này. Mặt khác, phân tử “self-ligated” và những plasmid tái tổ hợp sai cũng có khả năng tái bản như những phân tử mong muốn (hình 5.2b). Tuy nhiên, việc tinh sạch chọn ra các phân tử mong muốn vẫn có thể đạt được qua cloning bởi việc bất cứ tế bào nào mang nhiều hơn một phân tử DNA là hiện tượng rất bất thường. Mỗi tế bào phát triển thành một khuẩn lạc, vì vậy mỗi tế bào trong dòng tế bào thu được đều chứa cùng phân tử. Tất nhiên, những khuẩn lạc khác nhau chứa những phân tử khác nhau: một số chứa những phân tử DNA tái tổ hợp mong muốn, một số chứa những phân tử DNA tái tổ hợp khác và một số chứa những vectơ “self-ligated”. Do đó, vấn đề đặt ra là làm sao xác định được khuẩn lạc chứa plasmid tái tổ hợp đúng. Hình 5.2: Cloning cũng tương tự như tinh sạch, từ một hỗn hợp nhiều loại phân tử khác nhau, có thể thu được các clone chỉ chứa các bản sao của một loại phân tử a. Sản phẩm của sự gắn kết đoạn DNA mở Phân tử vector tự đóng vòng Phân tử vector gen phân tử DNA tái tổ hợp không đóng vòng mong muốn Phân tử DNA tái tổ hợp sai b. Tất cả phân tử đóng vòng được clone (nhân dòng) Tế bào chứa vector tự đóng vòng tế bào chứa phân tử DNA tái tổ hợp sai Tế bào chứa phân tử mong muốn Clone của vector Clone mong mu ốn Clone của phân tử sai tự đóng vòng 3
  4. Chuyển DNA vào trong tế bào sống Chương này đưa ra cách plasmid và vectơ phage, phân tử tái tổ hợp thu nhận từ các khuẩn lạc trên các tế bào vi khuẩn. Xuyên suốt chương này, ta sẽ thấy việc chọn giữa khuẩn lạc chứa phân tử tái tổ hợp và khuẩn lạc chứa vectơ tự đóng vòng là tương đối dễ dàng. Việc khó hơn là làm sao để phân biệt các clone chứa phân tử DNA tái tổ hợp đúng trong tất cả những clone tái tổ hợp khác sẽ sẽ được đề cập trong chương VIII. 4
  5. Chuyển DNA vào trong tế bào sống 5.1 Sự biến nạp – Sự hấp thụ DNA của tế bào vi khuẩn Hầu hết các loài vi khuẩn đều có khả năng hấp thụ các phân tử DNA từ môi trường mà nó tăng trưởng. Thông thường, một phân tử DNA khi vào tế bào theo cách này thường bị phân hũy nhưng thỉnh thoảng, nó có khả năng sống sót và tái bản trong tế bào chủ. Đặc biệt, điều này sẽ xảy ra khi phân tử DNA là 1 plasmid có điểm khởi đầu sao chép được tế bào chủ nhận biết. Người ta thường theo dõi sự hấp thụ và duy trì ổn định của plasmid thông qua sự biểu hiện của các gen nằm trên plasmid. Ví dụ, tế bào E.coli thường nhạy cảm với các tác nhân ức chế sinh trưởng của kháng sinh Ampicillin và Tetracylin. Tuy nhiên, các tế bào mang plasmid pBR322, một trong những vectơ cloning được sử dụng đầu tiên vào những năm 1970 lại kháng được kháng sinh. Đó là bởi vì pBR322 mang 2 nhóm gen, 1 nhóm gen mã hóa cho enzyme beta lactamase (enzyme làm thay đổi Ampicillin sang dạng không độc đối với vi khuẩn), 1 nhóm gen mã hóa cho enzyme giải độc tetracylin. Việc hấp phụ của pBR322 có thể phát hiện được ở tế bào E.coli bởi vì tế bào chuyển từ dạng nhạy cảm với Ampicillin và tetracylin sang dạng kháng với 2 loại kháng sinh trên. Trong những năm gần đây, giới hạn biến nạp đã tăng lên, bất cứ một loại tế bào nào, không kể tế bào vi khuẩn, tế bào nấm hay tế bào động thực vật đều có khả năng hấp thụ DNA cho dù kết quả của sự hấp thụ đó có xảy ra trong tấ bào hay không (thông qua những thay đổi phát hiện được). 5.1.1 Không phải tất cả các loài vi khuẩn đều có khả năng hấp thụ DNA như nhau Trong tự nhiên, sự biến nạp không phải là quá trình chính để vi khuẩn có được thông tin di truyền. Điều này đã phản ánh được thực tế rằng trong phòng thí nghiệm, chỉ có một vài loài vi khuẩn (chủ yếu thuộc 2 giống Bacillus và Streptococcus) có thể dễ dàng biến nạp. Nghiên cứu kỹ những tổ chức cơ thể này mới thấy được là chúng có những cơ chế gắn kết và hấp thụ rất tinh vi. Hầu hết các loài vi khuẩn, kể cả E.coli, chỉ có khả năng thu nhận một lượng DNA giới hạn trong điều kiện bình thường. Để tăng hiệu quả biến nạp, tế bào vi khuẩn thường phải trải qua môt số biến đổi vật lý hay hóa học hay cả hai. Những tế bào được biến đổi như vậy gọi là các tế bào khả biến (competent cell). 5.1.2 Chuẩn bị các tế bào E.coli khả biến (competent cell) Cũng như nhiều phát minh khác trong kỹ thuật tái tổ hợp DNA, biến nạp được quan tâm vào những năm 70, khi người ta quan sát thấy tế bào E.coli ngâm trong dung dịch muối 5
  6. Chuyển DNA vào trong tế bào sống lạnh thì hấp thụ DNA hiệu quả hơn những tế bào không ngâm và trở thành bước phát triển quan trọng. Trong kỹ thuật này, các phương pháp cũ thường sử dụng 50mM CaCl2 mặc dù những muối khác như Rubidium Cloride cũng không kém hiệu quả. Thực chất người ta không biết chính xác được tại sao phải xử lý. Có khả năng do CaCl2 làm DNA giảm ở ngoài tế bào hoặc có thể muối CaCl2 gây ra một số dạng thay đổi trong màng tế bào làm tăng khả năng kết dính DNA. Cho dù là trong trường hợp nào thì việc ngâm CaCl2 chỉ có tác dụng với việc kết dính DNA và không ảnh hưởng đến việc hấp phụ DNA vào tế bào. Khi DNA được đưa vào môi trường chứa các tế bào đã được xử lý, nó chỉ gắn lên trên bề mặt tế bào và tại thời điểm đó, nó hoàn toàn chưa được chuyển đến tế bào chất (Hình 5.3). DNA ch ỉ thật sự dịch chuyển vào tế bào khả biến khi bị kích thích bằng cách gia nhiệt lên 420C. Một lần nữa, nguyên nhân tại sao sốc nhiệt lại tạo ra hiệu quả vẫn không thể giải thích được. Hình 5.3: Tế bào vi khuẩn khả biến (competent bacterial cell) Tế bào bình thường Plasmid gắn bên ngoài tế bào xử lý bằng CaCl2 Tế bào khả biến (competent cell) 420C/2 phút Plasmid chuyển vào trong tế bào Tế bào được biến nạp (transformed cell) 6
  7. Chuyển DNA vào trong tế bào sống 5.1.3 Lựa chọn thể biến nạp Sự biến nạp của các tế bào khả biến là một phương thức không mang lại hiệu quả, thêm nữa, việc chuẩn bị tế bào cũng cần phải được tiến hành cẩn thận, mặc dù 1ng pUC8 có thể tạo ra 1000-10000 thể biến nạp. Điều này chứng tỏ chỉ có 0.01% phân tử được hấp thụ trong tổng số tế bào có trong môi trường khả biến. Có nghĩa là phải tìm ra một phương pháp để phân biệt 1 tế bào đã nhận 1 plasmid trong hàng ngàn tế bào không được biến nạp. 7
  8. Chuyển DNA vào trong tế bào sống Câu trả lời là sử dụng gen đánh dấu (selectable marker) có mang plasmid. Gen đánh d ấu đơn giản là gen mang lại cho tế bào được biến nạp một đặc tính mới không có ở tế bào không biến nạp. Một ví dụ điển hình của gen đánh dấu là gen kháng Ampicillin của pBR322. Sau khi thực hiện biến nạp với pBR322, chỉ có các tế bào E.coli hấp phụ plasmid mới thể hiện đặc tính kháng Ampicillin và Tetracillin (ampRtetR), do đó có khả năng tạo khuẩn lạc trên môi trường thạch chứa 2 loại kháng sinh này (Hình 5.4), còn thể không biến nạp do vẫn còn nhạy cảm với Ampicillin và Tetracillin nên không có khả năng tạo khuẩn lạc trên môi trường chọn lọc. Như vậy, việc phân biệt giữa thể biến nạp (transformant) và thể không biến nạp(non-transformant) là khá dễ dàng. Hình 5.4: Lựa chọn các tế bào chứa plasmid pBR322 bằng cách nuôi cấy trên môi trường thạch chứa Ampicillin hay Tetracillin hay cả hai Tế bào E.coli bình thường tế bào E.coli chứa pBR322 (không chứa plasmid) không thể tồn tại trong tồn tại và tạo colony trong môi trường chọn lọc môi trường chọn lọc môi trường thạch chứa 40µg/ml Ampicillin, 15 µg/ml Tetracillin hay kết hợp cả hai 8
  9. Chuyển DNA vào trong tế bào sống Hấu hết plasmid dùng làm vectơ trong cloning chứa ít nhất 1 gen quy định tính kháng kháng sinh cho tế bào chủ bằng việc chọn lọc thể biến nạp qua phương pháp trãi đĩa trên môi trường thạch có chứa loại kháng sinh tương ứng. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh là tính kháng kháng sinh không chỉ hoàn toàn do sự hiện diện của plasmid trong các tế bào được biến nạp. Gen kháng kháng sinh trên plasmid cần phải được biểu hiện, từ đó mới có enzyme giải độc kháng sinh. Ngay sau khi biến nạp, gen kháng kháng sinh biểu hiên ngay lập túc nhưng phải mất một vài phút tế bào mới tổng hợp được đủ lượng enzyme để có thể chịu đựng độc tố kháng sinh . Đó là lý do vì sao không nên đưa tế bào biến nạp ngay vào môi trường chọn lọc ngay sau khi xử lý sốc nhiệt mà lúc đầu chỉ nên đưa vào môi trường lỏng không chứa kháng sinh và nuôi cấy trong thời gian ngắn. Ngay sau đó, 9
  10. Chuyển DNA vào trong tế bào sống plasmid được tái bản và biểu hiện vì thế khi tế bào được cấy vào đĩa môi trường có kháng sinh, chúng có đủ lượng enzyme để tồn tại (Hình 5.5). Hình 5.5: Biểu hiện kiểu hình. Ủ ở 370C trong 1h trước khi nuôi cấy trên đĩa sẽ làm tăng khả năng sống sót của các cá thể biến nạp trên môi trường chọn lọc vì vi khuẩn có thời gian để tổng hợp các enzyme kháng kháng sinh Protein kháng kháng sinh plasmid ngay sau khi biến nạp sau khi nuôi cấy 1h ở 370C 10
  11. Chuyển DNA vào trong tế bào sống 5.2 Xác định thể tổ hợp (recombinant) Việc trải đĩa trên môi trường chọn lọc cho phép phân biệt được các thể biến nạp và không biến nạp. Vấn đề kế tiếp là phải xác định được khuẩn lạc biến nạp chứa tế bào mang các phân tử DNA tái tổ hợp và chứa những phân tử vectơ “self-ligated”. Với hầu hết vectơ dùng trong cloing, sự chèn 1 đọn DNA vào trong plasmid sẽ phá đi sự nguyên vẹn của một trong số các gen hiện diện trong phân tử. Do đó, thể tổ hợp (recombinant) có thể được nhận diện bởi những đặc tính được mã hóa bởi gen bất hoạt không còn hiện diện trong tế bào chủ nữa (Hình 5.6). Nguyên lý chung của sự chèn bất hoạt được minh họa bới thí nghiệm cloning điển hình sử dụng pBR322 như là 1 vectơ. 11
  12. Chuyển DNA vào trong tế bào sống Hình 5.6: Sự chèn bất hoạt a. Vector bình thường- không được tái tổ hợp, tạo cho tế bào chủ những đặc tính để chọn lọc. b. Gen này bị bất hoạt bởi đọn DNA ngoại lai chèn vào vector, kết quả là tế bào được tái tổ hợp không có những đặc tính tương tự. 12
  13. Chuyển DNA vào trong tế bào sống 5.2.1 Chọn lọc thể tái tổ hợp với pBR322 - Sự chèn bất hoạt của một gen kháng kháng sinh pBR322 có một số vùng cắt giới hạn đặc biệt có thể sứ dụng để mở vòng một vectơ trước khi chèn vào một đoạn DNA mới (Hình 5.7a). Ví dụ: BamHI cắt pBR322 chỉ tại một vị trí nằm trong cụm gen mã hóa tính kháng Tetracillin. Phân tử pBR322 tái tổ hợp (có mang đọan DNA ngoại lai tại vị trí BamHI (Hình 5.7b)) không còn khả năng tạo tính kháng Tetracillin trên tế bào chủ bởi một trong những gen cần thiết đã bị bất hoạt do sự chèn DNA. Những tế bào chứa phân tử pBR322 tái tổ hợp này vẫn kháng được Ampicillin nhưng lại nhạy cảm vớt Tetracillin (ampR tetR). Hình 5.7: Vector pBR322 dùng trong cloning a. Vector bình thường b. Vector tái tổ hợp có đoạn DNA ngoại lai chèn vào vị trí BamHI (xem bản đồ pUC8 chi tiết ở hình 6.3 và 6.4 ) 13
  14. Chuyển DNA vào trong tế bào sống Việc sàng lọc chọn thể tái tổ hợp chứa pBR322 được tiến hành theo cách sau: Sau khi biến nạp, các tế bào được trãi đĩa trong môt trường chứa Ampicillin và nuôi cấy cho đến khi xuất hiện khuẩn lạc (Hình 5.8a). Tất cả các khuẩn lạc này đều là thể biến nạp (nhớ rằng các tế bào không biến nạp đều nhạy cảm với Ampicillin (ampS) nên dẽ không tạo khuẩn lạc trong môi trường chọn lọc) Tuy nhiên, chỉ một vài phân tử chứa pBR322 tái tổ hợp còn đa số chứa các plasmid bình thường, plasmid “self-ligated”. Để xác định thể tái tổ hợp, các khuẩn lạc được cấy chuyền qua một đĩa môi trường thạch khác chứa Tetracillin (Hình 5.8b). Sau khi nuôi cấy, một vài khuẩn lạc gốc sẽ phát triển trở lại, số khác thì không (Hình 5.8c). Tế bào của những khuẩn lạc mọc được có chứa pBR322 bình thường (không có chèn DNA) và do đó 14
  15. Chuyển DNA vào trong tế bào sống nhóm gen tạo ra tính kháng Tetracillin vẫn hoạt động (ampRtetR). Các khuấn lạc không phát triển được trên môi trường thạch chứa Tetracillin là thể tái tổ hợp (ampRtetS). Cùng lúc đó, những khuẩn lạc có cùng vị trí trên đĩa môi trường gốc chứa Ampicillin sẽ được thu thập lại cho những nghiên cứu xa hơn. Hình 5.8: Chọn lọc pBR322 tái tổ hợp nhờ việc chèn bất hoạt vào gen kháng Tetracillin a. Tế bào được nuôi trên môi trường thạch chứa Ampicillin, tất cả thể biến nạp đều tạo khuẩn lạc b. Các khuẩn lạc được cấy chuyến qua môi trường chứa Tetracillin. c. Các khuẩn lạc phát triển trên môi trường Tetracillin chứa các tế bào không được tái tổ hợp (ampRtetR) , còn thể tái tổ hợp (ampRtetS) tuy không mọc được nhưng vị trí của chúng trên đĩa Ampicillin thì đã được biết. b.Cấy chuyền đĩa – replica plating (môi trường thay đổi, vị trí khuấn lạc thay đổi) Khuôn gỗ Chạm bề mặt Chạm bề mặt những tế bào bám vào khuôn các khuẩn lạc tetR môi trường Tetracillin Vị trí khuẩn lạc trên môi trường Ampicillin 15
  16. Chuyển DNA vào trong tế bào sống 5.2.2 Sự chèn bất hoạt không phải lúc nào cũng liên quan đến tính kháng kháng sinh Mặc dù việc chèn bất hoạt đối với gen bất hoạt đem lại nhiều thuận lợi để xác định thể tái tổ hợp song vài plasmid quan trọng dùng trong cloning lại sử dụng hệ thống xác định khác. Một ví dụ là pUC8 (Hình 5.9a) chứa gen kháng Ampicillin và gen “lac Z” mã hóa cho một phần của enzyme beta galactosidase. Cloning với pUC8 liên quan đến sự chèn bất hoạt của gen “lac Z” mà từ đó xác định được thể tái tổ hợp không có khả năng tổng hợp beta galactosidase ( Hình 5.9b). 16
  17. Chuyển DNA vào trong tế bào sống Hình 5.9: Vector pUC8 dùng trong cloning a. Vector bình thường b. Vector tái tổ hợp có đoạn DNA ngoại lai chèn vào vị trí BamHI 17
  18. Chuyển DNA vào trong tế bào sống Beta galactosidase là một trong những enzyme liên quan đến việc việc hoạt hóa quá trình căt lactose thành glucose và galactose. Beta galactosidase thường được mã hóa bởi gen “lac Z” nằm trên nhiễm sắc thể của E.coli. Một vài chủng E.coli có gen “lac Z” bị đột biến (thiếu đi đoạn “lac Z”) mã hóa cho một phần đoạn peptide của beta galactosidase (Hình 5.10a). Những E.coli đột biến này chỉ có thể tổng hợp enzyme khi chúng nhận thêm một plasmid (như pUC8) mang đoan “lac Z” mà gen thiếu. Thí nghiệm cloning với pUC8 liên quan đến sự chọn lọc thể biến nạp trên môi trường thạch Ampicillin và để xác định thể tái tổ hợp thông qua sàng lọc hoạt tính của beta galactosidase. Tế bào chứa plasmid pUC8 bình thường kháng Ampicillin và có khả năng tổng hợp beta galactosidase (Hình 5.9a) còn thể tái tổ hợp cũng kháng Ampicillin nhưng không có thể tổng hợp beta galactosidase (Hình 5.9b). Sự sàng lọc cho sự hiện diện hay không hiện diện trên thực tế khá dễ dàng. Chỉ cần thử nghiệm sự phân cắt lactose thành glucose và galactose, kiểmtra các phản ứng khác nhau xúa tác bởi enzyme. Điều này đói hỏi phải có chất tương tự như lactose và X-gal (5- bromo-4-chloro-3-indoline-β-galactopyranosid) cũng bị phân cắt bởi β-galactosidase tạo ra sản phẩm màu xanh đậm. Nếu X-gal (cộng cới chất cảm ứng emzyme như isopropyl- thiogalactoside IPTG) thêm vào môi trường thạch cùng với Ampicillin, sau đó những khuẩn lạc không chứa plasmid tái tổ hợp có thể tổng hợp beta galactosidase sẽ có màu xanh. Trong khi đó, những thể tái tổ hợp có chứa gen “lac Z” bị bất hoạt nên không có khả năng tạo beta galactosidase sẽ có màu trắng. Hệ thống này được gọi là Lac selection được tóm tắt trong hình 5.10b. Hình 5.10: Bản chất của việc chèn bất hoạt vào gen “Lac Z” của pUC8 a. Gen của E.coli và gen của plasmid tổng hợp những phần khác nhau của β- galactosidase. b. Sàng lọc thể tái tổ hợp bằng môi trường thạch chứa X gal và IPTG. 18
  19. Chuyển DNA vào trong tế bào sống a. Chức năng của gen “lac Z”  1 phần β- galactosidase mã hóa bởi gen của vi khuẩn  1 phần β- galactosidase mã hóa bởi gen của plasmid  β- galactosidase hoàn chỉnh b. Chọn lọc pUC8 tái tổ hợp  Khuẩn lạc xanh = β- galactosidase được tổng hợp\ Xgal  sản phẩm có màu xanh  Khuẩn lạc trắng = β- galactosidase không được tổng hợp Xgal  không tạo sản phẩm màu xanh 19
  20. Chuyển DNA vào trong tế bào sống 5.3 Chuyển DNA vào trong tế bào vi khuẩn Có 2 phương pháp khác nhau để đưa phage vào trong tế bào vi khuẩn tạo ra DNA tái tổ hợp :lây nhiễm và tạo vỏ phage invitro. a. Sự lây nhiễm: đây là quá trình tương ứng với sự biến nạp, chỉ khác ở chỗ DNA của plasmid được thay thế bằng DNA của phage. Chỉ với 1 plasmid, phage DNA 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
24=>0